Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựaaa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Giải pháp marketing phát triển du lịch tỉnh Ninh Thuận đến năm 2023 dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ninh Thuận là một tỉnh hài hoà giữa đồng bằng, đồi núi và biển cả với những thắng cảnh tuyệt đẹp, như: bãi biển Ninh Chữ, Cà Ná, đèo Ngoạn Mục, vịnh Vĩnh Hy… Thiên nhiên ưu đãi cho vùng biển Ninh Thuận những lợi thế để phát triển ngành du lịch. Với 105 km bờ biển thoai thoải, sạch đẹp, với nhiều vùng biển sâu, nhiều chân núi đâm ra biển kiến tạo nên những vũng, vịnh, cồn tuyệt đẹp. Ninh Thuận rất thích hợp trong việc xây dựng cảnh quan du lịch sinh thái. Bên cạnh đó, Ninh Thuận là tỉnh mang đậm màu sắc văn hoá của dân tộc Chăm với chữ viết, trang phục dân tộc, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, những làng nghề thủ công mỹ nghệ, lễ hội văn hoá dân gian, những di tích tháp Chăm nổi tiếng.
Ninh Thuận nằm giáp ranh với các Bình Thuận, Lâm Đồng, Khánh Hòa là những tỉnh phát triển du lịch khá tốt. Điều này sẽ thuận lợi cho việc phối hợp với các địa phương này để phát triển du lịch cùng Ninh Thuận. Đồng thời, Ninh Thuận có tiềm năng du lịch khá lớn nhưng chưa được khai thác, chưa ngang tầm với tiềm năng. Vấn đề đầu tư, khai thác các sản phẩm du lịch sao cho tương xứng với tiềm năng và đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng để từ đó phát triến du lịch, kinh tế xã hội của tỉnh là hết sức thiết yếu. Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp marketing phát triển du lịch tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020” cho luận văn của mình.Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu ứng dụng marketing vào du lịch để từ đó đề xuất những giải pháp marketing nhằm phát triển du lịch tỉnh Ninh Thuận. Cụ thể như sau:
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận.
- Định huớng chiến luợc marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận.
- Đề xuất giải pháp marketing và kiến nghị nhằm phát triển du lịch tỉnh Ninh Thuận.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: đề tài tập trung nghiên cứu, khảo sát thực trạng hoạt động du lịch, marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận.
Phạm vi thời gian: luận văn sử dụng số liệu thống kê hoạt động du lịch tỉnh Ninh Thuận thứ cấp từ năm 2008 đến 2012. Dữ liệu sơ cấp được thu thập vào năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích, thống kê, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp,…trên cơ sở các thông tin thư cấp được thu thập từ các báo cáo của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận, từ báo chí, internet và các nghiên cứu liên quan qua các năm.
Nghiên cứu định lượng với mẫu thuận tiện các khách du lịch đã đến Ninh Thuận để thu thập thông tin và rút ra những điều cần thiết cho việc đề xuất những giải pháp cho đề tài.
Đối với khách du lịch trong nước, tác giả phát ra 180 bảng câu hỏi trực tiếp, thu về về có một số câu trả lời bị bỏ trống nhiều nên loại ra và sử dụng 155 bảng khảo sát, tỷ lệ khảo sát thành công là 86,11%.
Đối với khách du lịch quốc tế, tác giả phát ra 130 bảng câu hỏi trực tiếp, thu về loại bỏ những bảng có nhiều trả lời bị bỏ trống, còn lại 110 bảng khảo sát, tỷ lệ thành công của khảo sát là 84,62%.
Khảo sát thêm 13 đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, khảo sát lấy ý kiến của 10 chuyên gia ở Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Dữ liệu thu thập trong nghiên cứu được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0 để phân tích các yếu tố thống kê cơ bản.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Hiện tại ngành du lịch Ninh Thuận còn thiếu quy hoạch tổng thể phát triển ở cấp toàn ngành cũng như quy hoạch ở cấp cơ sở ở các khu du lịch, điểm du lịch.
Còn thiếu các nghiên cứu chính thức về chiến lược phát triển và giải pháp để nhằm hỗ trợ phát triển du lịch tỉnh Ninh Thuận. Do đó, đề tài: “Giải pháp marketing phát triển du lịch tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020” nhằm hệ thống lại tình hình du lịch, tình hình hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận. Từ đó đưa ra các giải pháp cải thiện thực trạng hiện tại và những giải pháp tích cực cho hoạt động phát triển của ngành cũng như của đơn vị trong thời gian tới.
6. Kết cấu đề tài: Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về marketing du lịch địa phương.
Chương 2: Thực trạng hoạt động marketing du lịch của tỉnh Ninh Thuận.
Chương 3: Giải pháp marketing nhằm phát triển du lịch tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING DU LỊCH ĐỊA PHƯƠNG
1.1 Các khái niệm liên quan du lịch
1.1.1 Khái niệm về du lịch Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Do hoàn cảnh (thời gian, khu vực) và góc độ nghiên cứu khác nhau, khái niệm về du lịch cũng khác nhau. Chẳng hạn:
Theo hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch chính thức IOOTO (1950) thì du lịch là một hoạt động có tính thường xuyên hay bất thường của một cá nhân hay một nhóm tạm thời rời xứ sở đang cư trú bằng một phương tiện ôn hòa để đến một vùng hoặc một quốc gia khác nhằm mục đích thăm viếng, giải trí, tìm hiểu, nghỉ ngơi,…và sẽ hồi cư sau một thời gian dự định.
Tại hội nghị Liên Hiệp Quốc về du lịch họp tại Roma – Italia (21/08-05/08/1963), các chuyên gia cho rằng: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”.
Theo khoản 1 điều 4 Luật du lịch số 44/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005 của Quốc hội: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.”
Như vậy, có khá nhiều khái niệm du lịch nhưng tổng hợp lại ta thấy du lịch hàm chứa các yếu tố cơ bản sau:
- Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội.
- Du lịch là sự di chuyển và tạm thời lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của các cá nhân hoặc tập thể nhằm thoả mãn các nhu cầu đa dạng của họ.
- Du lịch là tập hợp các hoạt động kinh doanh phong phú và đa dạng nhằm phục vụ cho các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời và các nhu cầu khác của cá nhân hoặc tập thể khi họ ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ.
- Các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời của cá nhân hoặc tập thể đó đều đồng thời có một số mục đích nhất định, trong đó có mục đích hoà bình.
1.1.2 Khái niệm về sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu hình hoặc vô hình. Nó có thể là một món hàng cụ thể, như: thức ăn, hoặc một món hàng không cụ thể như chất lượng phục vụ, bầu không khí tại nơi nghỉ mát. (Michael M. Coltman, 1991). Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Theo khoản 10 điều 4 luật du lịch số 44/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005 của Quốc hội thì: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch.”
Trần Ngọc Nam và Trần Huy Khang (2008, trang 12) phát biểu rằng: “Sản phẩm du lịch là tổng hợp của nhiều thành phần khác nhau, bao gồm những vật hữu hình và vô hình. Hầu hết các sản phẩm du lịch là những dịch vụ và những kinh nghiệm.”
Sản phẩm du lịch chính là dựa trên những nhu cầu của khách du lịch. Do nhu cầu đa dạng của du khách nên sản phẩm du lịch cũng hết sức phong phú. Nó là một tổng thể phức tạp bao gồm nhiều thành phần không đồng nhất cấu tạo thành. Đó là tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ nhân viên du lịch. Sản phẩm du lịch bao gồm cả những sản phẩm hữu hình và vô hình.
Điểm chung nhất mà sản phẩm du lịch mang lại cho du khách chính là sự hài lòng. Nhưng đó không phải là sự hài lòng như khi ta mua sắm một hàng hoá vật chất mà ở đây sự hài lòng là do được trải qua một khoảng thời gian thú vị, tồn tại trong ký ức của du khách khi kết thúc chuyến đi du lịch.
1.1.3 Khái niệm về thị trường du lịch
Thị trường du lịch là tổng thể các hành vi và quan hệ kinh tế trong quá trình thực hiện sự trao đổi sản phẩm du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu mong muốn của du khách. Để khai thác thị trường du lịch phải xuất phát từ thực tế, tiến hành một cách có kế hoạch, có chiến lược. Trong đó, việc điều tra và dự đoán cung – cầu là tiền đề quan trọng.
1.1.3.1 Thị trường du lịch theo hướng cầu Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Thị trường du lịch theo hướng cầu là một thị trường hoàn chỉnh, phản ánh nhu cầu của khách hàng về một loạt sản phẩm có liên quan đến du lịch. Có ba loại du khách mà hầu hết các nước đều quan tâm. Đó là du khách quốc tế đến du lịch trong một nước (inbound tourism), cư dân trong nước đi du lịch ra nước ngoài (outbound tourism), du khách nội địa (domestics tourism).
Hồ Đức Hùng (2005) cho rằng cầu du lịch là hệ thống các yếu tố tác động đến sự hình thành chuyến đi của du khách trong suốt cuộc hành trình và lưu trú của họ. Các yếu tố đó bao gồm:
Thời gian nhàn rỗi: người ta chỉ đu du lịch khi có thời gian nhàn rỗi. Cùng với việc gia tăng năng suất lao động và chế độ nghỉ dưỡng, thời gian nghỉ ngơi của người lao động được kéo dài ra và số kỳ nghỉ trong năm tăng lên. Trong thời gian đó, người ta thường nảy sinh nhu cầu tìm nơi nghỉ ngơi, đến những vùng đất mới, vui chơi giải trí,…
Thu nhập: những người có tiền mới đi du lịch. Người đi du lịch phải có tiền để chi tiêu cho chuyến đi của mình do đó người có thu nhập cao sẽ đi du lịch nhiều hơn những người khác.
Nghề nghiệp: có liên hệ mật thiết với giáo dục, thu nhập và các lối sống. Dựa trên trình độ giáo dục và thu nhập là vấn đề quan trọng hình thành cầu du lịch. Đặc tính của nghề nghiệp ảnh hưởng đến việc du lịch của nhân viên trong ngành.
Trình độ văn hóa: những người đi du lịch ít nhiều đều được mở mang kiến thức, hiểu biết về thế giới. Vì thế, khi con người tiếp cận với nền giáo dục tiến bộ thì đam mê, khao khát được mở rộng thêm kiến thức sẽ tăng lên và nảy sinh nhu cầu du lịch.
Mốt: du lịch ngày này đã trở thành phong trào. Việc đi nhiều nơi, đến nhiều vùng đất mới, khám phá thế giới rất lôi cuốn mọi người trong xã hội phát triển.
Ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác ít nhiều ảnh hưởng đến việc hình thành các chuyến du lịch của du khách. Đôi khi du khách cũng xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nên cầu về du lịch có thể được hình thành trên những động cơ tổng hợp. Nhà nghiên cứu phải tìm ra và dự báo xu hướng mới hình thành những chuyến du lịch để có những chương trình phát triển toàn diện.
1.1.3.2 Thị trường du lịch theo hướng cung Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Thị trường du lịch theo hướng cung chính là ngành du lịch với nhiều thị trường con, nhiều sản phẩm do nhiều loại tổ chức thiết kế và cung cấp.
Thị trường này được phân loại như sau:
- Các tổ chức lưu trú: khu nghỉ mát; khách sạn, lữ quán, nhà khách; căn hộ, villa, chung cư, nhà vườn; khu nghỉ mát,…
- Các điểm du lịch: công viên giải trí; viện bảo tàng, trưng bày nghệ thuật; công viên hoang dã; di tích lịch sử và nhân văn; trung tâm thể thao, thương mại.
- Các tổ chức vận chuyển: hãng hàng không; hãng tàu biển; đường sắt; hãng xe buýt, xe khách; công ty cho thuê xe hơi.
- Các tổ chức lữ hành: nhà điều hành tour; nhà bán sĩ, môi giới tour; đại lý du lịch trực tiếp; nhà tổ chức hội nghị; nhà tổ chức tour thưởng.
- Các tổ chức xúc tiến: cơ quan du lịch quốc gia; cơ quan du lịch vùng; cơ quan du lịch tỉnh, thành phố; các hiệp hội xúc tiến du lịch.
1.1.3.3 Mối quan hệ cung cầu du lịch
Cung – cầu du lịch có tính ràng buộc và tác động lẫn nhau, khả năng cung kích thích sự hiếu kỳ, hưởng thụ tác động lên du khách làm khơi dậy cầu, còn cầu ảnh hưởng trở lại đến sự phát triển của cung qua việc tăng tiêu thụ. Do nhu cầu đặc thù của thị trường du lịch, cung cầu ở cách xa nhau nên công tác marketing du lịch là hết sức cần thiết. Động cơ du lịch là nhu cầu sinh học và nhu cầu tình cảm của con người. Động lực thúc đẩy cung – cầu du lịch là yếu tố kinh tế, sự mở rộng quan hệ quốc tế, tâm lý du khách, cơ sở vật chất, thông tin quảng cáo, tài nguyên du lịch, thời gian nhàn rỗi của du khách và sự tác động của nhà nước…
Trong lĩnh vực marketing, việc nghiên cứu thị trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thị trường là đối tượng chủ yếu, là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của hoạt động marketing. Thông qua mối quan hệ cung – cầu thị trường nhằm giải thích phương thức tương tác giữa năm khu vực chính của ngành du lịch, đó là:
các tổ chức lưu trú, các tổ chức vận chuyển, các tổ chức lũ hành, các tổ chức xúc tiến, các điểm du lịch để tác động điều tiết nhu cầu của du khách.
1.2 Marketing du lịch
1.2.1 Khái niệm marketing du lịch Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Theo tổ chức du lịch thế giới WTO định nghĩa: “Marketing du lịch là một triết lý quản trị mà nhờ nghiên cứu, dự đoán, tuyển chọn dựa trên nhu cầu của du khách nó có thể đem sản phẩm du lịch ra thị trường sao cho phù hợp mục đích thu nhiều lợi nhuận cho tổ chức du lịch đó.”
Theo Robert Lanquar và Robert Hollier (2002) thì: marketing du lịch là một loạt phương pháp và kỹ thuật được hỗ trợ bằng một tinh thần đặc biệt và có phương pháp nhằm thỏa mãn các nhu cầu không nói ra hoặc nói ra của khách hàng có thể là mục đích tiêu khiển hoặc những mục đích khác bao gồm công việc gia đình, công tác và họp hành.
Theo FUNDESO (2005) thì: marketing du lịch là một quá trình trực tiếp cho phép các doanh nghiệp và các cơ quan du lịch xác định khách hàng hiện tại và tiềm năng, ảnh hưởng đến ý nguyện và sáng kiến khách hàng ở cấp độ địa phương, khu vực quốc gia và quốc tế để doanh nghiệp có khả năng thiết kế và tạo ra các sản phẩm du lịch nhằm nâng cao sự hài lòng của khách và đạt được mục tiêu đề ra.
Theo Hà Nam Khánh Giao (2011) thì: marketing du lịch là một quá trình nghiên cứu, phân tích những nhu cầu của khách hàng, những sản phẩm, dịch vụ du lịch và những phương thức cung ứng, yểm trợ để đưa khách hàng đến với sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ, đồng thời đạt được những mục tiêu lợi nhuận
Từ những khái niệm trên, ta có thể thấy điểm chung khi nhắc đến khái niệm marketing du lịch: là một tiến trình tuần tự liên tục, thông qua đó cấp quản trị trong ngành lưu trú và lữ hành nghiên cứu, hoạch định, triển khai, kiểm soát và đánh giá các hoạt động được thiết kế để thỏa mãn nhu cầu và ước muốn của khách hàng và mục tiêu của những nhà tổ chức du lịch. Để đạt hiệu quả cao nhất, marketing đòi hỏi nỗ lực của tất cả mọi người trong tổ chức; và hiệu quả có thể tăng hay giảm do hoạt động của các tổ chức bên ngoài.
1.2.2 Vai trò của marketing du lịch
Đặc tính của sản phẩm du lịch khác với sản phẩm hàng hóa và khách hàng thường ở xa sản phẩm. Và bản chất của marketing du lịch là phát hiện ra các nhu cầu và tìm cách thỏa mãn chúng để đạt mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Trong kinh doanh du lịch, ứng dụng marketing du lịch cần thiết để tìm hiểu nhu cầu của du khách và nghệ thuật đáp ứng để kinh doanh hiệu quả.
Vai trò của marketing trong du lịch là liên kết có hệ thống giữa cung với cầu trong thị trường du lịch và tác động điều tiết nhu cầu của du khách. Vai trò này được thể hiện qua sơ đồ sau đây:
Hình 1. 1 Sơ đồ thể hiện vai trò của marketing trong du lịch
Sơ đồ này cho thấy mối quan hệ giữa nhu cầu thị trường hình thành tại những địa phương mà du khách sinh sống và nguồn cung cấp sản phẩm du lịch ở những điểm đến. Sơ đồ này giúp giải thích phương thức tương tác giữa năm khu vực chính của ngành du lịch để tác động điều tiết nhu cầu của du khách qua những công cụ marketing (marketing mix).
1.3 Marketing điểm đến Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
1.3.1 Khái niệm
Từ các cách tiếp cận khác nhau, ta có thể hiểu khái niệm điểm đến du lịch được tóm tắt nhưng đầy đủ như sau: điểm đến du lịch là những nơi khách du lịch hướng đến thực hiện các hoạt động vui chơi, giải trí và lưu trú qua đêm. Điếm đến du lịch là nơi tập trung nhiều điểm du lịch và hệ thống lưu trú, vận chuyển và các dịch vụ du lịch khác, là nơi có xảy ra các hoạt động kinh tế – xã hội do du lịch gây ra (Goeldner và cộng sự, 2000). Vì vậy điểm đến du lịch là quốc gia, vùng, thành phố, tỉnh,…
Marketing điểm đến là một quá trình giao tiếp với du khách tiềm năng để ảnh hưởng việc lựa chọn điểm đến du lịch của họ. Marketing điểm đến là một phần quan trọng trong quá trình “thực hiện”, nó là khớp nối và thông tin liên lạc của các giá trị, tầm nhìn và các thuộc tính cạnh tranh của điểm đến. Các hành động trọng tâm được thực hiện trong marketing điểm đến được nhấn mạnh củng cố bởi những phát hiện của “kế hoạch marketing điểm đến”’, quá trình và sau đó là các hoạt động “phát triển điểm đến” (Mules T & Huybers T, 2005).
Hay nói cách khác, marketing điểm đến là quá trình quản trị cho phép tổ chức marketing, tạo dựng duy trì mối quan hệ giữa điểm đến du lịch và khách du lịch hiện tại cũng như khách du lịch tiềm năng, thông qua việc dự báo và đáp ứng các nhu cầu của khách du lịch đối với điểm đến và có khả năng dễ dàng giao tiếp liên hệ với điểm du lịch.
1.3.2 Vai trò marketing điểm đến
Marketing điểm đến được thực hiện bởi nhiều tổ chức, nhà cung cấp và sản xuất dịch vụ. Tổ chức du lịch quốc gia, địa phương không phải là nhà sản xuất sản phẩm du lịch. Không trực tiếp cung cấp về chất lượng sản phẩm dịch vụ.
Marketing điểm đến đòi hỏi sự kết hợp và sắp xếp các hoạt động trong số các điểm hấp dẫn chính (cả hai khu vực nhà nước và tư nhân) để thu hút khách du lịch. Hoạt động marketing của tổ chức quản trị điểm đến tập trung chủ yếu vào xúc tiến điểm đến như một chỉnh thể, cần tạo ra đươc hình ảnh điểm đến tại các thị trường quốc tế trọng điểm.
Sản phẩm ở điểm đến du lịch do nhiều tổ chức, doanh nghiệp tham gia cung ứng. Tổ chức marketing điểm đến du lịch phải gắn kết họ phối hợp với nhau để tạo ra sản phẩm du lịch thoả mãn nhu cầu du khách, thực hiện mục tiêu chung của điểm đến du lịch.
Marketing điểm đến không còn được coi là một công cụ thu hút khách, mà còn là một cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho việc đạt được mục tiêu phát triển điểm đến.
1.4 Những hoạt động marketing du lịch địa phương
Ngày nay du lịch đang phát triển rất mạnh, nhu cầu du lịch khá đa dạng. Hoạt động marketing tiến hành từ việc nghiên cứu thị trường, phân khúc thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu và đề ra chiến lược marketing mix để đạt được những mục tiêu marketing.
1.4.1 Nghiên cứu thị trường Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Nghiên cứu thị trường là một quá trình thu thập, ghi chép, phân tích và xử lý các thông tin thị trường về những vấn đề có liên quan đến hoạt động marketing. Thị trường là một yếu tố sống còn đối với bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Do đó, muốn xâm nhập và phát triển thị trường một cách có hiệu quả thì phải tiến hành phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu, từ đó định vị điểm đến du lịch.
Phân khúc thị trường
Phân khúc thị trường được định nghĩa: “là một quá trình phân chia tổng số thị trường các du khách vào phân nhóm hoặc phân khúc cho các mục đích quản lý marketing. Mục đích của của nó là để tạo thuận lợi hơn, marketing hiệu quả thông qua việc xúc tiến, xây dựng và phân phối các sản phẩm được thiết kế nhắm đáp ứng các nhu cầu xác định của các nhóm đối tượng.” (Hà Nam Khánh Giao, 2011, trang 80- 81).
Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về phân khúc thị trường du lịch sử dụng những tiêu chí phân khúc khác nhau bao gồm đặc điểm nhân khẩu học và địa lý, yêu cầu về lợi ích của du khách đạt được từ chuyến đi (Hồ & Phetvaroon, 2009), đặc điểm về hành vi khi đi du lịch của du khách ….Cụ thể như sau:
Phân khúc thị trường theo lợi ích của du khách đạt được từ chuyến đi, mục đích du lịch của du khách, nhu cầu và động cơ. Hiểu được mục tiêu và động lực của khách hàng thì sẽ tìm ra cách tác động mạnh mẽ đến quyết định mua hàng.
Phân khúc bởi hành vi của người mua: phân khúc theo các loại hành vi hoặc đặc điểm của việc sử dụng các sản phẩm mà khách hàng thể hiện.
Phân khúc bằng nhân khẩu học, kinh tế, địa lý và đặc điểm vòng đời: phân khúc khách hàng được xác định theo các mô tả cơ bản về tuổi, giới tính, nghề nghiệp, nhóm thu nhập, nơi cư trú và đặc điểm thể chất trong từng giai đoạn sống của đại đa số con người.
Phân khúc theo tâm lý học: chia những người mua hàng thành các nhóm khác nhau dựa vào tầng lớp xã hội, lối sống hay đặc tính cá nhân. Phân khúc tâm lý thị trường có thể cung cấp cho chúng ta một cách hiểu tốt hơn thị trường mục tiêu, với việc xem xét: khách phân bổ thời gian như thế nào, mối quan tâm của họ và điều gì mà họ cho là quan trọng, ý kiến, suy nghĩ của họ về bản thân và thế giới xung quanh họ.
Phân khúc theo giá: phân khúc khách hàng được nhận diện và định vị trí đáp ứng các dãi giá cả khác nhau. Hình thức phân khúc theo giá cả này sẽ còn dược xếp dưới mục đích, lợi ích tìm kiếm và các đặc điểm của người sử dụng trong thứ tự các cách thức phân khúc.
Nghiên cứu có thể sử dụng một hoặc kết hợp nhiều tiêu chí với nhau để phân khúc thị trường. Chỉ có một số ít nghiên cứu sử dụng một tiêu chí riêng lẻ, đa số sử dụng nhiều tiêu chí kết hợp vì nó giúp xác định rõ ràng và hiệu quả hơn các phân khúc (Morrison, 2002).
Xác định thị trường mục tiêu
Không phải mọi du khách đều quan tâm đến một địa phương nhất định vì vậy địa phương sẽ lãng phí tiền của nếu cố gắng thu hút hết thảy mọi du khách. Thay vì thực hiện một phương pháp thu hút đại trà không chọn lọc, địa phương phải thực hiện phương pháp thu hút theo những mục tiêu cụ thể và xác định rõ các nhóm mục tiêu của mình.
Thị trường mục tiêu là những nhóm có cùng một nhu cầu, cùng đáp ứng lại hoạt động marketing được rút ra từ quá trình phân khúc thị trường. Thị trường mục tiêu lựa chọn tương đối đồng nhất về khách hàng tiềm năng, bao gồm tập hợp những người có nhu cầu hoặc đặc điểm giống nhau. Tức là chia thị trường thành những nhóm khác nhau có thể yêu cầu những sản phẩm riêng hoặc hỗn hợp tiếp thị riêng…
Sau khi địa phương đã nhận được một thị trường mục tiêu tự nhiên, cơ quan phụ trách về du lịch phải tìm hiểu xem sẽ tìm các du khách này ở đâu. Cơ quan phụ trách về du lịch xếp hạng các phân loại du khách tiềm năng theo thứ tự thuận lợi và tập trung vào việc thu hút những phân đoạn nào có lợi nhuận cao nhất trong danh mục.
Các phương án chọn thị trường mục tiêu
Phương án tập trung vào một khúc thị trường: mọi nỗ lực marketing chỉ tập trung vào một khúc thị trường mục tiêu đơn lẻ cụ thể. Ví dụ: chỉ chọn thị trường khách du lịch Nga, hoặc thị trường khách du lịch dành cho người già.
Phương án chuyên môn hóa có lựa chọn: có thể lựa chọn hai hay nhiều hơn các khúc thị trường mục tiêu phù hợp với mục tiêu và khả năng. Ví dụ, chọn thị trường mục tiêu không chỉ nhằm vào phân khúc khách quốc tế đi công tác mà mở rộng đến phân khúc khách đi du lịch thuần túy có khả năng thanh toán cao. Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Phương án chuyên hóa theo thị trường: chỉ tập trung vào một loại sản phẩm nhưng thỏa mãn nhu cầu đa dạng của các nhóm khách hàng riêng biệt, nhưng có điểm giống nhau trong tiêu dùng du lịch. Ví dụ, tập trung vào sản phẩm du lịch hội họp nhưng cho các hình thức mục đích tổ chức hội họp khác nhau.
Phương án chuyên môn hóa theo sản phẩm: sản phẩm tập trung vào việc thỏa mãn nhu cầu đa dạng của một nhóm khách hàng riêng biệt. Ví dụ, du lịch nghỉ dưỡng tạo ra dịch vụ phục hồi sức khỏe, thư giãn cho nhiều đối tượng khách hàng khác nhau.
Phương án bao phủ toàn bộ thị trường: cố gắng đáp ứng mong muốn của mỗi khách hàng về tất cả các loại sản phẩm mà họ cần.
Định vị điểm đến
Định vị điểm đến du lịch là việc chuyển tải có chủ định một bản sắc riêng thành một hình ảnh trong tâm trí khách du lịch.
Việc định vị điểm đến du lịch được tiếp cận theo hai phương pháp. Phần lớn các nghiên cứu dựa trên cách định vị truyền thống, tức là dựa trên đặc điểm hấp dẫn của chính sản phẩm. Một số nghiên cứu khác tập trung vào việc xác định những thuộc tính trong nhận thức của khách du lịch về điểm đến và coi đây là cơ sở cho việc định vị điểm đến du lịch. Định vị điểm đến theo cách này gắn liền xây dựng một hình ảnh hay một thương hiệu cho điểm đến.
Điều quan trọng trong sự định vị điểm đến trong tâm trí của khách hàng là trải nghiệm của du khách có đáp ứng được kỳ vọng của họ. Để định vị du lịch địa phương thành công cần kết hợp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và hình ảnh được nhận thức rõ ràng trong tâm trí của khách hàng về lợi ích được cung cấp bởi các điểm đến. Đồng thời sản phẩm – dịch vụ kết hợp của điểm đến có thể được phân biệt với các điểm đến khác. Mục tiêu là để cung cấp cho khách hàng có ấn tượng về hình ảnh tích cực, tốt đẹp của các điểm đến.
1.4.2 Hoạt động marketing mix du lịch địa phương
Marketing mix là sự tập hợp các phương thức tiếp thị có thể kiểm soát được sử dụng để tác động đến khách hàng tạo nên sự đáp ứng cần thiết trong thị trường mục tiêu. Có nhiều quan niệm khác nhau về marketing mix: 4P, 7P, 8P. Kotler (2007) cho rằng marketing mix trong đó 4P trong đó có tác động đáng kể vào việc tiếp thị cho dịch vụ du lịch. Trong phạm vi luận văn này, tôi chỉ nhấn mạnh đến 4 thành phần chính của marketing truyền thống là Product (Sản phẩm), Price (Giá cả), Promotion (Chiêu thị – xúc tiến du lịch).
1.4.2.1 Sản phẩm
Chiến lược sản phẩm có một vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng . Nó là nền tảng là xương sống của chiến lược chung marketing. Chiến lược sản phẩm xác định phương hướng đầu tư, thiết kế sản phẩm phù hợp thị hiếu, hạn chế rủi ro, thất bại, chỉ đạo thực hiện hiệu quả các P còn lại trong marketing hỗn hợp. Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Sản phẩm du lịch của một địa phương bao gồm toàn bộ các dịch vụ cung cấp với tất cả văn hóa xã hội, tài nguyên môi trường và hàng hóa công cộng của địa phương đó. (Kotler và cộng sự, 1996).
Theo kết quả nghiên cứu của Mugle University (2012) về điểm đến Dylan thì sản phẩm bao gồm sự hấp dẫn của môi trường tự nhiên vài bãi biển, di tích lịch sử khảo cổ, sự thuận tiện đến sân bay, nơi ở sạch sẽ và yên tĩnh, dịch vụ lưu trú và cơ sở vật chất, dịch vụ vận tải địa phương, cuộc sống giải trí về đêm ảnh hưởng đáng kể đến việc lựa chọn điểm đến.
DMOs chịu trách nhiệm chung đến toàn bộ sản phẩm và thông qua các biện pháp khuyến khích và chính sách tạo thuận lợi cho sự phát triển của sản phẩm. DMOs cũng cần phải nâng cao và phân biệt sản phẩm của mình bằng cách nhấn mạnh tính độc đáo. Người tiêu dùng ngày nay mong muốn tìm kiếm trải nghiệm đích thực và độc đáo nên họ cũng sẵn sàng trả giá cao, nhưng chỉ khi các sản phẩm tốt hơn, độc đáo hơn đối thủ cạnh tranh. Do đó, các điểm đến sẽ cần phải đánh giá lại toàn bộ các nguồn lực của mình và xác định sản phẩm du lịch phù hợp với từng phân khúc thị trường mục tiêu cụ thể. Ví dụ, Hy Lạp có thể tập trung vào di sản và lịch sử của nó và cung cấp những trải nghiệm cổ đại, thần thoại; Bali nên tập trung vào các nghi lễ tôn giáo độc đáo và truyền thống văn hóa.
Sản phẩm du lịch chính là sự trải nghiệm của khách du lịch về điểm đến du lịch. Vì vậy, điểm đến nào mang lại sự trải nghiệm càng đa dạng, càng thú vị cho khách du lịch sẽ quyết định sự thành công trong cạnh tranh thu hút khách du lịch. Vì thế, bên cạnh chiến lược khác biệt hóa thì chiến lược đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch là hết sức thiết yếu để du khách có nhiều lựa chọn, có nhiều trải nghiệm ở một điểm đến.
Trong nghiên cứu khác (Ljiljana Stanković và Suzana Đukić, 2009) đã phát hiện ra rằng các sản phẩm du lịch, liên kết các địa phương lân cận cùng phối hợp sáng tạo cũng rất quan trọng đối với điểm đến du lịch. Vì vậy, cần chú trọng công tác phối hợp, cộng hưởng các sản phẩm du lịch địa phương.
1.4.2.2 Giá cả
Một loạt các kỹ thuật định giá được áp dụng cho các điểm đến du lịch (Meidan, 1995; Kotler, 1996). Tuy nhiên, định giá là một quá trình khó khăn cho các điểm đến vì nó thường được xác định bằng chính sách giá cả và tiếp thị của các doanh nghiệp cá nhân ở cả các điểm đến và các nhà phân phối tại nơi xuất xứ.
Theo kết quả nghiên cứu (Edwards, 1993) thì các nhà cung cấp địa phương có thể có chính sách riêng của họ. Do đó điều phối và thiết lập một điểm đến chiến lược giá rộng là gần như không thể thực hiện. Hơn nữa, chính sách kinh tế quốc gia và điều kiện kinh tế trên thị trường quốc tế cũng ảnh hưởng đến giá cả. Chi phí sinh hoạt, việc làm, cũng như lạm phát, tỷ giá hối đoái đều các đóng góp vào phương trình định giá.
Theo kết quả nghiên cứu của (Sarker, 2012) thì giá của dịch vụ du lịch có yếu tố tác động mạnh mẽ đến sự hài lòng và dự định quay lại điểm đến Đông Hồ. Vì vậy giá của vận chuyển, chỗ ở, ăn uống và giá tour có thể quyết định yếu tố cạnh tranh cho điểm đến.
DMOs có thể kiểm soát các yếu tố của giá cả thông qua quy định, tư vấn và thông qua quan hệ đối tác với khu vực tư nhân. DMOs thường cung cấp các hướng dẫn bằng cách gợi ý mức giá tối thiểu để bảo vệ các nhà cung cấp nhỏ trong sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả cũng như bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ví dụ, ở một số điểm đến khu vực nhà nước quyết định giá thấp nhất cho mỗi thể loại chọn nơi ăn nghỉ, tư vấn về giá bán lẻ hàng tiêu dùng và thực phẩm, thiết lập mức giá tối đa cho giao thông vận tải hoặc dịch vụ taxi. (Dimitrios Buhalis, 2000).
Các quyết định về giá phải được kết hợp với những quyết định về sản phẩm dịch vụ, phân phối để hình thành một chương trình marketing nhất quán và hiệu quả. Giá của các sản phẩm được xác định trên thị trường khác nhau, tùy vào chất lượng, uy tín, tính độc đáo, tính thời vụ và tính không gian của nó. Mặt khác, giá cả sản phẩm du lịch còn cần có sự phân biệt tùy theo hai loại khách (xuất xứ, mức thu nhập, thời điểm tiêu thụ).
Các phương pháp định giá
- Định giá dựa vào chi phí: phương pháp đơn giản nhất để xác định giá dựa trên chi phí là phương pháp lơi nhuận tính theo giá thành. Nó hướng vào mục tiêu chi phí và lợi nhuận. Theo đó người ta cộng mức lời tiêu chuẩn vào phí tổn của một sản phẩm.
- Định giá theo thị trường: theo cách này thì ngay từ ban đầu đã định giá sản phẩm mới của mình tương đối thấp nhằm thu hút được một lượng khách mua lớn và chiến được một phần thị phần lớn.
- Định giá nhằm chắt lọc thị trường: chính sách này chủ trương xác định một mức giá cao nhất cho các sản phẩm mới nhắm đạt lợi nhuận cao để bù đắp cho thị phần hạn chế.
- Định giá theo thời giá: định giá chủ yếu dựa vào giá của đối thủ cạnh tranh mà ít chú trọng vào phí tổn hoặc số cầu riêng của mình. Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
- Định giá dựa trên người mua: là cách định giá dựa trên sự cảm nhận về giá trị của người mua. Giá được đề ra là đạt được cái giá trị cảm nhận của khách hàng.
- Định giá tâm lý
- Giá chỉ bảo chất lượng: giá cao làm cho người mua cảm nhận sản phẩm có chất lượng cao.
- Giá có số lẻ: thay vì làm tròn thì đưa ra giá có số lẻ ở sau hoặc dưới con số làm tròn cho người mua có tâm lý là giá rẻ.
- Định giá theo thời vụ: ứng với mỗi thời vụ có một mức giá khác nhau ứng với nhu cầu theo từng thời điểm trong năm.
Mùa cao điểm: là thời điểm mà cầu du lịch và dịch vụ của du lịch đạt cao nhất với mức giá cao nhất, thời kỳ cao điểm khác nhau tùy theo loại hình của du lịch. Chẳng hạn, ở các bãi biển thì mùa cao điểm là mùa hè còn mùa đông là mùa cao điểm cho những nơi trượt tuyết.
- Mùa thấp điểm: là thời kỳ cầu về du lịch và các dịch vụ cung ứng cho du lịch đạt thấp nhất. Trong thời kỳ này, các đơn vị cung ứng du lịch thường đưa ra các biện pháp giảm giá để duy trì kinh doanh.
- Giao mùa: thời kỳ này rơi vào thời gian giữa mùa cao điểm với mùa thấp điểm và nó có thể được coi là thời kỳ có cơ hội tốt nhất để kinh doanh các tour du lịch có hiệu quả.
1.4.2.3 Hoạt động phân phối
Phân phối trong kinh doanh dịch vụ du lịch là quá trình hoạt động, nhờ đó khách hàng đến được với sản phẩm du lịch thông qua môi giới trung gian. Chính vì vậy hệ thống phân phối trong du lịch là một tập hợp các đơn vị cung ứng hay cá nhân để thực hiện những hoạt động thuộc lĩnh vực của mình hoặc của những đơn vị khác nhằm đưa khách hàng đến với sản phẩm du lịch hoặc cung cấp thông tin về sản phẩm cho khách hàng.
Leo Huang, Kaung-Hwa và Chen Ying-Wei Wu (2009) đã xác định được nhiều kênh marketing hiệu quả cho các hoạt động marketing và thiết lập kênh phân phối trong marketing mix cho các đại lý du lịch bán sỉ khác nhau. Họ nhận thấy rằng đại lý du lịch bán sỉ của Đài Loan thông qua các đại lý du lịch bán lẻ được ưu tiên cao nhất khi lựa chọn kênh. Trong nghiên cứu khác, Douglas G. Pearce (2008) đã cố gắng để phát triển một nền tảng nhận thức mạnh mẽ hơn cho các nghiên cứu về phân phối du lịch bằng cách trình bày một mô hình tổng quát nhấn mạnh các nhu cầu của khách du lịch và các chức năng cần thiết để đáp ứng chúng. Musa và Adamu (2011) nhận thấy rằng giao thông vận tải là một yếu tố quyết định quan trọng của phát triển du lịch. Các yếu tố khác như cơ sở vật chất và an ninh giải trí và xã hội cũng đóng vai trò tích cực để phát triển ngành công nghiệp này.
Phân phối của các điểm đến ngày càng trở nên quan trọng hơn, không chỉ bởi vì nó chiếm 20-30% giá thành sản phẩm mà còn vì phân phối xác định điều kiện các nhà cung cấp có thể đáp ứng được thị trường mục tiêu của họ. Du khách kinh doanh có lịch trình chặt chẽ và sử dụng trung gian để tổ chức hành trình của họ. Ngược lại, khách du lịch giải trí có xu hướng có sự linh hoạt hơn nhiều và độ đàn hồi giá. Kết quả là, trung gian có thể ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn điểm đến của họ.
Người tiêu dùng ngày càng trở nên độc lập, tinh tường và sử dụng toàn bộ các công cụ để sắp xếp chuyến đi. Các thông tin sẵn có của trên Internet và sự xuất hiện của các trung gian điện tử là cuộc cách mạng phân phối. Điểm đến đánh giá cao những phát triển mới và xây dựng công cụ toàn diện cho các nhà cung cấp địa phương ngày càng cải thiện khả năng để đạt được mục tiêu chiến lược. Công nghệ thông tin cho phép người dùng tìm kiếm thông tin cũng như xây dựng và mua hành trình cá nhân trên mạng, và do đó nó cách mạng tiếp thị điểm đến. (Buhalis, 1998).
Theo kết quả nghiên cứu của (Mugle University, 2012) về điểm đến Dylan thì đánh giá hoạt động phân phối của một điểm đến bao gồm đánh giá cơ hội lựa chọn tour, công tác điều hành tour, khả năng giữ chỗ, khả năng cung cấp tiện ích của nhà điều hành tour. Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Tóm lại, chiến lược phân phối sản phẩm dịch vụ là là phương cách cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng của mình trên thị trường mục tiêu, nó bao gồm tổ hợp các mạng lưới, các kênh phân phối, sản phẩm, dịch vụ. Đây là một quá trình tổng hợp hoặc trực tiếp thực hiện của người tiêu dùng hoặc thông qua một chuỗi các cơ sở. Phân phối trong du lịch là quá trình hoạt động, nhờ đó khách hàng đến được với sản phẩm thông qua môi giới trung gian. Mục đích của phân phối trong du lịch là thiết lập mối liên hệ giữa cung và cầu, giữa các tổ chức du lịch và khách du lịch, đưa sản phẩm và dịch vụ đến khách hàng và đưa khách hàng đến với với sản phẩm.
Những kênh phân phối chính trong du lịch cũng như trong những lĩnh vực hoạt động kinh tế khác có những kênh rất dài (sản xuất – bán sỉ – bán lẻ) và cũng có những kênh ngắn hơn như bán trực tiếp hay qua thư yêu cầu. Ngoài ra còn có những cách phối hợp theo tính chất: bán một chuyến đi qua kênh tổ chức – công ty du lịch,…Tùy vào thị trường mục tiêu, đối tượng khách hàng mà điểm đến có thể chú trọng kênh phân phối phù hợp.
Giữ chỗ cho chuyến đi – là kênh đơn giản nhất. Việc này có thể do người chủ khách sạn, hoặc người chịu trách nhiệm về chốn ăn ở, hoặc phương tiện đi lại đề xuất trực tiếp với khách: đây là hình thức thường gặp ở các phòng vé máy bay, xe lửa, tàu thủy, ở các khách sạn
Kênh phân phối chính về du lịch vẫn là kênh do đại lý du lịch đảm nhiệm
Đơn vị bán lẻ – theo định nghĩa của tổ chức thế giới về du lịch thì những đại lý bán lẻ cung cấp cho khách hàng những thông tin về các chuyến đi được tổ chức, nơi ăn ở và các địch vụ đi kèm theo kể cả giờ giấc, biểu giá và điều kiện dịch vụ. Những tổ chức cung cấp cho phép họ bán những dịch vụ này theo giá chỉ định, hợp đồng bán hàng (thường là vé) nêu rõ những đại lý chỉ đóng vai trò trung gian. Các đại lý nhận một khoản hoa hồng của những tổ chức cung ứng du lịch mà họ đại diện
Cơ sở bán sỉ – đứng trung gian giữa đại lý và tổ chức cung ứng du lịch. Với tư cách là “người tổ chức các chuyến đi” hoặc đơn vị tổ chức các chuyến đi trọn gói, cơ sở bán sỉ tổ chức các chuyến du lịch trọng gói để bán trực tiếp tại các văn phòng mình hoặc các đơn vị bán lẻ.
Ngoài ra còn có cung cấp thông tin, bán tour qua mạng và những kênh phân phối khác như bán hàng qua thư, bán hàng qua điện thoại.
1.4.2.4 Hoạt động chiêu thị Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Hồ Đức Hùng (2005, trang 18): hoạt động chiêu thị, cổ động là một trong bốn yếu tố của hỗn hợp marketing, hoạt động này yểm trợ cho việc bán hàng hiệu quả hơn. Muốn chiêu thị có hiệu quả phải hội đủ ba điều kiện: liên tục, tập trung và phối hợp
Chiêu thị điểm đến chú trọng sự phát triển của các kênh giao tiếp với khách hàng và các bên liên quan khác để nâng cao nhận thức và thuyết phục để mua sản phẩm.
Chiêu thị điểm đến du lịch tạo dựng được hình ảnh điểm đến du lịch, tạo ra sự hiểu biết rõ ràng về điểm đến và các sản phẩm. Thiết lập được mối quan hệ thuận lợi giữa các doanh nghiệp du lịch với khách du lịch tiềm năng trọng điểm, nhờ đó đảm bảo cho việc triển khai thành công các chương trình marketing hỗn hợp.
Chiêu thị điểm đến du lịch địa phương nhằm tuyên truyền, quảng bá giới thiệu cung cấp thông tin về du lịch địa phương như một điểm đến hấp dẫn tại các thị trường du lịch tiềm năng, qua đó thu hút du khách tham quan du lịch. Đồng thời tạo dựng và tăng cường nhận thức của toàn dân về vai trò phát triển du lịch, đem lại nhiều lợi ích cho xã hội, như tạo môi trường du lịch thuận lợi, tăng thu nhập xã hội, tạo việc làm, giữ gìn và khai thác hợp lý tài nguyên du lịch. Chiêu thị điểm đến còn tạo lập hình ảnh tích cực về điểm đến du lịch trong tâm trí du khách, tác động đến sự lựa chọn điểm đến của họ.
Các hình thức chiêu thị:
Theo Philip Kotler: “Quảng cáo là hình thức truyền thông không trực tiếp, được thực hiện thông qua những phương tiện truyền tin phải trả tiền và xác định rõ nguồn kinh phí.”
Theo truyền thống, DMOs chỉ đạo các chiến dịch quảng cáo, trong khi các nhà cung cấp tham gia và đóng góp (Kotler,1996; Horner và Swarbooke, 1996).
Các hoạt động quảng cáo trực tuyến bao gồm quảng cáo trên truyền hình, radio, và báo chí cũng như sử dụng các chiến dịch poster. Nhắm vào thị trường mục tiêu với đúng thông báo vào đúng thời điểm luôn luôn khó khăn, đặc biệt là quảng cáo các điểm đến phải thu hút người tiêu dùng từ một số khu vực địa lý cũng như nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau. Mặc dù rất tốn kém nhưng quảng cáo có thể hỗ trợ sự phát triển thương hiệu điểm đến cũng như ảnh hưởng lớn số lượng khách đi du lịch đến các điểm đến hoặc gia hạn chuyến thăm của họ (Bonham và Mak, 1996).
Tuy nhiên, DMOs đang ngày càng được tổ chức chịu trách nhiệm để tạo ra kết quả đầy đủ thông qua quảng cáo và để đo lường hiệu quả quảng cáo (Woodside, 1990; Faulkner, 1997; Crompton, 1997; Schoenbachler và cộng sự, 1995). DMOs sản xuất tài liệu quảng cáo, mà họ phân phối cho tất cả các đối tác của họ trong ngành công nghiệp và khách hàng tiềm năng có nhu cầu thông tin về điểm đến.
Quảng cáo trong du lịch nhằm mục đích mở rộng vùng ảnh hưởng, thu hút du khách, thu hút khách hàng mới tại địa phương, giới thiệu sản phẩm mới, lôi cuốn khách hàng quen trở lại,… Đây là công cụ hết sức thiết yếu để quảng bá du lịch mà các điểm đến phải hết sức chú trọng, đầu tư.
Quan hệ công chúng: Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
PR đóng một vai trò quan trọng marketing điểm đến đi du lịch có lợi thế chi phí thấp với những hoạt động nhằm tạo những ấn tượng tốt đẹp của sản phẩm trong lòng công chúng (Anna Harlt, 2002). Quan hệ công chúng làm việc với một lượng khách hàng mục tiêu nhiều hơn là quảng cáo. Những khách hàng tiềm năng và công chúng bao gồm những người mua hiện tại và tiềm năng, nhà cung cấp và nhà phân phối trong kinh doanh lữ hành, những nhà lãnh đạo, chính phủ trung ương và địa phương,…Những hoạt động đặc biệt thích hợp trong du lịch và lữ hành: quan hệ truyền thông, quản lý khủng hoảng, sự sắp xếp sản phẩm, các nhà tài trợ, những cuộc triển lãm và hội chợ du lịch.
Thông tin trực tiếp cho hoạt động du lịch
Cung cấp thông tin cho hoạt động du lịch là nhiệm vụ đầu tiên đặt ra cho tất cả các mức độ marketing du lịch. Nhiệm vụ này bắt đầu ngay từ tổng đài điện thoại, quầy đón tiếp, lễ tân và đi tất cả các bộ phận trong chuỗi hoạt động phục vụ du khách.
Nguồn thông tin trực tiếp được thể hiện dưới dạng nói, viết và nhìn qua các trung tâm du lịch hoặc qua việc phát hành tài liệu.
Trung tâm thông tin du lịch có ở trong và ngoài nước, nơi tập trung những thông tin về hoạt động của các khách sạn, nhà hàng, các dịch vụ lữ hành,…Các đơn vị hoạt động du lịch nên cung cấp thông tin về hoạt động của đơn vị mình cho những trung tâm này để họ tiếp xúc với khách hàng, nhất là những khách hàng ở nước ngoài thì rất thuận tiện cho việc tiếp thị.
Các điểm thông tin – gian hàng, phòng triễn lãm
- Các phòng triển lãm du lịch nói riêng, kể cả các phòng triễn lãm hỗn hợp vừa dành cho công chúng vừa dành cho các nhà chuyên nghiệp.
- Các phòng triển lãm chuyên ngành (hội họa, thể thao,…).
- Các hội chợ triển lãm.
Thông tin miệng và thông tin viết
Thông tin miệng gồm có thông tin tại quầy du lịch và thông tin truyền miệng của khách du lịch. Loại thông tin truyền miệng góp phần đắc lực trong vấn đề chiêu thị. Muốn có được loại thông tin này, sản phẩm du lịch phải có chất lượng.
Thông tin viết là loại thông tin bổ túc cho thông tin miệng để trả lời khách hàng bằng tài liệu in sẵn thay vì trả lời trực tiếp.
Phát hành tài liệu du lịch
Tài liệu du lịch gồm các cuốn sách giới thiệu, tờ gấp giới thiệu tại các văn phòng du lịch trong và ngoài nước. Có thể đó là tài liệu giới thiệu một khu vực, một khu du lịch, điểm du lịch,…
Nội dung tài liệu phải phong phú, hấp dẫn và hữu ích, tùy thuộc vào mỗi đối tượng để có những nội dung thích hợp.
Khuyến mãi: là những hoạt động xúc tiến nhằm kích thích khách hàng mua hàng và làm tăng doanh số bán hàng trong ngắn hạn bằng cách dành những lợi ích nhất định cho khách hàng. Bao gồm các hình thức: tặng hàng mẫu, tặng miến phí hàng hóa, dịch vụ, bán giá thấp hơn, dự thi trúng thưởng,…Khuyến mãi còn là cách mà những giá trị của vị trí sản phẩm du lịch được truyền đạt đến các phân khúc thị trường được lựa chọn.
Bốn thành phần của marketing mix: giá cả, sản phẩm, phân phối và chiêu thị có mối liên hệ chặt chẽ hữu cơ, tác động lẫn nhau không thể xem nhẹ yếu tố nào. Marketing – mix chính là sự phối hợp 4 thành phần của nó sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của một thị trường mục tiêu nhất định.
1.5 Bài học kinh nghiệm về marketing du lịch của các địa phuơng lân cận
Marketing du lịch Ninh Thuận trong thời gian qua đã bắt đầu đuợc quan tâm nhưng so với các địa phương lân cận như Bình Thuận, Khánh Hòa, Đà Lạt thì kém hơn hẳn. Sau đây là những bài học kinh nghiệm về marketing du lịch của các địa phuơng này. Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
Bình Thuận: Điểm mạnh cũng là tiềm năng mà du lịch Bình Thuận được thiên nhiên ưu ái chỉ có phong cảnh hoang sơ và những lễ hội đặc sắc. Đó cũng chính là điều kiện thuận lợi để địa phương đa dạng hóa sản phẩm du lịch nhằm hấp dẫn du khách.
Trong năm 2012, tỉnh Bình Thuận đón khoảng 341.160 lượt khách quốc tế gấp 4,7 lần Ninh Thuận. Ngành du lịch Bình Thuận khá chú trọng đến hoạt động marketing. Cụ thể:
- Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh thực hiện nhiều hoạt động tại Nga để tiếp tục quảng bá hình ảnh du lịch đến với thị trường du lịch lớn nhất hiện nay của trung tâm du lịch biển này.
- Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch cùng các doanh nghiệp du lịch, khách sạn tích cực tham gia hội chợ du lịch, đặc biệt là các hội chợ du lịch lớn ở Nga.
- Ngành du lịch mời nhiều đoàn khách Nga, là các cơ quan thông tấn và hãng lữ hành đến để quảng bá mạnh mẽ hơn nữa hình ảnh du lịch Bình Thuận đến với du khách Nga và tổ chức thêm các sự kiện thể thao, du lịch tại tỉnh để hút khách.
- Bình Thuận mời các chuyên gia nổi tiếng về du lịch chủ trì buổi hội thảo về chiến lược quảng bá và marketing cho du lịch với sự tham gia của cán bộ lãnh đạo địa phương, chủ doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch ở Bình Thuận.
Khánh Hòa: Biển, đảo là thế mạnh đặc trưng của du lịch Khánh Hòa. Vịnh Nha Trang đã được công nhận là một trong những vịnh đẹp nhất thế giới. Khánh Hòa đã và đang phát triển rất mạnh các loại hình du lịch khám phá dưới đáy biển và thể thao giải trí trên biển, như: ca nô kéo dù, lướt ván, mô tô nước, đua thuyền buồm thể thao, lặn biển bằng bình khí và tham quan các sinh vật dưới đáy biển bằng tàu đáy kính…
Khánh Hòa đón 528.000 lượt khách du lịch quốc tế trong năm gấp 7,3 lần Ninh Thuận. Ngành du lịch Khánh Hòa khá chú trọng đến hoạt động marketing. Cụ thể:
- Tổ chức một loạt các khóa tập huấn tập trung với chủ đề marketing điểm đến du lịch.
- Phát triển marketing điện tử quảng bá du lịch.
- Để giới thiệu loại hình du lịch thể thao trên biển, từ năm 2004 trở đi, định kỳ hai năm một lần Nha Trang là điểm đến của các cuộc đua thuyền buồm quốc tế từ Hồng Kông do các Câu lạc bộ đua thuyền nổi tiếng trên thế giới cùng tham gia tổ chức, với hàng trăm vận động viên là các doanh nhân, các nhà tài chính, ngân hàng nước ngoài tham gia.
- Khánh Hòa đã tổ chức thành công nhiều lần Festival du lịch biển, Festival du lịch hè Nha Trang. Tổ chức nhiều tour du lịch biển đặc sắc cho khách du ngoạn phong cảnh biển bằng tàu du lịch trong vùng vịnh Nha Trang, tham quan khu bảo tồn biển và đảo Yến.
Lâm Đồng: với thành phố Đà Lạt hơn 100 năm tuổi đang trở thành một trong những địa danh du lịch hấp dẫn nhất đối với du khách trong và ngoài nước, một thành phố nghỉ mát lâu đời ở nước ta. Đà Lạt nổi tiếng về hồ, về thác nước và rừng thông. Vẻ đẹp của Đà Lạt còn được ngợi ca nhiều và hấp dẫn du khách bởi hàng trăm, ngàn loại hoa độc đáo,…
Ngành du lịch Lâm Đồng có hoạt động marketing du lịch khá hiệu quả. Cụ thể: Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
- Phát triển mạnh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng; loại hình du lịch hội nghị -hội thảo.
- Thường xuyên tổ chức các hội thảo kêu gọi đầu tư, liên doanh liên kết trên lĩnh vực du lịch với sự tham dự của các tham tán thương mại, các cơ quan thông tấn – báo chí, các đại sứ quán, lãnh sự quán của các nước.
- Tham dự các hội chợ du lịch- thương mại trong và ngoài nuớc.
- Phát hành ấn phẩm du lịch song ngữ Anh Việt.
- Tổ chức các lễ hội để tạo điểm nhấn thu hút khách đến Đà Lạt.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Du lịch trong những năm gần đây trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia và đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế thế giới. Sản phẩm du lịch có những đặc tính vô cùng riêng biệt nên marketing rất cần thiết trong lĩnh vực này. Trong chương 1, luận văn đã trình bày những vấn đề về sản phẩm du lịch, những đặc tính của sản phẩm du lịch, marketing du lịch, marketing điểm đến du lịch và sự cần thiết của marketing du lịch, vai trò của marketing điểm đến du lịch. Đồng thời cũng nêu lên các hoạt động của marketing du lịch điểm đến như: hoạt động nghiên cứu thị trường, chọn thị trường mục tiêu, định vị, 4P cơ bản trong hoạt động marketing. Chương 1 cũng nêu bài học kinh nghiệm về marketing du lịch của các địa phuơng lân cận. Trên cơ sở đó, luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng hoạt động marketing của ngành du lịch tỉnh Ninh Thuận ở chương 2.Luận văn: Hoạt động marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Giải pháp marketing du lịch tỉnh Ninh Thuận