Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Vấn đề phát triển Marketing Internet tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN MARKETING INTERNET ĐẾN NĂM 2010
3.1.1 Những quan điểm và nguyên tắc chủ yếu cho việc phát triển Marketing Internet
TMĐT là một hệ thống sản xuất ra của cải vật chất mới. Nó là một cơ hội tuyệt vời để phát triển kinh tế. Thực tế đã chứng minh vai trò to lớn của nó với những biến động to lớn cả về kinh tế xã hội tại các quốc gia OECD mà đứng đầu là Mỹ. Các quốc gia còn lại tùy thuộc vào hoàn cảnh của mình tìm cách tận dụng cơ hội và cố gắng đối phó với những thách thức để khỏi bị tụ hậu quá xa với thời cuộc. Điều cốt lõi là phải xây dựng được hệ thống doanh nghiệp TMĐT hùng hậu. Môi trường TMĐT hoàn toàn khác hẳn với môi trường kinh doanh truyền thống, với những đặc thù và những quy luật riêng. Vì vậy, các quốc gia này một mặt vừa xây dựng môi trường cho TMĐT như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thông tin truyền thông, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin, ban hành các chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng khi tiến hành giao dịch trên mạng, thì các quốc gia đó đồng thời tiến hành nhiều các biện pháp hữu hiệu để phổ cập đào tạo kiến thức, nâng cao trình độ kinh doanh trên mạng cho doanh nhân, trong đó điều cốt lõi là Marketing Internet. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Trên quan điểm các doanh nghiệp, bất kỳ ai là chủ được hệ thống tạo ra của cải vật chất mới sẽ làm chủ nền văn minh mới. Và công cụ cốt lõi để có thể thực hiện được là Marketing Internet.
Nền kinh tế công nghệ thông tin thuộc về thời đại mạng. Mọi người phải thích ứng với nó, đối mặt với nó và nắm lấy nó chứ không thể không muốn hoặc chống lại nó. Các doanh nghiệp phải thay đổi chiến lược và mô hình kinh doanh của họ. Về phía doanh nghiệp, cần phát huy tính chủ động nắm bắt Marketing Internet, TMĐT từng bước nâng cao trình độ, ứng dụng phương pháp kinh doanh mới, thành tựu CNTT, không chần chừ kiểu “chờ dọn sẵn cỗ” tức là các điều kiện cho TMĐT hoàn chỉnh rồi mới nhập cuộc.
3.1.1.1 Chủ trương của Đảng và Chính phủ
Đảng và Chính phủ đã có chủ trương rất mạnh, ủng hộ việc ứng dụng CNTT&TT trong phát triển mọi mặt: kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng từ khá lâu
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hàng Trung ương (khoá VII) ngày 03/7/1994 xác định: “Ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến, như CNTT phục vụ yêu cầu điện tử hoá và tin học hoá nền kinh tế quốc dân”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII nhấn mạnh: “Ứng dụng CNTT trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả; hình thành mạng thông tin quốc gia liên kết với một số mạng thông tin quốc tế”
Chỉ thị 58- CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị (Khoá VIII) chủ trương:
- Ứng dụng và phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so các nước đi trước.
- Mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng đều phải ứng dụng CNTT
Nhà nước đầu tư vào các hướng phát triển, chương trình và dự án ưu tiên, tạo mầm và khuyến khích huy động các nguồn lực trong nước và ngoài nước phát triển ứng dụng CNTT trong mọi hoạt động ở Việt Nam.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing
3.1.1.2 Dự báo triển vọng phát triển của thương mại thế giới: Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
TMĐT đang là xu hướng phát triển của thương mại thế giới: theo các chuyên gia kinh tế, năm 2004 sẽ là năm khó khăn với rất nhiều ngành kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp ôtô, hàng tiêu dùng,..ngược lại ngành công nghiệp thực phẩm và đồ uống, và đặc biệt là TMĐT lại đầy hứa hẹn. Theo Forrester Research tốc độ tăng trưởng TMĐT sẽ là 19% mỗi năm [1]:
- Năm 1998 là 40 tỷ USD [21]
- Năm 2002 là 500 tỷ USD [21]
- Năm 2004 sẽ là 5. 500 tỷ USD [1]
- Năm 2006 sẽ là 6. 000 tỷ USD [21]
Marketing Internet và TMĐT sẽ là công cụ hữu hiệu giúp các doanh nghiệp Việt nam hội nhập với thương mại toàn cầu, theo kịp xu thế phát triển của thương mại thế giới.
3.1.1.3 Mục tiêu phát triển hạ tầng CNTT & TT Việt nam – Mục tiêu tổng quát đến năm 2005
“Mục tiêu tổng quát đến năm 2005, về hạ tầng CNTT & TT Việt nam đạt trình độ trung bình trong khu vực ASEAN (xếp hàng thứ 5 hoặc thứ 6)”. Một số điểm cụ thể về hạ tầng CNTT & TT là:
Đảm bảo tất cả các tỉnh và thành phố trong cả nước được kết nối bằng các tuyến cáp quang băng rộng. Hà nội và Tp. Hồ Chí Minh và một số thành phố lớn khác có mạng truyền dẫn nội hạt được cáp quang hoá.
Đẩy nhanh việc xây dựng cơ sở hạ tầng truy nhập băng rộng tới các thuê bao trên cơ sở ứng dụng các phương thức truy nhập băng rộng khác nhau.” Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Phấn đấu xoá các điểm trắng về dịch vụ, đảm bảo 100 % số xã trên toàn quốc được phục vụ thông tin điện thoại
Đảm bảo các dịch vụ trong môi trường Internet cho phát triển thương mại điện tử, dịch vụ ngân hàng, tài chính, hải quan,…
Tổng số thuê bao Internet lên trên 1,3 triệu thuê bao, đạt mật độ 1,55 thuê bao/100 dân( trong đó khoảng 7,5% là thuê bao băng rộng, tỷ lệ số dân sử dụng Internet là 4 – 5%)
Tỷ lệ số máy tính cá nhân khoảng 3 đến 5 máy/ 100 dân
Mục tiêu tổng quát đến 2010 [2]
“ Đến năm 2010, hạ tầng CNTT & TT Việt nam đạt trình độ trung bình khá trong khu vực ASEAN”
Cơ bản hoàn thành xa lộ thông tin quốc gia, toàn bộ các huyện và nhiều tuyến xã được kết nối bằng cáp quang và các phương thức truyền dẫn băng rộng khác đảm bảo cho việc cung cấp các dịch vụ băng rộng đa dịch vụ xuống đến tất cả các huyện và nhiều xã trong cả nước. Triển khai cáp quang hoá đến nhà thuê bao. Phóng và khai thác hiệu quả vệ tinh thông tin viễn thông đầu tiên (VINASAT) của Việt nam.
Theo mục tiêu Kịch bản “Mức tăng trưởng cao” do Chính phủ có những giải pháp mạnh và tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển của hạ tầng CNTT & TT, đến năm 2010, hạ tầng CNTT & TT Việt nam sẽ đạt được những kết quả cụ thể như sau trong việc triển khai mạng Internet:
Mật độ bình quân thuê bao Internet đạt 9,3 thuê bao/100 dân (trong đó khoảng 35 % là thuê bao băng rộng). Tỷ lệ dân số sử dụng Internet là 27-30 %
Tỷ lệ số người có máy tính cá nhân khoảng 10 đến 15 máy/100 dân
Dịch vụ Internet được cung cấp rộng rãi tới tất cả các trường đại học và phổ thông trong cả nước 100% học sinh phổ thông trung học trở lên sử dụng máy tính thành thạo. Bảng 3.1: Dự báo về số thuê bao Internet cho 2010 (Kịch bản 2)[2]
3.1.2 Mục tiêu phát triển Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Có thể thấy những phân tích về các giải pháp của Chính phủ Việt nam trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT & TT và thúc đẩy việc ứng dụng CNTT vào mọi mặt của đời sống sẽ đưa Việt nam trở thành quốc gia có trình độ khá về CNTT đến năm 2010. Cùng với việc gấp rút hoàn thiện các văn bản pháp quy về TMĐT đến trước 2010 của Việt nam thì đây là điều kiện rất tốt để biến TMĐT thực sự trở thành lĩnh vực tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên kinh tế mạng của thời đại.
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là liệu trình độ kinh doanh của doanh nhân Việt nam liệu có thể đủ để có thể tiến hành các giao dịch trên mạng một các suôn sẻ, thành công vào thời điểm đó hay không. Cho đến nay, trình độ và kinh nghiệm kinh doanh của doanh nhân Việt nam còn rất hạn chế nhất là về marketing (marketing truyền thống chứ chưa nói gì đến Marketing Internet). Marketing là cầu nối giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Trong sự cạnh tranh ngày một khốc liệt của cơ chế thị trường, sự yếu kém về marketing làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đẩy doanh nghiệp đến bờ vực phá sản. Chúng ta có quá nhiều tấm gương về vấn đề này.
Vậy, song song với việc xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT và phổ biến kiến thức chung về lĩnh vực TMĐT, cần thiết phải có những giải pháp tạo ra một lực lượng doanh nhân mới- những chủ thể của hệ thống tạo ra của cải vật chất xã hội mới được đào tạo bài bản về Marketing Internet. Xã hội mạng là thành tựu kỳ diệu của công nghệ kỹ thuật số. Loài người đã phải mất hàng ba trăm năm để chuyển từ nền văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp bằng nhiều cuộc cách mạng. Theo tiến sỹ Alvin Toffler, làn sóng thứ ba mà ông đã từng dự đoán cách đây hơn 20 năm đã xuất hiện, đó chính là xã hội mạng đang hình thành, năm 2000 là năm mở đầu cho thời đại mạng [16, tr.31]. Mặt khác, theo Sayling Wen, rào cản đối với một xã hội, một đất nước vào xã hội mạng là rất thấp, “xã hội không cần tiến hành những thay đổi lớn”, “một đất nước nông nghiệp không nhất thiết phải trải qua xã hội công nghiệp. Bất kể chúng ta đang ở giai đoạn nông nghiệp hay công nghiệp thì mục tiêu cuối cùng của chúng ta là xã hội mạng”[137, tr.31]. Và điều quan trọng đối với chúng ta là một hạ tầng xã hội mạng và một thế hệ doanh nhân mới.
Vậy, mục tiêu đặt ra cho đến năm 2010 phải có đội ngũ doanh nhân được đào tạo một cách bài bản về Marketing Internet và TMĐT. Đồng thời, xây dựng một môi trường thực sự tạo thuận lợi, thúc đẩy dịch chuyển môi trường kinh doanh của doanh nghiệp từ truyền thống sang môi trường Internet, tạo phong trào Marketing Internet và TMĐT bừng nở rộng khắp.
3.2 CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO VIỆC PHÁT TRIỂN MARKETING INTERNET CỦA VIỆT NAM CHO ĐẾN 2010
Trên cơ sở phân tích các tiền đề tiên quyết của một nền kinh tế mới, tham khảo những nét mới nhất về sự phát triển Marketing Internet của Mỹ, phân tích và đánh giá tình hình thực tiễn tại Việt nam dưới quan điểm chỉ đạo của Đảng về ứng dụng và phát triển CNTT Việt nam, tác giả xin nêu ra một số các giải pháp sau:
3.2.1 Các giải pháp vĩ mô Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
3.2.1.1 Phát triển nguồn nhân lực, phổ biến kiến thức tại các trường đại học, các viện, các trung tâm nghiên cứu, …
Trong thời gian tới, chúng ta không thể đứng ngoài xu thế của sự phát triển, nền kinh tế đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. TMĐT đang là một xu thế tất yếu, một phần ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới, tác động mạnh mẽ đến tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Chúng ta không thể có một đội ngũ doanh nhân được đào tạo tại các trường đại học mà không biết gì về Marketing Internet, không thể có những nhà nghiên cứu về kinh tế mà không biết gì về TMĐT.
Hiện nay, môn TMĐT đang dần được giảng dạy tại các trường đại học. Môn TMĐT là môn học đưa lại một cách nhìn chung nhất, toàn diện về TMĐT (như môn Kinh tế học chẳng hạn) nhưng không đi sâu vào các khía cạnh kỹ năng kinh doanh trên mạng, kiến thức về bản chất cốt lõi, mô hình của các giao dịch trên mạng, hành của các bên tham gia,…hay những kiến thức để quyết định lập một chiến lược kinh doanh thành công trên mạng. Sự sụp đổ của các dot-com trên thế giới trong 4 năm về trước mà hậu quả của nó còn ảnh hưởng nhiều công ty đến tận bây giờ, sự thất bại của một số doanh nhân trong nước (làng gốm Bát Tràng,..) là những điều mà chúng ta phải cân nhắc và quyết định ngay từ bây giờ. Chúng ta cũng không thể chờ đến hoạt động TMĐT trở lên phổ biến vào năm 2010 mới tiến hành đào tạo các kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ doanh nhân.
Trong thời gian tới, Marketing Internet sẽ phải được giảng dạy một cách xứng đáng tại các trường đại học, nhất là sinh viên khối kinh tế. Sự biến đổi của kinh tế trong nước và thế giới làm nảy sinh những lý thuyết kinh tế mới và chúng ta sẽ trang bị cho những con người của tương lai những lý thuyết, kỹ năng mới, đồng thời phải cơ cấu hoặc loại bỏ những kiến thức cũ, không còn phù hợp. Điều này đòi hỏi những nỗ lực lớn lao của tập thể giảng viên của các khoa, trường và viện nghiên cứu…
Ngoài ra, áp dụng TMĐT và Marketing Internet tại Việt nam sẽ có nhiều vấn đề nảy sinh rất phong phú, đòi hỏi đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu, sinh viên, doanh nhân phải liên tục cập nhật, trao đổi với nhau, không ngừng hoàn thiện trên phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn tại Việt nam.
3.2.1.2 Phát triển hạ tầng CNTT & TT
Ủng hộ giải pháp thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông: Đẩy nhanh quá trình thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường viễn thông, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mới tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông, tạo động lực huy động các nguồn lực và nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông..
- Đến đầu năm 2005, phân định rõ hoạt động sản xuất kinh doanh với hoạt động mang tính công ích trong lĩnh vực viễn thông.
- Đến hết năm 2005, tách xong hoạt động viễn thông và bưu chính.
- Đến hết năm 2004, ban hành các văn bản quy phạm về cơ chế bán lại dịch vụ, dịch vụ công ích và cơ chế điều tiết, cơ chế cạnh tranh, mở cửa thị trường và kiểm soát độc quyền; cổ phần hoá doanh nghiệp viễn thông; đầu tư nước ngoài trong dịch vụ viễn thông; kết nối mạng giữa các doanh nghiệp; công bố rõ việc phân bổ và quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia như tần số, kho số, tên miền. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
- Có chính sách ưu tiên, hỗ trợ các doanh nghiệp khi mới tham gia thị trường viễn thông như:
- Ưu tiên cấp phép dịch vụ mới (ưu đãi doanh nghiệp mới kinh doanh dịch vụ mới)
- Hạn chế độc quyền của doanh nghiệp được cấp phép tất cả các dịch vụ
- Cho phép mức cước dịch vụ viễn thông và Internet của các doanh nghiệp mới thấp hơn khoảng 10 % so với mức cước của các doanh nghiệp cũ trong thời gian 5 năm.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp mới trong một số dự án hỗ trợ vốn ODA, các tổ chức quốc tế.
- Ủng hộ giải pháp chuyển việc quản lý hạ tầng viễn thông khỏi Tổng công ty bưu chính viễn thông, tạo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tiếp cận hạ tầng viễn thông quốc gia
- Có chính sách bù đắp, khuyến khích phát triển hạ tầng CNTT ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa
- Có cơ chế cho phép các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông được giữ lại một phần thuế thu nhập để tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng viễn thông.
- Có cơ chế huy động vốn nhàn rỗi của nhân dân (khoảng 70.000 tỷ đồng một tháng) đầu tư vào cơ sở hạ tầng viễn thông. Theo ý kiến của tác giả, điều này khó có thể thực hiện được nếu thị trường chứng khoán của chúng ta kém phát triển, có quá ít công ty niêm yết, huy động vốn qua thị trường này. Trong nền kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán là kênh dẫn vốn trung và dài hạn. Nếu có quá ít công ty tham gia, chúng ta phải xem xét lại liệu đã có cơ chế thị trường trong ngành viễn thông hay chưa, nếu chưa có thì việc huy động vốn nói trên khó mà thực hiện được.
- Cho phép giảm mạnh (ví dụ 50 % hoặc hơn nữa) cước hoà mạng hoặc cước thuê bao điện thoại cố định, di động.
Cải tiến cơ cấu tổ chức, lập kế hoạch
Chính phủ cho phép thành lập các sở Bưu chính viễn thông và CNTT ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và thời gian sớm nhất để thực hiện quản lý nhà nước về Bưu chính viễn thông và CNTT tại các địa phương.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn và trung hạn phát triển CNTT & TT. Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực CNTT & TT theo nguyên tắc: “ Những gì pháp luật không cấm thì được làm”
Phát triển và nuôi dưỡng nguồn nhân lực
Có chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao về CNTT & TT từ nước ngoài về Việt nam để giảng dạy, đào tạo. Thu hút và tạo điều kiện thuận lợi để các trường đại học quốc tế giảng dạy CNTT & TT tại Việt nam.
Khuyến khích các trường đại học Việt nam giảng dạy về CNTT & TT bằng tiếng Anh, sử dụng giáo viên nước ngoài trong đào tạo
Khuyến khích các doanh nghiệp, các trường thuê người nước ngoài và làm việc, giảng dạy về CNTT & TT tại Việt nam, tạo thị trường và động lực thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực cho CNTT & TT của Việt nam.
3.2.1.3 Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống pháp lý cho việc áp dụng Internet vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Về vấn đề này, là nước đi sau, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của nhiều nước, nghiên cứu những diễn biến mới của các loại hình tội phạm mới trên thế giới trong lĩnh vực CNTT kết hợp chặt chẽ với việc tổng kết thực tế những tội phạm kinh doanh trên mạng tại Việt nam theo quan điểm phát triển CNTT và xây dựng nền kinh tế thị trường của Đảng và Nhà nước Việt nam.
Chúng ta cần ban hành các văn bản pháp lý về an toàn bảo mật, chống xâm nhập trái phép, ăn cắp thông tin
Cần xây dựng luật bảo hộ bản quyền trên mạng. Không phải mọi thứ trên Internet đều được sử dụng tự do. Bản quyền rất quan trọng khi bất kỳ ai muốn xây dựng và bảo vệ nội dung trên trang web của mình. Người sở hữu bản quyền sẽ có các quyền:
Sao chép sản phẩm của mình tạo ra
Sửa đổi, thêm bớt sản phẩm
Phân phối sản phẩm
Phổ biến sản phẩm công khai
Trưng bày sản phẩm trước công chúng
Bản quyền phát sinh cùng với sự sáng tạo của những sản phẩm cần bảo vệ quyền tác giả ( tiêu biểu là những văn bản có giá trị, hình ảnh, âm nhạc,…). Các sự kiện, tiêu đề, công thức, phương pháp, mô hình thiết kế và một số hạng mục khác không có tính “độc đáo” theo luật định thì sẽ không được bảo hộ bản quyền.
Việc xây dựng luật phải gắn chặt với thực tế hoạt động kinh doanh trên mạng, đảm bảo ngăn chặn và răn đe những hành vi, những hoạt động bất thường phát sinh đe doạ trực tiếp đến sự an toàn, sự vận hành bình thường của các hoạt động kinh doanh trong môi trường kinh doanh trên mạng. Đồng thời, đảm bảo sự bình đẳng, công bằng thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên mạng
3.2.1.4 Khuyến khích, hỗ trợ về kỹ thuật, đào tạo cho vệc áp dụng Marketing Internet, TMĐT vào hoạt động doanh nghiệp
Cần xây dựng những phương án hỗ trợ doanh nghiệp mang tính thực tiễn và hiệu quả. Chẳng hạn như Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận TMĐT trong quá trình hội nhập và phát triển do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam vừa thiết lập. Cần có nhiều những chương trình giống như Chương trình Hỗ trợ doanh nhân tương lai kinh doanh điện tử để thực hiện tốt đề tài Nghiên cứu xây dựng trung tâm hỗ trợ, xúc tiến TMĐT và triển khai, thuộc Đề tài Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước giai đoạn 2001- 2005 “Nghiên cứu một số vấn đề Kỹ thuật, Công nghệ chủ yếu trong Thương mại điện tử và triển khai”. Các chương trình cần chú trọng đến khâu có tính đột phá trong TMĐT, khắc phục ngay từ ban đầu điểm yếu của doanh nhân Việt nam là Marketing Internet
Xây dựng các chương trình, cơ chế hỗ trợ, phối hợp, hợp tác với các Hội doanh nghiệp trẻ các tỉnh thành: Hội doanh nghiệp trẻ của Hà nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,… Hiện nay, những doanh nghiệp thành đạt, năng động, có xu hướng tập hợp lại trong các hội doanh nghiệp các tỉnh thành. Hội doanh nghiệp trẻ các tỉnh thành hiện là nơi để doanh nghiệp giao lưu, học hỏi tri thức mới, đề xuất nguyện vọng, chính sách, và được đào tạo. Chẳng hạn Hội doanh nghiệp trẻ Hà nội (trang web: www.hanoiba.org.vn ) hiện có 255 doanh nghiệp hội viên. Có thể nói đây là nơi tập trung những đối tượng có điều kiện đầy đủ nhất để đưa các chương trình đào tạo, hỗ trợ về Marketing Internet và TMĐT Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Xây dựng các chương trình, cơ chế hỗ trợ phối hợp, hợp tác với các Hiệp hội ngành nghề: Hiệp hội Thủy sản, Hiệp hội nhựa, Hiệp hội da giày,… Những ngành nghề khác nhau có cách tiếp cận khác nhau với Marketing Internet, TMĐT. Nhà nước có thể lập các dự án đào tạo, hỗ trợ Marketing Internet, TMĐT đặc thù cho từng hiệp hội ngành nghề.
3.2.2 Các giải pháp vi mô
Trước những xu thế mới của thương mại trong nước cũng như khu vực và thế giới, doanh nghiệp Việt nam cần chủ động, có tầm nhìn chiến lược, nhanh chóng tìm hiểu tìm ra những biện pháp thích ứng hữu hiệu. Xu thế TMĐT đang ngày một phát triển, lĩnh vực Marketing trên thế giới đang bước vào giai đoạn phát triển cao là Marketing Internet. Sự yếu kém về marketing đã làm suy yếu sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu không có sự đầu tư về Marketing Internet ngay từ bây giờ, doanh nghiệp sẽ đứng ngoài xu thế TMĐT trên thế giới, sự tụt hậu là không thể tránh khỏi. Trong khi đó, hiện nay vẫn có nhiều doanh nghiệp chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức hạn chế và cho rằng chưa đến lúc hoặc chưa cần thiết phải đầu tư, hoặc chỉ khi nào hệ thống thị trường đã hình thành mới tham gia.
Doanh nghiệp cần xây dựng và triển khai một kế chiến lược Marketing Internet dài hạn trải qua 10 bước (xem mục 1.2.1.3 Chương I). Cần chú trọng áp dụng từng bước ở các cấp độ:
3.2.2.1 Phát triển một website về doanh nghiệp Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Một trang web cho khách hàng cơ hội cập nhật thông tin mới bất kể lúc nào họ muốn và cho phép giao tiếp trực tiếp hơn với những người quan tâm đến công ty của bạn.
Trang web của bạn cần phải có:
Tên của doanh nghiêp và logo
Thông tin về doanh nghiệp ( Tầm nhìn, Sứ mệnh, Mục đích, Lịch sử, Liên hệ, Sơ đồ)
Giới thiệu các chương trình, dịch vụ và sự kiện mới Thông tin về chất lượng quản lý và sự tin tưởng
Các danh mục thông tin và sản phẩm với nội dung ngắn mô tả và cung cấp thông tin để mua hàng
Thông tin về thành viên
Thông tin về các đối tác và cộng tác Bookmark và các đường dẫn
Hồ sơ và các quảng cáo cơ hội việc làm đặc biệt
“Nút” trả lời thư và thông tin phản hồi cho người truy cập web
Website phải dễ hiểu và thông suốt. Khách truy cập sẽ nhớ hay “bookmark” trang web của doanh nghiệp nếu bạn đưa ra những gì không chỉ là sự giới thiệu về doanh nghiệp của bạn. Những trang web hấp dẫn là ở đó người truy cập có thể có được cái gì đó từ trang web của bạn ngay lập tức, chẳng hạn đownload các bài viết, số liệu thống kê, nhận e-mail bản tin, tham gia các sự kiện trực tuyến,…
Cần chú ý các phương pháp sau để hấp dẫn truy cập website:
- Cân nhắc về nội dung và định hướng trang web trên quan điểm các nhóm mục tiêu và những người bạn muốn lôi cuốn truy cập. Nêu ra trước hết những thông tin hấp dẫn nhất với họ.
- Chọn tên miền có mặt tên của tổ chức và dễ nhớ (có thể dễ kiểm tra, ví dụ: neston.com )
- Thường xuyên cập nhật thông tin để nếu khách hàng quay lại sẽ tìm kiếm được thông tin mới.
- Cân nhắc đưa lên những thông tin đặc biệt trên web mà chỉ có trên web.
- Gửi các e-mail bản tin đến các đối tác và những người truy cập quan tâm lôi cuốn họ trở lại.
- Trong tất cả các thông điệp, thông tin phát hành hay sự kiện đều giới thiệu và đưa đường dẫn đến website
3.2.2.2 Xây dựng và chủ động quản lý một cơ sở dữ liệu về khách hàng. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Một cơ sở dữ liệu phong phú về khách hàng sẽ mang lại cho công ty một ưu thế cạnh tranh rõ rệt. Công ty có thể tìm kiếm và xếp hạng các nhóm cũng như các cá nhân khách hàng khác nhau về xác suất họ sẽ đáp ứng lại việc chào bán một sản phẩm hay dịch vụ nào đó, đặc biệt là những thứ được tạo riêng cho từng nhóm đối tượng. Một cơ sở dữ liệu cho phép việc phân khúc thị trường trở nên hết sức hữu hiệu.
3.2.2.3 Xây dựng một quan điểm rõ ràng về việc khai thác mạng Internet.
Lựa chọn các ứng dụng marketing Internet sao cho phù hợp với mặt hàng, với thị trường, địa bàn. Công ty cần kiểm tra mức độ sử dụng Internet hiện tại của mình và dự đoán các ứng dụng cần có thêm trong vài năm tới, trong hai năm, ba năm hay là không bao giờ. Các ứng dụng có thể: nghiên cứu, cung cấp thông tin, tổ chức các diễn đàn hội thảo, huấn luyện, mua bán trực tuyến, tổ chức trao đổi và đấu giá trực tuyến và giao hàng số hoá.
Xây dựng hệ thống thông tin, xúc tiến hữu hiệu cho thương hiệu của doanh nghiệp trong kỷ nguyên Internet. Có rất nhiều các phương thức quảng cáo: Thư điện tử (e-mail); các nhóm tin (Newsgroup); các bản tin (News letters); quảng bá website; các cơ chế tìm kiếm (nên đăng ký và duy trì hệ thống tìm kiếm toàn cầu miễn phí tại các địa chỉ yahoo.com; www.altavista.com và www.inforsee.com); các cuộc thi; quảng cáo trên các phương tiện truyền thông,
Đặt các mảng quảng cáo của công ty tại các địa chỉ liên quan đến mạng. Công ty cần xem xét xem loại trang web nào mà các khách hàng đối tượng của công ty sẽ có thể viếng thăm để đăng quảng cáo tại đó. Chẳng hạn đối tượng khách hàng là sinh viên học sinh thì nên quảng cáo tại trang web của báo Hoa Học Trò, Sinh viên,… Đồng thời, phối hợp các kênh truyền thông khác để thông báo đến khách hàng về sự xuất hiện của trang web, các lợi ích lôi cuốn khách hàng.
Dễ liên lạc và nhanh chóng đáp ứng khi khách hàng gọi. Các khách hàng ngày nay càng đòi hỏi hơn về mức độ các công ty nhanh chóng trả lời thắc mắc và khiếu nại qua điện thoại và thư điện tử. Tạo sự lựa chọn thư điện tử trên trang web cho khách hàng có thể bị phản tác dụng nếu công ty chưa sẵn sàng đáp ứng được khách hàng một cách hữu hiệu nhất. Ta có thể tạo một mức độ thấp hơn là thư góp ý của khách hàng.
Đẩy mạnh dịch vụ khách hàng. Dịch vụ khách hàng tốt đảm bảo có sự liên lạc tới một người cụ thể, có trách nhiệm giải quyết vấn đề và trả lời nhanh chóng và đầy đủ các yêu cầu khi nhận được, và theo dõi khách hàng sau khi họ đã mua hàng. Thường xuyên thăm hỏi, gửi bưu thiếp chúc mừng khách hàng trong những ngày lễ tết, bày tỏ sự quan tâm chia sẻ, giữ gìn mối quan hệ lâu dài với khách hàng của mình.
3.2.2.4 Đầu tư cho nhân lực Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Hiện nay, mô hình kinh doanh đang thay đổi và hầu hết những thế hệ đã được đào tạo gần đây nhất đều chưa được trang bị, thực hành những kiến thức về Marketing Internet và TMĐT. Đây là một khó khăn lớn của các doanh nghiệp khi muốn có một nguồn nhân lực có chất lượng, được đào tạo một cách bài bản từ trường đại học. Doanh nghiệp cần có chiến lược nhân lực lâu dài nhấn mạnh tới kiến thức Marketing Internet và TMĐT.
Doanh nghiệp có thể tiến hành đầu tư cho nguồn nhân lực với hai mức độ. Mức độ thứ nhất là những kiến thức cơ sở, căn bản về hoạt động Marketing Internet, thương mại điện tử. Việc này cần thực hiện như việc “xoá mù CNTT, TMĐT ” cho toàn bộ nhân viên trong doanh nghiệp
Mức độ thứ hai: những kiến thức chuyên sâu về Marketing Internet, TMĐT như nghiên cứu thị trường trên mạng, phân khúc thị trường, lập kế hoạch kinh doanh, thực hiện các chính sách marketing trên mạng,… Đối tượng: là lãnh đạo, quản trị viên cấp cao, hoạch định chiến lược và nhân viên phòng marketing.
Họ phải hiểu được rằng trong thời đại tốc độ cao, mọi người phải liên tục học tập. Mục đích là học tri thức mới và nắm lấy những bí quyết kỹ thuật mới. Học tập phải trở thành một phần trong đời sống của họ. Hệ thống giáo dục quen thuộc là 16 năm học ở trường, 40 năm làm việc và về hưu ở độ tuổi 60. Trong bối cảnh mới, nền kinh tế mới mà nhân loại đang hướng tới thì điều đó sẽ phải thay đổi.
Về phương diện kỹ thuật CNTT, nguồn nhân lực quản trị mạng trong doanh nghiệp là điều không thể không tính tới. Đây là những người đảm bảo hệ thống thông tin, các chương trình ứng dụng hoạt động tin cậy, đảm bảo khả năng bảo mật của hệ thống, tiếp thu và áp dụng những phần mềm mới ưu việt hơn.
3.2.2.5 Đầu tư cơ sở vật chất
Đầu tư cho CNTT theo một chiến lược đầu tư đúng đắn, khôn ngoan. Căn cứ vào cấu trúc vận hành của dòng thông tin trong doanh nghiệp hiện tại cũng như tương tác với thị trường có tính đến chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, doanh nghiệp nên xây dựng một hệ thống tin học quản trị phù hợp với mục đích đầu tư. Đây là điều quan trọng nhất. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Một hệ thống tin học quản trị thường gồm 4 mục tiêu chính:
- Trao đổi thông tin nội bộ và với bên ngoài: gồm các hệ thống trao đổi tài liệu nội bộ như Outlook, Lotus Notes dựa trên kiến trúc LAN, WAN,… và hệ thống trao đổi thông tin với bên ngoài qua email, Intrannet,..
- Quản trị doanh nghiệp: đây là phần phức tạp và khó lập kế hoạch nhất vì phạm vi rất rộng, tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển sản phẩm, thị trường của doanh nghiệp trong mối quan hệ chặt chẽ với nhiều công việc đặc thù, có thể chỉ là một phần mềm cơ sở dữ liệu khách hàng hay kế toán, nhưng cũng có thể là một hệ thống tích hợp bao gồm quản lý bán hàng, quản lý mua hàng, quản lý thông tin website, quản lý kho, kế toán,… Tất cả được tập trung hoá vào một cơ sở dữ liệu và được quản trị chặt chẽ. Điều này đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và chuyên nghiệp của chuyên gia tư vấn.
- Lưu trữ dữ liệu: bao gồm các file văn bản, cơ sở dữ liệu,…
- Tin học văn phòng: đánh máy và in văn bản, bảng tính,..
Bước tiếp theo là cân đối chi phí đầu tư cho phần cứng, phần mềm và dịch vụ. Cần lưu ý là tại Việt nam, toàn bộ thiết bị phần cứng trở nên lạc hậu và cần nâng cấp, thay thế sau 2- 3 năm. Các hệ thống phần mềm cũng trong trạng thái tương tự, thường cần nâng cấp sau khoảng 2 năm hoạt động. Giá thiết bị tin học giảm nhanh là cho việc “mua đón trước nhu cầu” trở lên lãng phí và không cần thiết. Nguyên tắc trang bị phần cứng hiện nay là “ cần tới đâu, mua tới đó”
Sau khi đã quyết định được mục tiêu của hệ thống cùng với xem xét điều kiện thị trường, doanh nghiệp mới nên quyết định về số lượng và cấu hình của các thiết bị phần cứng máy cũng như kiến trúc mạng kết nối. Tiếp đó doanh nghiệp không nên bỏ qua các khoản chi phí về dịch vụ gồm các khoản chi phí cho việc triển khai phần mềm (nếu sử dụng phần mềm của nước ngoài, chi phí có thể lên tới 100-120% chi phí mua phần mềm), chi phí bảo dưỡng và trợ giúp kỹ thuật hàng năm (cho toàn bộ hệ thống cả phần cứng lẫn phần mềm), chi phí cho nhân viên gồm chi phí thuê chuyên viên IT, chi phí đào tạo nhân viên hiện thời. Tổng cộng chi phí về dịch vụ không thua kém gì chi phí thiết bị phần cứng hoặc chi phí mua phần mềm.
Bước còn lại là triển khai kế hoạch đầu tư. Kế hoạch triển khai được lập chi tiết sau khi kế hoạch đầu tư được duyệt. Một vấn đề cần xử lý thường gặp là những chậm trễ do người dùng không tích cực thay đổi cách làm thủ công sang làm việc trên hệ thống và các doanh nghiệp thiếu kinh nghiệm trong triển khai các hệ thống tin học quản trị.
Tránh những sai lầm mắc phải trong khi triển khai. Đó là khoán trắng cho bên cung cấp phần mềm, hoặc chỉ cử nhân viên bộ phận tin học là việc với nhà cung câp, trong khi việc này đúng ra phải giao chi các quản trị viên cao cấp, am hiểu về hệ thống hoạt động cũng như mục tiêu, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Một sai lầm khác là doanh nghiệp lái phần mềm theo cách quản lý hiện thời của mình mà không nhận thấy đây là cơ hội tốt để cải tiến cách quản lý theo các mô hình được xây dựng trong phần mềm. Kết quả là hệ thống phần mềm chỉ đơn giản là “máy tính hoá” cách quản lý thủ công của doanh nghiệp.
3.2.2.6 Tận dụng các hỗ trợ của Chính phủ, hợp tác với các đối tác quốc tế Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận TMĐT trong quá trình hội nhập và phát triển được xây dựng và hoàn thiện trong hai năm 2004 và 2005 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam , Hiệp hội và Doanh nghiệp kết hợp tổ chức. Doanh nghiệp có thể tiết kiệm được nhân lực, vật lực mà vẫn có điều kiện tham gia trưng bày, giới thiệu sản phẩm giao thương với bên ngoài bằng giao dịch trực tuyến qua sàn giao dịch điện tử B2B: www.vnemart.com.vn .
Tham gia Chợ điện tử (E- market) của VNet để doanh nghiệp tiếp cận một phương thức kinh doanh mới, hiện đại đang được phổ biến toàn thế giới, tận dụng những lợi ích kinh doanh tiềm tàng và rất thiết thực trên VNet:không cần đầu tư hạ tầng CNTT (máy chủ, phần mềm, đường truyền, nhân lực CNTT,…); được thừa hưởng sẵn hệ thống hạ tầng CNTT tiên tiến hiện đại, luôn phát triển với những công nghệ mới nhất của thế giới, được duy trì hoạt động với tính ổn định cao bởi các chuyên gia CNTT của VNet, doanh nghiệp thực hiện được đầy đủ các thao tác nghiệp vụ thương mại, giới thiệu và bán được sản phẩm, dịch vụ,… Thông qua VNet E- Market, doanh nghiệp có thể quảng cáo tiếp thị và bán hàng trên toàn quốc, toàn cầu với mức chi phí rất thấp không cần chi phí chi nhánh với mặt bằng, nhân viên… Doanh nghiệp còn được cung cấp thông tin kinh tế thương mại đa phương đã được tổng hợp, phân loại.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn có lợi ích to lớn khó có thể hình dung từ chương trình này là vị thế có được của doanh nghiệp tại một sàn giao dịch cấp quốc gia. Sàn giao dịch đó là đầu mối cực kỳ quan trọng của Việt nam giao thương với thế giới bằng phương thức TMĐT.
Tuỳ thuộc vào lĩnh vực, ngành nghề, thị trường, doanh nghiệp có thể tham dự sàn giao dịch điện tử cho các nước thuộc tiểu vùng sông Mê Kông sẽ được xây dựng trong tương lai. Qua đó có thể thu thập được nhiều thông tin thị trường với chi phí không đáng kể, tiếp thị sản phẩm, mở rộng thị trường,..
3.2.2.7 Chú trọng đến vấn đề đảm bảo an ninh mạng, an toàn cho cơ sở dữ liệu:
Ngay từ đầu có giải pháp đảm bảo an ninh mạng. Hiện nay Việt nam chưa có luật gì quy định về vấn đề này và còn đang chú tâm vào các vấn đề kỹ thuật và chưa có trường hợp nghiêm trọng nào xảy ra. Nhưng chúng ta không thể chủ quan “mất bò mới lo làm chuồng”. Cần nêu cao cảnh giác ngay từ đầu với các phần mềm gián điệp. Phần mềm này là những chương trình ăn cắp dữ liệu, chúng tự động cài đặt vào hệ thống mà người sử dụng không hề hay biết.
Hoặc hiện nay chúng ta rất dễ dàng bị lấy cắp thông tin qua email. Tất cả các nhà cung cấp dịch vụ e-mail lớn của Việt nam hiện nay như VNN, FPT đều cho phép chúng ta đăng nhập vào tài khoản với mật khẩu không được mã hoá. Không khó cho một người nào đó, trong hoặc ngoài nhà cung cấp dùng một phần mềm rất phổ biến trên Internet xem hết tên truy cập và mật khẩu được truyền đi trên mạng. Khi đối thủ của chúng ta dùng nó, lấy cắp thông tin về các dự án lớn, các hồ sơ thầu, các thông tin mật,… của chúng ta thì hậu quả không thể lường hết.
3.2.2.8 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả Marketing Internet Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Các chiến lược Marketing Internet cần phải đo lường và đánh giá kết quả hoạt động. Có thể sử dụng hệ thống chỉ tiêu sau:
Cần tích cực tìm kiếm các phương pháp đo lường và phân tích mới để từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu sau này.
3.2.2.9 Marketing Internet và chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam
Đối với Việt nam hiện nay, cần tập trung phát triển Marketing Internet cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Điều này rất phù hợp về điều kiện xúc tiến giao dịch cũng như trình độ kinh doanh, ngoại ngữ và vật chất của các doanh nghiệp. Việc xây dựng chiến lược Marketing Internet cũng có những nét đặc thù riêng.
Về hình thức, chiến lược Marketing Internet cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam không khác với chiến lược Marketing Internet thông thường. Tuy nhiên, với trình độ và môi trường kinh doanh hiện nay, cần chú trọng đến các vấn đề sau:
Đặc trưng của môi trường kinh doanh trực tuyến khác về cạnh tranh, thiết kế sản phẩm, dịch vụ, quảng cáo, mua bán và vai trò giá trị gia tăng của thông tin đối với mọi quá trình và khâu kinh doanh trên mạng
Nghiên cứu thị trường đúng đắn, hợp lý, chi tiết. Nghiên cứu thị trường trực tuyến ngày càng trở nên dễ dàng hơn, cho phép tìm kiếm dễ hơn các đầu mối kinh doanh, các cơ hội xuất nhập khẩu, các điều kiện địa lý dân cư, chính trị và các thông tin khác.(xem Phụ lục)
Phân tích kết quả nghiên cứu thị trường. Việc phân tích chi tiết và khách quan cho phép khẳng định loại sản phẩm dịch vụ nào có khả năng thành công. Đồng thời xem xét mức độ sẵn sàng về sản phẩm dịch vụ thích hợp cho TMĐT, cho thị trường nghiên cứu.
Chi phí dịch vụ sau bán hàng
Cần thiết kế chi tiết chiến lược giá cho toàn bộ đối tượng khách hàng: các khách hàng mua trực tiếp, chính sách hoa hồng nhà phân phối trung gian, giá bán qua mạng,.. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Phân phối: lựa chọn các kênh phân phối phù hợp. Một trang web tốt cho phép một doanh nghiệp nhỏ có khả năng kiểm soát tốt các công việc tài chính, marketing, tăng trưởng,… do đó để tận dụng mọi khả năng của web để đạt hiệu quả cao nên tạo các đại lý TMĐT, uỷ thác một doanh nghiệp quản lý TMĐT tiến hành rao bán các sản phẩm, ký kết các hợp đồng liên doanh, đại lý, đại diện,… Qua đó, nhà xuất khẩu có thể tận dụng kinh nghiệm và các mối quan hệ mà đối tác mang đến cho họ.
Xúc tiến và bán hàng: căn cứ vào hành vi, nhu cầu khách hàng để đưa nội dung thích hợp lên trang web. Về quảng cáo cần chú ý đến các yếu tố đã trở thành tiêu chuẩn quốc tế về nhãn hiệu, thương hiệu, đóng gói, ngôn ngữ sử dụng, các yếu tố văn hoá riêng. Về quan hệ cộng đồng, nên tạo các bản tin, viết bài cho các báo, các phương tiện truyền thông, tổ chức họp báo, hội nghị khách hàng, thảo luận trên mạng.. Cần có chương trình phù hợp, lôgic được bổ xung và thay đổi định kỳ.
Về bán hàng, cần xác định trước cách thức xử lý đặt hàng: đặt hàng tiến hành qua điện thoại, fax, qua thư, qua Internet. Thanh toán tiến hành như thế nào (qua điện thoại, fax, Internet,..). Đồng thời, phải kiểm tra độ tin cậy của khách hàng trước khi chính thức mua bán. Nói chung, không nên duy trì các quan hệ làm ăn với các doanh nghiệp tên tuổi chưa được biết đến, nhất là trong trường hợp ta không thể kiểm tra được. Nếu cần, có thể bán hàng thanh toán bằng thẻ tín dụng thông qua trung gian có uy tín.
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đơn vị cơ bản của nền kinh tế, thích nghi với bối cảnh mới là điều có tính chiến lược với bất kỳ quốc gia nào.
Trong thời đại kinh tế mới, tri thức đang chứng tỏ là yếu tố quyết định sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự yếu kém về kiến thức marketing của doanh nghiệp Việt nam đã làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả thời gian dài. Trong bối cảnh xu thế TMĐT đang ngày một mạnh mẽ, là không thể đảo ngược được thì Chính phủ cần có những giải pháp toàn diện nâng cao năng lực Marketing Internet cho doanh nghiệp Việt nam. Điều này sẽ là quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp Việt nam trong cuộc cạnh tranh rất quyết liệt trong môi trường hoàn toàn mới mẻ.
Bản thân các doanh nghiệp cần phải chiến thắng sức ỳ của chính mình, chủ động vận dụng những thành tựu CNTT, khám phá những khả năng diệu kỳ của Internet trong thương mại, từng bước vận dụng Marketing Internet để tham gia TMĐT thành công. Ngay từ bây giờ, doanh nghiệp cần có chiến lược đầu tư vào nhân lực Marketing Internet, TMĐT và cơ sở vật chất CNTT trước khi đã quá muộn.
KẾT LUẬN
Trong thời đại mới của nhân loại, mối liên kết giữa hoạt động của doanh nghiệp và việc sử dụng CNTT ngày càng trở nên quan trọng. Nhiều doanh nghiệp hàng đầu đã ứng dụng CNTT trong kinh doanh và đạt được những thành quả đáng kể. Những doanh nghiệp này đã đưa CNTT vào trong chiến lược kinh doanh lâu dài của họ. Đó là các chiến lược kinh doanh theo các nguyên lý mới dựa trên các khả năng to lớn của các công cụ thông tin mới mà tiêu biểu là Chiến lược Marketing Internet dựa trên các nguyên lý mới của Marketing Internet toàn cầu. Qua đó họ tối đa hoá lợi ích của CNTT trong các hoạt động kinh doanh của mình. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Nhân loại đang bước vào một kỷ nguyên mới của nền kinh tế tri thức trong đó TMĐT là đặc trưng nổi bật. Đối với các nước đang phát triển, đây là cơ hội tuyệt vời nếu biết tận dụng để thúc đẩy kinh tế, thương mại phát triển, rút ngắn khoảng cách. Với mạng Internet, cơ hội thương mại sẽ là bình đẳng hơn đối với tất cả các doanh nghiệp tiếp cận thị trường toàn cầu, không kể doanh nghiệp đó là ở nước phát triển hay đang phát triển. Đối với các quốc gia đang phát triển, việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho một xã hội mạng trong thời gian ngắn là điều hoàn toàn có thể so với việc xây dựng cơ sở hạ tầng của một xã hội công nghiệp.
Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, có cơ sở hạ tầng của một xã hội mạng là chưa đủ để giúp kinh doanh thành công trên mạng, bởi lẽ đó là một môi trường hoàn toàn khác hẳn với những đặc trưng và những quy luật đặc thù về thị trường, về khách hàng, về cạnh tranh,…Những nước phát triển hàng đầu thế giới như Mỹ, các nước thuộc EU,. đang tích cực phát triển, áp dụng các lý thuyết kinh doanh, lý thuyết marketing mới, các công cụ phần mềm marketing hết sức hữu hiệu tham gia vào TMĐT toàn cầu. Vậy các nước đang phát triển nếu chỉ cố gắng dồn nguồn lực xây dựng cơ sở xã hội mạng mà không chú trọng gì đến việc tạo ra một đội ngũ doanh nhân, nhà nghiên cứu hiểu biết và vận hành hệ thống tạo ra của cải vật chất mới đó thì cũng khó lòng giúp các quốc gia đạt được mục tiêu của mình.
Marketing Internet giai doạn mới của lịch sử phát triển của marketing, thực sự là chìa khoá vàng của kỷ nguyên TMĐT để doanh nghiệp tiếp cận thị trường số hoá trên phạm vi toàn cầu. Thông qua Marketing Internet, doanh nghiệp hoàn toàn có thể phát huy tối đa lợi thế so sánh, tiếp cận khách hàng tiềm ẩn khắp thế giới với tốc độ vượt trội so với các phương thức thông thường. Marketing Internet thực sự đang được nghiên cứu và vận dụng ngày một mạnh mẽ trên thế giới.
Nghiên cứu, xây dựng và phát triển chiến lược, kế hoạch và triển khai tiếp thị và bán hàng là hoạt động quan trọng nhất của bất kỳ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Điều này càng mang tính khẩn trương hơn khi nền kinh tế đang chuyển đổi Việt nam đang trong tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày một mạnh mẽ trong bối cảnh xu thế TMĐT đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên thế giới.
Tuy nhiên, Việt nam là một nước đang phát triển xuất phát điểm rất thấp, cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, trình độ kinh doanh của doanh nhân, của đội ngũ nghiên cứu về kinh doanh còn nhiều hạn chế. Chính phủ Việt nam phải có vai trò quyết định trong việc áp dụng các chiến lược phát triển kinh tế xã hội toàn diện, đồng thời coi trọng các giải pháp chống tụt hậu, đón đầu bằng các chương trình phát triển, đưa ra các chính sách thích hợp để giúp cho nền kinh tế tiếp cận được nền kinh tế mới của nhân loại, giúp doanh nghiệp tiếp cận được phương thức kinh doanh mới. Đặc biệt cần chú trọng đưa vào xã hội kiến thức về Marketing Internet. Đây là việc cần làm ngay nếu chúng ta không muốn chậm trễ, tụt hậu hơn nữa so với sự phát triển của thương mại thế giới.
Qua Luận văn này, tác giả mong muốn góp phần vào việc nâng cao nhận thức về lĩnh vực kinh tế rất mới mẻ, kiến nghị các giải pháp đưa Marketing Internet đi vào cuộc sống. Đây thực sự là giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, của toàn bộ nền kinh tế trong thời đại kinh tế tri thức. Chúng ta không thể tiếp cận được nền kinh tế tri thức nếu còn hạn chế về tri thức kinh doanh.
Tuy nhiên Luận văn còn một số điểm hạn chế, đó là chưa đi sâu vào phân tích những khía cạnh của quá trình Marketing Internet cả về lý thuyết lẫn thực tế, mới chỉ dừng lại ở mức độ đề cập đến khái niệm chung. Chẳng hạn về vấn đề chiến lược giá cả trong Marketing Internet là một đề tài rất rộng không những trên phương diện lý thuyết lẫn cả trên thực tiễn của các cuộc chiến tranh giá cả qua mạng, đấu giá trực tuyến,… đã và đang diễn ra hết sức sôi động hiện nay. Ngoài ra, hệ thống lý thuyết về Marketing Internet đang được nghiên cứu, chắc chắn sẽ có nhiều kết quả mới chính xác hơn. Trong tương lai không xa, mong rằng những kinh nghiệm và kiến thức về lĩnh vực Marketing Internet không ngừng được nghiên cứu, ứng dụng để nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam, của nền kinh tế Việt nam. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: