Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam  hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Hoạt động marketing điện tử trên thế giới và giải pháp phát triển marketing điện tử Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

3.1. Định hướng phát triển TMĐT và Marketing điện tử đến năm 2010

Với sự bùng nổ của Internet và các ứng dụng của TMĐT trên thế giới, phát triển TMĐT và Marketing điện tử đã trở thành một nhiệm vụ tất yếu đối với Việt Nam nếu không muốn bị tụt hậu xa hơn nữa so với các nước phát triển đi trước. Nhận thức được điều này, Chính phủ Việt Nam đã và đang có những bước đi và hành động đúng đắn nhằm triển khai thương mại điện tử nói chung và marketing điện tử nói riêng. Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan đến TMĐT (như Bộ Thương mại, Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Khoa học Công nghệ và thông tin,…)thực hiện một số chương trình nghiên cứu hoàn thiện chính sách về TMĐT và đều khẳng định quan điểm ủng hộ của Đảng, Nhà nước và Chính phủ đối với TMĐT và coi đây như là một điều kiện cần thiết để nền kinh tế Việt Nam có thể đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, đạt mục tiêu đề ra từ nay đến năm 2020. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

TMĐT và Marketing điện tử chỉ có thể phát triển khi và chỉ khi các yếu tố nền tảng cần thiết như hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng pháp lý, hệ thống thanh toán, nguồn nhân lực…phát triển. Để thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này, năm 2006, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên quan nhằm tạo dựng cơ sở hạ tầng pháp lý như Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại sửa đổi, Nghị định về Thương mại điện tử, điều này đã đánh dấu bước tiến lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để các doanh nghiệp yên tâm tiến hành giao dịch TMĐT, khuyến khích TMĐT phát triển, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để xét xử khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động TMĐT. Một loạt các văn bản pháp lý khác như Nghị định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số…cũng đang được xây dựng.

Chính phủ cũng đã xây dựng “Kế hoạch phát triển tổng thể TMĐT giai đoạn 2006-2010” theo đó mục tiêu đặt ra là đến năm 2010 là:

  • Khoảng 60% doanh nghiệp có quy mô lớn tiến hành giao dịch TMĐT loại hình “doanh nghiệp với doanh nghiệp”
  • Khoảng 80% doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ biết tới tiện ích của TMĐT và tiến hành giao dịch TMĐT loại hình “Doanh nghiệp với người tiêu dùng” hoặc

“Doanh nghiệp với doanh nghiệp”

  • Khoảng 10% hộ gia đình tiến hành giao dịch TMĐT loại hình “Doanh nghiệp với người tiêu dùng” hoặc “người tiêu dùng với người tiêu dùng”
  • Các chào thầu mua sắm Chính phủ được công bố trên Trang tin điện tử của các cơ quan Chính phủ và ứng dụng giao dịch TMĐT trong mua sắm Chính phủ. [7, tr 2] Kế hoạch tổng thể cũng đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan Chính phủ về việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ TMĐT và thực hiện giao dịch điện tử trong mua sắm như “Đến năm 2010, các cơ quan chính phủ phải đưa hết các dịch vụ công lên mạng, trong đó ưu tiên các dịch vụ: thuế điện tử, hải quan điện tử, các thủ tục xuất nhập khẩu điện tử, thủ tục liên quan đến đầu tư và đăng ký kinh doanh điện tử, các loại giấy phép thương mại chuyên ngành, thủ tục giải quyết tranh chấp”[7, tr 3]

Hiện nay hệ thống phát triển TMĐT đã được Bộ Thương mại thiết lập với việc xây dựng 3 sàn giao dịch TMĐT tại Hà Nội, Biên Hòa (Đồng Nai) và Đà Nẵng với nhiều công cụ phục vụ giao dịch, hoặch định kế hoặch kinh doanh dài hạn, giải pháp thanh toán, bảo mật chứng thực và chữ ký số. Các sàn điện tử này được kết nối với các sàn đấu giá quốc tế và xây dựng cơ sở dữ liệu nhằm tăng cường thông tin về kinh doanh. Bộ Thương mại cũng đã mở Cổng TMĐT Quốc gia nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều hoạt động TMĐT liên quan tới chính sách ưu đãi từ năm 2005 đến hết năm 2007 cho những doanh nghiệp tham gia trong giai đoạn này. Tính đến năm 2006 đã có hơn 800 doanh nghiệp tham gia TMĐT qua cổng này. Trong thời gian tới, Ban quản lý cổng TMĐT Quốc gia sẽ tiếp tục triển khai chương trình hỗ trợ tập huấn TMĐT tại doanh nghiệp nhằm hướng dẫn doanh nghiệp sử dụng các tiện ích, chụp hình và đăng tải sản phẩm đồng thời cung cấp các thông tin liên quan tới tình hình TMĐT tại Việt Nam và thế giới. Mặt khác, các cơ quan chức năng của nhà nước cũng đang đẩy mạnh tiến trình xây dựng Chính phủ điện tử. Vào tháng 6/2006, Ngân hàng Thế giới đã ký kết khoản tín dụng ưu đãi trên 87 triệu USD dành cho dự án phát triển Công nghệ thông tin, một phần quan trọng của chiến lược xây dựng chính phủ điện tử và là một tác nhân, là nền tảng quan trọng để thúc đẩy TMĐT nói chung và hoạt động Marketing điện tử nói riêng.

Với cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin như hiện nay của Việt Nam, yêu cầu phải ngay lập tức phát triển marketing điện tử ở tất cả các lĩnh vực dường như là không khả thi. Chính vì vậy, nhà nước đã đặt ra những ưu tiên thích hợp đối với việc ứng dụng marketing điện tử ở một số lĩnh vực trọng điểm như:

Lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng: Đây là một lĩnh vực đang rất phát triển tại Việt Nam hiện nay. Phần lớn các ngân hàng, các tổ chức tài chính đã có website và đang đầu tư mạnh để nâng cao cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của mình nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng là lĩnh vực đang phát triển rất năng động, đi đầu trong hoạt động thanh toán điện tử và có lợi thế trong việc ứng dụng Marketing điện tử. Với nền tảng công nghệ sẵn có, các tổ chức tài chính, ngân hàng này có thể ứng dụng Marketing điện tử để nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu của khách hàng, quảng bá các loại hình dịch vụ, sản phẩm, thực hiện các hoạt động kinh doanh, giao dịch, thanh toán qua mạng. Bên cạnh đó, chính phủ cũng đã ban hành nghị định số 27/2007/ NĐ – CP quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính và nghị định số 26/2007/ NĐ – CP quy định chi tiết về việc thi hành luật giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, tạo dựng nền tảng pháp lý đẻ thúc đẩy hoạt động giao dịch điện tử phát triển. [3], [4] Trong thời gian tới, hoạt động giao dịch điện tử trong lĩnh vực tài chính ngân hàng chắc chắn sẽ được áp dụng phổ biến và hứa hẹn sẽ đem lại nhiều lợi ích cho các tổ chức tài chính ngân hàng. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Lĩnh vực du lịch: Du lịch đang được coi là lĩnh vực kinh tế trọng điểm của quốc gia hiện nay. Với việc hội nhập hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, kinh tế đạt mức tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục thì hình ảnh về một đất nước Việt Nam hòa bình, ổn định và mến khách đã ngày càng được nhiều du khách biết đến. Theo thống kê của Tổng cục du lịch Việt Nam thì tính đến hết tháng 3/2007, lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 1.111.353 lượt khách, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2006. [9] Có được kết quả này một phần do chính sách hỗ trợ thúc đẩy của nhà nước, một phần là do nhiều doanh nghiệp du lịch Việt Nam đã tăng cường áp dụng Marketing điện tử nhằm tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch…Xúc tiến quảng bá là tiền đề quan trọng cho phát triển du lịch, cần được tiến hành một cách khoa học, chuyên nghiệp, sâu rộng và thường xuyên. Muốn tăng cường thu hút khách du lịch, với số lượng nhiều, thời gian lưu trú lâu và mức chi tiêu cao thì một mặt phải nghiên cứu thị trường tỷ mỉ, hệ thống, làm cơ sở xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao, đa dạng, giá cả phù hợp. Mặt khác, vấn đề quan trọng là phải tuyên truyền quảng bá ở tầm vĩ mô và quảng cáo sâu rộng ở trong và ngoài nước. Thông qua Internet, qua website, qua các hình thức Marketing điện tử khác…các công ty du lịch đã góp phần đáng kể vào tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu và thu hút khách du lịch đến với Việt Nam. Marketing điện tử đang đóng một vai trò quan trọng đem lại cho các công ty du lịch một phương thức kinh doanh hiệu quả không chỉ trong nước mà trên toàn thế giới.

Lĩnh vực xúc tiến hỗ trợ đầu tư, xuất nhập khẩu: Năm 2006 được coi là năm thành công của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư, với tổng số vốn đầu tư đạt hơn 10 tỷ đô la. Xuất khẩu của Việt Nam trong các năm qua thường tăng từ 14% đến 16%. Việt Nam đã trở thành hình mẫu mới của thế giới đang phát triển. Có được thành công này phải kể đến những chính sách đổi mới kịp thời của Đảng và Chính phủ, cùng với đó là các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ đầu tư của các Bộ ngành có liên quan và nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp trong việc giới thiệu, quảng bá sản phẩm, dịch vụ sang các thị trường mới, đa dạng hóa các hình thức kinh doanh nhằm phù hợp với điều kiện của nền kinh tế tri thức. Trong bản “Kế hoạch tổng thể Phát triển TMĐT giai đoạn 2006-2010” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chính phủ đã quyết tâm đưa tất cả các dịch vụ công “lên mạng”. Hiện nay với “Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia”, nhà nước và chính phủ đã đề ra mục tiêu tăng cường xúc tiến thương mại, phát triển thị trường xuất khẩu trên cơ sở ứng dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật như phát triển hạ tầng mạng, xây dựng các website giới thiệu quảng bá các doanh nghiệp, sản phẩm, xây dựng các kênh hỗ trợ trực tuyến nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing

3.2. Những giải pháp chủ yếu cho hoạt động Marketing điện tử tại Việt Nam

Trong kỷ nguyên của nền kinh tế trí thức như hiện nay thì việc ứng dụng TMĐT và Marketing điện tử vào trong các hoạt động kinh doanh là một tất yếu khách quan. Bất kỳ quốc gia nào đi sau trong lĩnh vực này cũng gặp nhiều bất lợi và mất đi lợi thế cạnh tranh của mình. Việt Nam đang trên con đường hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhưng việc ứng dụng TMĐT và Marketing điện tử tại Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn sơ khai nên các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể khai thác hết những lợi thế mà nó có thể đem lại. Vì vậy việc phát triển TMĐT cũng như Marketing điện tử là vấn đề cấp bách đòi hỏi Việt Nam phải có những giải pháp cụ thể và cần được tiến hành một cách khẩn trương, nhất là trong bối cảnh nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải xây dựng các chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng TMĐT và Marketing điện tử, hỗ trợ, định hướng và có những biện pháp khuyến khích thích hợp đối với các chủ thể trong xã hội, trong khi đó, các doanh nghiệp phải tự mình tìm ra hướng đi có lợi nhất cho mình dựa vào điều kiện của đất nước và của chính doanh nghiệp.

3.2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

3.2.1.1. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng pháp lý

Internet ngày nay được người ta ví với con đường tơ lụa của một nghìn năm trước. Con đường tơ lụa tồn tại và vận hành được an toàn chính là nhờ chính quyền mỗi nước mà con đường vạn dặm này đi qua đều nỗ lực tạo lập và bảo vệ cho luồng vận chuyển xuyên lục địa này. Đó là một hình ảnh sống động về khía cạnh pháp lý của vấn đề thương mại điện tử nói chung và của hoạt động marketing điện tử nói riêng trong thời đại ngày nay. Nhằm tạo dựng một môi trường ổn định đảm bảo cho Marketing điện tử hoạt động có hiệu quả thì mỗi quốc gia cần xây dựng cho riêng mình những chính sách pháp lý cụ thể.

Đối với Việt Nam, để phát triển và ứng dụng hiệu quả hoạt động Marketing điện tử thì điều quan trọng là nhà nước cần ban hành các văn bản pháp quy quy định và điều chỉnh các hoạt động này cũng như các hoạt động đi cùng như thanh toán điện tử, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo mật thông tin, bảo vệ người tiêu dùng…Cùng với sự tiến bộ về khoa học công nghệ, sự phát triển đa dạng của TMĐT và Marketing điện tử luôn đặt ra những vấn đề mới cho hệ thống pháp luật liên quan đến những vấn đề này. Sự bùng nổ của trò chơi trực tuyến dẫn đến nhu cầu xác định tính hợp pháp của tài sản ảo, các vụ tranh chấp về tên miền cho thấy cần có tư duy quản lý thích hợp với loại tài nguyên đặc biệt này, việc gửi thư điện tử quảng cáo số lượng lớn đòi hỏi phải có biện pháp bảo vệ người tiêu dùng

Năm 2006 đã chứng kiến việc các cơ quan Nhà nước tích cực xây dựng, ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan tới TMĐT nhằm tạo dựng cơ sở hạ tầng pháp lý hỗ trợ cho hoạt động này phát triển như Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại sửa đổi, Nghị định về Thương mại điện tử…Năm 2006 cũng là năm đầu tiên triển khai “Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006-2010”. Điều này đã góp phần quan trọng trong việc khuyến khích các doanh nghiệp yên tâm tiến hành giao dịch TMĐT, thực hiện các hoạt động Marketing điện tử và bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia. Tuy nhiên hiện chúng ta vẫn còn thiếu các nghị định quy định chi tiết việc thi hành Luật Giao dịch điện tử và các văn bản quy định rõ ràng về bảo vệ pháp lý đối với quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến mọi hình thức giao dịch điện tử. Đồng thời nhà nước cũng cần xây dựng các chính sách an ninh mạng nhằm bảo vệ những nguồn thông tin liên quan tới bí mật riêng tư của khách hàng, chống tin tặc xâm nhập trái phép. Tất cả những việc trên đây chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở mỗi quốc gia phải thiết lập một hệ thống mã nguồn cho tất cả các thông tin số. Nhà nước cần phải hoặch định một chiến lược chung về hình thành và phát triển nền kinh tế số hoá, xây dựng các chính sách, các đạo luật, các qui định cụ thể nhằm thiết lập một chỉnh thể của hệ thống luật quốc gia.

Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần nhanh chóng điều chỉnh những văn bản pháp quy khác liên quan đến hoạt động TMĐT và Marketing điện tử như: luật kế toán, luật hải quan, luật thuế, luật CNTT…Cần phải nhìn nhận các hoạt động về internet có liên quan tới hầu hết các mặt của đời sống kinh tế xã hội, trong đó có TMĐT và marketing điện tử. Trong số các chính sách đã ban hành, chính sách về quản lý cung cấp thông tin điện tử, thiết lập trang tin điện tử, quản lý tên miền Internet và an ninh mạng đòi hỏi sự nghiên cứu, điều chỉnh càng sớm càng tốt. Điều này thực sự cần thiết trong bối cảnh nước ta đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và đang nỗ lực hoà nhập vào xu thế phát triển của thương mại thế giới.

Các chính sách được điều chỉnh và xây dựng mới phải tính tới sự thay đổi thường xuyên, nhanh chóng của môi trường Internet và sự đồng bộ giữa các chính sách, nhằm tránh sự chồng chéo, cản trở lẫn nhau. Để có được những chính sách phù hợp và mang tính dài hạn thì các cơ quan lập pháp cần thường xuyên nghiên cứu xu hướng mới của công nghệ, tiếp thu những kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trong việc xây dựng các chính sách, nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu của các tầng lớp trong xã hội để từ đó hình thành những chính sách có thể áp dụng lâu dài và điều chỉnh tốt các hoạt động xã hội.

3.2.1.2. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Marketing điện tử được hình thành là kết quả của sự phát triển kỹ thuật số hóa và công nghệ thông tin. Marketing điện tử chỉ thực sự phát triển khi đã có một hạ tầng công nghệ thông tin vững chắc và ổn định. Hạ tầng công nghệ bao gồm hạ tầng mạng, hạ tầng ngôn ngữ và nội dung, các kênh phân phối thông tin và các dịch vụ TMĐT. Mỗi bộ phận lại là tập hợp của nhiều phần cứng và phần mềm khác nhau. Do vậy, để có thể phát triển lĩnh vực Marketing điện tử, Việt Nam cần có một nền công nghiệp phần cứng và phần mềm hiện đại, một nền bưu chính viễn thông tiên tiến dựa trên nền điện lực vững mạnh. Đồng thời, sự phát triển của các lĩnh vực này phải gắn liền với việc phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng, phải đảm bảo tính kinh tế và hiệu quả.

Hiện nay, một trong những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển của TMĐT và Marketing điện tử đó là sự hạn chế về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của Việt Nam. Tuy Việt Nam đã có nhiều biện pháp để cải thiện cơ sở hạ tầng, nhưng lĩnh vực này vẫn được coi là kém phát triển so với nhiều quốc gia trong khu vực. Phí truy cập, lắp đặt và hoà mạng Internet còn cao, tốc độ đường truyền còn thấp và không ổn định, số lượng nhà cung cấp dịch vụ Internet còn nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường, đường truyền Internet còn hạn chế ở nhiều khu vực kể cả vùng đô thị, chất lượng dịch vụ viễn thông, dịch vụ Internet còn thấp, hệ thống máy chủ của các nhà cung cấp chưa thật sự đủ mạnh. Bên cạnh đó là sự hạn chế về khả năng sản xuất máy tính thương hiệu Việt, giá thành của các sản phẩm tin học còn cao, công nghệ phần mềm chưa thực sự phát triển, nguồn năng lượng điện còn thiếu. Hiện tại, Việt Nam mới chỉ có nguồn năng lượng từ thuỷ điện và nhiệt điện, chưa xây dựng được nhà máy điện nguyên tử, do vậy yêu cầu cung cấp một nguồn điện ổn định cho mạng lưới điện tử viễn thông vẫn là một thách thức đối với ngành năng lượng Việt Nam. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Để hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu thành công, thì việc cải thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin là một việc cần thiết hiện nay. Nhiều văn bản pháp quy liên quan tới lĩnh vực TMĐT đã ra đời góp phần thúc đẩy TMĐT phát triển, nhưng để những văn bản này đi vào đời sóng thì nhà nước còn cần phải tăng cường vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng, sử dụng hiệu quả những nguồn vốn này cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Nhà nước cần có chính sách đầu tư lâu dài và liên tục, bởi công nghệ thông tin là lĩnh vực liên tục thay đổi. Điều quan trọng là các nguồn vốn này cần được đầu tư đúng chỗ và được quản lý hiệu quả. Nhà nước cần huy động các nguồn lực, xây dựng các giải pháp thu hút vốn đầu tư và viện trợ từ các tổ chức, các tập đoàn, các công ty tư nhân trong và ngoài nước. Nguồn vốn đầu tư và viện trợ này sẽ là các nguồn vốn có hiệu quả sử dụng cao, nhanh chóng và ít lãng phí. Nhà nước cũng nên có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp phần mềm, bởi đây là một lĩnh vực còn mới nhưng hứa hẹn đem lại nguồn lợi nhuận cao và góp phần tạo dựng một nền tảng cơ sở hạ tầng vững chắc cho sự phát triển của lĩnh vực công nghệ thông tin.

Bên cạnh việc đầu tư thì nhà nước cần mở rộng thị trường cung cấp dịch vụ Internet, cho phép các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước tham gia vào lĩnh vực này. Với số lượng ít ỏi nhà cung cấp dịch vụ Internet như hiện (17 nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP), 6 nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) ) thì người dân sẽ còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ này. Số người sử dụng Internet là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ sẵn sàng tham gia TMĐT ở mỗi quốc gia và là điều kiện quan trọng để các doanh nghiệp xây dựng chiến lược Marketing điện tử.

Việc tham gia của nhiều nhà cung cấp dịch vụ Internet cũng sẽ góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ Internet tại Việt Nam. Tính đến tháng 12/2005, tổng dung lượng kết nối quốc tế mới chỉ đạt 1892 Mbps. Mặc dù đã có sự tăng đáng kể so với năm 2004 nhưng con số này còn quá nhỏ để có thể đáp ứng nhu cầu về dịch vụ Internet tại Việt Nam. Dịch vụ ADSL được cung cấp tại Việt Nam từ năm 2003 nhưng cho đến nay mới chỉ có khoảng 35.000 thuê bao trên tổng số 2 triệu thuê bao Internet sử dụng băng thông rộng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì nhu cầu sử dụng Internet của người dân cũng đang tăng lên nhanh chóng. Nhưng với sự hạn chế về số lượng cổng kết nối, tốc độ đường truyền, giá cước truy cập, kết nối mạng còn cao, đã khiến nhiều người tiêu dùng gặp khó khăn trong việc sử dụng dịch vụ này. Khi số lượng nhà cung cấp dịch vụ Internet tăng lên, thì người tiêu dùng sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn và các nhà cung cấp muốn tồn tại thì phải cải thiện chất lượng dịch vụ của mình.

Một vấn đề mà nhà nước cũng cần quan tâm và điều chỉnh đó là vấn đề giá cước thuê bao điện thoại, truy cập và sử dụng dịch vụ Internet. So với nhiều quốc gia trong khu vực thì giá cước dịch vụ này tại Việt Nam vẫn còn quá cao so với thu nhập của người dân cũng như so với các quốc gia khác trong khu vực. Nhà nước cần sớm cho ra đời Luật cạnh tranh nhằm kiểm soát giá dịch vụ của bưu chính viễn thông. Mặc dù ngành Bưu chính viễn thông đã cấp phép cho nhiều đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ internet nhưng Tập đoàn Bưu chính viễn thông với cơ sở hạ tầng kỹ thuật sẵn có, rộng khắp và với nhiều ưu đãi khác của ngành chủ quản vẫn là đơn vị có thị phần lớn, chi phối giá dịch vụ làm hạn chế sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Bởi vậy, xoá bỏ độc quyền, mở cửa thị trường là hướng đi tất yếu của ngành viễn thông Việt Nam cho mục tiêu phát triển thương mại điện tử và đẩy mạnh việc ứng dụng marketing điện tử.

3.2.1.3. Xây dựng nguồn nhân lực phục vụ nền kinh tế tri thức Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Với việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đang và sẽ phải đối mặt với sự thiếu hụt nguồn nhân lực trình độ cao. Đây là một vấn đề đã được đặt ra từ lâu, nhưng chúng ta vẫn còn thiếu những định hướng cụ thể và thiếu những chương trình hành động, cách giải quyết phù hợp và hiệu quả. Phần lớn các trường đại học tại Việt Nam vẫn còn đào tạo thiên về lý thuyết và thiếu đi những ứng dụng thực tiễn, điều này đã khiến cho các sinh viên ra trường thường phải đào tạo lại hoặc đào tạo chuyên sâu mới có đủ khả năng để làm việc. Do vậy để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ tham gia hoạt động TMĐT và Marketing điện tử, cũng như nâng cao nhận thức của người dân về các hoạt động này thì biện pháp đưa ra là:

  • Cần đa dạng hoá các hình thức đào tạo. Hiện nay các khoá học kinh tế tại nhiều trường đại học trên thế giới đều giảng dạy môn TMĐT và Marketing điện tử, nhưng tại Việt Nam thì chỉ có một số rất ít trường kinh tế giảng dạy môn học này. Do vậy để đẩy mạnh hoạt động Marketing điện tử thì rất cần phát triển các môn học có liên quan đến Marketing điện tử tại các trường kinh tế và đưa thêm số lượng giảng viên vào giảng dạy bộ môn này. Trong lĩnh vực Marketing điện tử, chỉ riêng những kiến thức về Marketing là chưa đủ, sinh viên cần phải được bổ sung thêm những kiến thức về công nghệ thông tin cũng như TMĐT bởi nền tảng của Marketing điện tử chính là hạ tầng công nghệ thông tin.
  • Xây dựng đội ngũ giáo viên có trình độ về công nghệ thông tin (cả phần cứng và phần mềm). Một trong những nguyên nhân khiến nước ta vẫn còn thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao là do đội ngũ giáo viên chưa có đủ trình độ, nhà trường chưa cung cấp đủ các điều kiện cần thiết để nâng cao trình độ, cũng như phương tiện nghiên cứu và giảng dạy. Hiện nay, các trường đại học chủ yếu đào tạo cán bộ làm phần mềm, đó là do lĩnh vực phần cứng đỏi hỏi cơ sở hạ tầng cao mà chúng ta chưa có và cũng do thiếu thầy giảng dậy, do vậy nước ta đang rất thiếu những chuyên gia phần cứng. Điều này đòi hỏi nhà nước phải đầu tư hỗ trợ các trường học nhằm tạo dựng cơ sở hạ tầng trang thiết bị đáp ứng nhu cầu của cả thầy và trò.
  • Chú trọng nâng cao trình độ ngoại ngữ cho học sinh ở mọi cấp độ. Marketing điện tử được ứng dụng trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi những người tham gia và hoạt động trong lĩnh vực này phải có trình độ nhất định về ngoại ngữ. Do vậy ngay từ bây giờ, ngoại ngữ cần được ưu tiên giảng dạy tại các trường học, có như vậy sau 10-20 năm nữa chúng ta mới có được nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam
  • Ở nhiều cơ quan và doanh nghiệp nhà nước, nhiều cán bộ, nhân viên chưa từng dùng máy tính điện tử, những người được coi là biết sử dụng mới chỉ làm được văn bản ở mức cơ bản, trình độ ứng dụng công nghệ thông tin vào mục đích quản lý và kinh doanh nói chung còn rất thấp. Đối với đội ngũ nhân viên này, các doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo lại, nâng cao trình độ về vi tính, ngoại ngữ, tăng cường việc tiếp cận các công nghệ và ứng dụng mới.
  • Hiện nay, đội ngũ Việt kiều làm tin học của chúng ta khá phong phú và được đánh giá là giỏi, nhiều người có trình độ rất cao, là chuyên gia đầu đàn của các tổ chức tin học trên thế giới. Rất nhiều người trong số họ có nguyện vọng được đóng góp trí tuệ cho đất nước nhưng chưa làm được vì chủ trương và cơ chế chính sách của Nhà nước ta chưa rõ ràng. Bởi vậy, chúng ta cần có các chính sách ưu đãi tạo điều kiện cho việc thu hút chất xám của đội ngũ này.
  • Nhà nước, thông qua các các bộ ban ngành có liên quan cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, các lớp chuyên đề phổ biến kiến thức cho mọi tầng lớp, nhất là đội ngũ doanh nghiệp, giúp họ hiểu sâu hơn về TMĐT, Marketing điện tử cũng như cách thức ứng dụng chúng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chuyên gia về TMĐT, Marketing điện tử của nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động tư vấn, hướng dẫn các doanh nghiệp tham gia vào thị trường trực tuyến, giúp doanh nghiệp giải quyết mọi khó khăn vướng mắc về TMĐT và Marketing điện tử.

Việc xây dựng một nguồn nhân lực chất lượng cao, có chất lượng và đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường là một đòi hỏi cấp bách hiện nay. Nhà nước với vai trò xây dựng các chính sách, đưa ra các quy định nhằm định hướng, điều chỉnh cách thức thực hiện, có một tác động mạnh mẽ tới việc tạo dựng và phát triển nguồn nhân lực này. Bên cạnh đó là vai trò trực tiếp của các doanh nghiệp trong việc huấn luyện, đào tạo chuyên môn nhằm phát triển một nguồn nhân lực có đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Do vậy nhà nước cần có những chính sách khuyến khích chính doanh nghiệp xây dựng đội ngũ cán bộ Marketing điện tử cho riêng mình. Đây là hình thức đầu tư hiệu quả đối với doanh nghiệp, bởi doanh nghiệp có thể chủ động về nguồn lực của mình và có thể kiểm soát được chất lượng nguồn lực.

3.2.1.4. Nhà nước cần đi tiên phong trong hoạt động thúc đẩy TMĐT thông qua việc ứng dụng các nguyên tắc hoạt động TMĐT vào quản lý bộ máy chính phủ và vào các hoạt động mua sắm của chính phủ cũng như trong hoạt động cung cấp dịch vụ công

Kinh nghiệm ở các quốc gia công nghiệp mới (Singapore, Hàn Quốc) và các quốc gia đang phát triển (Ấn Độ) cho thấy chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc xúc tiến TMĐT bởi sự tham gia trực tiếp của chính phủ vào hoạt động này (ở đây, chính phủ đóng vai trò là chất xúc tác cho sự mở rộng ứng dụng TMĐT vào khu vực doanh nghiệp tư nhân). Singapore là một trường hợp điển hình. Chính phủ quốc gia này đã khuyến khích hoạt động TMĐT thông qua việc phát triển hệ thống mua sắm của chính phủ qua mạng Internet. Do đó ở Việt Nam trong thời gian tới, chính phủ cần khẳng định “niềm tin” cho các doanh nghiệp bằng việc tích cực hơn nữa trong việc tham gia vào các hoạt động mua sắm điện tử (e-Procurement) đồng thời phát triển dịch vụ công qua mạng (như trong các lĩnh vực thuế, hải quan, xuất nhập khẩu, đầu tư và đăng ký kinh doanh)

3.2.1.5. Nhà nước cần đẩy mạnh sự phát triển của hệ thống thanh toán điện tử nhằm thúc đẩy các giao dịch điện tử Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Vấn đề tài chính bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia, mọi doanh nghiệp, cho nên vấn đề thanh toán, lưu chuyển tiền tệ chính là một vấn đề đáng quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp và các ngân hàng hiện nay. Thanh toán điện tử là một phương thức thanh toán qua hệ thống mạng và đường truyền dữ liệu, đây là một hệ thống vốn đã có nhiều vấn đề từ khi mới thành lập: từ mất dữ liệu đến việc bị các tin tặc tấn công, chưa kể đến những lỗi của hệ thống mạng và cơ sở dữ liệu. Liệu bạn sẽ làm gì khi sau một buổi sáng ngủ dậy toàn bộ tài khoản của bạn không còn một đồng nào, bạn sẽ lấy gì làm bằng chứng khi các thông tin mã hoá của bạn tại ngân hàng bị trục trặc? Đó là các câu hỏi luôn thường trực đối với những ai sử dụng tài khoản thanh toán điện tử. Tài chính cần phải minh bạch và rõ ràng nếu không chắc chẵn sẽ có những xung đội khó giải quyết. Việc tạo lập tính rõ ràng ấy không thể được xây dựng bởi một cá nhân hoặc một ngân hàng nào mà nó phải là sự nỗ lực của toàn chính phủ. Việc hệ thống Ngân hàng Trung ương và thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển như hiện nay đã đặt việc xây dựng một cơ sở cho thanh toán điện tử lên vai các bộ phận này, làm thế nào để đổi mới toàn diện hệ thống ngân hàng để đáp ứng được với đòi hỏi mới của thị trường, đáp ứng với những thay đổi của công nghệ, đáp ứng nhu cầu của khách hàng đang là câu hỏi đặt ra cho toàn bộ hệ thống tài chính tiền tệ của Việt Nam.

Trước đây, do Việt Nam chưa có một hệ thống văn bản pháp quy nào thừa nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử nên thanh toán điện tử chưa có cơ sở để phát triển. Nhưng với sự ra đời của Luật giao dịch điện tử, tính pháp lý của các chứng từ và chữ ký điện tử trong thanh toán điện tử đã chính thức được chấp nhận. Đây là tiền đề góp phần kích thích sự phát triển của thanh toán điện tử trong thời gian tới. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Tuy nhiên bên cạnh việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý thì nhà nước cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức tài chính tín dụng, các doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ hơn vào hệ thống thanh toán điện tử này. Dự án “Hiện đại hoá hệ thống ngân hàng và các hệ thống thanh toán” được thực hiện từ năm 1997 và hoàn thành giai đoạn một vào năm 2003, dưới sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, đã tạo điều kiện để đưa thanh toán điện tử vào hoạt động. Tuy nhiên, tiến trình thực thi dự án này còn diễn ra chậm chạp, chưa bắt kịp với sự phát triển của TMĐT và marketing điện tử trong giai đoạn hiện nay. Vì thế, Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện dự án này nhằm xây dựng cơ sở phát triển hệ thống thanh toán điện tử, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận nhiều hơn với hình thức thanh toán trực tuyến.

Hiện tại hầu hết các hệ thống thanh toán tiền điện tử đều đòi hỏi các khách hàng phải có tài khoản tại ngân hàng trực tuyến trung tâm. Yêu cầu này sẽ hạn chế được một loạt các giao dịch trồng chéo. Để có thể hỗ trợ khách hàng truy nhập mạng toàn cầu, tiền điện tử cần phải có khả năng chuyển đổi ra rất nhiều loại tiền tệ khác nhau trên thế giới tại các ngân hàng khác nhau. Do đó nhà cung cấp dịch vụ tại một nước có thể chấp nhận thanh toán nhiều loại tiền tệ khác nhau từ rất nhiều người sử dụng ở các nước khác nhau. Vì vậy nhà nước nên hỗ trợ việc thiết lập một hiệp hội các ngân hàng trực tuyến và coi đây như một hệ thống hối đoái.

Hệ thống thanh toán điện tử cần chế độ bảo mật cao. Nó đòi hỏi phải thoả mãn các yêu cầu về sự tin cẩn (confidentiality), sự trung thực (integrity) và sự xác nhận (authentication). Để đảm bảo cho hệ thống thanh toán hoạt động hiệu quả thì rất cần sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước và các tổ chức tín dụng nhằm xây dựng các chính sách, các biện pháp bảo mật thông tin hiệu quả và tạo dựng một hệ thống thanh toán an toàn, tin cậy và chính xác.

3.2.1.6. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ cập kiến thức về TMĐT và Marketing điện tử

Trong bản chỉ thị về việc triển khai Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006-2010, Bộ Thương mại đã yêu cầu Vụ Thương mại điện tử, Vụ Tổ chức Cán bộ, các Sở Thương mại, Cục Xúc tiến thương mại và Trung tâm Thông tin thương mại tổ chức tập huấn đào tạo về lợi ích, kỹ năng kinh doanh TMĐT cho các cán bộ quản lý kinh tế cao cấp và phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới TMĐT và các doanh nghiệp. Đồng thời yêu cầu Trường Cán bộ Thương mại Trung ương và các trường cao đẳng, trung học thuộc Bộ Thương mại bổ sung nội dung đào tạo về thương mại điện tử vào chương trình đào tạo, chú trọng biên soạn các tài liệu, giáo trình và xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ lý luận và thực tiễn về TMĐT. Đây là một nỗ lực rất lớn của Bộ Thương mại và các cơ đơn vị trực thuộc trong việc tăng cường phổ biến kiến thức về TMĐT và Marketing điện tử tới mọi người dân, nhằm phổ cập hoá và thu hút sự chú ý của mọi người tới các vấn đề này. Tuy nhiên các bộ ngành có liên quan cũng nên đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền kiến thức Marketing điện tử tới tất cả các doanh nghiệp và người dân thông qua các báo đài, trung tâm thông tin, các trang thông tin tra cứu. Chúng ta nên đẩy mạnh việc đưa dịch vụ cung cấp thông tin thương mại lên mạng để lôi kéo các doanh nghiệp kết nối internet, tìm hiểu về các thông tin này, và dựa vào các nguồn thông tin đó để tiến hành các hoạt động thương mại. Các nội dung thông tin này muốn hấp dẫn được nhiều người cần phải nhanh nhạy, chính xác và bao trùm trên cả nước. Các nội dung thông tin về giá cả, thị trường thế giới cần được cập nhật thường xuyên để đáp ứng nhu cầu trong nước.

3.2.1.7. Thiết lập hệ thống bảo mật thông tin và an toàn thông tin trên mạng Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Trong thời gian qua đã chứng kiến nhiều hình thức tội phạm tin học xảy ra trên toàn thế giới với mục đích như ăn cắp thông tin, lấy trộm tiền, phá hoại các hệ thống thông tin…Điển hình là các loại tội phạm như: [5, tr. 10-11]

  • Gian lận trên mạng: là hành vi gian lận, làm giả để thu lợi bất chính (ví dụ như sử dụng số thẻ tín dụng giả để mua bán trên mạng)
  • Tấn công Cyber: là một cuộc tấn công điện tử để xâm nhập trái phép trên Internet vào mạng mục tiêu để làm hỏng dữ liệu, chương trình, và phần cứng của các website hoặc máy trạm.
  • Hacker (tin tặc): đây là thuật ngữ để chỉ những người lập trình tìm cách xâm nhập trái phép vào các máy tính và mạng máy tính
  • Cracker: là thuật ngữ chỉ người tìm cách bẻ khóa để xâm nhập trái phép vào máy tính hay các chương trình

Tại Việt Nam, năm 2006 cũng là năm mà vấn đề an toàn, an ninh mạng, tội phạm liên quan tới TMĐT nổi lên với rất nhiều cách thức hoạt động khác nhau. Sự phát triển của công nghệ kéo theo nhiều hành vi lợi dụng công nghệ để phạm tội, điển hình là những vụ tấn công các website thương mại điện tử như www.vietco.com, www.chodientu.com. Bên cạnh đó, tình trạng đột nhập tài khoản, trộm thông tin thẻ thanh toán cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động TMĐT lành mạnh. Các hình thức tội phạm này đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống kinh doanh trực tuyến của nhiều quốc gia, nhiều doanh nghiệp. Do vậy, để triển khai và phát triển được các hoạt động TMĐT và Marketing điện tử, thì nhà nước cần phát triển các công nghệ bảo mật thông tin và an toàn thông tin

Vấn đề bảo mật hiện nay rất được quan tâm ở các nước có nền TMĐT phát triển. Tại Việt Nam, vấn đề này cũng đang dần thu hút được sự quan tâm của Nhà nước cũng như các chủ thể tham gia vào giao dịch trên mạng. Một trong những công nghệ phổ biến hiện nay được áp dụng để đảm bảo an ninh mạng là chữ ký số và chứng thực điện tử. Công nghệ này cho phép mã hoá và giải mã thông tin giao dịch, chống lại sự giả mạo thông tin.

Chứng thực điện tử để xác nhận rằng người giữ các khoá công cộng và khoá riêng là ai đã đăng ký. Cần có cơ quan trung gian để làm công việc xác thực. Chứng thực có các cấp độ khác nhau. Cấp độ đơn giản nhất của chứng thực điện tử là chứng nhận Class 1. Cái này dễ dàng nhận được khi truy cập vào website của Verisign (www.verisign.com). Tất cả những cái mà doanh nghiệp phải làm là cung cấp tên, địa chỉ, và địa chỉ email, sau khi địa chỉ email được kiểm tra, doanh nghiệp sẽ nhận được giấy chứng nhận số hoá. Các chứng nhận Class 2 yêu cầu một sự kiểm chứng về địa chỉ vật lý của doanh nghiệp. Để làm được điều này, các công ty cung cấp chứng thực sẽ tham khảo dữ liệu của Equifax hoặc Experian trong trường hợp đó là một người dùng cuối, hoặc dữ liệu của Dun&Bradstreet trong trường hợp đó là một doanh nghiệp. Mức cao nhất của một chứng thực điện tử được gọi là chứng nhận Class 3. Có thể xem nó như là một giấy phép lái xe. Để nhận được nó doanh nghiệp cần chứng mình chính xác mình là ai và phải là người chịu trách nhiệm về những điều đã được chứng thực. Các giấy chứng nhận Class 3 hiện chưa được chào hàng, nhưng các công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo mật và an toàn thông tin đã mường tượng ra việc sử dụng nó trong tương lai gần cho các vấn đề quan trọng như việc đàm phán mua bất động sản qua Web hoặc vay vốn trực tuyến. Nó cũng có thể được sử dụng như là các chứng nhận định danh hợp pháp hỗ trợ việc phân phát các bản ghi tín dụng hoặc chuyển các tài liệu của toà án.[2, tr. 30]

Việc Chính phủ vừa ban hành hai Nghị định số 26/2007/NĐ-CP và 27/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số, dịch vụ chứng thực chữ ký số và quy định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, đã góp phần tạo dựng một cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc đảm bảo an toàn thông tin trên mạng. Tuy nhiên để đưa những nghị định này đi vào cuộc sống thì nhà nước cần thiết lập một bộ phận chuyên nghiên cứu và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng các giải pháp bảo mật và an toàn thông tin mạng, đồng thời có kế hoạch triển khai rộng rãi các ứng dụng công nghệ chứng chỉ số, xây dựng mạng lưới chứng thực điện tử quốc gia nhằm tạo ra môi trường mạng an toàn cho việc phát triển các hệ thống ứng dụng TMĐT và Marketing điện tử.

3.2.1.8. Tích cực tham gia hợp tác quốc tế về xây dựng các chiến lược phát triển TMĐT và marketing điện tử Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Việt Nam đang trên con đường hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với vai trò ngày càng cao và đang dần khẳng định vị thế trong nền kinh tế toàn cầu.

Việt Nam đã tham gia hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế nhằm phát triển các chiến lược, thực hiện các dự án phát triển TMĐT ở cả cấp độ khu vực (ASEAN, APEC) và thế giới (UNCTAD, ICC, WIPO, UNDP…). Việc hợp tác quốc tế này sẽ là rất cần thiết bởi chúng ta có thể tranh thủ sự giúp đỡ bên ngoài về công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho việc phát triển TMĐT và marketing điện tử bởi so với các nước trên thế giới, việc ứng dụng TMĐT và marketing điện tử tại Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu.

Hợp tác quốc tế, một mặt sẽ giúp Việt Nam hoàn thiện các chính sách phù hợp với tình hình trong nước và tiêu chuẩn quốc tế về cả công nghệ, thuế, hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, giải quyết tranh chấp, an toàn trong các giao dịch thương mại dịch vụ, mặt khác chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm và tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước đi trước về đào tạo nguồn nhân lực, công nghệ, chính sách pháp luật…

Trong hợp tác đa phương, cần ưu tiên hợp tác với các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế và khu vực như WTO, APEC, ASEAN, ASEM và các tổ chức chuyên trách về thương mại của liên hiệp quốc như UNCTAD, UNCITRAL, UNCEFACT, ưu tiên hợp tác song phương với các nước tiên tiến về TMĐT và các nước có kim ngạch thương mại lớn với Việt Nam, tích cực tham gia các hiệp định song phương và đa phương liên quan đến TMĐT như: Luật chữ ký điện tử của UNCITRAL, Incoterms 2000, công ước Hamburg 1978…nhằm từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển TMĐT cũng như Marketing điện tử tại Việt Nam.

Tóm lại Nhà nước đóng vai trò không thể thiếu trong việc tạo nền tảng cho sự phát triển TMĐT cũng như Marketing điện tử. Yêu cầu đặt ra là Nhà nước phải phát huy tích cực hơn nữa vai trò của mình mới có thể đưa các hoạt động này ở Việt Nam tiến kịp với sự phát triển chung của thế giới.

3.2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và đang trên con đường hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Để có thể hội nhập thành công thì các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao uy tín chất lượng sản phẩm, đồng thời đẩy mạnh đổi mới công nghệ, áp dụng những kỹ thuật tiên tiến của thế giới, thay đổi cách thức tiến hành kinh doanh. Thị trường toàn cầu đang rất coi trọng áp dụng TMĐT và Marketing điện tử, coi đây là một công cụ hữu hiệu để tăng cường khả năng cạnh tranh và thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm qua cũng đã tích cực tham gia vào thị trường trực tuyến, nhưng số lượng công ty làm ăn hiệu quả vẫn còn khá khiêm tốn và việc áp dụng TMĐT, Marketing điện tử vẫn còn ở dạng sơ khai. Tuy nhiên với sự gia tăng của các công ty nước ngoài trên thị trường thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt. Do vậy, bên cạnh việc hỗ trợ về chính sách của nhà nước thì để không bị tụt hậu xa hơn nữa so với các quốc gia khác hay để không bị thua ngay trên sân nhà, các doanh nghiệp Việt Nam phải có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức, đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ mới, thay đổi cách thức kinh doanh và phải xây dựng các chiến lước phát triển lâu dài.

3.2.2.1. Xây dựng cơ cấu quản lý tổ chức phù hợp với hoạt động Marketing điện tử

Việc áp dụng Marketing điện tử không chỉ dừng ở việc sử dụng những phương tiện điện tử để tiến hành hoạt động Marketing mà điều quan trọng là phải hiểu và nắm bắt được tầm quan trọng của hoạt động này, đồng thời phải xây dựng được đội ngũ cán bộ bộ am hiểu về công nghệ thông tin nói chung và Marketing điện tử nói riêng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải tái cơ cấu lại tổ chức cho phù hợp với nhu cầu thực tế. Trong giai đoạn đầu tiến hành hoạt động Marketing điện tử thì bộ phận phát triển Marketing điện tử có thể nằm trong phòng kế hoạch, phòng kinh doanh. Giai đoạn sau, khi đã có website và có thể tiến hành các hoạt động giao dịch thì phải tách ra một bộ phận chuyên biệt phụ trách về vấn đề này nhằm phát huy tối đa hiệu quả của các công cụ trực tuyến. Hoạt động Marketing điện tử sẽ đòi hỏi phải tin học hoá doanh nghiệp, xây dựng đội ngũ nhân viên chuyên duy trì việc giới thiệu hàng hoá, sản phẩm, nghiên cứu thị trường và phát triển hệ thống giao dịch qua mạng. Do vậy trong doanh nghiệp sẽ hình thành đội ngũ chuyên về CNTT để duy trì và phát triển hệ thống thông tin qua mạng, hình thành bộ phận kinh doanh tập trung vào việc tiếp thị, tư vấn và giao dịch với khách hàng, bộ phận nhu cầu và thoả mãn khách hàng cũng cần phải được thiết lập bởi trong marketing điện tử, việc tìm ra nhu cầu của người tiêu dùng và thoả mãn nhanh nhất những nhu cầu đó là yếu tố sống còn đối với hoạt động marketing nói riêng và toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung.

Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự gắn kết giữa bộ phận CNTT và bộ phận phụ trách về Marketing. Hai bộ phận này thường tách biệt và thiếu sự quản lý tập trung, nên việc phối hợp, xử lý các thông tin thường chậm và không kịp thời. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra ở đây là các doanh nghiệp muốn thành công trong việc áp dụng Marketing điện tử thì ngay từ bây giờ phải xây dựng đội ngũ cán bộ không chỉ giỏi về nghiệp vụ Marketing mà còn nắm vững, sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, đồng thời phải có một sự quản lý tập trung, thống nhất nhằm gắn kết công nghệ với các hoạt động Marketing.

3.2.2.2. Xây dựng chiến lược phát triển Marketing điện tử Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Sự hiện diện của nhiều công ty lớn trên thế giới tại thị trường Việt Nam trong những năm gần đây đã tạo ra một môi trường cạnh tranh quyết liệt, mà để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp của Việt Nam phải có những chiến lược, chính sách, cách thức hoạt động kinh doanh mới thích hợp với môi trường hiện nay. Phát triển TMĐT và xây dựng một chính sách Marketing điện tử phù hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp mở rộng được thị trường, cạnh tranh được với các công ty nước ngoài và là cầu nối để giúp doanh nghiệp hội nhập được vào thị trường thế giới.

Để xây dựng được một chính sách như vậy thì đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm rõ được tình hình thực tế của doanh nghiệp về khả năng tài chính, nhân lực, cơ sở hạ tầng công nghệ, phải phân tích được hoạt động kinh doanh của mình, xác định rõ mục đích, mục tiêu của hoạt động kinh doanh trong nhiều năm tới, phân khúc thị trường và khách hàng mục tiêu, nắm bắt được đối thủ cạnh tranh, xác định mô hình kinh doanh và chiến lược thực hiện.

Trước khi xây dựng một chiến lược hoạt động Marketing điện tử, doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu thị trường để xác định xem nên áp dụng Marketing điện tử ở cấp độ nào, đối tượng khách hàng trên mạng sẽ là ai, hàng hoá, dịch vụ nào sẽ thích hợp…Với cơ sở hạ tầng công nghệ như của Việt Nam hiện nay thì Marketing điện tử mới chỉ dừng ở mức cung cấp thông tin, giới thiệu về hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ, trao đổi thông tin trực tuyến, tiếp thị và đặt hàng qua mạng. Ngoài ra, để giao dịch trực tuyến và xử lý các đơn hàng, các doanh nghiệp có thể mua các chương trình phần mềm xử lý đơn hàng tự động, thanh toán tự động. Trở ngại cho các doanh nghiệp hiện nay là hệ thống thanh toán điện tử của nước ta chưa thực sự phát triển và chưa thực sự đảm bảo. Để có thể thực hiện giao dịch trên mạng, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thiết lập một hệ thống thanh toán an toàn và hiệu quả đồng thời xây dựng một công nghệ bảo mật đảm bảo an toàn cho các giao dịch này. Đây thực sự là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp bởi chi phí để thiết lập các hệ thống này là khá tốn kém, do vậy nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp và có lộ trình phát triển thích hợp để sớm đưa vào sử dụng các công nghệ thanh toán hiện đại và công nghệ bảo mật thích hợp.

Nghiên cứu thị trường cũng giúp cho doanh nghiệp xác định được khách hàng mục tiêu và nhu cầu của họ. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng chiến lược Marketing điện tử bởi có xác định được khách hàng, doanh nghiệp mới đưa ra được các sản phẩm phù hợp với nhu cầu và mong muốn của họ. Để tìm hiểu được thị hiếu và đặc điểm, thói quen mua sắm của khách hàng, doanh nghiệp nên có những dữ liệu về khách hàng và thực hiện những cuộc điều tra thăm dò trên mạng. Các doanh nghiệp có thể thông qua các công ty chuyên nghiên cứu thị trường như AC Nielson, Taylor Nelson Sofres hay InvestConsult, Galaxy, Guidea…để có được các số liệu này, đồng thời có thể thuê các công ty này tư vấn về việc thiết lập chiến lược Marketing điện tử. Số liệu thu được từ các cuộc điều tra sẽ giúp doanh nghiệp xác định rõ hơn về nhu cầu, đối tượng khách hàng mà doanh nghiệp hướng tới, qua đó xây dựng chiến lược Marketing điện tử định hướng khách hàng hiệu quả. Tùy theo khách hàng là doanh nghiệp hay cá nhân mà các công ty sẽ đưa ra chiến lược thích hợp. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Từ những thông tin về nhu cầu và thị hiếu của khách hàng, doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh sản phẩm sao cho phù hợp với môi trường kinh doanh trên mạng và hệ thống khách hàng này. Với những sản phẩm sẵn có, doanh nghiệp có thể bán cho người tiêu dùng theo cách truyền thống, nhưng với các khách hàng sử dụng Internet để tìm kiếm sản phẩm, dịch vụ thì các sản phẩm đó chưa chắc đã phù hợp. Chính vì vậy doanh nghiệp cần có sự điều chỉnh thích hợp về sản phẩm, dịch vụ nhằm thu hút khách hàng đến với các sản phẩm, dịch vụ này.

Nghiên cứu thị trường bao gồm cả việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, trình độ công nghệ, hướng đầu tư và phương thức tiếp thị… của đối thủ. Trong Marketing điện tử, việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh dễ dàng hơn so với Marketing truyền thống bởi môi trường Internet đòi hỏi các doanh nghiệp phải cung cấp thông tin về hoạt động, về tình hình tài chính, về sản phẩm… Do vậy, doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận những thông tin về đối thủ cạnh tranh. Từ những thông tin này, doanh nghiệp sẽ xác định được lợi thế cạnh tranh của mình, làm cơ sở cho việc xác định các bước đi cụ thể cho tham gia vào Marketing điện tử.

Doanh nghiệp cũng cần xác định mục đích tham gia Marketing điện tử như là việc tham gia vào Marketing điện tử chỉ là dừng lại ở việc thăm dò kênh kinh doanh qua mạng, nâng cao nhận thức của cán bộ trong công ty về TMĐT, hay mục đích là cung cấp cho khách hàng hiểu biết về các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động của doanh nghiệp hoặc là duy trì sự hiện diện thương hiệu của công ty trên mạng, xây dựng và duy trì mối quan hệ với khách hàng, thực hiện các giao dịch, đặt hàng, thanh toán qua mạng. Đồng thời trong từng giai đoạn, công ty cũng cần đưa ra các mục tiêu cụ thể về lợi ích đạt được của Marketing điện tử, các chỉ tiêu về doanh số, lợi nhuận…như chỉ tiêu về giảm chi phí tiếp thị, mở rộng thị trường, tăng cường doanh số bán hàng, thúc đẩy quan hệ khách hàng trực tuyến…Có như vậy, doanh nghiệp mới đánh giá được hiệu quả của hoạt động Marketing điện tử.

Tại Việt Nam, việc đặt hàng qua mạng vẫn chưa phổ biến do người tiêu dùng còn chưa thực sự tin tưởng vào hình thức mua hàng này. Hơn nữa, số khách hàng trên mạng cũng không lớn do mức độ phổ cập Internet ở nước ta còn thấp (khoảng 15% dân số) và tập trung vào giới trẻ. Những khách hàng này thông thường chỉ tìm kiếm thông tin trên mạng chứ chưa đủ khả năng tiến hành giao dịch trực tuyến. Do vậy, trong giai đoạn này các doanh nghiệp Việt Nam nên xây dựng chiến lược Marketing điện tử chú trọng đến việc quảng bá sản phẩm trên mạng, cung cấp những thông tin hữu ích và những dịch vụ khuyến mãi hấp dẫn, đồng thời kết hợp chặt chẽ với hình thức Marketing truyền thống để đẩy mạnh doanh số bán hàng.

3.2.2.3. Thiết kế và xây dựng website

Khi tham gia vào TMĐT và xây dựng chiến lược Marketing điện tử thì việc đầu tiên các doanh nghiệp cần tính đến là việc thiết lập một Website. Theo ý kiến của Tim W. Knox – người sáng lập, chủ tịch và giám đốc điều hành của bốn công ty công nghệ thành công là B2Secire Inc, Digital Graphiti Inc, Sidebar Systems và Online 4U – thì “Ngay cả khi bạn không định bán hàng trực tuyến thì một trang web được thiết kế tốt vẫn hết sức quan trọng” và ông đã khuyên các doanh nghiệp nên xây dựng một website để giới thiệu về công ty và sản phẩm, cho dù công ty đó chỉ có hai nhân viên hay có tới mười nghìn nhân viên. Vì vấn đề ở đây là khi doanh nghiệp có website thì khách hàng, nhân viên và các đối tác kinh doanh tiềm năng, thậm chí có thể cả nhà đầu tư tương lai của doanh nghiệp có thể nhanh chóng và dễ dàng tìm hiểu về doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ tận dụng được các cơ hội tiếp xúc, tạo dựng thông tin sẵn có cho các đối tác, phục vụ khách hàng hiệu quả, công bố các thông tin có liên quan vào bất kỳ thời gian nào, giúp doanh nghiệp hình thành dịch vụ 24/24, thử nghiệm được các sản phẩm và dịch vụ mới trên thị trường, mở rộng thị trường ra toàn cầu, xử lý thông tin phản hồi từ khách hàng nhanh chóng và tiếp cận thị trường một cách chuyên nghiệp. Đây là các lợi thế so với các doanh nghiệp không có website. [26] Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Website là một cửa hàng trực tuyến trên mạng của doanh nghiệp. Trên một website của doanh nghiệp có thể có nhiều trang web, mỗi trang web như là một quầy hàng chào bán các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau. Việc thiết kế một trang web phải thể hiện rõ chiến lược tiếp thị, chiến lược sản phẩm, giá, phân phối và chiến lược phát triển thương hiệu của doanh nghiệp. Các trang web phải được tổ chức chặt chẽ, đơn giản và dễ sử dụng. Cách trình bày và nội dung trên trang web phải hấp dẫn, rõ ràng và thu hút người đọc. Khách hàng phải theo dõi và hiểu được những gì doanh nghiệp muốn truyền đạt, đồng thời có hứng thú với các nội dung này. Các trang web phải có khả năng liên hệ với nhau để người đọc có thể xem đi xem lại khi cần. Doanh nghiệp phải giúp khách hàng tìm kiếm được những thông tin về sản phẩm, dịch vụ một cách nhanh nhất bằng cách cung cấp thông tin đầy đủ nhưng ngắn gọn, cô đọng và giữ thiết kế cố định với tất cả các trang con. Trang web phải được kết nối tới các site có liên quan và được thiết kế sao cho khách hàng có thể dễ dàng khám phá các đường link. Doanh nghiệp có thể tạo các đường link bằng chữ hay biểu tượng ở tất cả các trang con để mọi người có thể xem tiếp hoặc xem lại mà không phải sử dụng đến nút “back” hay “forward” của trình duyệt. Trang Web cũng nên có những chữ thay thế tất cả các đồ họa và các đường liên kết trong trường hợp tuỳ chọn đồ hoạ trong trình duyệt bị tắt hoặc khi người sử dụng nhấn nút “ stop “ trước khi trang được tải về đầy đủ. Sử dụng hình ảnh trong trang web là rất quan trọng nhưng phải phù hợp với khả năng đường truyền. Sử dụng đồ hoạ để trang trí cho một trang web là tốt nhưng không nên lạm dụng. Trong trường hợp doanh nghiệp cần nhiều hình ảnh và đồ hoạ lớn thì nên có một biểu tượng nhỏ để liên kết với hình ảnh đó, đồng thời nhắc nhở người xem phải chờ đợi. Sử dụng video và audio trong trang Website như một công cụ bán hàng có thể là một ý tưởng hay nhưng không nên lạm dụng nhất là trong điều kiện đường truyền của doanh nghiệp có tốc độ không cao. Nên cung cấp tài liệu miễn phí giới thiệu các sản phẩm của mình để khách hàng quan tâm có thể tải về. Trang web phải thể hiện được cho khách hàng thấy rõ lợi ích của sản phẩm và dịch vụ, cách thức giao dịch, phân phối hàng hóa, dịch vụ tiện lợi…Trang web phải được thiết kế sao cho có thể dễ dàng theo dõi “quá trình bán hàng”. Doanh nghiệp phải tạo điều kiện để khách hàng hiểu rõ những lợi ích mà sản phẩm và dịch vụ đem lại, cũng như cung cấp cho khách hàng phương thức đặt hàng thuận tiện nhất. Trang web phải đảm bảo tương thích với các trình duyệt web khác nhau như internet explorer hay nestcape và ở tất cả các cấp độ phân giải. Các trang web cần lắp đặt hệ thống đếm số lần truy cập cũng như có sự phân biệt giữa khách hàng lần đầu truy cập trang web với khách hàng đã truy cập nhiều lần. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng nên xây dựng trang web thu thập thông tin phản hồi từ phía người tiêu dùng. Nếu làm được như vậy, trang web sẽ là một công cụ marketing vô cùng hữu dụng trong việc ngiên cứu thị trường, khách hàng và thông tin giao tiếp khách hàng…Sau khi đã xây dựng được trang web thoả mãn các yêu cầu trên, bước tiếp theo là tìm một nhà cung cấp dich vụ internet để lắp đặt Website hoàn chỉnh. Các doanh nghiệp phải đảm bảo chắc chắn rằng trang web của họ được đăng ký tên miền và đăng ký trên các hệ thống tìm kiếm như Google, Yahoo, Altavista, Infoseek, Vinaseek, Vinadoor..

Hiện nay, số lượng doanh nghiệp có website mới chỉ chiếm khoảng 25% trong tổng số các doanh nghiệp tại Việt Nam, trong đó hầu hết các website này chỉ mới dừng lại ở mức giới thiệu về công ty và sản phẩm dịch vụ. Trong số các website này thì khoảng trên 40% website đã tiến thêm một bước là cung cấp giá cả sản phẩm và cho phép liên hệ đặt hàng. Phần lớn các doanh nghiệp chưa thực sự coi website là cách thức marketing hiệu quả và thiếu sự đầu tư chuyên sâu nâng cao chất lượng của website. Do vậy đối với các doanh nghiệp đã có website thì điều quan trọng là phải nâng cao tính năng và nội dung của website, doanh nghiệp không được tự bằng lòng với trang web của mình, mà quên đi việc phải luôn cập nhật thông tin kịp thời trên web, thích ứng với tất cả các yêu cầu mới từ thị trường, còn đối với các doanh nghiệp chưa có website thì phải thiết lập một chiến lược xây dựng website cụ thể và phù hợp với tình hình thị trường hiện nay. Cần nhớ rằng một trang web hiệu quả chính là bước thành công đầu tiên của một chiến lược Marketing điện tử.

3.2.2.4. Xây dựng chiến lược Marketing Mix trong điều kiện ứng dụng Marketing điện tử Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Marketing Mix bao gồm các chính sách giá, sản phẩm, phân phối và xúc tiến, hỗ trợ kinh doanh sẽ phải được tính toán chi tiết nhằm tạo ra một chiến lược hiệu quả trong điều kiện thực hiện Marketing điện tử. Sau khi đã xây dựng được website, doanh nghiệp cần tính đến việc thiết lập một cách hài hòa các chính sách, nhằm phù hợp với thị trường trực tuyến. Tại thị trường Việt Nam, số lượng người mua hàng qua mạng chưa lớn và chủ yếu là người có thu nhập cao. Tuy nhiên theo dự báo của nhiều nhà kinh tế thì trong vòng 5 năm tới, thị trường này sẽ khá phát triển và sẽ được nhiều khách hàng từ mọi thành phần sử dụng. Do các khách hàng của doanh nghiệp là rất đa dạng nên việc định giá phải linh hoạt và theo kịp sự thay đổi của thị trường. Với chính sách giá như vậy thì đòi hỏi các doanh nghiệp, đặc biệt là các cửa hàng ảo phải mở rộng, đa dạng hóa các mặt hàng, cá biệt hóa sản phẩm, cung cấp sản phẩm đi kèm với cung cấp các dịch vụ hỗ trợ trực tuyến nhằm tối đa hóa nhu cầu của khách hàng. Để thu hút khách hàng quan tâm và thực hiện các giao dịnh mua bán sản phẩm thì doanh nghiệp nên tập trung xây dựng chính sách chất lượng với mục tiêu đem lại cho khách hàng các sản phẩm có chất lượng và tính năng tốt nhất. Vì các sản phẩm được giới thiệu trên mạng chỉ là các hàng hóa ảo, nên chỉ cần mất uy tín một lần về sản phẩm là doanh nghiệp kinh doanh trên mạng có thể phải gánh chịu những hậu quả khôn lường, bởi khách hàng mua sản phẩm kém chất lượng có thể đưa lên mạng những thông tin này. Bên cạnh đó, do phạm vi hoạt động của doanh nghiệp là rất lớn, nên doanh nghiệp phải xây dựng chính sách phân phối theo từng khu vực, tính đến các yếu tố địa lý, đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong thời gian ngắn nhất. Đối với đa số doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc phân phối trong phạm vi doanh nghiệp có trụ sở thì doanh nghiệp có thể tự thực hiện, nhưng đối với các khách hàng ở ngoài phạm vi chi nhánh hoạt động của doanh nghiệp thì việc phân phối phải thông qua các dịch vụ chuyển phát bưu chính. Chính sách phân phối phải chú ý tới yếu tố thời gian, yếu tố an toàn, tin cậy và giá thành hợp lý, bởi nếu như sản phẩm mua qua mạng mà có các chi phí nhiều hơn so với sản phẩm mua thông thường thì sẽ khó thu hút được khách hàng. Đồng thời chính sách này cũng nên tính tới việc giảm bớt kênh trung gian phân phối, hoặc tập trung hàng hóa trên một kênh trung gian ảo. Đồng thời để đẩy mạnh doanh số bán hàng trên mạng, các doanh nghiệp nên sử dụng chiến lược phân phối kết hợp bán hàng với các doanh nghiệp khác. Ví dụ như, Việt Tiến ngoài việc kinh doanh, bán hàng trên trang web riêng, có thể sử dụng các trang web của các cửa hàng khác như GolMart, VDC siêu thị…để phân phối sản phẩm. Đối với hình thức kinh doanh qua mạng, các doanh nghiệp gặp được nhiều thuận lợi trong việc thực hiện chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh bởi Marketing điện tử cung cấp cho các doanh nghiệp rất nhiều công cụ xúc tiến, hỗ trợ kinh doanh như xây dựng website, quảng cáo trên internet, gửi e-mail, gửi Newsletter… Các doanh nghiệp phải tận dụng tối đa các phương tiện trực tuyến như: website, email, đường link hỗ trợ, dải băng quảng cáo hay phiếu giảm giá điện tử để tiến hành giới thiệu quảng cáo về sản phẩm cũng như uy tín của mình, kích thích người tiêu dùng quan tâm tới sản phẩm và đặc biệt là xây dựng hình ảnh của doanh nghiệp trong mắt những người thường xuyên truy cập Internet và trao đổi thư điện tử. Thư điện tử theo yêu cầu là một cách thức tiếp thị rất có hiệu quả mà các doanh nghiệp Việt Nam nên áp dụng. Đó là những thông điệp từ doanh nghiệp gửi theo yêu cầu của khách hàng về những sản phẩm mới, những chiến dịch bán hàng và tiếp thị sản phẩm, đồng thời sẵn sàng ngừng gửi thư nếu khách hàng yêu cầu. Để làm được điều này, các doanh nghiệp Việt Nam trước hết cần phải sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau các địa chỉ hòm thư của khách hàng. Sau đó, khách hàng truy cập vào trang web sẽ lưu lại địa chỉ e-mail của mình và danh sách khách hàng này sẽ trở thành “tài sản” riêng của doanh nghiệp. So với cách gửi thư trực tiếp, thư điện tử mang lại hiệu quả với chi phí rẻ hơn nhiều và có thể gửi cùng một lúc cho nhiều người. Các doanh nghiệp cũng cần lưu ý những quy tắc nhất định để viết một bức thư điện tử tiếp thị có hiệu quả như: chính xác, ngắn gọn, rõ ràng, chân thật, chọn thời điểm gửi thư thích hợp và thận trọng với những thứ gửi kèm. Bên cạnh email, doanh nghiệp có thể gửi thêm các bản tin điện tử tới khách hàng nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng tới các vấn đề có liên quan của doanh nghiệp. Và điều rất cần thiết đối với một doanh nghiệp là những thông tin phản hồi từ khách hàng, do vậy khi xây dựng website, doanh nghiệp nên chú ý đưa thêm các tính năng như chat room, diễn đàn thảo luận nhằm tạo kênh trao đổi trực tiếp giữa doanh nghiệp và khách hàng.

3.2.2.5. Từng bước xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của hoạt động Marketing điện tử

Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển mình, hối hả cho hội nhập kinh tế quốc tế thì nguồn nhân lực chất lượng cao, hơn bao giờ hết là mối quan tâm hàng đầu của nhiều doanh nghiệp hiện nay. Một doanh nghiệp thành công là một doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên giỏi về chuyên môn, có trách nhiệm và thành thạo các nghiệp vụ có liên quan. Hoạt động Marketing điện tử được tiến hành trong môi trường điện tử toàn cầu nên nhân lực cho hoạt động này phải có cả hiểu biết về tin học, thành thạo về ngoại ngữ lẫn nghiệp vụ Marketing. Doanh nghiệp phải chú trọng trang bị cho nhân viên một vốn kiến thức ngoại ngữ, chủ yếu là tiếng Anh do môi trường hoạt động của marketing điện tử phần nhiều dưới dạng ngôn ngữ này. Nếu đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp không làm chủ được tiếng Anh thì hiệu quả sẽ rất thấp vì tiếng Việt trong internet là rất hạn chế, bên cạnh đó phải tạo điều kiện cho nhân viên nhanh chóng làm quen và sử dụng các dịch vụ internet trong hoạt động kinh doanh của mình. Với điều kiện giáo dục của Việt Nam hiện nay thì việc có được những nhân viên hiểu về công nghệ thông tin và có kiến thức tốt về Marketing điện tử là chưa nhiều, do vậy các doanh nghiệp phải thực hiện đào tạo lại những kiến thức này cho đội ngũ nhân viên hoạt động trong lĩnh vực TMĐT. Các nhà quản trị nhân sự cũng nên lưu ý tới vấn đề này ngay từ khâu tuyển dụng mới để đáp ứng nhu cầu phát triển sau này, đồng thời áp dụng các chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với đội ngũ chuyên gia quản lý, kinh tế, kỹ thuật giỏi đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và cạnh tranh ngày càng cao trong lĩnh vực viễn thông và Internet.

3.2.2.6. Đẩy mạnh ứng dụng phương thức thanh toán điện tử trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

Trong xu thế chung của hiện đại hoá và tự động hóa các khâu trong nền kinh tế thì việc hiện đại hoá lĩnh vực thanh toán là một tất yếu khách quan. Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin và Internet thì phương thức thanh toán theo kiểu truyền thống đã bộc lộ nhiều hạn chế: như tốc độ chậm, chi phí giao dịch cao và không đáp ứng được xu thế điện tử hoá nền kinh tế. Các doanh nghiệp sẽ chỉ thực hiện hiệu quả các hoạt động Marketing điện tử và TMĐT khi có một hệ thống thanh toán điện tử đủ mạnh. Nếu chưa có hệ thống thanh toán điện tử thì các hoạt động thương mại vẫn chỉ được thực hiện qua thanh toán trực tiếp. Như vậy, các cửa hàng ảo thiết lập trên mạng cũng chỉ là nơi cung cấp thông tin, quảng cáo về sản phẩm…chứ chưa thật sự diễn ra hoạt động trao đổi mua bán. Do đó, marketing điện tử chưa thực sự được phát triển và chưa thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng. Khi tham gia vào TMĐT, doanh nghiệp phải biết lựa chọn hình thức thanh toán và dự kiến các phương án thanh toán có thể như thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán bằng thẻ tín dụng hay thanh toán bằng tiền điện tử, thanh toán chuyển tiền hoặc thanh toán quốc tế. Trên cơ sở xác định các hình thức thanh toán, doanh nghiệp phải thống nhất với ngân hàng của mình quy trình thanh toán. Việc này đòi hỏi ngân hàng phải là ngân hàng có khả năng đầu tư công nghệ thanh toán tiên tiến, đáp ứng được nhu cầu giao dịch và thanh toán điện tử không chỉ trong quốc gia mà trên toàn thế giới. Việc thanh toán bằng tiền điện tử, thẻ tín dụng, thẻ mua hàng, thẻ ghi nợ đã trở nên phổ biến trên thế giới, nhưng tại Việt Nam các hình thức thanh toán này còn khá mới mẻ và ít được các doanh nghiệp áp dụng. Nhưng để đảm bảo thành công khi tham gia vào kinh doanh trực tuyến thì các doanh nghiệp phải tìm hiểu và ứng dụng các hình thức thanh toán này. Hệ thống thanh toán điện tử cần chế độ bảo mật rất cao. Nó đòi hỏi phải thoả mãn các yêu cầu về sự tin cẩn (confidentiality), sự trung thực ( integrity ) và sự xác nhận (authentication). Do vậy bên cạnh ứng dụng các hình thức thanh toán điện tử, doanh nghiệp còn cần chú ý về vấn đề bảo mật và an toàn thông tin, nhằm đem lại cho khách hàng một sự tin cậy khi thực hiện các giao dịch với doanh nghiệp.

KẾT LUẬN

Với việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới, Việt Nam đã và đang khẳng định vị trí của mình trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn. Để có thể hội nhập thành công, Việt Nam cần có những chiến lược phát triển lâu dài, bền vững và hiệu quả. Trong kỷ nguyên của nền kinh tế trí thức, hơn bao giờ hết, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh là một điều kiện kiên quyết để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Hiện nay, trên thế giới, các quốc gia đều đẩy mạnh những ứng dụng của khoa học công nghệ vào phục vụ phát triển kinh tế. Trong đó nổi bật là những ứng dụng của Internet và Thương mại điện tử vào hoạt động thương mại của các quốc gia. Khi trang web đầu tiên trên thế giới ra đời vào cuối năm 1990, tác giả Tim Berners-Lee mới chỉ có ý tưởng kết nối các máy tính cá nhân trên thế giới để mọi người đều có thể dễ dàng sử dụng cơ sở dữ liệu chung. Vượt xa khỏi ý tưởng ban đầu này, ngày nay, mạng internet không chỉ là kho thông tin khổng lồ mà đã trở thành một công cụ marketing đầy quyền lực. Ứng dụng TMĐT và marketing điện tử đã trở thành xu thế tất yếu trong kỷ nguyên thông tin.

Với những lợi thế vượt trội so với Marketing truyền thống, Marketing điện tử đang dần khẳng định vai trò to lớn và xu hướng phát triển tất yếu của mình trong hoạt động thương mại quốc tế. Việc áp dụng Marketing điện tử là không thể thiếu đối với các doanh nghiệp trong thời đại nền kinh tế số hoá hiện nay. Tại Việt Nam, Marketing điện tử mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển do những nguyên nhân khác nhau như trình độ phát triển của nền kinh tế, cơ sở hạ tầng công nghiệp còn yếu kém, người dân chưa có thói quen mua sắm trên mạng, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh…Trước những trở ngại này, tất cả các chủ thể tham gia bao gồm Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam cần hợp tác và hết sức nỗ lực để marketing điện tử thật sự trở thành một công cụ hỗ trợ kinh doanh đắc lực, góp phần đưa nước ta sớm tiếp cận nền kinh tế tri thức. Bên cạnh những giải pháp vĩ mô từ phía Nhà nước như tiếp tục đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin, hoàn thiện hệ thống pháp luật…., các doanh nghiệp cũng cần tự mình hoàn thiện các kỹ năng nghiệp vụ sử dụng internet, đổi mới cơ cấu doanh nghiệp…. để thích ứng tốt nhất với môi trường kinh doanh mới mẻ của marketing điện tử. Thông tin trên internet dành cho tất cả mọi người, nhưng chỉ mang lại lợi ích cho những ai biết sử dụng nó tốt nhất. Mọi doanh nghiệp đều có cơ hội ngang bằng nhau, nhưng điều cốt yếu là phải biết tận dụng tối đa các tiện ích của công nghệ internet để thành công. Luận văn: Giải pháp phát triển Marketing điện tử tại Việt Nam

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:  

===>>> Luận văn: Hoạt động marketing điện tử tại Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x