Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. BAN HÀNH THỐNG NHẤT CÁC QUY ĐỊNH VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM NGHỀ NGHIỆP BẮT BUỘC ĐỐI VỚI CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
3.1.1. Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Hiện nay cơ chế bảo đảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng gây ra trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ công chứng được thiết kế tương đối phức tạp. Theo quy định của Luật công chứng 2006 chúng ta có tới ba mô hình tổ chức hành nghề công chứng là đơn vị sự nghiệp công lập, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Tương ứng với nhiều loại công chứng viên khác nhau làm việc trong các tổ chức hành nghề công chứng đó như: Công chứng viên là công chức, viên chức làm việc tại các phòng công chứng, công chứng viên là thành viên hợp danh hay chủ doanh nghiệp tư nhân và công chứng viên làm thuê làm việc tại các văn phòng công chứng. Tuy nhiên, vì cùng cung cấp một dịch vụ công chứng như nhau cho nên về mặt nguyên tắc tất cả các công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng đều phải gánh chịu trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng ngang nhau. Để bảo đảm yêu cầu mang tính khách quan kể trên, hiển nhiên một cơ chế bồi thường thiệt hại có tính khả thi cao, được áp dụng một cách thống nhất cho tất cả các công chứng viên cũng như tổ chức hành nghề công chứng là một yêu cầu mang tính cấp thiết. Rõ ràng, cơ chế bồi thường thiệt hại như hiện có chưa đáp ứng được những đòi hỏi của hoàn cảnh khách quan. Với cách xây dựng tổ chức hành nghề công chứng như hiện nay: Đơn vị sự nghiệp công lập (phòng công chứng) theo Luật viên chức 2010, công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân theo Luật doanh nghiệp 2005 cho nên cách thức thực hiện bồi thường thiệt hại do chính tổ chức hành nghề công chứng gây ra cũng rất khác nhau. Có quan điểm cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tổ chức hành nghề công chứng gây ra sẽ được coi như “khoản nợ” của tổ chức hành nghề công chứng, nhưng cũng có nhiều luật gia cho rằng giao kết hợp đồng bảo hiểm là cơ chế bảo đảm bồi thường thiệt hại (với tư cách là hình thức của trách nhiệm dân sự duy nhất được pháp luật ghi nhận – Điều 569 Bộ luật dân sự 2005). Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra cũng vậy. Về phương diện lý thuyết, tương ứng với từng loại công chứng viên, chúng ta sẽ có riêng cách thức bồi thường thiệt hại. Đối với công chứng viên là công chức (xem Khoản 2, Điều 4 Luật cán bộ, công chức 2008) cách thức bồi thường thiệt hại sẽ tuân thủ theo quy định tại Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009. Đối với công chứng viên là viên chức, trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ tương tự như các viên chức khác được ghi nhận tại Luật viên chức 2010. Đối với những công chứng viên không phải là công chức, viên chức thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được bảo đảm bằng một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp (xem Khoản 7, Điều 32 Luật công chứng 2006). Thậm chí có quan điểm cho rằng ngoài ra, trách nhiệm bồi thường của công chứng viên không phải là công chức, viên chức còn được coi như là một khoản nợ của văn phòng công chứng đó và tiếp tục được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. Cuối cùng, bên cạnh việc được mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, cách thức bồi thường thiệt hại do công chứng viên làm thuê gây ra còn được ghi nhận tại Hợp đồng lao động hay thỏa ước lao động tập thể theo Bộ luật lao động năm 2012. Cách thức xác định cũng như cơ chế bồi thường của mỗi loại, dạng công chứng viên hoàn toàn không giống nhau. Vấn đề mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên được Luật công chứng 2006 quy định tại khoản 7 Điều 32 như sau: “Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình” [33]. Luật công chứng không quy định văn phòng công chứng phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho chính tổ chức mình. Trong khi đó Luật công chứng 2006 vẫn quy định trách nhiệm của tổ chức hành nghề công chứng “nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật” [33, Điều 59)]. Việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên có nhất thiết phải thực hiện trước khi Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động cho Văn phòng công chứng hay không? Ngày 24/2/2009 Bộ Tư pháp có Công văn số 507/BTP-HCTP trả lời như sau:
Luật công chứng quy định Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình nhưng chưa quy định rõ phải mua vào thời điểm nào, do vậy, nghĩa vụ mua bảo hiểm của Văn phòng công chứng có thể thực hiện trước hoặc sau khi đã được cấp giấy đăng ký hoạt động [5].
Thủ tục mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên như thế nào? Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 8 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (được sửa đổi, bổ sung năm 2010), thì bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên không thuộc loại bảo hiểm bắt buộc. Do vậy, thủ tục mua bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu là do thỏa thuận giữa Văn phòng công chứng với doanh nghiệp bảo hiểm. Văn phòng công chứng chủ động liên hệ với doanh nghiệp bảo hiểm để được hướng dẫn mua bảo hiểm.
Do cả công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng đều có nghĩa vụ bồi thường nếu gây ra thiệt hại cho nên tôi cho rằng cần xây dựng một cơ chế bồi thường thống nhất áp dụng chung cho tất cả các loại công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng. Việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho cả công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng là một biện pháp rất hiện hữu, khả thi do thỏa mãn được những yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, phù hợp với quy định truyền thống về phương thức bảo đảm thực hiện trách nhiệm dân sự nói chung (bao gồm cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại) được ghi nhận tại Bộ luật dân sự 2005.
Thứ hai, tương thích với xu hướng tự chủ về tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ ba, bảo đảm được tính thống nhất về cơ chế bồi thường thiệt hại do công chứng viên hành nghề tại các tổ chức công chứng khác nhau gây ra thiệt hại.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
3.1.2. Ban hành một bản hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp mẫu Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Chúng ta cần phải khẩn trương ban hành một bản hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp mẫu, áp dụng thống nhất cho toàn bộ hệ thống tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên trong phạm vi toàn quốc nhằm bảo đảm tính công bằng trong việc xác định cũng như triển khai bồi thường thiệt hại. Do Luật công chứng 2006 không có bất kỳ một quy định nào hướng dẫn cách thức mua cũng như thanh toán bảo hiểm nên hiển nhiên khi văn phòng công chứng tiến hành mua bảo hiểm theo nội dung Khoản 7, Điều 32 Luật công chứng 2006, các quy định hiện hành của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm sẽ được áp dụng.
Hiện nay, quy định về kinh doanh bảo hiểm được thể hiện tại Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (được sửa đổi, bổ sung năm 2010); Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm; Nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; Nghị định số 123/2011/NĐ-CP ngày 28/12/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm; Thông tư số 155/2007/TT-BTC ngày 20/12/2007 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007; Thông tư số 156/2007/TT-BTC ngày 20/12/2007 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007. Thông tư số 86/2009/TT-BTC ngày 28/04/2009 của Bộ tài chính sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư số 155/2007/TT-BTC ngày 20/12/2007 và Thông tư số 156/2007/TT-BTC ngày 20/12/2007. Thông tư số 124/2012/TT-BTC hướng dẫn một số điều Nghị định 45/2007/NĐ/CP và Nghị định số 123/2011/NĐ-CP.
Tham khảo các văn bản quy phạm pháp luật kể trên, chúng ta nhận thấy hiện nay các nhà làm luật chia Hợp đồng bảo hiểm thành ba loại cơ bản là Hợp đồng bảo hiểm con người (xem Mục 2, chương II, Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010), hợp đồng bảo hiểm tài sản (xem Mục 3, chương II, luật kinh doanh bảo hiểm 2000, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010) và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự (xem Mục 4, chương II, Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010).
Tại Điều 52 mục 4, chương II Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010) quy định về đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự: “Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo quy định của pháp luật” [30]. Tiếp đó tại Khoản 2, Điều 20 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm chỉ rõ: “Đối với các sản phẩm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ; bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải tuân thủ quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm được Bộ Tài chính phê chuẩn” [16], trong khi nội dung: “Đối với các sản phẩm bảo hiểm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ được phép chủ động xây dựng và triển khai quy tắc, điều khoản và biểu phí bảo hiểm” [16, Khoản 3, Điều 20]. Theo Khoản 18, Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (được sửa đổi, bổ sung năm 2010): “Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ” [38]. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Từ nội dung vừa nêu, chúng ta thấy bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên hành nghề tại văn phòng công chứng không thuộc diện “phải tuân thủ quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm được Bộ tài chính phê chuẩn”. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm có toàn quyền trong việc đưa ra hệ thống quy tắc, điều khoản cũng như biểu phí bảo hiểm miễn là thỏa mãn một số yêu cầu mang tính nguyên tắc do pháp luật quy định. Cụ thể, quy tắc, điều khoản, biểu phí do doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng phải:
Thể hiện rõ ràng, minh bạch quyền lợi có thể được bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, phạm vi và các rủi ro được bảo hiểm, quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, phương thức trả tiền bảo hiểm, các quy định giải quyết tranh chấp [16, điểm c, Khoản 4, Điều 20].
Như vậy, theo quan điểm chính thống hiện hành, điều khoản, điều kiện của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên hành nghề tại Văn phòng công chứng sẽ đơn thuần là một thỏa thuận dân sự thuần túy mang tính đơn lẻ giữa mỗi doanh nghiệp bảo hiểm với từng văn phòng công chứng. Nói theo cách khác, vai trò quản lý nhà nước nhằm bảo đảm tính thống nhất về nội dung của bản Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên giữa các văn phòng công chứng với các doanh nghiệp bảo hiểm chưa được cao.
Như vậy, cùng một thiệt hại gây ra cho người yêu cầu công chứng công chứng viên hành nghề tại văn phòng công chứng nhưng có được bồi thường hay không hoặc giả nếu cũng được bồi thường thì mức bồi thường cụ thể lại phụ thuộc hoàn toàn vào điều khoản, điều kiện của hợp đồng bảo hiểm mà mỗi văn phòng công chứng ký kết với doanh nghiệp bảo hiểm. Do vậy, để khắc phục được tình trạng kể trên, các nhà làm luật cần phải:
- Gấp rút ban hành một bản hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo mẫu, áp dụng thống nhất cho toàn bộ hệ thống tổ chức hành nghề công chứng để các thiệt hại do bất kỳ công chứng viên hay tổ chức hành nghề công chứng nào gây ra cũng sẽ được bảo hiểm với các điều khoản và điều kiện như nhau.
- Căn cứ vào uy tín cũng như kinh nghiệm hành nghề của các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam hoặc doanh nghiệp bảo hiểm quốc tế, thậm chí cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ chỉ định một doanh nghiệp bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng. Việt Nam có thể học hỏi ưu điểm về cách thức mua bảo hiểm nghề nghiệp cho công chứng viên tại các nước trong Liên minh công chứng quốc tế (UINL).
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trong Luật kinh doanh bảo hiểm theo hướng phải tuân thủ các quy tắc, điều khoản, biểu phí do Bộ tài chính phê chuẩn để tránh tình trạng doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm tự tiện áp dụng gây khó khăn, thiếu đồng nhất khi ký hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.
3.1.3. Ủy thác cho một tổ chức có tính trung gian (Hiệp hội công chứng) đứng ra mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Các tổ chức hành nghề công chứng nên ủy thác cho một tổ chức trung gian (hiệp hội công chứng) đứng ra mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trên cơ sở đóng góp của từng tổ chức hành nghề công chứng dựa vào doanh thu của mỗi tổ chức. Tìm hiểu toàn bộ nội dung Luật công chứng 2006, chúng ta không tìm thấy một quy định nào về hiệp hội nghề nghiệp dành cho các công chứng viên chứ chưa nói gì đến vai trò quản lý của hiệp hội đối với hoạt động bổ trợ tư pháp này. Hiện nay, các quy định về hội đang được ghi nhận tại một vài văn bản quy phạm pháp luật như Sắc lệnh số 102/SL/2004 ngày 20/5/1997 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Luật quy định về quyền lập hội, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, Thông tư số 11/2010/TT-BNV ngày 26/11/2010 của Bộ Nội Vụ quy định chi tiết thi hành Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010. Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/04/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 45/2010/NĐ-CP. Thông tư 03/2013/TT-BNV ngày 16/4/2013 của Bộ Nội Vụ quy định chi tiết thi hành Nghị định số 45/2010/NĐ-CP và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP.
Khoản 1, Điều 2 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội khẳng định:
Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng hành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan [20].
Như vậy, về mặt nguyên tắc hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cũng như tăng cường sự hợp tác giữa các hội viên. Nguyên tắc kể trên tiếp tục được cụ thể hóa trong một số điều luật khác của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Cụ thể, Điều 23, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội xác định “quyền của hội” như sau: Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
- Tổ chức, hoạt động theo điều lệ hội đã được phê duyệt.
- Tuyên truyền mục đích của hội.
- Đại diện cho hội viên trong mối quan hệ đối nội, đối ngoại có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của hội.
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên phù hợp với tôn chỉ, mục đích của hội.
- Tổ chức, phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của hội; hòa giải tranh chấp trong nội bộ hội.
- Phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên; cung cấp thông tin cần thiết cho hội viên theo quy định của pháp luật.
- Tham gia chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu, tư vấn, phản biện và giám định xã hội theo đề nghị của cơ quan nhà nước; cung cấp dịch vụ công về các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của hội, tổ chức dạy nghề, truyền nghề theo quy định của pháp luật.
- Thành lập pháp nhân thuộc hội theo quy định của pháp luật.
- Tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của hội theo quy định của pháp luật. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển hội và lĩnh vực hội hoạt động. Được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức các hoạt động dịch vụ khác theo quy định của pháp luật và được cấp chứng chỉ hành nghề khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ của hội.
- Được gây quỹ hội trên cơ sở hội phí của hội viên và các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải về kinh phí hoạt động.
- Được nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Được nhà nước hỗ trợ kinh phí đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của nhà nước giao.
- Cơ quan Trung ương hội có phạm vi hoạt động trong toàn quốc được gia nhập các tổ chức quốc tế tương ứng và ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế theo quy định của pháp luật và báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực hội hoạt động, cơ quan quyết định cho phép thành lập hội về việc gia nhập tổ chức quốc tế tương ứng, ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế [20].
“Nghĩa vụ của hội” được 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của động và quản lý hội: ghi nhận tại Điều 24 Nghị định số Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt
Chấp hành các quy định của pháp luật có liên quan đến tổ chức, hoạt động của hội và điều lệ hội. Không được lợi dụng hoạt động của hội để làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, đạo đức, thuần phong mỹ tục, truyền thống của dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Hội hoạt động thuộc lĩnh vực nào phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đó.
Trước khi tổ chức đại hội nhiệm kỳ ba mươi ngày, ban lãnh đạo hội phải có văn bản báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này và cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực hội hoạt động.
Việc lập văn phòng đại diện của hội ở địa phương khác phải xin phép Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt văn phòng đại diện và báo cáo bằng văn bản với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này.
Khi thay đổi Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký của hội, thay đổi trụ sở, sửa đổi, bổ sung điều lệ, hội phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này.
Việc lập các pháp nhân thuộc hội phải theo đúng quy định của pháp luật và báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này.
Hàng năm, hội phải báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động của hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này và cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực mà hội hoạt động, chậm nhất vào ngày 01 tháng 12 hàng năm.
Chấp hành sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tuân thủ pháp luật.
Lập và lưu giữ tại trụ sở hội danh sách hội viên, chi hội, văn phòng đại diện và các đơn vị trực thuộc hội, sổ sách, chứng từ về tài sản, tài chính của hội và văn phòng đại diện, biên bản các cuộc họp ban lãnh đạo hội.
Kinh phí thu được theo quy định tại khoản 11 và khoản 12 Điều 23 của Nghị định này phải dành cho hoạt động của hội theo quy định của điều lệ hội, không được chia cho hội viên.
Việc sử dụng kinh phí của hội phải chấp hành quy định của pháp luật. Hàng năm, hội phải báo cáo quyết toán tài chính theo quy định của Nhà nước gửi cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này về việc tiếp nhận, sử dụng nguồn tài trợ của cá nhân, tổ chức nước ngoài. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Xây dựng và ban hành quy tắc đạo đức trong hoạt động của hội [20].
Nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của hội đã được pháp luật chính thức ghi nhận, chúng ta thấy một trong những vai trò nổi trội của hiệp hội chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên. Cho dù hội được tổ chức theo quy mô nào, là hội thông thường hay hội có tính chất đặc thù, chức năng, nhiệm vụ cơ bản của hội sẽ được ghi nhận tại điều lệ hội. Minh chứng cho nhận định kể trên là Điều 5, Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Luật quy định quyền lập hội, theo đó “Hội thành lập hợp pháp phải hoạt động theo đúng điều lệ của hội và theo đúng các luật lệ hiện hành, được phép thu hội phí của hội viên, mua bán đổi chác tài sản cần thiết cho sự hoạt động của hội và thưa kiện trước Tòa án” [10]. Tiếp đó, các nội dung chính của điều lệ hội được liệt kê tại Điều 8, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 như: Tên gọi của hội; Tôn chỉ, mục đích, lĩnh vực và phạm vi hoạt động của hội; Nhiệm vụ, quyền hạn của hội; Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội; Thể thức vào hội, ra hội, thẩm quyền kết nạp, khai trừ hội viên; Tiêu chuẩn hội viên; Quyền, nghĩa vụ của hội viên; Cơ cấu, tổ chức, thể thức bầu và miễn nhiệm; nhiệm vụ, quyền hạn của ban lãnh đạo, ban kiểm tra, các chức vụ lãnh đạo khác của hội; nguyên tắc, hình thức biểu quyết; Tài sản, tài chính và phương thức quản lý tài sản, tài chính của hội; Điều kiện giải thể và thanh quyết toán tài sản, tài chính; Khen thưởng, kỷ luật; khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong nội bộ hội; Thể thức sửa đổi, bổ sung điều lệ; Hiệu lực thi hành.
Điều lệ hội sẽ được phê duyệt theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP và Điều 4, thông tư số 11/2010/TT-BNV ngày 26/11/2010, điều lệ hội có hiệu lực kể từ ngày được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trên thực tế, tại nước ta đã có sáu hội công chứng được thành lập và hoạt động là: Hội công chứng thành phố Hà Nội được thành lập năm 2011, năm 2012 đã có thêm 03 Hội công chứng (Hội công chứng Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Hải Dương, thành phố Đà Nẵng), Hội công chứng tỉnh Lâm Đồng và Hội công chứng thành phố Hải Phòng. Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu mô hình tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Hội công chứng thành phố Hà Nội, hội nghề nghiệp đầu tiên dành cho các công chứng viên tại Việt Nam. Cụ thể, tại Điều 2 Quyết định số 4498/QĐ-UBND ngày 28/9/2011 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội nêu rõ: “Hội công chứng thành phố Hà Nội là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp hoạt động trên cơ sở tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí hoạt động, chịu sự quản lý nhà nước của Sở Tư pháp và các sở ban, ngành có liên quan” [45]. Tiếp đó ngày 3/2/2012, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ra Quyết định số 635/QĐ-UBND phê duyệt Điều lệ Hội công chứng thành phố Hà Nội nhiệm kỳ I (2011-2014). Tham khảo toàn văn bản điều lệ gồm tám chương, hai mươi chín điều được ban hành kèm theo Quyết định kể trên, chúng ta thấy khi xác định “tôn chỉ, mục đích” bản điều lệ nêu rõ:
Hội công chứng thành phố Hà Nội là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các công chứng viên đang hành nghề công chứng tại Hà Nội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các công chứng viên là hội viên của hội; duy trì sự ổn định, phát triển hoạt động công chứng tại thành phố Hà Nội; xây dựng các giá trị chuẩn mực của công chứng Thủ đô, phát triển đội ngũ công chứng viên có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn giỏi, tinh thần trách nhiệm cao, đáp ứng nhu cầu công chứng của xã hội và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của Hà Nội, góp phần vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam [46, Điều 2].
“Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên khi xảy ra tranh chấp, hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp và hạn chế cạnh tranh không lành mạnh giữa các hội viên” cũng được khẳng định là một trong những “nhiệm vụ của Hội” được ghi nhận tại Điều 6, bản điều lệ kể trên. Trong khi “Đại diện cho hội viên trong các mối quan hệ đối nội, đối ngoại có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của hội” và “đề xuất ý kiến, kiến nghị giải quyết các trường hợp vụ việc gây thiệt hại, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Hội, của hội viên phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Hội” là nội dung các khoản 1 và khoản 6, Điều 7, Điều lệ Hội công chứng thành phố Hà Nội nhiệm kỳ I (2011-2014) được phê duyệt theo Quyết định số 635/QĐ-UBND ngày 3/2/2012 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Tham khảo thêm dự thảo Luật công chứng sửa đổi chúng ta thấy rằng vấn đề lập tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên đã được đề cập tới. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tiễn hoạt động của các Hội công chứng trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được theo tôi còn nhiều bất cập cần nhìn nhận đúng đắn. Ví dụ như vai trò quản lý của Hội còn mờ nhạt, các công chứng viên không tham gia sinh hoạt trong hội vì hội là tự nguyện, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng ảnh hưởng lớn tới chất lượng công chứng… Vì vậy, theo tôi cần quy định rõ khi đã được bổ nhiệm công chứng viên phải tham gia sinh hoạt trong Hội công chứng, tham gia những khóa bồi dưỡng nghiệp vụ của Hội, tuân thủ quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, không được có hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Hội công chứng sẽ đứng ra đóng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các tổ chức hành nghề công chứng và phải có chế tài nghiêm khắc nếu vi phạm.
Như vậy, từ những quy định của pháp luật về hội cũng như căn cứ theo Điều lệ của Hội công chứng thành phố Hà Nội, việc hiệp hội nghề nghiệp đứng ra làm cơ quan trung gian mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng là điều hoàn toàn phù hợp. Nếu thực hiện theo phương án này, chúng ta sẽ giải quyết được một số vấn đề sau:
Bảo đảm được tính lâu dài, thường xuyên và liên tục của Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp do về mặt quy định cũng như trên thực tế, hiệp hội nghề nghiệp chắc chắn sẽ tồn tại lâu dài, bền vững hơn từng tổ chức hành nghề công chứng đơn lẻ.
Là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền lợi cho hội viên, hiệp hội nghề nghiệp căn cứ trên đặc thù chuyên môn của hoạt động công chứng sẽ tìm ra phương án mua bảo hiểm tối ưu nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng.
Có thể đứng ra thay mặt cho hội viên nhằm thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm, người yêu cầu công chứng, bên có quyền lợi nghĩa vụ liên quan các vấn đề như cách thức xác định thiệt hại, mức độ, phương thức bồi thường… khi xảy ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng hoặc bên thứ ba.
Nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng cũng như người yêu cầu công chứng, phí bảo hiểm nên được tính trên cơ sở tổng doanh thu của tổ chức hành nghề công chứng.
3.2. BỔ SUNG MỘT VÀI HÌNH THỨC KHÁC NHẰM BẢO ĐẢM TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO CÔNG CHỨNG VIÊN GÂY RA TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
Đối với công chứng viên là công chức, viên chức làm việc tại Phòng công chứng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được thực hiện theo Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009 và Luật viên chức 2010. Đối với các công chứng viên làm việc tại Văn phòng công chứng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên được bảo đảm thực hiện bằng một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự do Văn phòng công chứng nơi công chứng viên đó làm việc giao kết với doanh nghiệp bảo hiểm, thậm chí bằng toàn bộ tài sản của văn phòng công chứng. Tuy cách thức thực hiện trách nhiệm bồi thường của công chứng viên làm việc tại phòng công chứng hay văn phòng công chứng có khác nhau nhưng tựu trung lại, tổ chức hành nghề công chứng mới là chủ thể đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra khi thi hành chức nghiệp. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Về mặt nguyên tắc trách nhiệm pháp lý nói chung hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên nói riêng chỉ xuất hiện trong trường hợp công chứng viên không thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định. Trách nhiệm dân sự thường xuất phát từ việc vi phạm nghĩa vụ dân sự (xem Mục 3, chương XVII, phần thứ 3 Bộ luật dân sự 2005), hiện nay có bẩy biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp. Trong khi để bảo đảm thực hiện trách nhiệm dân sự, bao gồm cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các nhà làm luật xác định hợp đồng bảo hiểm là hình thức duy nhất. Tham chiếu với Luật công chứng 2006, chúng ta không tìm thấy bất kỳ một điều luật cụ thể nào cho phép áp dụng một hay toàn bộ bảy biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự nhằm bảo đảm cho việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên.
Trở lại với khái niệm nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự chúng ta thấy đây là hai thuật ngữ pháp lý hoàn toàn khác nhau nhưng lại có một số điểm trùng khí lên nhau. Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản từ điển Bách khoa, Nhà xuất bản tư pháp ấn hành năm 2006 nêu rõ: “Trách nhiệm dân sự bao gồm buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm” [52]. Như vậy, dưới góc nhìn vừa nêu, khoa học pháp lý khẳng định nghĩa vụ dân sự chính là một hình thức của trách nhiệm dân sự. Điều này có nghĩa là trong một số trường hợp nhất định, chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng một số biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đã được pháp luật dân sự hiện hành ghi nhận nhằm bảo đảm thực hiện trách nhiệm dân sự. Nói cụ thể hơn, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra, ngoài việc được bảo đảm bằng một bản hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp còn có thể được bảo đảm bằng một hoặc một số biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều 280 Bộ luật dân sự 2005 cho rằng:
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền) [31].
Trong khi đó, chúng ta không tìm thấy bất cứ điều luật nào quy định về trách nhiệm dân sự trong Bộ luật dân sự 2005. Tuy nhiên, dựa trên những nguyên nhân làm phát sinh “trách nhiệm dân sự” được xác định tại Bộ luật dân sự 2005, chúng ta thấy trách nhiệm dân sự có các dạng, loại như sau: Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự (Điều 302), trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Điều 303), trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc (Điều 304), trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 305) và trách nhiệm dân sự do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 306).
Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa – Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2006:
Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ: Hợp đồng dân sự; hành vi dân sự đơn phương; việc chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; việc gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật; thực hiện công việc không có ủy quyền và từ các căn cứ khác do pháp luật quy định. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự có thể là tài sản, công việc phải làm hoặc không được làm. Chỉ những tài sản có thể đem giao dịch được và những công việc có thể thực hiện được mà pháp luật không cấm, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của nghĩa vụ dân sự [52].
Còn trách nhiệm dân sự là “trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại” [52].
Như vậy, đứng dưới một giác độ nào đó, trách nhiệm dân sự không chỉ có nguồn gốc từ việc vi phạm nghĩa vụ dân sự mà giữa hai thuật ngữ pháp lý kể trên còn có những điểm trùng lặp nhất định. Với cách nhìn nhận kể trên cũng như xuất phát từ đặc thù chuyên môn của hoạt động công chứng, chúng ta hãy đối chiếu, xem xét liệu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nào tỏ ra phù hợp với cách thức bảo đảm thực hiện trách nhiệm dân sự hay nói chính xác hơn là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng hay không? Và trong số các hình thức của trách nhiệm dân sự (buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm) xem có hình thức nào có thể áp dụng vào lĩnh vực công chứng?
3.2.1. Áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có sự xuất hiện của một bên trung gian thứ ba (cầm cố, thế chấp, ký quỹ) Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Nghiên cứu bẩy biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp) chúng ta thấy những biện pháp như đặt cọc, ký cược, bảo lãnh, tín chấp không có sự xuất hiện của một bên trung gian thứ ba hoàn toàn không phù hợp với cơ chế bảo đảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra. Và ngược lại những biện pháp có sự xuất hiện của bên trung gian thứ ba như cầm cố, thế chấp, ký quỹ lại tỏ ra rất thích hợp khi áp dụng vào chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng. Tại sao lại như vậy? Chúng ta đi tìm hiểu cụ thể sau đây.
Điều 326 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” [31].
Khoản 1 Điều 342 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp” [31].
Nhìn một cách khái quát, chúng ta thấy trong hợp đồng cầm cố xuất hiện tối thiểu hai chủ thể là bên cầm cố và bên nhận cầm cố. Tuy nhiên, các nhà làm luật không xác định rõ nghĩa vụ dân sự phải thuộc về bên cầm cố nên bên cầm cố hoàn toàn có thể cầm cố tài sản của mình nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho bên thứ ba. Như vậy, công chứng viên hoàn toàn có thể cầm cố hoặc thế chấp tài sản thuộc sở hữu của bản thân cho bên nhận cầm cố, nhận thế chấp (ví dụ như một pháp nhân được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng 2010) nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình khi thực thi chức nghiệp. Trong trường hợp công chứng viên không có tài sản thì một cá nhân, tổ chức có tài sản cũng có thể sử dụng tài sản của mình để cầm cố, thế chấp cho bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cho công chứng viên đó. Khi phát sinh nghĩa vụ dân sự của công chứng viên, tổ chức trung gian này sẽ có trách nhiệm đứng ra bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại (một hình thức của nghĩa vụ dân sự) cho người yêu cầu công chứng. Quy định của pháp luật hiện hành cũng cho phép một chủ thể thứ ba trực tiếp quản lý tài sản thế chấp (Điều 352 Bộ luật dân sự 2005).
Khoản 1, Điều 360 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự” [31].
Điểm khác biệt lớn nhất khi so sánh ký quỹ với biện pháp cầm cố và thế chấp tài sản ở chỗ bên trung gian đã được khẳng định là một ngân hàng. Nghĩa vụ dân sự được bảo đảm chỉ có thể là nghĩa vụ của bên ký quỹ. Theo đó, công chứng viên ký quỹ một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá tại ngân hàng nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình nếu phát sinh.
Điều 358 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự” [31]. Nếu áp dụng vào lĩnh vực công chứng, khi giải quyết yêu cầu công chứng của đương sự, công chứng viên phải giao cho người yêu cầu công chứng một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Rõ ràng, khả năng áp dụng biện pháp đặt cọc vào lĩnh vực công chứng là rất thấp vì: Việc giao cho người yêu cầu công chứng động sản của công chứng viên sẽ khiến cho công chứng viên có thể gặp nhiều rủi ro khi giao trực tiếp tài sản của bản thân cho người yêu cầu công chứng. Hơn nữa, trách nhiệm dân sự của công chứng viên là trách nhiệm ngoài hợp đồng nên rõ ràng công chứng viên và người yêu cầu công chứng sẽ không giao kết cũng như thực hiện bất cứ một hợp đồng dân sự cụ thể nào.
Khoản 1, Điều 539 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản ký cược) trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê” [31]. Từ khái niệm kể trên chúng ta thấy biện pháp bảo đảm ký cược cũng không phù hợp khi áp dụng vào hoạt động công chứng vì: Biện pháp bảo đảm kể trên chỉ được sử dụng nhằm bảo đảm bên thuê sẽ trả lại tài sản thuê cho bên cho thuê khi hai bên giao kết hợp đồng thuê tài sản. Hơn nữa, cũng giống như biện pháp đặt cọc, việc ký cược một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hay vật có giá trị khác chỉ được phép diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định mà không thể xác định có hay không trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên.
Điều 361 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình [31].
Nghĩa vụ dân sự của công chứng viên chỉ có thể là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Trong một số tình huống đã dự liệu, bên bảo lãnh sẽ phải đưa tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ cho bên nhận bảo lãnh (xem Điều 369 Bộ luật dân sự 2005). Do nhiều yếu tố pháp lý khác nhau như: Tương quan giữa giá trị tài sản bảo lãnh và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, vấn đề đăng ký giao dịch bảo đảm…) nên người yêu cầu công chứng rất khó có thể trở thành bên nhận bảo lãnh mỗi khi đề nghị công chứng viên công chứng bất kỳ một hợp đồng, giao dịch dân sự nào. Vì thế, việc áp dụng biện pháp bảo lãnh vào nhằm bảo đảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên là không phù hợp.
Điều 372 Bộ luật dân sự 2005 quy định về tín chấp: “Tổ chức chính trị – xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính phủ” [31].
Cũng như ký cược, đối tượng áp dụng của biện pháp bảo đảm này tương đối hẹp. Trong biện pháp bảo đảm tín chấp, chỉ có tổ chức chính trị – xã hội mới có quyền đứng ra bảo đảm, còn bên được bảo đảm chỉ giới hạn bởi cá nhân, hộ gia đình nghèo. Nghĩa vụ ở biện pháp bảo đảm này cũng được khẳng định là một khoản tiền do ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng cho vay nhằm để sản xuất, kinh doanh. Rõ ràng, với các quy định cụ thể, chi tiết như được mô tả ở trên, việc áp dụng biện pháp bảo đảm tín chấp vào vấn đề bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra là không phù hợp. Tóm lại, từ sự phân tích ở trên chúng ta thấy các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự không có sự xuất hiện của bên trung gian thứ ba (tương tự như vai trò của doanh nghiệp bảo hiểm trong hợp đồng trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên) như đặt cọc, ký cược, bảo lãnh, tín chấp sẽ không phù hợp khi áp dụng vào bảo đảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng.
3.2.2. Áp dụng một số biện pháp trách nhiệm dân sự khác như buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, phạt vi phạm Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Chúng ta đã biết việc hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý nói chung hay trách nhiệm dân sự nói riêng của công chứng viên luôn là vấn đề được các nhà làm luật quan tâm một cách đúng mức. Tại mỗi văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực công chứng qua từng giai đoạn lịch sử nhất định, trách nhiệm pháp lý của công chứng viên ngày càng được ghi nhận đầy đủ hơn, chi tiết hơn, tương xứng với vai trò, trách nhiệm của công chứng viên. Tuy nhiên, trong khi công chứng viên phải gánh chịu toàn bộ ba loại trách nhiệm pháp lý (bao gồm trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự) nhưng lại chỉ gánh chịu duy nhất trách nhiệm bồi thường thiệt hại, một hình thức của trách nhiệm dân sự. Quy định về trách nhiệm dân sự, mà đặc biệt là trách nhiệm bồi thường thiệt hại hầu như không thay đổi qua các thời kỳ. Nói cụ thể hơn, ngoài hình thức bồi thường thiệt hại, công chứng viên không phải là đối tượng của các hình thức trách nhiệm khác như: Buộc xin lỗi, cải chính công khai, chấm dứt hành vi vi phạm,…Dưới một giác độ nào đó các luật gia chia trách nhiệm bồi thường làm hai loại là trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần. Và nếu như căn cứ vào nội dung Điều 58 Luật công chứng 2006, công chứng viên sẽ phải gánh chịu cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần. Tuy nhiên, từ những quy định của pháp luật hiện hành, chúng ta mới chỉ quan tâm tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất chứ không mấy để ý tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần.
Từ thực tiễn công tác với tư cách là một công chứng viên cũng như xuất phát từ quyền, nghĩa vụ của công chứng viên được pháp luật quy định tôi thấy một vài hình thức khác của trách nhiệm dân sự như buộc xin lỗi, cải chính công khai, chấm dứt hành vi vi phạm, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể áp dụng trong lĩnh vực công chứng.
Buộc xin lỗi:
Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa – Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành thì buộc công khai xin lỗi là:
Biện pháp tư pháp do tòa án quyết định buộc người vi phạm pháp luật phải công khai xin lỗi người bị vi phạm. Người bị buộc công khai xin lỗi người bị hại trước sự chứng kiến của Tòa án. Buộc công khai xin lỗi chỉ được áp dụng đối với các trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, có gây thiệt hại về tinh thần [52].
Từ khái niệm nêu trên, chúng ta thấy hình thức trách nhiệm buộc xin lỗi thường gắn liền với vi phạm gây ra thiệt hại về tinh thần. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của công chứng viên được ghi nhận tại Luật công chứng 2006, có thể khẳng định rằng hình thức nghĩa vụ dân sự nêu trên nên được áp dụng cho công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ như, tại Điều 52 Luật công chứng 2006 quy định về trình tự, thủ tục “Nhận lưu giữ di chúc” như sau: “Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nhận lưu giữ di chúc của mình. Khi nhận lưu giữ di chúc, công chứng viên phải niêm phong bản di chúc trước mặt người lập di chúc, ghi giấy nhận lưu giữ và giao cho người lập di chúc” [33]. Giả thiết, nếu bản di chúc lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng này bị thất lạc nhưng người để lại bản di chúc vẫn còn minh mẫn, khỏe mạnh và sẵn sàng lập lại một bản di chúc mới với nội dung không thay đổi. Trong tình huống này, thiệt hại về vật chất là không đáng kể nhưng yêu cầu nhận được một lời xin lỗi từ phía công chứng viên của người yêu cầu công chứng là hoàn toàn chính đáng. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Cải chính công khai:
Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa – Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2006:
Cải chính công khai là việc sửa chữa lại những thông tin sai lệch về một chủ thể cho đúng với sự thật trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình…để mọi người đều biết.
Cải chính công khai là một trong những biện pháp chế tài dân sự được áp dụng để bảo vệ quyền nhân thân của các chủ thể trong giao lưu dân sự. Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm, thì người đó có quyền yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu tòa án buộc người có hành vi vi phạm phải cải chính công khai; ngoài ra, người bị vi phạm cũng có quyền tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng [52].
Như vậy, hình thức trách nhiệm dân sự cải chính công khai luôn song hành với quan hệ nhân thân bao gồm cả quan hệ nhân thân gắn với tài sản và quan hệ nhân thân không gắn với tài sản. Hình thức trách nhiệm dân sự cải chính công khai có vẻ như không mấy phù hợp với lĩnh vực tư pháp. Điều 2 Luật công chứng 2006 khẳng định: “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng” [33]. Điều này có nghĩa hoạt động chuyên môn của công chứng viên thường đi đôi, gắn liền với quan hệ tài sản chứ không phải là quan hệ nhân thân, đặc biệt là quan hệ nhân thân không gắn với tài sản.
Chấm dứt hành vi vi phạm:
Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa – Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2006, buộc chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật là:
Tổng hợp các biện pháp, cách thức do các chủ thể có quyền bị xâm hại hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để tác động vào chủ thể có hành vi vi phạm, nhằm cưỡng chế người có hành vi phạm pháp luật phải ngừng lại, không được tiếp tục thực hiện hành vi đó hoặc phải thực hiện hành vi nhất định. Hành vi vi phạm pháp luật trong pháp luật dân sự có thể là sự vi phạm các quy định của pháp luật hoặc là sự vi phạm cam kết, thỏa thuận của các bên. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Buộc chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật có thể là buộc phải kiềm chế không được tiếp tục thực hiện hành vi đó hay phải thực hiện hành vi tích cực đem lại lợi ích cho người bị thiệt hại bởi phạm [52].
Để kiểm chứng liệu hình thức trách nhiệm dân sự buộc chấm dứt hành vi phạm pháp luật có phù hợp với quyền hạn, nghĩa vụ của công chứng viên theo luật định hay không, ta tham khảo ví dụ sau. Tại điểm a, khoản 1, Điều 12 Luật công chứng 2006, khi liệt kê “Các hành vi bị nghiêm cấm” đã khẳng định công chứng viên không được “tiết lộ thông tin về nội dung công chứng mà mình biết được khi hành nghề, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; sử dụng thông tin đó để xâm hại quyền, lợi ích của người khác” [33]. Giả thiết trong tình huống này công chứng viên vi phạm nghĩa vụ giữ bí mật, tiết lộ thông tin liên quan tới khách hàng mà anh ta biết được khi hành nghề. Rõ ràng, trong tình huống kể trên việc bắt buộc công chứng viên chấm dứt hành vi vi phạm, cụ thể là tiết lộ thông tin liên quan tới vụ việc đã được công chứng, trở nên hết sức cần thiết.
Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự:
Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa – Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2006, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự là:
Tổng hợp những biện pháp, cách thức do các chủ thể có quyền thực hiện hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng nhằm tác động vào người có nghĩa vụ, cưỡng chế họ phải thực hiện đúng nghĩa vụ mà họ đã cam kết thỏa thuận. Biện pháp này được áp dụng để bảo vệ quyền lợi của bên có quyền trong các quan hệ nghĩa vụ, khi người có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của họ [52].
Đây là hình thức trách nhiệm dân sự hoàn toàn có thể áp dụng một cách hoàn hảo trong lĩnh vực công chứng. Khoản 1 Điều 63 Luật công chứng 2006 nêu rõ: “Người yêu cầu công chứng có quyền khiếu nại về việc từ chối công chứng khi có căn cứ cho rằng việc từ chối đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình” [33]. Về mặt nguyên tắc, công chứng viên dù hành nghề tại phòng công chứng hay văn phòng công chứng đều phải có trách nhiệm thực hiện công chứng khi tiếp nhận những yêu cầu công chứng hợp pháp của đương sự mà không được từ chối với bất kỳ lý do gì. Nếu có căn cứ cho rằng việc từ chối thực hiện công chứng của công chứng viên là không phù hợp với quy định của pháp luật, cơ quan chức năng hoàn toàn có thể yêu cầu công chứng viên giải quyết yêu cầu công chứng hợp pháp cho đương sự. Trong số bốn hình thức khác của trách nhiệm dân sự như đã nêu, ngoài trừ hình thức cải chính công khai, ba hình thức trách nhiệm dân sự còn lại là buộc xin lỗi, buộc chấm dứt hành vi vi phạm và buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể được áp dụng một cách hữu ích vào lĩnh vực công chứng. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nghiên cứu một cách cẩn trọng khi quyết định áp dụng các hình thức trách nhiệm dân sự kể trên cho công chứng viên, bảo đảm không bị trùng lặp với phạm vi điều chỉnh hay nói chính xác hơn là các hành vi bị xử lý vi phạm hành chính được quy định tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11/11/2013.
3.3. XÂY DỰNG CÁC TIÊU CHÍ NHẰM XÁC ĐỊNH CỤ THỂ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN LÀM CƠ SỞ XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Hiện nay, quy định về “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” được ghi nhận tại Chương XXI, Phần thứ ba, Bộ luật dân sự 2005 (từ Điều 604 đến Điều 630 Bộ luật dân sự 2005). Trong Chương XXI, Phần thứ ba, Bộ luật dân sự 2005 các nhà làm luật chia ra ba mục nhỏ có quan hệ mật thiết với nhau.
Toàn bộ mục 1 bao gồm 4 Điều luật (từ Điều 604 đến Điều 607) đưa ra “những quy định chung” xác định một số vấn đề mang tính nền tảng cho trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Áp dụng những điều luật kể trên vào lĩnh vực công chứng chúng ta thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên xuất hiện khi công chứng viên gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng trên các phương diện như: Uy tín, tài sản…do không thực hiện đúng, đủ chức phận khi hành nghề. Về mặt nguyên tắc công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng phải tự mình đứng ra bồi thường kịp thời và toàn bộ thiệt hại cho người yêu cầu công chứng, các bên có thể thỏa thuận với nhau về mức bồi thường này
Toàn bộ nội dung Mục 2 được dành cho việc “Xác định thiệt hại” như: Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm (Điều 608); Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm (Điều 609); Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm (Điều 610); Thiệt hại do danh dự, nhâm phẩm, uy tín bị xâm phạm (Điều 611)…Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ của hoạt động công chứng nói chung hay của công chứng viên nói riêng, chúng ta thấy thiệt hại do công chứng viên hay tổ chức hành nghề công chứng gây ra chủ yếu rơi vào trường hợp được dự liệu tại Điều 608 Bộ luật dân sự 2005 (thiệt hại do tài sản bị xâm phạm).
Mục 3 được dành để quy định về “Bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể”. Trong số các tình huống bồi thường được dự liệu tại mục 3, chúng ta thấy xuất hiện hai trường hợp có thể áp dụng vào lĩnh vực công chứng. Cụ thể, Điều 618 Bộ luật dân sự 2005 quy định về “Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra” hoàn toàn phù hợp với công chứng viên công tác tại các văn phòng công chứng cho dù không phải văn phòng công chứng nào cũng có tư cách pháp nhân (xem Điều 26 Luật công chứng 2006, Điều 141 Luật doanh nghiệp 2005 và Điều 84 Bộ luật dân sự 2005). Trong khi đó, Điều 619 Bộ luật dân sự 2005 quy định về “Bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra” lại rất thích hợp với công chứng viên làm việc tại Phòng công chứng (xem Điều 24 Luật công chứng 2006; Điều 1 Luật viên chức 2010 và Điều 65 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009). Cho dù biện pháp xác định thiệt hại như thế nào, cách thức bồi thường thiệt hại ra sao…nhưng điều quan trọng nhất khi tiến hành định lượng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chính là việc chúng ta phải xác định được một cách chi tiết “nghĩa vụ” của bên vi phạm, gây thiệt hại. Áp dụng tiêu chí vừa nêu vào lĩnh vực công chứng, chúng ta thấy về thực chất đây chính là từng quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể mà công chứng viên phải thực thi khi thi hành chức nghiệp của mình.
Trở lại với các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực công chứng qua từng thời kỳ, chúng ta thấy nhiệm vụ, quyền hạn của công chứng viên hay trình tự, thủ tục thực hiện các việc làm công chứng cụ thể luôn là một quy định không thể thiếu. Qua nghiên cứu, tôi nhận thấy rằng cho tới thời điểm hiện tại Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng (sau đây gọi là Thông tư số 858/QLTPK) vẫn là một trong những văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể nhất, chi tiết nhất quyền hạn, nhiệm vụ của công chứng viên khi thực thi chức nghiệp. Tại văn bản này các nhà làm luật đã dành toàn bộ phần I (bao gồm chín mục) cho việc liệt kê “Những yêu cầu cơ bản đối với việc làm công chứng” trong khi tám mục tại Phần II lại được dành để xác định “Trình tự thực hiện các việc làm công chứng”. Như vậy, ngay từ những văn bản quy phạm pháp luật mang tính tiên phong điều chỉnh lĩnh vực công chứng, trình tự, thủ tục công chứng nói chung hay quyền hạn, nhiệm vụ của công chứng viên nói riêng đã được quy định thành hai bộ phận rõ rệt. Bộ phận thứ nhất đưa ra những yêu cầu chung nhất, mang tính tổng quát mà công chứng viên phải tuân thủ khi tiến hành giải quyết bất kỳ yêu cầu công chứng nào. Ví dụ như, tại
Thông tư số 858/QLTPK, các nhà làm luật đã dành toàn bộ Mục 3 để quy định về “Giữ bí mật việc làm công chứng”, mục 4 đề cập tới “Địa điểm thực hiện các việc làm công chứng” mục 5 nói về “Đảm bảo thời hạn thực hiện các việc làm công chứng”. Trong khi bộ phận thứ hai lại liệt kê chi tiết yêu cầu áp dụng cho từng loại việc công chứng cụ thể. Đơn cử, toàn bộ phần II, Thông tư số 858/QLTPK được dành để xác định trình tự, thủ tục công chứng các việc: Chứng thực chữ ký (xem Mục 1); chứng nhận bản sao giấy tờ, tài liệu (xem mục 2); chứng nhận giấy ủy quyền (xem mục 3); chứng nhận các hợp đồng chuyển dịch tài sản và các hợp đồng có ý nghĩa pháp lý khác (xem mục 4); chứng nhận di chúc và văn bản thuận phân chia tài sản thừa kế (xem mục 5); nhận giữ tài liệu, giấy tờ (xem mục 6); chứng nhận phần tài sản riêng trong tài sản chung của vợ chồng (xem mục 7) và cấp kháng nghị hàng hải (xem Mục 8).
Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng bBộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ra đời, toàn bộ chương III được sử dụng để ấn định “trình tự, thủ tục thực hiện các việc công chứng”. Nghị định này quy định cụ thể hơn về quyền của công chứng viên (Điều 17 Nghị định số 45/HĐBT) và nhiệm vụ của công chứng viên (Điều 16 Nghị định số 45/HĐBT). Cụ thể, Điều 16 Nghị định số 45/HĐBT nêu: Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Khi thực hiện công chứng, công chứng viên có nhiệm vụ:
- Tiếp nhận, kiểm tra các giấy tờ, tài liệu do đương sự nộp, xuất trình; trường hợp cần thiết phải tiến hành xác minh. Trực tiếp soạn thảo hoặc hướng dẫn cho đương sự soạn thảo hợp đồng và giấy tờ, nếu họ đề nghị;
- Trực tiếp thực hiện công chứng, ký văn bản công chứng, đóng dấu Phòng công chứng nhà nước và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về việc công chứng do mình thực hiện;
- Ghi việc công chứng đã thực hiện vào sổ công chứng;
- Lưu giữ các văn bản công chứng;
- Trường hợp cần thiết, giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa pháp lý của việc công chứng [26].
Điều 17 Nghị định số 45/HĐBT liệt kê các quyền của công chứng viên:
- Yêu cầu đương sự nộp hoặc xuất trình đầy đủ các giấy tờ, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện công chứng;
- Yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức khác cung cấp giấy tờ, tài liệu cần thiết để thực hiện công chứng;
- Yêu cầu cơ quan chuyên môn giám định hoặc làm tư vấn khi thấy cần thiết;
- Từ chối thực hiện công chứng đối với các trường hợp quy định tại Điều 18 của Nghị định này [26].
Trở lại với khái niệm “Nghĩa vụ dân sự” được ghi nhận tại Điều 280 Bộ luật dân sự 2005, dưới một góc nhìn nào đó, chúng ta có thể thấy rằng nhiệm vụ và quyền của công chứng viên được pháp luật công chứng ghi nhận chính là nghĩa vụ dân sự của công chứng viên. Điều này có nghĩa là nếu công chứng viên vi phạm nghĩa vụ mà gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng thì phải gánh chịu trách nhiệm dân sự, bao gồm cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước thay thế cho Nghị định 45/HĐBT với danh sách đầu việc công chứng được hướng dẫn không có nhiều thay đổi. Thông tư số 01/TT-LB ngày 3/7/1996 của liên bộ Ngân hàng nhà nước- Tài chính- Tư pháp hướng dẫn thủ tục về thế chấp, cầm cố tài sản đối với doanh nghiệp nhà nước và thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp, cầm cố và bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, chúng ta thấy Điều 21 ghi nhận nhiệm vụ của công chứng viên; Điều 22 được sử dụng để liệt kê quyền của công chứng viên; Điều 23 xác định những trường hợp công chứng viên không được thực hiện công chứng.
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực ra đời thay thế cho Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, chúng ta thấy nhiệm vụ và quyền hạn của công chứng viên lại có một vài thay đổi nhất định. Chưa từng có tiền lệ, “Nhiệm vụ, quyền hạn của người thực hiện công chứng, chứng thực” được xếp riêng thành một chương (Chương V, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP); chương VI Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định trình tự, thủ tục “công chứng, chứng thực hợp đồng giao dịch” cũng lần đầu tiên được tách bạch thành hai mục. Mục I đưa ra “những quy định chung” bao gồm năm điều luật (từ điều 41 đến Điều 45) xác định những yêu cầu khái quát nhất áp dụng khi giải quyết bất kỳ yêu cầu công chứng nào. Mục II đề cập tới “Những quy định riêng về công chứng, chứng thực một số hợp đồng, giao dịch” bao gồm chín điều luật (Từ Điều 46 đến Điều 54) hướng dẫn thủ tục công chứng một số loại hợp đồng, giao dịch cụ thể. Tham khảo nội dung chương II, chương VI và toàn bộ chương VII Nghị định số 75/2000/NĐ-CP chúng ta thấy danh sách từng đầu việc công chứng được hướng dẫn trình tự, thủ tục một cách cụ thể, chi tiết cũng không hoàn toàn tương tự so với nội dung những điều luật cùng loại trước đó. Sau này, một số quy định cả về phần yêu cầu chung và phần trình tự, thủ tục riêng như đã mô tả ở trên tiếp tục được bổ sung tại Thông tư số 03/2001/TP-CC ngày 14/3/2001 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành nghị định số 75/2000/NĐ-CP. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Căn cứ nội dung Luật công chứng 2006, để xác định nhiệm vụ, quyền hạn của công chứng viên khi tác nghiệp chúng ta cần phải tham khảo rất nhiều quy định khác nhau của pháp luật có liên quan. Nhìn một cách khái quát, toàn bộ Chương IV, Luật công chứng 2006 được dành để hướng dẫn “Thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch” bao gồm mười tám điều luật (từ Điều 35 đến Điều 52) và được chia thành hai mục. Mục 1 đưa ra “Thủ tục chung về công chứng hợp đồng, giao dịch”, Mục 2 nói tới “Thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp bất động sản, di chúc, văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản, văn bản từ chối nhận di sản và nhận lưu giữ di chúc”. Đặc biệt lúc này “Quyền và nghĩa vụ của công chứng viên” chỉ còn được ghi nhận duy nhất tại một điều luật (Điều 22 Luật công chứng 2006). Tìm hiểu thêm nội dung một vài văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật công chứng 2006 như Nghị định số 04/2013/NĐ-CP hay trước đây là Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/1/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng. Thông tư số 11/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số nội dung về công chứng viên, tổ chức và hoạt động công chứng, quản lý nhà nước về công chứng. Chúng ta nhận thấy chỉ có lác đác một vài quy định đơn lẻ được ghi nhận tại Nghị định số 04/2013/NĐ-CP và Thông tư số 11/2011/TT-BTP có liên quan tới quyền hạn và nhiệm vụ của công chứng viên khi thi hành chức nghiệp. Đến đây, chúng ta có thể đưa ra một vài nhận xét về cách thức xác định nhiệm vụ và quyền hạn của công chứng viên trong hoạt động công chứng qua các thời kỳ như sau:
- Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của công chứng viên trong hoạt động chuyên môn công chứng luôn hiện diện trong hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực công chứng.
- Tuy nội dung điều luật cụ thể có khác nhau nhưng nhiệm vụ, quyền hạn của công chứng viên được phân chia thành hai bộ phận: Các yêu cầu mang tính khái quát, áp dụng chung cho bất kỳ yêu cầu công chứng nào và phần quy định mang tính chuyên biệt, chỉ dành riêng cho một vài loại việc công chứng cụ thể thường gặp.
- Tùy vào mỗi giai đoạn, cả những quy định mang tính khái quát, áp dụng chung hay danh sách các đầu việc công chứng được hướng dẫn trình tự, thủ tục riêng đều có những thay đổi nhất định, tùy thuộc theo quan điểm của các nhà làm luật.
- Trước thời điểm Luật công chứng 2006 có hiệu lực, nhiệm vụ và quyền hạn của công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ không được phân định một cách rạch ròi (ví dụ như nghĩa vụ lưu giữ văn bản công chứng).
Xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, tôi cho rằng cách thức quy định quyền hạn và nghĩa vụ của công chứng viên trong khi hành nghề, làm cơ sở để xác định trách nhiệm dân sự nói chung hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng, như hiện tại vẫn chưa rõ ràng, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Ví dụ như khi quy định trình tự, thủ tục “công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn”, khoản 1 và khoản 2 Điều 35 Luật công chứng 2006 và khoản 1 Điều 36 Luật công chứng 2006 khẳng định:
Người yêu cầu công chứng nộp một bộ hồ sơ yêu cầu công chứng, gồm các giấy tờ sau đây:
- Phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch theo mẫu; b. Dự thảo hợp đồng, giao dịch; c. Bản sao giấy tờ tùy thân;
- Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó;
- Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có.
- Bản sao quy định tại khoản 1 Điều này là bản chụp, bản in, bản đánh máy hoặc bản đánh máy vi tính nhưng phải có nội dung đầy đủ, chính xác như bản chính và không phải có chứng thực.
Khi nộp bản sao thì người yêu cầu công chứng phải xuất trình bản chính để đối chiếu [33].
Nhìn thoáng qua, chúng ta thấy quy định vừa nêu rất chi tiết, tạo điều kiện thuận lợi một cách tối đa cho cả người yêu cầu công chứng lẫn công chứng viên khi giải quyết từng yêu cầu công chứng cụ thể. Tuy nhiên, có vẻ như điều luật kể trên lại không mấy tương thích với một số văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Trong thực tiễn, tôi thấy các giấy tờ hộ tịch như giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn, giấy chứng tử, quyết định công nhận việc giám hộ, giấy xác nhận tình trạng hôn nhân…đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động công chứng. Về mặt nguyên tắc, khi xuất trình các loại giấy tờ hộ tịch kể trên trong bộ hồ sơ yêu cầu công chứng, đương sự chỉ cần nộp dưới dạng “bản chụp, bản in, bản đánh máy hoặc bản đánh máy vi tính” nhưng phải có nội dung đầy đủ, chính xác như bản chính. Tuy nhiên, cũng theo quy định kể trên, trong mọi trường hợp người yêu cầu công chứng còn phải xuất trình bản chính các giấy tờ trong “bộ hồ sơ yêu cầu công chứng” để kiểm tra, đối chiếu. Điều đáng nói ở đây chính là không phải lúc nào người yêu cầu công chứng cũng có thể xuất trình được bản chính các loại giấy tờ kể trên vì một số lý do khách quan cũng như chủ quan. Hiện nay trình tự thủ tục cấp các loại giấy tờ hộ tịch được ghi nhận tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch (sau đây gọi là Nghị định số 158/2005/NĐ-CP); Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 2/2/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực; Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 2/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005…Tham khảo nội dung những văn bản quy phạm pháp luật vừa nêu, chúng ta thấy các nhà làm luật cũng đã dự liệu tới một vài tình huống mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền được phép cấp bản sao hoặc thậm chí là cấp lại bản chính giấy tờ hộ tịch cho đương sự. Ví dụ như toàn bộ chương IV Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 06/2012/NĐ-CP) quy định “về việc cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch, cấp lại bản chính giấy khai sinh”. Như vậy, khi tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, nếu căn cứ vào quy định của Luật công chứng 2006, công chứng viên sẽ từ chối trong trường hợp đương sự không thể xuất trình được bản chính giấy tờ hộ tịch để kiểm tra. Trong khi đó, nếu dựa trên các quy định về đăng ký và quản lý hộ tịch hiện hành, công chứng viên lại hoàn toàn có thể sử dụng bản sao làm căn cứ đối chiếu các loại giấy tờ hộ tịch cần hiện diện trong bộ hồ sơ yêu cầu công chứng. Ở tình huống kể trên, rõ ràng khi quyết định chấp nhận hay không chấp nhận bản sao giấy tờ hộ tịch do người yêu cầu công chứng xuất trình thay thế cho bản chính, công chứng viên cần dựa trên những cơ sở pháp lý nhất định. Tuy nhiên, khi xảy ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng, việc xác định “hành vi trái pháp luật” của công chứng viên trong cả trường hợp anh ta chấp nhận hay không chấp nhận sử dụng giấy tờ hộ tịch bản sao thay thế cho bản chính trong ví dụ trên là điều không hề đơn giản. Chúng ta cũng có thể bắt gặp tình huống tương tự nếu tìm hiểu quy định nộp “bản sao giấy tờ tùy thân” khi đi yêu cầu công chứng. Đứng trên phương diện pháp lý, hiện nay chúng ta cũng chưa có một khái niệm mang tính chính thống, xác định như thế nào là giấy tờ tùy thân. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung các điểm e, tiểu mục 28; điểm b, tiểu mục 29; điểm b, tiểu mục 30, Mục III, phần 1, Phương án đơn giản hóa các thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp ban hành kèm theo Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 10/12/2010 của Chính phủ, giấy tờ tùy thân được hiểu là hộ chiếu và chứng minh nhân dân. Căn cứ theo quy định pháp luật hiện hành, chứng minh nhân dân có giá trị sử dụng là mười lăm năm kể từ ngày cấp (xem Điều 2, Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 3/2/1999 của Chính phủ quy định về chứng minh nhân dân, được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 của Chính phủ và Nghị định 106/2013/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 05/1999/NĐ-CP ngày 03/02/1999 của Chính phủ về Chứng minh nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 của Chính phủ) trong khi hộ chiếu có giá trị từ năm năm đến mười năm tùy từng loại cụ thể (xem Điều 4 và Điều 5, Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 của Chính phủ quy định về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 65/2012/NĐ-CP ngày 6/9/2012 của Chính phủ). Như vậy, trách nhiệm của công chứng viên đến đâu trong trường hợp anh ta xác định không chính xác người yêu cầu công chứng mặc dù cá nhân này đã xuất trình hộ chiếu hay chứng minh nhân dân vẫn còn thời hạn sử dụng? Đó chưa là kể đến một số ý kiến cho rằng người yêu cầu công chứng chỉ cần xuất trình một bản sao có chứng thực hộ chiếu hay chứng minh nhân dân là phù hợp với quy định của pháp luật (xem khoản 1 Điều 3 nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 04/2012/NĐ-CP ngày 20/1/2012 của Chính phủ). Chính vì hiện tại chúng ta chưa xác định được một cách chi tiết, nhiệm vụ, quyền hạn của công chứng viên hoặc tổ chức hành nghề công chứng hay thậm chí của cả người yêu cầu công chứng trong hoạt động chuyên môn nên chưa có cơ sở pháp lý để làm căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Như phân tích, trình bày ở trên, hiện nay một số vấn đề có liên quan tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được ghi nhận tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP. Tham khảo toàn văn Nghị quyết này, chúng ta có thể thấy về mặt nguyên tắc để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải có hành vi trái pháp luật là một trong bốn yếu tố có tính chất bắt buộc. Theo đó “Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật” (Khoản 1.2, mục 1, phần I, Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP). Đặc biệt, Nghị quyết 03/2006 cũng không hề đề cập tới cách thức xác định các loại, dạng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cụ thể mà chỉ đưa ra một số quy định chung, mang tính nguyên tắc. Đối chiếu với các quy định mang tính chuyên môn của ngành công chứng, tôi cho rằng để xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng, người ta phải khẳng định được chính xác, cụ thể nhiệm vụ, trách nhiệm của công chứng viên khi giải quyết yêu cầu công chứng của đương sự. Rõ ràng, đây là một yêu cầu mà pháp luật công chứng thực định chưa đáp ứng được. Và hệ quả tất yếu là việc định lượng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng trở nên phức tạp hơn bao giờ hết.
KẾT LUẬN
Luật công chứng được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007 với chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng. Sau hơn 5 năm triển khai thi hành, Luật công chứng đã thực sự đi vào cuộc sống, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho các hoạt động đầu tư kinh doanh, thương mại, góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Có được những thành công đó là nỗ lực không nhỏ từ chính bản thân mỗi công chứng viên hành nghề tại các tổ chức công chứng. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, Luật công chứng 2006 vẫn còn bộc lộ những hạn chế khi áp dụng vào thực tiễn về chế định bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra. Đó là những hạn chế trong quy định về cơ chế bồi thường thiệt hại đối với mỗi loại công chứng viên, về mức bồi thường, về cơ sở xác định mức bồi thường, các biện pháp thực hiện bồi thường…là những vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết vì hầu hết các giao dịch dân sự được công chứng là những giao dịch liên quan tới tài sản có giá trị lớn như đất đai, nhà cửa… nếu gây thiệt hại thì công chứng viên sẽ bồi thường như thế nào? Mức bồi thường là bao nhiêu? Cơ sở xác định mức bồi thường này là gì? Những vấn đề này được tác giả phân tích cả về mặt lý luận và thực tiễn trong phạm vi bài luận văn này. Trong quá trình nghiên cứu, khó tránh khỏi những thiếu sót kính mong các thầy cô và độc giả tham gia đóng góp ý kiến để vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng sớm được sáng tỏ hơn. Từ đó góp phần tích cực vào công cuộc cải cách tư pháp và phát triển kinh tế của đất nước ta nói chung. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Việc bồi thường do công chứng viên gây ra ở VN