Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.3. CƠ CHẾ BẢO ĐẢM TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI CÔNG CHỨNG VIÊN HÀNH NGHỀ TẠI PHÒNG CÔNG CHỨNG VÀ VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG
Theo quy định tại Điều 58 Luật công chứng 2006: “Công chứng viên phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” [33]. Như vậy nếu trong quá trình hành nghề công chứng viên gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng hay tổ chức, cá nhân có liên quan thì công chứng viên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Từ thực tiễn công tác, tôi thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên có một số nét đặc trưng như sau: Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
Thiệt hại xảy ra thường lớn, lớn hơn nhiều khả năng chi trả của cá nhân công chứng viên đã công chứng hợp đồng, giao dịch đó, thậm chí là vượt quá khả năng tài chính của một tổ chức hành nghề công chứng.
Thời điểm phải thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại rất khó xác định. Có trường hợp thời điểm xảy ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng phát sinh sau khi công chứng viên thực hiện hành vi công chứng chết.
Do chưa có các quy định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của công chứng viên khi thực hiện hành vi công chứng cũng như cách thức xác định thiệt hại ngoài hợp đồng của công chứng viên nên việc tính toán thiệt hại do công chứng viên gây ra còn có tình trạng tùy tiện, thiếu thống nhất thời điểm hiện tại, Luật công chứng 2006 quy định công chứng viên trong quá trình tác nghiệp nếu gây thiệt hại thì công chứng viên phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do hiện tại chúng ta có các dạng công chứng viên khác nhau cho nên luật áp dụng chế định bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra trong quá trình tác nghiệp cũng khác nhau, chưa có sự thống nhất. Về cơ bản chúng ta phân ra làm các loại công chứng viên như sau: Công chứng viên làm việc tại Phòng công chứng (gồm công chứng viên là công chức, viên chức) và công chức viên làm việc tại Văn phòng công chứng (gồm công chức viên là thành viên góp vốn, công chứng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân và công chứng viên làm thuê). Mặc dù quyền và nghĩa vụ các công chứng viên hành nghề tại các tổ chức công chứng theo Luật công chứng 2006 là như nhau, giá trị pháp lý của các văn bản công chứng do công chứng viên chứng nhận là như nhau nhưng cơ chế bồi thường thiệt hại lại hoàn toàn khác nhau và không thống nhất. Trong quá trình tác nghiệp nếu công chứng viên là công chức, viên chức so với các công chứng viên không phải là công chức, viên chức gây thiệt hại thì Luật áp dụng để giải quyết bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng có giống nhau không? Mức bồi thường thiệt hại khi đó là bao nhiêu, có khác nhau hay không? Để làm rõ những vấn đề này, chúng ta đi tìm hiểu cụ thể hơn về cơ chế bồi thường thiệt hại đối với công chứng viên hành nghề tại phòng công chứng và cơ chế bồi thường thiệt hại đối với công chứng viên hành nghề tại văn phòng công chứng sau đây.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2.3.1. Cơ chế bồi thường thiệt hại đối với công chứng viên hành nghề tại phòng công chứng Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
Đối với các công chứng viên là công chức, viên chức hành nghề tại phòng công chứng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được điều chỉnh trong Luật cán bộ, công chức năm 2008, Luật viên chức năm 2010, Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hiện nay chúng ta đang có hai loại công chứng viên làm việc tại phòng công chứng: Công chứng viên là công chức thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật cán bộ, công chức năm 2008 và công chứng viên là viên chức theo quy định của Luật viên chức 2010. Sau khi tham khảo khái niệm, phạm vi điều chỉnh của ba đạo luật kể trên có nhiều quan điểm khác nhau về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên tại phòng công chứng gây ra.
Quan điểm thứ nhất cho rằng Nhà nước sẽ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi công chứng viên hành nghề tại phòng công chứng gây thiệt hại (bao gồm cả công chứng viên là công chức và viên chức). Cơ sở cho quan điểm này là Điều 65 về hiệu lực thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009, theo đó Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010 sẽ thay thế cho “Nghị định số 47/CP ngày 3/5/1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra và các văn bản hướng dẫn thi hành” [36, Khoản 2 Điều 65]. Điều đó có nghĩa là tất cả các quy định trước đây về giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước gây ra theo Nghị định số 47/CP ngày 03/05/1997 nay được thay thế bằng Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009. Ngoài ra, trong Điều 1 về Phạm vi điều chỉnh của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009 quy định:
Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án; thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; kinh phí bồi thường và trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại [44].
Vậy hoạt động công chứng có phải là một trong những hoạt động quản lý hành chính hay không? Căn cứ nội dung Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 10/12/2010 của Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp có đề cập tới vấn đề đơn giản hóa thủ tục công chứng (Xem Mục III, Phần I, Nghị quyết kể trên). Căn cứ nội dung chương V, Luật đất đai 2003 (được sửa đổi, bổ sung 2009) quy định “Thủ tục hành chính về quản lý và sử dụng đất đai” trong đó có thủ tục công chứng các hợp đồng, giao dịch liên quan tới quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Chính vì thế hoạt động công chứng là một trong những hoạt động quản lý hành chính chịu sự điều chỉnh của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009. Nói cụ thể hơn tất cả công chứng viên là công chức hay viên chức công tác tại phòng công chứng khi gây thiệt hại thì phải áp dụng quy định về bồi thường nhà nước theo Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng hoạt động công chứng không nằm trong phạm vi Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009 cho nên dù có là công chức hay viên chức thì công chứng viên cũng không được nhà nước đứng ra bồi thường trong trường hợp gây ra thiệt hại. Cơ sở pháp lý cho quan điểm thứ hai này cho rằng công chứng không phải là một hoạt động quản lý hành chính hay tố tụng thuần túy nên không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009. Cụ thể tại Điều 13 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009 quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, không đề cập tới hoạt động công chứng:
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp sau đây:
- Ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
- Áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính;
- Áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc và biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khác;
- Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào trường giáo dưỡng, đưa người vào cơ sở giáo dục hoặc đưa người vào cơ sở chữa bệnh;
- Cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép;
- Áp dụng thuế, phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ phí; truy thu thuế; thu tiền sử dụng đất;
- Áp dụng thủ tục hải quan;
- Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
- Ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
- Cấp văn bằng bảo hộ cho người không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; ra quyết định chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ;
- Không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ cho đối tượng có đủ điều kiện;
- Các trường hợp được bồi thường khác do pháp luật quy định [36].
Quan điểm thứ hai tỏ ra không hợp lý vì nếu công chứng viên công tác tại phòng công chứng gây thiệt hại mà Nhà nước không có trách nhiệm bồi thường thì thiệt hại sẽ được bảo đảm bằng cách nào? Trong khi Luật công chứng 2006 không quy định phòng công chứng có trách nhiệm mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên (xem Điều 32 Luật công chứng 2006), và phòng công chứng cũng không thuộc đối tượng phải đóng bảo hiểm bắt buộc theo quy định tại Điều 8 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (được sửa đổi, bổ sung năm 2010).
Quan điểm thứ ba cho rằng thiệt hại do công chứng viên là công chức gây ra sẽ được bồi thường theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009, thiệt hại do công chứng viên là viên chức sẽ được thực hiện theo nội dung của Luật viên chức 2010. Lập luận thứ ba dựa trên các cơ sở pháp lý như sau:
Thứ nhất, theo Điều 24 Luật công chứng 2006 quy định về phòng công chứng thì phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp công lập:
- Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập
- Phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng.
Người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng là Trưởng phòng. Trưởng Phòng công chứng phải là công chứng viên và do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Chính phủ quy định chế độ tài chính, con dấu của Phòng công chứng [33].
Thứ hai, công chứng viên làm việc trong đơn vị sự nghiệp (Phòng công chứng) theo chế độ hợp đồng là viên chức sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật viên chức 2010: “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [37, Điều 2].
Thứ ba, trong phòng công chứng sẽ có công chứng viên là công chức được bổ nhiệm giữ các vị trí trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập (Trưởng phòng công chứng). Căn cứ vào Khoản 2, Điều 4 Luật cán bộ, công chức 2008 quy định về cán bộ, công chức:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [34].
Như vậy, nếu trong phòng công chứng có công chứng viên là công chức thì khi gây thiệt hại phải áp dụng những quy định trong Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009. Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
Bên cạnh đó tại Điều 58 Luật viên chức 2010 về chuyển đổi giữa viên chức và cán bộ, công chức:
Việc chuyển đổi giữa viên chức và cán bộ, công chức được thực hiện như sau:
- Việc tuyển dụng viên chức vào làm công chức phải thực hiện theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Trường hợp viên chức đã có thời gian làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập từ đủ 05 năm trở lên thì được xét chuyển thành công chức không qua thi tuyển;
- Viên chức được tiếp nhận, bổ nhiệm vào vị trí việc làm được pháp luật quy định là công chức thì quyết định tiếp nhận, bổ nhiệm đồng thời là quyết định tuyển dụng;
- Viên chức được bổ nhiệm giữ các vị trí trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập mà pháp luật quy định là công chức thì được bổ nhiệm vào ngạch công chức tương ứng với vị trí việc làm, tiền lương được hưởng theo cơ chế trả lương của đơn vị sự nghiệp công lập, được giữ nguyên chức danh nghề nghiệp đã được bổ nhiệm, được thực hiện hoạt động nghề nghiệp theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Cán bộ, công chức được chuyển sang làm viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật này;
Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập khi hết thời hạn bổ nhiệm mà không được bổ nhiệm lại nhưng vẫn tiếp tục làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập đó thì được chuyển làm viên chức và bố trí công tác phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ;
Quá trình cống hiến, thời gian công tác của viên chức trước khi chuyển sang làm cán bộ, công chức và ngược lại được xem xét khi thực hiện các nội dung liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng và các quyền lợi khác [37].
Nếu trong quá trình hành nghề tại phòng công chứng, công chứng viên đang là viên chức được chuyển sang công chức và ngược lại thì khi đó luật áp dụng để giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo luật nào? Đây là vấn đề luật vẫn chưa quy định rõ và cần phải sửa đổi, bổ sung. Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
Như vậy, đến đây chúng ta có thể khẳng định rằng thiệt hại do công chứng viên là công chức gây ra mới thỏa mãn điều kiện để thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009 và thiệt hại do công chứng viên là viên chức gây ra sẽ tuân thủ quy định của Luật viên chức 2010. Vậy, cơ chế xác định mức bồi thường cụ thể đối với công chứng viên là công chức và công chứng viên là viên chức có giống nhau hay không?
Cơ chế bồi thường thiệt hại do công chứng viên là công chức gây ra trong hoạt động công chứng:
Tại Điều 6 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009 về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường:
Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án phải có các căn cứ sau đây:
Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại các điều 13, 28, 38 và 39 của Luật này;
Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại [36].
Theo quy định trên, nếu công chứng viên là công chức gây thiệt hại thì chỉ cần xác định có thiệt hại thực tế xảy ra do hành vi trái pháp luật của công chứng viên gây ra và có văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật này của công chứng viên. Ở đây, chúng ta thấy căn cứ xác định bồi thường thiệt hại do công chứng viên là công chức gây ra chỉ cần xác định được hành vi trái pháp luật của công chứng viên là nguyên nhân gây ra thiệt hại chứ không cần phải xác định yếu tố lỗi.
Về nguyên tắc giải quyết bồi thường theo quy định tại Điều 7 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009:
Việc giải quyết bồi thường phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
- Kịp thời, công khai, đúng pháp luật;
- Được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường với người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ;
- Được trả một lần bằng tiền, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác [36].
Nếu công chứng viên là công chức gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại trên cơ sở thương lượng giữa người bị thiệt hại và công chứng viên gây thiệt hại. Thiệt hại ở đây được xác định chi trả bằng tiền và trả một lần trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Kinh phí bồi thường thiệt hại từ ngân sách nhà nước theo Điều 52 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009; Điều 3, chương 2 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/03/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước.
Về trình tự, thủ tục cấp và chi trả tiền bồi thường theo quy định tại Điều 54 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước:
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày bản án, quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải chuyển ngay hồ sơ đề nghị bồi thường đến cơ quan tài chính cùng cấp; trường hợp là cơ quan hưởng kinh phí từ ngân sách trung ương thì chuyển hồ sơ đến cơ quan quản lý cấp trên.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan nhận được hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ đề nghị bồi thường để cấp kinh phí hoặc có văn bản gửi cơ quan tài chính cùng cấp đề nghị cấp kinh phí bồi thường; trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cơ quan có trách nhiệm bồi thường bổ sung hồ sơ hoặc sửa đổi, bổ sung quyết định giải quyết bồi thường. Thời hạn bổ sung hồ sơ không quá 15 ngày.
Hồ sơ đề nghị bồi thường gồm:
- Văn bản đề nghị cấp kinh phí bồi thường có ghi đầy đủ, cụ thể về người được bồi thường, các khoản tiền bồi thường đối với các thiệt hại cụ thể và tổng số tiền đề nghị được cấp để thực hiện việc bồi thường;
- Bản sao văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ;
- Bản án, quyết định giải quyết bồi thường của cơ quan có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật.
- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị bồi thường hợp lệ thì cơ quan tài chính có thẩm quyền cấp kinh phí cho cơ quan có trách nhiệm bồi thường để chi trả cho người bị thiệt hại.
- Sau khi nhận được kinh phí do cơ quan tài chính cấp, trong thời hạn 05 ngày làm việc, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải thực hiện việc chi trả bồi thường cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của người bị thiệt hại.
- Trường hợp bản án, quyết định giải quyết bồi thường của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không tự nguyện thi hành thì người được bồi thường có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự [36]. Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
Căn cứ vào các quy định của pháp luật về trình tự thủ tục cấp và chi trả bồi thường nêu trên ta thấy rằng để người bị thiệt hại nhận được tiền bồi thường phải tuân theo cả một quy trình rất dài. Từ việc chứng minh thiệt hại, có văn bản xác định thiệt hại do hành vi trái pháp luật của công chứng viên gây ra, có quyết định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự của Luật tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2008), có hồ sơ đề nghị bồi thường thì cơ quan có thẩm quyền mới tiến hành trả tiền bồi thường cho người bị thiệt hại. Trên thực tế, người yêu cầu công chứng không phải ai cũng nắm rõ được quy trình bồi thường của nhà nước như đã phân tích ở trên. Do vậy, khi có thiệt hại xảy ra có thể vì quy trình, trình tự về bồi thường nhà nước còn quá rườm rà, phức tạp cho nên không phải ai cũng theo được đến cùng. Chính vì vậy, để bảo đảm được cơ chế bồi thường kịp thời, đúng pháp luật thì cần có sự sửa đổi bổ sung những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới lĩnh vực bồi thường nhà nước một cách đồng bộ, gọn nhẹ.
Sau khi được nhà nước đứng ra bồi thường do hành vi trái pháp luật của mình gây ra khi thi hành công vụ thì công chức phải có nghĩa vụ hoàn trả cho nhà nước và bị xử lý trách nhiệm.
- Người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại quy định tại Điều 26 của Luật này không phải chịu trách nhiệm hoàn trả.
- Người thi hành công vụ ngoài việc phải hoàn trả khoản tiền quy định tại khoản 1 Điều này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm còn phải bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật [36, Điều 56].
Như vậy, việc Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009 quy định trách nhiệm hoàn trả của công chức khi thi hành công vụ gây thiệt hại là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với quy định tại Điều 619 Bộ luật dân sự 2005. Điều này một mặt tránh sự lợi dụng cố tình làm sai gây thất thu ngân sách nhà nước, mặt khác góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của công chức khi thi hành công vụ. Về căn cứ hoàn trả được xác định như sau:
- Căn cứ xác định mức hoàn trả bao gồm: a) Mức độ lỗi của người thi hành công vụ; b) Mức độ thiệt hại đã gây ra;
- Điều kiện kinh tế của người thi hành công vụ.
- Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định việc xác định mức hoàn trả của người thi hành công vụ.
- Trường hợp nhiều người thi hành công vụ gây ra thiệt hại thì những người đó có nghĩa vụ liên đới hoàn trả; cơ quan có trách nhiệm bồi thường chủ trì, phối hợp với các cơ quan quản lý những người thi hành công vụ gây ra thiệt hại thống nhất xác định mức hoàn trả cho từng cá nhân có nghĩa vụ hoàn trả [36, Điều 57].
Về mức hoàn trả tại Điều 16 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009:
Việc xác định mức hoàn trả được thực hiện theo các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước và theo nguyên tắc sau đây:
Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại, nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường căn cứ vào mức độ thiệt hại gây ra, điều kiện kinh tế của người đó để quyết định họ phải hoàn trả một khoản tiền nhất định, nhưng tối đa không quá 36 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự do việc thực hiện hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại đó thì phải hoàn trả theo quy định tại Điều 18 của Nghị định này.
Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường căn cứ vào mức độ thiệt hại gây ra, điều kiện kinh tế của người đó để quyết định họ phải hoàn trả một khoản tiền nhất định, nhưng tối đa không quá 03 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước [19].
Yếu tố lỗi cố ý hay vô ý gây thiệt hại sẽ là căn cứ để xác định mức hoàn trả là bao nhiêu. Nếu người thi hành công vụ do lỗi cố ý gây thiệt hại thì phải hoàn trả cao hơn so với trường hợp vô ý gây thiệt hại. Cách quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên lý chung và bản chất của yếu tố lỗi khi xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Cơ chế bồi thường thiệt hại do công chứng viên là viên chức gây ra trong hoạt động công chứng:
Luật viên chức 2010 quy định về trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức.
Viên chức làm mất, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của đơn vị sự nghiệp công lập thì phải bồi thường thiệt hại.
Viên chức khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được phân công có lỗi gây thiệt hại cho người khác mà đơn vị sự nghiệp công lập phải bồi thường thì có nghĩa vụ hoàn trả cho đơn vị sự nghiệp công lập. Chính phủ quy định chi tiết việc xác định mức hoàn trả của viên chức [37, Điều 55].
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng đối với những công chứng viên là viên chức hành nghề tại các phòng công chứng có trách nhiệm hoàn trả lại cho đơn vị sự nghiệp công lập khoản tiền mà đơn vị này đã bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi có lỗi gây thiệt hại cho người khác trong quá trình tác nghiệp. Quy định trên được cụ thể hóa tại Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 06/04/2012 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức, trong đó xác định các trường hợp xử lý trách nhiệm bồi thường hoàn trả, cụ thể như sau:
- Viên chức làm mất, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc có hành vi khác gây hại tài sản của đơn vị sự nghiệp công lập thì phải có nghĩa vụ bồi thường theo quy định tại Nghị định này.
- Viên chức khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được phân công có lỗi gây thiệt hại cho người khác thì đơn vị sự nghiệp công lập phải bồi thường thiệt hại do viên chức thuộc quyền quản lý gây ra theo quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Viên chức có lỗi gây thiệt hại cho người khác mà đơn vị sự nghiệp công lập đã bồi thường phải có nghĩa vụ hoàn trả cho đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định tại Nghị định này [22, Điều 24].
Đối với công chứng viên là viên chức thì có hai dạng trách nhiệm như: Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi công chứng viên làm mất mát, hư hỏng trang thiết bị hoặc có hành vi khác gây hại tài sản của phòng công chứng. Thứ hai, trách nhiệm hoàn lại cho phòng công chứng khi phòng công chứng với tư cách là cơ quan quản lý viên chức đó đã đứng ra bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng. Theo quy định của Luật viên chức năm 2010, công chứng viên là viên chức chỉ có trách nhiệm hoàn lại nếu công chứng viên đó có lỗi gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng. Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
Về nguyên tắc xử lý trách nhiệm bồi thường, hoàn trả đối với viên chức theo quy định tại Điều 25 Nghị định số 27/2012/NĐ-CP:
- Phải căn cứ vào lỗi, tính chất của hành vi gây thiệt hại, mức độ thiệt hại tài sản thực tế gây ra để quyết định mức và phương thức bồi thường thiệt hại, hoàn trả cho đơn vị, bảo đảm khách quan, công bằng và công khai.
- Viên chức gây ra thiệt hại có trách nhiệm bồi thường, hoàn trả theo quyết định của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập hoặc cấp có thẩm quyền. Nếu viên chức không đủ khả năng bồi thường một lần thì bị trừ 20% (hai mươi phần trăm) tiền lương hàng tháng cho đến khi bồi thường đủ theo quyết định của người có thẩm quyền.
- Trường hợp viên chức gây thiệt hại thuyên chuyển công tác, nghỉ hưu hay thôi việc thì phải hoàn thành việc bồi thường, hoàn trả trước khi thuyên chuyển, nghỉ hưu hay thôi việc; nếu không đủ khả năng bồi thường, hoàn trả thì đơn vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị mới hoặc chính quyền địa phương nơi viên chức cư trú tiếp tục thu tiền bồi thường, hoàn trả cho đến khi thu đủ theo quyết định của người có thẩm quyền.
Nếu đơn vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức gây ra thiệt hại bị giải thể, sáp nhập thì cơ quan, tổ chức, đơn vị kế thừa đơn vị bị giải thể, sáp nhập có trách nhiệm tiếp tục thu tiền bồi thường, hoàn trả cho đến khi thu đủ theo quyết định của người có thẩm quyền.
Trường hợp viên chức gây ra thiệt hại bị phạt tù mà không được hưởng án treo thì cơ quan thi hành án có trách nhiệm thu tiền bồi thường, hoàn trả theo quyết định của bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án.
Trường hợp có từ 02 viên chức trở lên cùng làm mất mát, hư hỏng hoặc gây thiệt hại đến tài sản của đơn vị sự nghiệp công lập hoặc gây thiệt hại cho người khác mà đơn vị sự nghiệp công lập phải bồi thường thì các viên chức đó đều phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường, hoàn trả trên cơ sở mức độ thiệt hại tài sản thực tế và mức độ lỗi của mỗi người. Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
Tài sản bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại do lỗi cố ý của viên chức thì viên chức phải bồi thường, hoàn trả toàn bộ giá trị thiệt hại gây ra. Nếu tài sản bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại do lỗi vô ý của viên chức thì căn cứ vào từng trường hợp cụ thể người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quyết định mức và phương thức bồi thường, hoàn trả.
Trường hợp viên chức ngay sau khi gây ra thiệt hại có đơn xin tự nguyện bồi thường, hoàn trả thiệt hại và được người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền đồng ý bằng văn bản về mức, phương thức và thời hạn bồi thường, hoàn trả thì không phải thành lập Hội đồng xử lý trách nhiệm bồi thường theo quy định tại Điều 27 hoặc Hội đồng xử lý trách nhiệm hoàn trả theo quy định tại Điều 32 Nghị định này.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do nguyên nhân bất khả kháng thì viên chức liên quan không phải chịu trách nhiệm bồi thường, hoàn trả [22].
Viên chức gây thiệt hại nếu tự nguyện bồi thường và được người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập đồng ý thì không phải lập hội đồng xử lý trách nhiệm bồi thường hoặc trách nhiệm hoàn trả. Việc thành lập Hội đồng xử lý trách nhiệm bồi thường, hội đồng xử lý trách nhiệm hoàn trả cũng như nhiệm vụ và các nguyên tắc hoạt động của các hội đồng này, hồ sơ xử lý về bồi thường, hoàn trả cũng được quy định cụ thể tại Nghị định số 27/2012/NĐ-CP (xem từ Điều 27 đến Điều 36 Nghị định số 27/2012/NĐ-CP).
So sánh quy định về bồi thường thiệt hại do công chứng viên là công chức gây ra theo Luật TNBTCNN với quy định về trách nhiệm bồi thường, hoàn trả đối với công chứng viên là viên chức gây ra theo Luật viên chức 2010 và Nghị định số 27/2012/NĐ-CP quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức chúng ta thấy rằng quy định đối với viên chức thì chặt chẽ hơn, cụ thể hơn.
Công chứng viên là viên chức nếu gây thiệt hại thì Phòng công chứng với tư cách là đơn vị sự nghiệp công lập phải có trách nhiệm đứng ra bồi thường thiệt hại do hành vi công chứng viên của tổ chức mình gây ra. Sau đó công chứng viên có trách nhiệm hoàn lại toàn bộ số tiền cho phòng công chứng nếu hành vi gây thiệt hại được xác định do lỗi của công chứng viên trong quá trình tác nghiệp. Như vậy, ở đây chúng ta thấy có sự chuyển hóa trách nhiệm và nghĩa vụ hoàn lại giữa đơn vị sự nghiệp công lập là phòng công chứng với một bên là công chứng viên (viên chức hành nghề tại phòng công chứng đó).
2.3.2. Cơ chế bồi thường thiệt hại đối với công chứng viên hành nghề tại văn phòng công chứng Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
Cơ chế bồi thường thiệt hại áp dụng cho công chứng viên hành nghề tại Văn phòng công chứng lại được xây dựng theo một quan điểm hoàn toàn khác không giống như phòng công chứng. Khoản 7, Điều 32 Luật công chứng 2006 khẳng định: “Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình” [33]. Trong khi đó Khoản 1, Điều 26 Luật công chứng 2006 cũng nêu rất rõ: “Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân” [33] và “Văn phòng công chứng do hai công chứng viên trở lên thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh” [33]. Điều 130 Luật doanh nghiệp 2005 quy định công ty hợp danh có thể xuất hiện hai loại thành viên là thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Theo đó “Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty” [32] và “Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty” [32]. Còn Điều 141 Luật doanh nghiệp 2005 khẳng định “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” [32].
Căn cứ những điều luật đã dẫn chiếu, chúng ta có thể thấy cơ chế bồi thường thiệt hại do công chứng viên không nằm trong biên chế nhà nước, hành nghề tại văn phòng công chứng được quy định khác hẳn với trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên là công chức, viên chức hành nghề tại các phòng công chứng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên hành nghề tại văn phòng công chứng gây ra được thiết kế theo mô hình bảo đảm kép. Đầu tiên, thiệt hại do công chứng viên hành nghề tại văn phòng công chứng là tác nhân sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường (xem Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, được sửa đổi, bổ sung năm 2010). Ngoài ra, với tư cách là khoản nợ của công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân, thiệt hại do công chứng viên hành nghề tại văn phòng công chứng gây nên còn được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp và thậm chí là bằng cả tài sản cá nhân của thành viên hợp danh công ty hay chủ doanh nghiệp.
Trong trường hợp văn phòng công chứng chỉ có một thành viên được tổ chức và hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân, công chứng viên tại văn phòng này ngoài việc phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp còn phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình đối với những khoản nợ của doanh nghiệp (văn phòng công chứng). Trách nhiệm bồi thường của công chứng viên thành viên hợp danh trong văn phòng công chứng được thành lập và hoạt động theo mô hình công ty hợp danh cũng tương tự như vậy. Tuy nhiên, nếu công chứng viên là thành viên góp vốn trong công ty hợp danh (Văn phòng công chứng có từ hai công chứng viên trở lên) thì ngoài việc được văn phòng công chứng mua bảo hiểm nghề nghiệp, anh ta chỉ phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ của doanh nghiệp (văn phòng công chứng) trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
Cũng có ý kiến cho rằng trong tình huống nêu trên, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thay cho văn phòng công chứng nên thiệt hại do công chứng viên của văn phòng công chứng gây ra chỉ được bảo đảm bằng biện pháp duy nhất là “mua bảo hiểm trách nhiệm” (xem điểm g, khoản 2 Điều 7 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 được sửa đổi, bổ sung năm 2010). Hiện tại, có hai luồng quan điểm không giống nhau về vấn đề vừa nêu trên. Luồng quan điểm thứ nhất cho rằng lập luận kể trên hoàn toàn chính xác nếu như ở thời điểm hiện tại các nhà làm luật đã ban hành được một mẫu “Hợp đồng bảo hiểm” trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra áp dụng thống nhất trong lĩnh vực công chứng. Nói cụ thể hơn, chỉ khi nào các văn phòng công chứng cùng mua “bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp” (Xem khoản 7 Điều 32 Luật công chứng 2006) bằng một bản hợp đồng bảo hiểm có đầy đủ các nội dung theo Điều 13 Luật kinh doanh bảo hiểm thì thiệt hại trong hoạt động công chứng mới được bảo đảm bồi thường bằng một phương thức duy nhất. Cụ thể:
- Hợp đồng bảo hiểm phải có những nội dung sau đây:
- Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng;
- Đối tượng bảo hiểm;
- Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản;
- Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm; đ) Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm;
- Thời hạn bảo hiểm;
- Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm;
- Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường;
- Các quy định giải quyết tranh chấp;
- Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng.
- Ngoài những nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, hợp đồng bảo hiểm có thể có các nội dung khác do các bên thỏa thuận [30].
Điều 567 Bộ luật dân sự 2005 chỉ rõ: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm” [31]; căn cứ vào Điều 368 Bộ luật kể trên, chúng ta có ba loại hợp đồng bảo hiểm là bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi, bổ sung 2010) cũng tiếp tục khẳng định sự tồn tại của ba loại hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự (xem Khoản 2 Điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 được sửa đổi, bổ sung năm 2010). Trong quá trình hành nghề, công chứng viên có thể là đối tượng phải gánh chịu cả ba loại trách nhiệm pháp lý là trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm kỷ luật đồng thời gánh chịu một hình thức trách nhiệm thứ tư (trách nhiệm dân sự) mà cụ thể ở đây là trách nhiệm bồi thường thiệt hại (xem Điều 58 Luật công chứng 2006). Do vậy công chứng viên có thể được mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với tất cả các loại trách nhiệm pháp lý mà anh ta có thể gánh chịu trong quá trình tác nghiệp nếu được pháp luật cho phép.
Trong khi đó, có luồng ý kiến thứ hai lại đưa ra một cách lập luận hoàn toàn khác biệt. Theo luồng quan điểm này, ngay cả khi thiệt hại trong lĩnh vực công chứng được bảo đảm bồi thường bằng phương thức mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo một mẫu hợp đồng thống nhất với những điều khoản, điều kiện…cơ bản như nhau, văn phòng công chứng vẫn có trách nhiệm đứng ra bồi thường thiệt hại do công chứng viên của mình gây ra. Cơ sở pháp lý cho nhận định kể trên là nội dung của một số quy định pháp luật liên quan. Cụ thể, khoản 1 Điều 605 Bộ luật dân sự 2005 nêu rõ “Nguyên tắc bồi thường thiệt hại” như sau: “Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” [31], trong khi:
Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải thực hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự. Cần phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội [44, điểm 2.1, Mục 2, phần I].
Như vậy, kể cả khi đã được mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp nhưng trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm căn cứ theo hợp đồng bảo hiểm không thanh toán hết toàn bộ thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, tổ chức hành nghề công chứng đương nhiên sẽ có trách nhiệm bồi thường nốt phần còn thiếu đó. Cá nhân tôi thấy quan điểm thứ hai nêu trên là có cơ sở pháp lý vững chắc hơn. Trong trường hợp văn phòng công chứng phải bồi thường, khoản tiền được doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra thanh toán và tài sản của văn phòng công chứng cũng không đủ để thanh toán thiệt hại cho người bên bị thiệt hại thì vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ giải quyết như thế nào? Vì văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo mô hình doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2005 cho nên theo cá nhân tôi, trong trường hợp này văn phòng công chứng sẽ bị giải thể hay phá sản, các khoản nợ của văn phòng công chứng sẽ được thực hiện theo trình tự, thủ tục giải thể, phá sản doanh nghiệp.
Kể từ khi Nghị định số 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng 2006 (sau đây gọi là Nghị định 04/2013/NĐ-CP) thay thế cho Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 của Chính phủ quy định chi tiết về hướng dẫn thi hành một số điều Luật công chứng chúng ta thấy xuất hiện thêm một loại công chứng viên nữa đó là công chứng viên làm thuê. Cụ thể, khoản 1 Điều 11 Nghị định 04/2013/NĐ-CP nêu rõ: Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
Văn phòng công chứng được ký hợp đồng lao động với Công chứng viên. Trong thời gian làm việc theo hợp đồng tại Văn phòng công chứng, công chứng viên không được đồng thời hành nghề công chứng tại một tổ chức hành nghề công chứng khác…
Công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng cho Văn phòng công chứng có các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm theo quy định của pháp luật đối với công chứng viên [23, khoản 4 Điều 11].
Căn cứ vào nội dung điều luật kể trên, hiển nhiên trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên làm thuê sẽ được áp dụng theo quy định của Luật công chứng 2006 và pháp luật lao động. Trách nhiệm vật chất của người lao động được ghi nhận tại Bộ luật lao động 2012 không bao gồm cơ chế, cách thức bồi thường thiệt hại do người lao động gây ra cho bên thứ ba khi thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao phó. Bộ luật lao động 2012 đã dành toàn bộ Mục 2, chương VIII (gồm ba Điều luật từ Điều 130 đến Điều 132) để nói tới “Trách nhiệm vật chất” của người lao động, theo đó:
- Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc, thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hàng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 101 của Bộ luật này.
- Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường [31, Điều 30].
Tại Điều 131 quy định về “Nguyên tắc và trình tự, thủ tục xử lý bồi thường thiệt hại”; Điều 132 đề cập tới “Khiếu nại về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất”. Tuy nhiên, toàn bộ nội dung Bộ luật lao động 2012 cũng không hiện diện bất kỳ điều luật nào xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao động hay người sử dụng lao động. Tìm hiểu một vài quy định khác của pháp luật, chúng ta có thể thấy cách thức bồi thường thiệt hại của công chứng viên làm thuê có thể được ấn định một cách trực tiếp trong hợp đồng lao động và/ hoặc thỏa ước lao động tập thể. Nhận xét kể trên được đưa ra sau khi ta tìm hiểu khái niệm “Hợp đồng lao động” và “thỏa ước lao động tập thể” được ghi nhận tại Từ điển Luật học do nhà xuất bản từ điển Bách khoa- Nhà xuất bản tư pháp ấn hành năm 2006. Cụ thể “Hợp đồng lao động” là “văn bản thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, trong đó quy định điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động” [52]. “Thỏa ước lao động tập thể” là sự “thỏa thuận (bằng văn bản) giữa đại diện tập thể lao động (hoặc đại diện giới lao động) và người sử dụng lao động (hoặc đại diện giới sử dụng lao động) về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động” [52].
Từ hai khái niệm kể trên chúng ta thấy bằng cách xác định “quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động” bên sử dụng lao động (văn phòng công chứng) và người lao động (công chứng viên làm thuê) hoàn toàn có thể thỏa thuận cách thức bồi thường thiệt hại do người lao động gây ra cho bên thứ ba trong khi thực hiện các công việc được phân công. Nếu chúng ta căn cứ vào Khoản 7, Điều 32 Luật công chứng 2006 văn phòng công chứng vẫn có trách nhiệm mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên làm thuê nhưng rõ ràng, nội dung hợp đồng bảo hiểm hoàn toàn có thể chịu sự chi phối rất lớn từ kết quả đàm phán giữa người lao động và người sử dụng lao động. Thiệt hại do công chứng viên làm thuê không phải là thành viên hợp danh hay chủ doanh nghiệp tư nhân gây ra có được xếp ngang hàng với thiệt hại do công chứng viên là thành viên công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân gây ra hay không và có được bảo đảm bằng tài sản của tổ chức hành nghề công chứng đó hay không vẫn chưa được quy định rõ ràng. Với cách quy định hiện hành, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mỗi công chứng viên làm thuê sẽ rất khác nhau, chủ yếu phụ thuộc ý chí chủ quan của công chứng viên làm thuê và chủ sở hữu văn phòng công chứng cũng như quan điểm áp dụng pháp luật của cá nhân người có trách nhiệm.
Sau khi tìm hiểu một số quy định có liên quan tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra cũng như của công chức, viên chức, người lao động chúng ta thấy rằng có nhiều cách hiểu không thống nhất với nhau về cơ chế bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra. Căn cứ theo nội dung các điều 618, 619, 620, 622 Bộ luật dân sự 2005 về mặt nguyên tắc trong mọi trường hợp, kể cả trường hợp đã mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng sẽ phải có trách nhiệm đứng ra bồi hoàn toàn bộ thiệt hại do công chứng viên của tổ chức mình gây ra trong khi thực thi chức nghiệp. Sau đó, đến lượt mình công chứng viên có trách nhiệm hoàn trả lại cho tổ chức hành nghề công chứng một khoản tiền mà tổ chức hành nghề công chứng đã đứng ra bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng. Điều này tiếp tục được khẳng định trong một số đạo luật có liên quan. Ví dụ như tại điểm b, khoản 2, Điều 10 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009 nêu rõ người thi hành công vụ đã gây thiệt hại có nghĩa vụ “hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” [36] trong khi “viên chức khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được phân công có lỗi gây thiệt hại cho người khác mà đơn vị sự nghiệp công lập phải bồi thường thì có nghĩa vụ hoàn trả cho đơn vị sự nghiệp công lập…” [37, khoản 2 Điều 55]. Việc sử dụng thuật ngữ “hoàn trả” như trên là hoàn toàn phù hợp với cách thức quy định tại Bộ luật dân sự 2005. Cụ thể, Điều 619 Bộ luật dân sự 2005 nêu rõ: “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật” [31]. Xét về mặt ngữ nghĩa, hiển nhiên thuật ngữ “bồi hoàn” và “bồi thường” được sử dụng để diễn đạt, mô tả hai khái niệm hoàn toàn không giống nhau. Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản văn hóa Thông tin ấn hành năm 1998 thì “bồi hoàn” là động từ chỉ hành động “đền bù lại” hoặc “trả lại cái đã chiếm lấy, hiện đang giữ” trong khi “bồi thường” là động từ có nghĩa “đền bù những tổn hại đã gây ra”. Rõ ràng, bồi thường luôn gắn liền, song hành với yếu tố “thiệt hại” trong khi đó bồi hoàn không hoàn toàn như vậy. Luận văn: Thực trạng bồi thường tại văn phòng công chứng
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Giải pháp hoàn thiện bồi thường của công chứng