Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định công chứng viên là một chế định quan trọng đã xuất hiện và phát triển từ khá lâu đời trên thế giới, nhất là tại các quốc gia có nền văn minh và hệ thống pháp luật phát triển, nó luôn song hành với các chế định pháp luật khác trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam tên gọi chính thức phổ biến cho chức danh tư pháp này mới chỉ có từ hai thập kỷ gần đây (khoảng những năm 1989, 1990) trong các văn bản quy phạm pháp luật. Nhưng thực ra, công việc của một công chứng viên đã tồn tại trong thời kỳ Pháp thuộc tại nước ta, nhưng với một tên gọi khác và một chức năng không hoàn toàn giống như chức năng của công chứng viên hiện tại. Theo pháp luật của đa số các quốc gia có chế định này, nhất là các quốc gia theo hệ thống luật La tinh (hệ thống luật thiên về sử dụng các văn bản pháp luật) thì chế định này thường được quy định nhiều hơn và phát triển hơn so với các quốc gia theo hệ thống luật Commom Law (luật Anh – Mỹ). Việt Nam ta cũng là quốc gia có hệ thống luật dựa trên thể thức văn bản pháp luật là chủ yếu nên chế định công chứng và công chứng viên vì thế trở nên rất quan trọng và cần thiết, ngày càng có xu thế phát triển mạnh. Tuy nhiên, trong lĩnh vực khoa học pháp lý của nước ta, chế định công chứng viên lại rất ít có những công trình nghiên cứu, phân tích sâu và toàn diện về chế định này. Do vậy trên hoạt động thực tế hành nghề công chứng tại nước ta, sự thiếu hụt việc nghiên cứu này đã bị trả giá khá nhiều trong quá trình thực thi pháp luật về công chứng, chứng thực của các công chứng viên và các tổ chức hành nghề công chứng, gây ra những hậu quả nặng nề về uy tín, làm suy giảm nghiêm trọng sự tin tưởng của công dân vào pháp luật công chứng nói riêng và cả hệ thống pháp luật nói chung. Và đương nhiên, những sai lầm đó đã kéo theo những thiệt hại về kinh tế là vô cùng lớn (một ví dụ điển hình như vụ việc công chứng viên vi phạm quy chế trong vụ án EPCO Minh Phụng trong những năm 2000, 2001 đã làm thiệt hại kinh tế với con số khổng lồ là hàng nghìn tỷ đồng vào thời điểm đó…….). Như mỗi chúng ta đều đã biết, với mỗi quốc gia thì bộ luật dân sự bao giờ cũng là một trong những bộ luật đòi hỏi sự đầu tư nhiều thời gian và công sức nhất để xây dựng và hoàn thiện, do đó cũng có thể coi bộ luật dân sự là bộ luật quan trọng nhất trong hệ thống luật pháp, nó có thể biểu hiện được trình độ phát triển kinh tế xã hội cũng như trình độ pháp lý của những nhà xây dựng luật pháp của quốc gia đó. Và trong việc thực thi pháp luật dân sự, cùng với những chế định thẩm phán, luật sư, … thì chế định công chứng viên thật sự có tầm quan trọng không kém. Tuy nhiên, trên thực tế tại Việt Nam, sự quan tâm đến chế định công chứng viên của những nhà xây dựng pháp luật và trong những nhà nghiên cứu khoa học pháp lý của chúng ta hiện nay còn chưa được thoả đáng.
Trong thời kỳ cả nước đang tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách tư pháp, kinh tế đang phát triển rất mạnh và nhanh theo nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh xã hội hoá nhiều dịch vụ công (trong đó có lĩnh vực công chứng) thì việc củng cố, hoàn thiện chế định công chứng nói chung và quy chế công chứng viên nói riêng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật hiện hành cũng như trong tương lai. Tuy nhiên, quy chế công chứng viên của ta như đã nói ở trên thì lại khá mới mẻ, không nhiều các công trình, không nhiều các đề tài khoa học đi sâu nghiên cứu về chế định này, trong khi hầu hết người dân trong xã hội nói chung và thậm chí ngay cả những người quản lý, những cơ quan, tổ chức nằm trong bộ máy nhà nước và bộ máy tư pháp của chúng ta còn chưa hoàn toàn hiểu rõ, chưa nhận thức đầy đủ về khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của chức danh tư pháp này.
Với những trình bày như trên, việc nghiên cứu đề tài khoa học về quy chế công chứng viên, nhằm làm rõ bản chất pháp lý, tính khoa học, tính hệ thống và tầm quan trọng của vấn đề, để từ đó ta sẽ thấy được việc xây dựng và hoàn thiện quy chế công chứng viên ở Việt Nam ta hiện nay là một vấn đề khoa học cần thiết và cấp bách, đáp ứng nhu cầu tất yếu của đời sống pháp luật nói riêng và đời sống xã hội nói chung của Việt Nam ta hiện nay cũng như trong tương lai.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Nói đến đề tài công chứng viên (mà rộng ra chính là quy chế công chứng viên) theo một cách nhỏ lẻ, tiểu tiết thì đã có khá nhiểu bài báo, tác phẩm pháp luật, các bài phân tích, các cuộc toạ đàm, … và thậm chí còn có đã có khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật như sắc lệnh, nghị định, thông tư và gần đây nhất là Luật công chứng năm 2006 và Luật công chứng năm 2014 đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, nhưng văn bản đó đều mang tính rời rạc, mô tả hiện tượng, biểu hiện bên ngoài hoặc chỉ mang tính quy định chung chung về vấn đề hoặc có phân tích thì cũng chỉ dừng lại phân tích sâu theo một khía cạnh nhỏ nào đó của chức danh công chứng viên theo quy định của pháp luật hiện hành vào chính thời điểm đó chứ không mang tính khoa học pháp lý toàn diện, không thể hiện được tính lý luận xuyên suốt của vấn đề.
Thực tế cho đến nay, dù ít dù nhiều cũng đã có những công trình khoa học, những điều luật có liên quan đến vấn đề này, bởi xuất phát từ đời sống thực tiễn cũng như xuất phát từ yêu cầu cấu thành các bộ phận trong hệ thống pháp luật thì chế định công chứng viên luôn tồn tại song hành với chế định công chứng nói riêng và các chế định về các chức danh tư pháp khác trong hệ thống pháp luật nói chung. Nhất là trong khoảng thời gian 15 năm trở lại đây, khi mà các giao dịch dân sự trong xã hội tăng cao đột biến, kéo theo nó là nhu cầu công chứng dần dần trở nên rất cấp thiết thì các đề tài khoa học về công chứng và công chứng viên đã xuất hiện nhiều hơn, một số các công trình này cũng đã phân tích sâu một khía cạnh nào đó về công chứng viên và quy chế công chứng viên nhưng thường chỉ một vài khía cạnh đó thôi. Một số các văn bản pháp luật và các công trình nghiên cứu, tác phẩm, bài viết pháp luật đã có đề cập đến một cách khá cụ thể một số quy định liên quan đến quy chế công chứng viên, đặc biệt và trước tiên nhất có thể dẫn chiếu ra là các điều luật từ Điều 13 đến Điều 22 trong Luật Công chứng năm 2006, sau đó là tại Chương II – từ Điều 8 đến Điều 27 của Luật Công chứng năm 2014 đã chỉ ra chi tiết các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, miễn nhiệm cũng như quyền và nghĩa vụ của công chứng viên. Ngoài ra, cũng có nhiều tác phẩm, bài viết đăng trên các diễn đàn, tạp chí pháp luật như trong bài viết “Về vai trò của công chứng viên” của tác giả Dương Khánh (2000) (tạp chí “Dân chủ và pháp luật”), hay tác phẩm “Thẩm quyền thực hiện công chứng” cũng của tác giả Dương Khánh (2001) (Toà án nhân dân), hoặc tác phẩm “Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự trong hoạt động công chứng” của Tiến sỹ Tuấn Đạo Thanh (Nhà xuất bản Tư pháp 2013), … nhưng các tác phẩm này đều phân tích rộng hơn về toàn bộ chế định công chứng, nếu có đề cập đến quy định về công chứng viên thì cũng không phân tích nhiều hoặc chỉ dừng lại phân tích, nghiên cứu về một khía cạnh riêng biệt nào đó về công chứng viên, hoặc về một phần quy chế công chứng viên tại thời điểm toàn bộ các công chứng viên là viên chức nhà nước nằm trong chế định công chứng nhà nước.
Sau khi tham khảo và nghiên cứu các tài liệu nói trên cũng như nhiều tác phẩm và văn bản pháp luật khác, chúng ta vẫn thấy thiếu những sự phân tích khoa học, nhất là sự “kết nối” một cách khoa học về lý luận giữa các công trình, tác phẩm nói trên trên để tạo nên một lý luận chung có tính thuyết phục về chức danh công chứng viên cũng như về quy chế công chứng viên. Do vậy, với mong muốn thực hiện được công việc một cách toàn diện nhất, khoa học nhất và mang tính khả thi cao nhât có thể, luận văn này sẽ cố gắng nghiên cứu một cách tổng thể hệ thống lý luận cũng như toàn bộ tình hình thực tiễn có liên quan để làm rõ hơn lý luận khoa học của vấn đề, qua đó có thể lý giải và bình luận về cơ sở pháp lý về quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại. Đồng thời, từ đó cũng xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất, một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về quy chế công chứng viên hiện tại, cố gắng phục những bất cập, những khiếm khuyết để quy chế công chứng viên được ngày càng hoàn chỉnh, mang tính khoa học được cao hơn, hoà kịp vào xu thế chung hội nhập quốc tế với công chứng viên của các nước tiên tiến trên thế giới.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Khi nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này, tác giả xác định mục đích chính của luận văn là phân tích, đánh giá một cách chi tiết và có hệ thống các quy định pháp luật Việt Nam từ trước đến nay về chức danh công chứng viên và quy chế công chứng viên, đánh giá các điểm bất cập phát sinh trên thực tế có thể gây ra những sai lầm, những khiểm khuyết, thiếu sót trong quy định về công chứng viên cũng như quy chế công chứng viên, điều có thể gây ra những sai phạm, những thiệt hại có thể vô cùng lớn cho các công dân, tổ chức trong xã hội cũng như cho toàn bộ nền kinh tế xã hội, qua đó đóng góp một số ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định về quy chế công chứng viên, cố gắng khắc phục những khiếm khuyết, bất cập nói trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy chế về công chứng viên theo hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung (có tham khảo quy chế công chứng viên một số nước trên thế giới) nhưng trọng tâm vẫn là quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn sẽ nghiên cứu về lý luận và thực tiễn tất cả các quy định về quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và theo các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, trong đó có phân tích về mặt luận, dẫn chiếu các quy định trong các văn bản pháp luật và sự thi hành trên thực tiễn (có cả một số ví dụ về quy định của pháp luật nước ngoài) để làm vững chắc thêm về lý luận, phong phú thêm về thực tiễn cho đề tài nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời luận văn còn kế thừa các công trình nghiên cứu của tập thể và các cá nhân liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành luận văn này tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp sau: khảo sát thực tiễn, thống kê xã hội học, phân tích, so sánh, tổng hợp, nhận xét, đưa ra kết luận.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ QUY CHẾ CÔNG CHỨNG VIÊN
1.1. Tổng quan về Công chứng viên và Quy chế công chứng viên Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về “Công chứng viên” và “Quy chế công chứng viên”
Công chứng viên là một chức danh tư pháp trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Cùng với các chức danh tư pháp khác như thẩm phán, công tố viên (hay kiểm sát viên), chấp hành viên, luật sư, … thì công chứng viên là một chức danh tư pháp chỉ đến những người có trình độ pháp lý, kiến thức pháp luật và trình độ nghiệp vụ nhất định để đáp ứng được những công việc thực thi pháp luật trong một lĩnh vực pháp luật nhất định – lĩnh vực công chứng, được Nhà nước đương thời cho phép hành nghề, thừa nhận hoặc quyết định bổ nhiệm bằng quyền lực của mình. Theo pháp luật hiện tại của Việt Nam ta và của nhiều nước trên thế giới thì Công chứng viên là những nhà chuyên môn về pháp luật có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, được bổ nhiệm để hành nghề công chứng. Còn công chứng là hành động công chứng viên chứng nhận tính chất xác thực, hợp pháp của văn bản (hợp đồng, giao dịch) do người yêu cầu công chứng đề nghị hoặc do pháp luật quy định phải công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, trên thực tế, khái niệm “công chứng viên” không có định nghĩa chung trong tất cả các quốc gia vì hệ thống pháp luật và phạm vi hoạt động của công chứng viên tại mỗi quốc gia đều có sự khác nhau. Hơn nữa, khái niệm “công chứng viên” của mỗi quốc gia cũng có thể thay đổi theo thời gian khi pháp luật tương ứng của quốc gia đó thay đổi. Do vậy, mỗi khi được đề cập đến khái niệm “công chứng viên” thì chúng ta buộc phải mô tả theo quy định cụ thể của từng quốc gia hoặc nhóm các quốc gia có hệ tư tưởng pháp luật tương ứng. Nhưng qua nghiên cứu, tựu chung, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm khá tổng quát như sau: “Công chứng viên là một chức danh tư pháp dành cho những người có kiến thức chuyên môn đủ rộng và đủ sâu về pháp luật để đảm đương được việc chứng nhận hoặc tư vấn về tính chân thực, tính phù hợp với pháp luật và có thể thêm tính phù hợp đạo đức xã hội của những giao dịch dân sự diễn ra trong lòng xã hội của một quốc gia, hoặc có thể thêm chức năng xác nhận tính hợp pháp, chân thực của một số loại văn bản được phép lưu hành trong lòng xã hội đó”.
Còn quy chế công chứng viên, theo khái niệm “quy chế” trong từ điển (ví dụ, theo Từ điển Tiếng Việt do NXB Văn hoá – Thông tin xuất bản năm 2012: “Quy chế là những điều định ra để nhiều người, nhiều nơi cùng theo đó mà làm”), kết hợp với tính quy định của pháp luật của từng quốc gia thì có thể đưa ra khái niệm như sau: “Quy chế công chứng viên là tất cả những quy định của pháp luật và những quy ước khác của xã hội về công chứng viên và tất cả những vấn đề liên quan đến công chứng viên của một quốc gia”.
Như vậy có thể thấy, khi đề cập đến bất kỳ vấn đề gì liên quan đến công chứng viên thì đương nhiên vô hình chung cũng đã đề cập đến quy chế công chứng viên của quốc gia đó.
Trên thực tế, công chứng viên là chức danh tư pháp hoạt động thiên về lĩnh vực pháp luật dân sự, thương mại, được giành cho những người có đủ trình độ về pháp luật, về sức khoẻ, về đạo đức và sự tự tin để tự mình có thể đứng ra “chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp, tính không trái đạo đức xã hội” của một hợp đồng, một giao dịch dân sự trong xã hội bằng các văn bản công chứng, hoặc thuần tuý là chứng nhận tính chính xác, tính chân thực của một văn bản sao so với văn bản chính, hoặc là tính chính xác, tính tự nguyện của một người công dân muốn được chứng thực chữ ký của bản thân mình nhằm thể hiện ý chí của mình trong một văn bản, giấy tờ nào đó để lưu hành trong xã hội (tham khảo Luật Công chứng một số nước và Điều 2, khoản 1, Luật Công chứng năm 2014 của CHXHCN Việt Nam). Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, trên thế giới có những quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia xây dựng hệ thống pháp luật của quốc gia mình trên những hệ quan điểm pháp lý khác nhau (điển hình nhất là giữa nhóm các quốc gia dựa trên hệ quan điểm pháp luật viết thành văn và nhóm các quốc gia dựa trên hệ quan điểm pháp luật dựa trên hệ thống án lệ) nên xảy ra một thực tế là có sự quy định khác nhau về vị trí pháp lý, tính chất và mức độ quyền hạn thực thi pháp luật của các chức danh tư pháp tại mỗi quốc gia này, trong đó có chức danh công chứng viên. Ở Việt Nam ta thì sự khác biệt, sự thay đổi còn có thể nhiều hơn so với các quốc gia khác do đặc điểm lịch sử có nhiều biến động dẫn đến đặc điểm có nhiều sự thay đổi về các bộ luật, các luật qua các thời kỳ, kèm theo đó là khả năng và trình độ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của ta còn chưa theo kịp với các quốc gia có lịch sử xây dựng pháp luật lâu đời khác trên thế giới. Cũng trong bối cảnh chung đó nên các quy định về quy chế chức danh công chứng viên theo pháp luật của nước ta cho đến nay vẫn còn tồn tại khá nhiều vấn đề khiếm khuyết, những “lỗ hổng” khá sâu và khá rộng cần phải sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.
1.1.2. Lý luận chung về “Công chứng viên” và “Quy chế công chứng viên” Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Kết hợp với khái niệm “công chứng viên” và “quy chế công chứng viên” đã nêu ở phần trên, chúng ta sẽ phân tích sâu hơn về nhu cầu thực tiễn xã hội, quá trình phát triển khoa pháp lý trên thế giới từ xa xưa đến ngày nay liên quan đến công chứng viên để qua đó rút ra những lý luận chung nhất về công chứng viên và quy chế công chứng viên.
Công chứng viên (theo Từ điển Việt – Anh của nhiều nhà xuất bản có tên Tiếng Anh là “Notary” hoặc “Notary public”). Theo nhiều tài liệu của nhiều tác giả trên thế giới thì Công chứng là một nghề xuất hiện từ rất xưa. Cách đây hàng ngàn năm ở Hy Lạp, Ai Cập, và đặc biệt là ở La Mã đã có những người làm những công việc “dịch vụ văn tự” – đó có thể được coi là hình thức “công chứng” đầu tiên trong lịch sử, và người thực hiện “dịch vụ văn tự” đó có thể được hiểu có vai trò gần giống như là một “công chứng viên” trong pháp luật hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế nghề công chứng chỉ bắt đầu phát triển tương đối mạnh vào khoảng thế kỷ XIV, XV. Trong thời gian này đã xuất hiện những việc chứng cần phải nhận bản sao giấy tờ, nhưng nhiều nhất, chủ yếu và quan trọng nhất vẫn là việc xuất hiện rất nhiều các nhu cầu về chứng nhận các hợp đồng, giao dịch do các quan hệ trong xã hội đặt ra. Thuật ngữ “Notariat” (trong tiếng Pháp, tiếng Đức,…) hay “Notary” (trong tiếng Anh), đều có gốc Latinh là “Notarius” có nghĩa là “ghi chép”. Và cho đến hiện tại, như chúng ta đều biết, nghề công chứng và toàn bộ hành vi của công chứng viên cũng đều chỉ để sản sinh ra một “sản phẩm” duy nhất được xã hội yêu cầu và công nhận – đó là văn bản công chứng – một sản phẩm bằng văn viết. Thực chất hơn nữa, các văn bản công chứng có giá trị pháp lý này do các công chứng viên trên khắp thế giới từ trước đến nay, bằng kiến thức pháp luật của mình đã lập ra để phục vụ nhu cầu của các bên tham gia giao dịch, suy cho cùng, cũng đều chỉ những sự “ghi chép” lại với một cách có “trật tự” các hành vi, các nhu cầu thoả thuận dân sự mà các bên dân sự giao kết với nhau đã “nhờ” công chứng viên thực hiện việc chứng nhận “giúp” về tính rõ ràng về quyền và nghĩa vụ, tính tự nguyện, tính dứt khoát, tính trung thực và tính hợp pháp của những giao dịch dân sự đó, hay đơn giản chỉ là tính hợp pháp của những văn bản do các cơ quan, tổ chức khác trong xã hội ban hành nhưng được các bên dân sự yêu cầu.
Như vậy, có thể thấy ngay một điều hiển nhiên là, công chứng viên phải là những người nắm rất vững về hệ thống pháp luật nói chung, trong đó đặc biệt là phải rất tinh thông về pháp luật thương mại và rộng hơn là pháp luật dân sự. Đồng thời cũng phải là những người thật sự trung thực, vô tư, khách quan đối với mọi đối tượng giao dịch, chủ thể giao dịch, mọi quan hệ giao dịch được yêu cầu công chứng. Đây chính là đòi hỏi đầu tiên và cơ bản nhất của quy chế về công chứng viên mà cả các công chứng viên từ trước đến nay trên toàn thế giới phải tuân theo, dù ở trong bất cứ hệ thống pháp luật nào, thậm chí ở cả trong các hệ thống pháp luật khác biệt nhau hoàn toàn về quan điểm pháp lý cũng như cách thức tổ chức hệ thống pháp luật của quốc gia đó.
Từ sự đòi hỏi khách quan về các phẩm chất cần thiết của công chứng viên như vậy, nên ở bất cứ quốc gia nào, nhất là các quốc gia có lịch sử phát triển pháp luật lâu đời thì quy chế về công chứng viên luôn luôn được pháp luật đặc biệt coi trọng. Trên thực tế, trong bất cứ một hệ thống pháp luật của quốc gia nào có quy định về chế định về công chứng thì hành vi công chứng của công chứng viên bao giờ cũng là hành vi “khởi đầu” cho một loạt các hành vi của những người thừa hành pháp luật khác, mang đến tính hợp pháp cho các giao dịch dân sự mà pháp luật nước đó quy định. Đồng thời, hành vi của công chứng viên cũng nhằm tới một mục đích rất quan trọng khác, đó là bảo đảm cho việc tránh xa những tranh chấp, những hậu quả pháp lý đáng tiếc, những thiệt hại vật chất mà các giao dịch dân sự đó có thể mang lại, tức là hành vi của công chứng viên sẽ nhằm mang lại tính an toàn về pháp lý, an toàn về mặt tài sản cho giao dịch dân sự cũng như cho các bên tham gia giao dịch dân sự. Do đó, theo suy luận lô gich về mặt pháp luật, công chứng viên có một vị trí pháp lý giống như một “thẩm phán phòng ngừa”. Tức là những người phải “đi tiên phong” trong việc ngăn ngừa trước những sự vi phạm pháp luật có thể xảy ra, ngăn ngừa những hậu quả pháp lý và hậu quả tài sản đáng tiếc có thể xảy ra trong tương lai do các quan hệ giao dịch dân sự mang lại. Hơn thế nữa, khó khăn hơn, là công chứng viên phải quyết định xử lý việc công chứng công việc với một khoảng thời gian rất ngắn, với một tâm thế hoàn toàn “bị động” do các bên yêu cầu công chứng đề ra không hẹn trước, nên không có một sự chuẩn bị trước nào cả, trong khi đó những giao dịch dân sự như tất cả chúng ta đều biết là nó luôn phức tạp, mang đủ những tình tiết tiềm ẩn những “góc khuất”, những nguy cơ khó lường có thể gây ra những hậu quả pháp lý, thiệt hại kinh tế vô cùng lớn cho cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch, thậm chí cho cả nền kinh tế quốc dân cũng như cho toàn xã hội.
Cũng chính vì vị trí pháp lý quan trọng, khá đặc biệt nói trên của công chứng viên mà trên thế giới, tại nhiều quốc gia, họ đặc biệt coi trọng toàn bộ các quy định liên quan đến chế định công chứng viên. Về mặt từ ngữ, toàn bộ các quy định này, nếu theo từ điển Tiếng Việt thì có thể được gọi quy chế công chứng viên. (Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học do NXB Đà Nẵng phát hành năm 2007, Trang 1260 do NXB Đà Nẵng phát hành năm 2007: “Quy chế là những điều đã được quy định thành chế độ để mọi người theo đó mà thực hiện trong những hoạt động nhất định nào đó”, hay theo Từ điển Tiếng Việt do NXB Văn hoá – Thông tin xuất bản năm 2012: “Quy chế là những điều định ra để nhiều người, nhiều nơi cùng theo đó mà làm”).
Trên thế giới, ngoài một số quốc gia trong quy chế của mình vẫn quy định công chứng viên phải là viên chức nhà nước thì rất nhiều quốc gia chỉ coi công chứng viên là những người hành nghề tự do nhưng họ lại đặt ra quy chế rất ngặt nghèo về công chứng viên mà trước tiên phải kể đến là ngoài yêu cầu về chất lượng thì chính Luật của quốc gia đó chí ít thì chính phủ của quốc gia đó sẽ quy định cụ thể nhằm khống chế về số lượng công chứng viên trên từng khu vực lãnh thổ của quốc gia mình dựa theo các tiêu chí về diện tích lãnh thổ, số lượng dân cư và các chỉ số xã hội khác trên một vùng lãnh thổ nhất định. Chỉ điều này thôi chúng ta cũng đã thấy quy chế công chứng viên ở các quốc gia đó là rất chặt chẽ dù cho họ có thể là các quốc gia luôn đi tiên phong trong các chế độ tự do kinh doanh, tự do nhân quyền, tự do phát triển. Hướng tới điều này, các quốc gia đó đã thể hiện là họ đã có rất nhiều kinh nghiệm và độ sâu sắc về kiến thức pháp luật để bảo đảm cho quy chế công chứng viên của quốc gia mình luôn luôn có được hiệu quả cao nhất, tính ổn định cao nhất và mang lại lợi ích nhiều nhất trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội nói chung. Bởi lẽ, với quy định như vậy, ngoài việc yêu cầu cao về trình độ pháp lý, kiến thức pháp luật của công chứng viên, họ còn bảo đảm được tính ổn định xã hội, tính cạnh tranh lành mạnh của một trong những nghề luật rất nhạy cảm và quan trọng là nghề công chứng, từ đó tạo ra một uy tín rất lớn cho nghề công chứng và trên hết là đóng góp vô cùng to lớn cho sự ổn định xã hội của một quốc gia hiện đại.
Tổng quan một số quy định cơ bản về công chứng viên trên thế giới:
Theo quá trình phát triển của pháp luật thế giới nói chung, mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có cho mình những hệ thống pháp luật (luật lệ) riêng từ những thời kỳ sơ khai (thời chiếm hữu nô lệ), đã biết bắt đầu xuất hiện những người thực hiện việc công chứng nhưng với tên gọi khác chứ chưa có khái niệm công chứng viên như bây giờ. Cho đến thời kỳ phong kiến ở một số quốc gia giàu có, phát triển (ví dụ như ở Pháp) đã bắt đầu xuất hiện những người hành nghề công chứng viên. Và từ thời kỳ đó đến nay, người hành nghề tư pháp với chức danh công chứng viên đã xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên khắp thế giới, hoặc do tự học hỏi, hoặc do được đào tạo bài bản, nhưng những này (có thể dưới một tên gọi tương đương khác tuỳ theo từng vùng miền, từng quốc gia và từng giai đoạn lịch sử) bao giờ cũng phải được nhà nước đương thời (kể cả nhà nước phong kiến, hoặc nhà nước tư bản hay nhà nước khác), hoặc một cơ quan, tổ chức, hay một cá nhân đại diện cho quyền lực nhà nước này bổ nhiệm hoặc thừa nhận bằng một quyết định, một văn bản mang tính quyền lực nhà nước, đánh dấu việc được nhà nước chính thức cho phép hành nghề công chứng viên. Từ đó, các văn bản mà họ lập ra sẽ được nhà nước đó, người dân và toàn xã hội đương thời của nước đó thừa nhận, được thi hành như một văn bản pháp luật của nhà nước ban hành. Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Nhưng cũng do từ lịch sử đến hiện đại, trên thế giới đã từng và hiện nay vẫn tồn tại 3 hệ thống pháp luật (xuất phát từ 3 hệ quan điểm pháp luật khác nhau) nên công chứng cũng tồn tại 3 hệ thống tương ứng với 3 hệ thống pháp luật, đó là hệ thống công chứng La tinh (Luật viết), hệ thống công chứng Anglo-Sacxon (Anh – Mỹ) và hệ thống công chứng nhà nước bao cấp (Colectiviste). Chúng ta sẽ điểm qua một số nét chính về quy chế công chứng viên trong các hệ thống pháp này, ứng với việc viện dẫn quy chế công chứng viên của một số quốc gia tương có hệ thống pháp luật tương ứng.
Tuy nhiên, dù nẳm ở trong hệ thống pháp luật nào, công chứng viên cũng có những đặc trưng chính như sau:
Nét đặc trưng đầu tiên là, công chứng viên bao giờ cũng là cá nhân một công dân (hoặc một viên chức công) được Nhà nước đương thời bổ nhiệm để chuyên lập (hoặc chứng nhận) các hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên giao dịch dân sự phải bảo đảm tính xác thực của văn bản giao dịch đó, bảo đảm cho văn bản đó luôn có hiệu lực pháp luật giống như các văn bản của các cơ quan công quyền khác của Nhà nước đó và đảm bảo việc lưu giữ, cấp bản sao của văn bản đó.
a/ Vị trí, vai trò và tính chất hành nghề của công chứng viên
Theo hệ thống công chứng Latinh (ví dụ : Đức, Áo, Bỉ, Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha và Cộng hòa Séc), công chứng viên vừa là công chức, vừa là người hành nghề tự do. Tính chất nghề nghiệp này không chỉ đúng với công chứng viên dân luật ở các nước phương Tây mà còn được áp dụng với công chứng viên của Trung Quốc, Mông Cổ và nhiều nước Châu Á khác. Nói cách khác, tính chất chung của nghề công chứng viên là hoạt động công vụ chứ không phải là hoạt động kinh doanh đơn thuần. Do vậy, công chứng viên tại một số nước được sử dụng con dấu công vụ, con dấu có hình quốc huy (ví dụ như: Ba Lan, …. Tại Ba Lan, công chứng viên được hưởng chế độ như các viên chức công khác, được gọi là “công chức làm chứng”).
Công chứng viên được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của Bộ Tư pháp và được coi như công chức dù không hưởng lương từ ngân sách nhà nước Đây là một điểm rất đặc biệt của quy chế về công chứng viên của rất nhiều nước. Nói cách khác, công chứng viên là một công chức đặc biệt vì công chứng viên do nhà nước bổ nhiệm, phải tuân theo quy định của Nhà nước, đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước nhưng lại hành nghề với tư cách tự do (tự hành nghề, tự đầu tư cơ sở vật chất, tự nuôi bộ máy giúp việc, thu nhập từ nguồn khách hàng…).
Công chứng viên là một nhà chuyên môn hoạt động gần như trong mọi lĩnh vực pháp luật, công chứng viên là một luật gia đầy đủ, không đơn thuần là người soạn thảo văn bản mà còn là người làm nhiệm vụ công chứng, chứng thực, người tư vấn pháp luật và người thu thuế cho nhà nước. Ngoài ra, công chứng viên còn có thể thực hiện một số nhiệm vụ khác do khách hàng hoặc các cơ quan xét xử yêu cầu. Công chứng viên là người hợp thức hóa thỏa thuận của các bên và có thẩm quyền đóng con dấu xác thực vào toàn bộ các văn bản mà mình tiếp nhận. Công chứng viên cũng bảo đảm lưu giữ toàn bộ các dự thảo văn bản. Ngoài chức năng xác thực tính hợp lệ và bảo đảm an toàn cho các văn bản nói trên, các công chứng viên còn có thể can thiệp với phạm vi rộng hơn; họ là các chuyên gia về pháp luật tổng quát với một tầm nhìn tổng thể về các vấn đề pháp lý. Họ có thể can thiệp vào khuôn khổ pháp lý nói chung và khuôn khổ pháp lý về thuế, điều đó khiến họ trở nên đặc biệt hiệu quả trong việc tư vấn cho khách hàng của mình.
Hầu hết tại các nước theo hệ thống luật La tinh, công chứng viên là công chức do Nhà nước bổ nhiệm, chuyên tư vấn một cách độc lập, trung lập và khách quan cho các giao dịch pháp lý quan trọng. Công chứng viên đóng vai trò then chốt trong luật về bất động sản, luật thế chấp, luật về hợp đồng, luật công ty cũng như các luật khác về gia đình và thừa kế. Các công chứng viên dân luật là các cố vấn độc lập, trung lập và khách quan cho tất cả các bên tham gia giao dịch. Họ kiểm tra ý định của các bên, dự thảo hợp đồng và các công cụ cần thiết để thực hiện giao dịch dự kiến và bảo đảm các quy định trong hợp đồng tuân thủ với luật. Các công chứng viên dân luật cũng xác minh năng lực đầy đủ của các bên để ký kết thỏa thuận dự kiến và để hiểu đầy đủ những hệ lụy về pháp lý của các cam kết mà họ đưa ra. Nếu không, luật pháp yêu cầu công chứng viên dân luật phải từ chối sự tham gia của người đó.
Ngoài ra, tại một số nước (ví dụ: Tây Ban Nha), công chứng viên là một công chức có thẩm quyền cung cấp bằng chứng về các hợp đồng và các hoạt động ngoài tố tụng khác. Là một công chức, công chứng viên phải bảo đảm độ chính xác của những gì công chứng viên nhìn thấy, nghe thấy, quan sát thấy hoặc cảm nhận được; tính xác thực và hiệu lực bằng chứng đối với các lời khai thể hiện ý chí của các bên trong các văn bản được soạn thảo theo luật. Sau đó, công chứng viên có thẩm quyền hành động và chứng từ hóa toàn bộ các loại tình tiết, hành vi, hợp đồng và nói chung là mọi hoạt động kinh doanh hợp pháp trong phạm vi luật pháp ngoài tố tụng. Không có loại công chức nào khác có thể hành động với phạm vi rộng như vậy trong lĩnh vực này.
Cũng tại một số nước (Trung Quốc), công chứng viên vừa là công chức vừa là những người hành nghề tự do. Với tư cách là công chức, họ được bổ nhiệm bởi một cơ quan chính phủ, phải chịu các nghĩa vụ kỷ luật, trách nhiệm dân sự hoặc hình sự. Với tư cách người hành nghề tự do, công chứng viên có thể lựa chọn địa điểm thành lập văn phòng của mình, tuyển dụng nhân viên cũng như mua sắm các trang thiết bị cần thiết. Họ được khách hàng trả tiền và trích lại một phần để nộp cho nhà nước.
b/ Chức năng, nhiệm vụ của công chứng viên
Thông thường (nhất là những quốc gia theo hệ thống Luật Latinh), công chứng viên là những cán bộ chuyên môn bảo đảm được hiệu quả và tính chắc chắn về mặt pháp lý của những hợp đồng giao dịch và thay mặt Nhà nước thu thuế chuyển nhượng, thu phí đăng ký và trả thuế này cho cơ quan thuế trong khoảng thời gian rất ngắn. Nhờ đó, chính quyền thường xuyên nhận được những khoản thanh toán này một cách rất hiệu quả và nếu những khoản này không được thanh toán, công chứng viên phải chịu toàn bộ trách nhiệm đối với chính quyền về việc thanh toán những khoản thuế này.
Ví dụ như đã dẫn chiếu ở trên, theo quy định của Tây Ban Nha, công chứng viên là công chức có thẩm quyền cung cấp bằng chứng theo quy định của pháp luật về các hợp đồng và các hoạt động ngoại tụng khác. Điều này có nghĩa là, công chứng viên là một người hành nghề luật độc lập, có nhiệm vụ đánh giá một cách công tâm không thiên vị những người yêu cầu cung cấp dịch vụ và tư vấn cho họ những công cụ pháp lý phù hợp nhất để đạt được kết quả hợp pháp mà họ mong muốn. Sau đó, công chứng viên có thẩm quyền hành động và chứng từ hóa toàn bộ các tình tiết, hành vi mà nói chung là mọi hoạt động kinh doanh hợp pháp trong phạm vi luật pháp ngoài tố tụng.
Một ví dụ khác, trong xã hội Pháp, chức năng tư vấn của công chứng viên đã có bước phát triển rất mạnh mẽ. Hoạt động tư vấn của công chứng viên đã đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người dân trong mọi lĩnh vực (hôn nhân gia đình, thương mại, bất động sản hay trong quản lý tài sản…). Công chứng viên có nghĩa vụ tư vấn cho mọi khách hàng, không phân biệt trình độ hiểu biết; đưa ra những lời tư vấn phù hợp với quy định của pháp luật, nhưng đồng thời cũng có lợi nhất cho khách hàng. Công chứng viên phải giải thích để các bên hiểu rõ tính chất của thỏa thuận, những hệ quả của thỏa thuận mà họ ký kết với nhau trước khi công chứng, đồng thời cũng phải giúp khách hàng thực hiện thỏa thuận đó.
Ngoài nhiệm vụ soạn thảo, công chứng văn bản và tư vấn, công chứng viên còn có thể thực hiện một số nhiệm vụ khác theo yêu cầu của Tòa án hoặc theo yêu cầu của khách hàng. Theo yêu cầu của Tòa án, công chứng viên có thể lập dự thảo phân chia tài sản trong một vụ ly hôn, làm giám định viên trong vụ ly hôn, hỗ trợ thẩm phán đánh giá giá trị bất động sản, làm người giám hộ, người quản lý tài sản của người bị mất năng lực hành vi mà không có gia đình. Theo yêu cầu của khách hàng, công chứng viên có thể tìm nguồn vốn vay cho khách hàng, giúp khách hàng chuyển vốn vào tổ chức đầu tư, thương lượng bán bất động sản hoặc sản nghiệp thương mại, lập bản kê khai tài sản thừa kế… Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Trung Quốc, công chứng viên có nhiệm vụ cung cấp tư vấn cho các bên trước khi thông báo về phạm vi và hậu quả của chứng thư mà họ ký. Ngoài ra, công chứng viên phải lưu trữ bằng chứng của thông báo này. Điều này cho thấy chính quyền Trung Quốc đã quyết định áp dụng triệt để nhiệm vụ tư vấn nhưng, bằng cách giữ bằng chứng về trách nhiệm tư vấn, họ cũng ngăn chặn bất kỳ sự lạm dụng nào từ các khách hàng không trung thực.
Như vậy, có thể thấy, với nhiệm vụ cung cấp bằng chứng, tư vấn, hòa giải, lập văn bản và thu thuế, công chứng viên có phạm vi hoạt động tương đối rộng so với các công chức khác. Hoạt động pháp luật duy nhất mà công chứng viên không được làm là bào chữa trong các vụ kiện. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp để bảo đảm tính độc lập trong hoạt động của công chứng viên. Với việc trao cho công chứng viên chức năng, nhiệm vụ đặc biệt như trên, Nhà nước đặt ra những yêu cầu, tiêu chuẩn khắt khe đối với hoạt động của công chứng viên, đồng thời, tạo lập một vị trí xứng đáng cho chức danh này trong xã hội, nơi mà người dân tin tưởng và coi công chứng viên là những “thẩm phán hợp đồng”, “bác sĩ tài sản” của họ.
c/ Tiêu chuẩn công chứng viên
Tuy có những điểm khác nhau về thể chế, hầu hết các nước đều công nhận công chứng là một nghề rất khó. Công chứng viên đều là những nhà luật học giỏi, những chuyên gia pháp luật có kiến thức pháp lý sâu rộng và áp dụng pháp luật nhuần nhuyễn, linh hoạt. Do vậy, việc gia nhập đội ngũ công chứng viên là một quy trình có tính cạnh tranh rất cao, được lựa chọn theo các tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt (Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc…).
Tiêu chuẩn chung: Pháp luật các nước có khá nhiều điểm tương đồng trong quy định về tiêu chuẩn công chứng viên. Cụ thể, công chứng viên phải là công dân của nước đó, không thuộc trường hợp mất năng lực hoặc không có khả năng thực hiện vai trò của công chứng viên, là tiến sĩ hoặc người tốt nghiệp luật, có nhân cách và năng lực phù hợp với chức danh, đã trải qua khóa đào tạo nghề dài và chuyên sâu, hoàn thành thời gian tập sự hành nghề công chứng và vượt qua kỳ thi tuyển công chứng viên.
Tiêu chuẩn về trình độ: Để khẳng định vị trí của chức danh công chứng viên, một số nước quy định tất cả các công chứng viên phải đủ điều kiện chuyên môn làm thẩm phán và luật sư (Đức) hoặc đã làm công chứng viên dự bị với một thời gian nhất định (ít nhất 2 năm theo Luật của Ba Lan) hoặc phải là người đã được bổ nhiệm trong hơn 10 năm vào các công việc được quy định theo Luật (Hàn Quốc)… Với một số đối tượng như giáo sư, tiến sỹ luật học, thẩm phán, luật sư, tư vấn pháp luật có thâm niên ít nhất 3 năm… thì một số tiêu chuẩn có thể được xem xét giảm bớt, ví dụ như tiêu chuẩn về thời gian làm công chứng viên dự bị hoặc được miễn khóa đào tạo nghề, miễn thời gian tập sự hành nghề (Ba Lan, Trung Quốc).
Tiêu chuẩn về tuổi: Về tuổi bổ nhiệm, theo thông lệ phương Tây, lợi thế về độ tuổi được xem xét vì nghề này đòi hỏi phải có một nền tảng vững chắc và kinh nghiệm đáng kể. Ví dụ như: công chứng viên tại Đức phải là người ít nhất 35 tuổi và không quá 70 tuổi khi bổ nhiệm lần đầu. Tại Ba Lan thì ít nhất 26 tuổi mới được bổ nhiệm. Tại Tây Ban Nha độ tuổi trung bình thấp nhất để được bổ nhiệm công chứng viên từ 27 đến 28 tuổi. Còn tại Nhật Bản, nhiều công chứng viên được bổ nhiệm khi họ khoảng 58 đến 62 tuổi và làm công chứng viên trong vòng 8 đến 10 năm. Tại Hàn Quốc, chỉ những người ở độ tuổi trung niên mới được bổ nhiệm làm công chứng viên. Về tuổi hành nghề, đa số các nước đều quy định độ tuổi tối đa là 65 hoặc 70 (Trung Quốc, Tây Ban Nha, Đức, Nhật Bản).
Ngoài các tiêu chuẩn nêu trên, các nước như Pháp, Đức, Tây Ban Nha đều quy định công chứng viên phải khẳng định được uy tín của mình. Khách hàng khi đến yêu cầu công chứng phải có niềm tin vào người công chứng viên về việc người này rất minh bạch, không thiên vị, hoàn toàn tin tưởng.
Tại Đức, một người muốn trở thành công chứng viên thì phải có thêm điều kiện là thi đỗ kỳ thi tuyển quốc gia II và hoàn thành tập sự 3 năm tại một Văn phòng công chứng; người muốn là công chứng viên – luật sư thì phải là luật sư ít nhất 5 năm, trong đó có ít nhất 3 năm đã hành nghề tại địa bàn mà luật sư đó muốn trở thành công chứng viên, đồng thời phải trải qua kỳ thi mà không cần tập sự (nhưng vẫn phải chứng minh có ít nhất 160 giờ làm việc tại một Văn phòng công chứng).
Nhật Bản có thể được coi là một ngoại lệ với việc quy định điều kiện khá dễ dàng để trở thành công chứng viên. Theo đó, mặc dù về nguyên tắc, bất cứ ai vượt qua kỳ thi do Bộ trưởng Bộ Tư pháp đề ra và hoàn thành khóa đào tạo kéo dài hơn 06 tháng đều có thể có đủ điều kiện làm công chứng viên. Tuy nhiên, kỳ thi này vẫn chưa được tổ chức vì thẩm phán, công tố viên hoặc luật sư có thể được bổ nhiệm làm công chứng viên mà không cần thi hoặc hoàn thành khóa đào tạo này. Hơn nữa, những người đã tham gia các sự vụ pháp lý lâu năm và có nền tảng học vấn tương tự như các chuyên gia pháp lý cũng có thể được bổ nhiệm làm công chứng viên.
(Có tham khảo và trích dẫn lại từ: Nguyễn Thảo (Ban Nội chính Trung ương) – Trang (Nguồn: www.noichinh.vn): “Ban chỉ đạo Trung ương về Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”, caicachcongvu.gov.vn.).
1.2. Quá trình hình thành và phát triển công chứng viên và quy chế công chứng viên
1.2.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển quy chế công chứng viên tại một số nước trên thế giới Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Như phần đầu đã nêu, thì công chứng là một nghề đã xuất hiện từ rất xã xưa, cách đây hàng ngàn năm, và cũng bắt đầu ở Hy Lạp, Ai Cập, và đặc biệt là La Mã – là những nơi đã được xác định là những “cái nôi” của nền văn minh nói chung và nền pháp luật nhân loại nói riêng. Ở đó đã xuất hiện đầu tiên những người làm các “dịch vụ văn tự” mà cho đến này chúng ta hiểu chính là một hình thức gần giống như các văn bản mà luật sư, công chứng viên thường làm bây giờ. Tuy nhiên, phải đến những năm của thế kỷ XIV, XV thì nghề công chứng mới bắt đầu phát triển tương đối mạnh. Trong thời gian này, ngoài các nhu cầu về việc sao giấy tờ trong dân chúng thì đã xuất hiện rất nhiều và rất cấp thiết các nhu cầu về chứng nhận các hợp đồng, giao dịch do các quan hệ trong xã hội đặt ra lúc bấy giờ do nền kinh tế, thương mại, giao dịch dân sự thời đó đã bắt đầu phát triển mạnh.
Các hệ thống công chứng trên thế giới:
Theo thời gian và trải qua tất cả các thời kỳ lịch sử xã hội, lịch sử pháp luật của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có cho mình những hệ thống pháp luật riêng từ những thời kỳ sơ khai như chiếm hữu nô lệ. Như chúng ta đã biết, pháp luật đã xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, do vậy ngay từ khi có những nhà nước sơ khai ra đời, tại một số nhà nước đã có những người thực hiện việc công chứng, nhưng tất nhiên là với các tên gọi khác chứ chưa có khái niệm là công chứng viên như bây giờ. Cho đến thời kỳ phong kiến ở một số quốc gia giàu có, phát triển (ví dụ như ở Pháp) đã bắt đầu xuất hiện những người thực sự hành nghề công chứng viên. Và từ thời kỳ đó đến nay, người hành nghề về pháp luật với chức danh công chứng viên đã xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên khắp thế giới. Họ do tự học hỏi, hoặc do được đào tạo bài bản, nhưng những người bắt đầu được hành nghề công chứng với chức danh công chứng viên chính thức (hoặc một tên gọi tương đương khác tuỳ theo từng vùng miền, từng quốc gia và từng giai đoạn lịch sử) thì bao giờ cũng phải được một nhà nước (kể cả nhà nước phong kiến, hoặc nhà nước tư bản hay nhà nước khác), hoặc một cơ quan, tổ chức, hay một cá nhân đại diện cho quyền lực nhà nước đó bổ nhiệm hoặc thừa nhận bằng một quyết định, một văn bản mang tính quyền lực nhà nước, đánh dấu việc được nhà nước chính thức cho phép hành nghề công chứng viên. Từ đó, các văn bản mà họ lập ra sẽ được nhà nước đó, người dân và toàn xã hội đương thời của nước đó thừa nhận, được thi hành như một văn bản pháp luật của nhà nước ban hành.
Nhưng cũng do từ lịch sử đến hiện đại, trên thế giới đã từng và hiện nay vẫn tồn tại 3 hệ thống pháp luật (xuất phát từ 3 hệ quan điểm pháp luật khác nhau) nên công chứng cũng tồn tại 3 hệ thống tương ứng với 3 hệ thống pháp luật, đó là hệ thống công chứng La tinh (Luật viết), hệ thống công chứng Anglo-Sacxon (Anh – Mỹ) và hệ thống công chứng nhà nước bao cấp (Colectiviste). Chúng ta sẽ điểm qua một số nét chính về quy chế công chứng viên trong các hệ thống pháp này, ứng với việc viện dẫn quy chế công chứng viên của một số quốc gia tương có hệ thống pháp luật tương ứng.
Hệ thống Công chứng La tinh
Các nước theo hệ La tinh, Công chứng viên được Nhà nước ủy thác một phần quyền lực và giao cho con dấu riêng có khắc tên của chính công chứng viên đó. Với tư cách là ủy viên công quyền (officier public), công chứng viên có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, thể hiện ở chỗ công chứng viên được người đứng đầu Nhà nước hoặc Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm và hoạt động của họ được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Công chứng trong khuôn khổ một nghề tự do được thể hiện rõ trong việc công chứng viên thực hiện chức năng mang tính công thông qua quyền tự do tổ chức hoạt động trong nội bộ phòng công chứng, trong việc trả tiền công tính theo lao động, trong khả năng cạnh tranh lành mạnh, trong trách nhiệm cá nhân về bồi thường thiệt hại do văn bản đã được công chứng gây ra. Theo quy chế, với tư cách là người hành nghề tự do, công chứng viên thực sự là một chủ doanh nghiệp, thu nhập của công chứng viên là tiền thù lao do họ tự thu từ khách hàng; công chứng viên tổ chức văn phòng theo cách riêng của mình, tuyển dụng nhân viên, thuê trụ sở, sắp đặt tài liệu, hồ sơ, trang thiết bị văn phòng theo cách riêng.
Theo quy định của pháp luật hoặc theo sự tự nguyện của khách hàng, công chứng viên đem lại cho các văn bản và hợp đồng một tính đích thực, có giá trị như văn bản do các cơ quan công quyền khác cấp, đảm bảo cho các hợp đồng một sự an toàn trong mọi tình huống, hạn chế được đến mức thấp nhất những tranh chấp dân sự, làm giảm bớt gánh nặng quá tải về xét xử của các Tòa án, giảm bớt chi phí xã hội. Các văn bản hợp đồng, giao dịch do công chứng viên thực hiện có hiệu lực thi hành ngay, có giá trị như một phán quyết của tòa án.
Công chứng viên giữ vai trò quan trọng để đảm bảo trật tự pháp lý, đó là vai trò bổ trợ tư pháp như một thẩm phán về hợp đồng, nhằm phòng ngừa tranh chấp. Chính vai trò mang tính chất phòng ngừa này của công chứng viên là một điểm thuận lợi trong hệ thống luật Châu Âu lục địa so với các hệ thống luật khác.
Nhiệm vụ cơ bản của công chứng viên là chứng nhận các hợp đồng. Chứng nhận là khái niệm bao hàm kỹ thuật tác nghiệp trong nghề công chứng. Chứng nhận là xác nhận sự thỏa thuận giữa các bên, xác minh tính hợp pháp của thỏa thuận đó, xác minh các bên giao kết có tự nguyện không, xác minh những người có mặt chính là đại diện của các bên để ký hợp đồng không, xác minh thẩm quyền, năng lực pháp luật của các bên, kiểm tra xem trong hợp đồng có chứa những điều khoản có nội dung mà pháp luật cấm không, kiểm tra xem việc ký kết hợp đồng có tuân thủ tất cả các trình tự, thủ tục cần thiết không. Ngoài ra, công chứng viên còn phải ký vào hợp đồng, ghi vào hợp đồng ngày tháng chính xác của việc ký kết, thừa nhận giá trị chứng cứ của hợp đồng, hiệu lực thi hành của hợp đồng.
Công chứng viên là những nhà luật pháp rất gần gũi với cuộc sống. Sứ mệnh của họ là giúp mọi người lựa chọn và định đoạt tài sản của mình theo cách hợp lý nhất, đồng thời họ có nghĩa vụ tư vấn cho các bên giao kết hợp đồng một cách vô tư, không thiên vị, lưu ý họ về phạm vi, các hệ quả, rủi ro mà hợp đồng có thể đặt ra để bảo vệ lợi ích của tất cả các bên trong hợp đồng, dù đó là bên bán hay bên mua. Với nghĩa vụ tư vấn này, công chứng viên không những làm nhiệm vụ cùng ký vào hợp đồng, xác nhận ý chí của các bên trong hợp đồng, mà còn có nhiệm vụ giúp đỡ các bên thể hiện ý chí đó trong hợp đồng, lựa chọn các thể thức ký kết hợp đồng phù hợp tùy thuộc vào mục đích của hợp đồng, vào các quy định pháp luật áp dụng cho hợp đồng, thông tin cho các bên biết về những hệ quả pháp lý, thuế khóa mà hợp đồng đặt ra (ở những nước phát triển, những hệ quả về thuế rất quan trọng).
Công chứng viên có nhiệm vụ hòa giải sự bất đồng về quan điểm của các bên trong quá trình soạn thảo hợp đồng, để đảm bảo sự công bằng trong hợp đồng, đảm bảo tôn trọng quyền lợi chính đáng của mỗi bên giao kết. Yêu cầu về hợp đồng công bằng là một yêu cầu rất quan trọng của công chứng, do vậy, công chứng viên thực sự giữ vai trò trọng tài và trung gian hòa giải các bên. Hoạt động này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho các bên giao kết, làm cho quan điểm của các bên xích lại gần nhau, sớm đạt được sự thống nhất, tránh xa tranh chấp hợp đồng sau này.
Công chứng viên có nhiệm vụ bảo quản lâu dài các văn bản. Công chứng viên phải cấp bản sao từ bản gốc của các văn bản do mình ký. Các văn bản do công chứng viên lập là các văn bản công, không thuộc sở hữu của công chứng viên, cũng không thuộc sỡ hữu của các bên mà thuộc về kho lưu trữ của Nhà nước. Như vậy, công chứng viên là người quản giữ các tư liệu đó. Nhiệm vụ này cũng xuất phát từ chức năng dịch vụ công của công chứng.
Công chứng viên có nghĩa vụ tuân thủ biểu giá về thù lao (lệ phí công chứng) đã được ấn định, không thể tự ý tăng, giảm thù lao. Thực vậy, chế độ tự do mặc cả về thù lao không phù hợp với chế độ dịch vụ công, vì nếu theo chế độ tự do về lệ phí thì công chứng viên có quyền từ chối nhận văn bản khi thấy tiền thù lao nhận được từ văn bản đó không thỏa đáng. Ở một số nước mà công chứng viên có thể thương lượng hợp đồng với khách hàng, thì có thể nảy sinh hiện tượng dùng tiền để móc ngoặc với nhau, điều này cũng hoàn toàn trái với dịch vụ công.
Công chứng viên không chỉ là người có đủ tinh thông về kỹ thuật mà còn có sự thanh khiết về đạo đức. Trình độ tinh thông thể hiện ở chỗ, nhà thực hành phải biết đào tạo nghiệp vụ cơ bản, thường xuyên cập nhật và hoàn thiện những kiến thức pháp luật. Nhưng sự trong sáng về đạo đức còn quan trọng hơn nhiều, nó đòi hỏi ở công chứng viên không chỉ lòng trung thực mà cả thái độ công minh, vô tư, sự tôn trọng triệt để các bí mật được giao. Lòng can đảm để đảm nhận những trách nhiệm.
Hiện nay ảnh hưởng của hệ thống công chứng la tinh trong thế giới hiện đại là khá lớn. Các quốc gia mang hệ thống pháp luật La tinh đã cùng nhau lập ra Liên đoàn công chứng La tinh quốc tế (UTNL), là một tổ chức phi chính phủ, được thành lập để cổ vũ, hợp tác và phát triển hoạt động công chứng trên phạm quốc tế, nhằm phối hợp chặt chẽ giữa công chứng viên của các nước thành viên, bảo đảm uy tín và tính độc lập, đem lại sự phục vụ tốt nhất cho các cá nhân và cộng đồng, liên đoàn là người đại diện cho sự thống nhất về ý chí và tổ chức của công chứng theo hệ La Tinh, đại diện cho các chuyên gia về hợp đồng, các nhà tư vấn độc lập và không thiên vị, những người thừa ủy quyền của Nhà nước đem lại cho các hợp đồng tính đích thực, sự an toàn pháp lý và quyền tự do giao kết.
Tại Đại hội lần thứ nhất, khai mạc ngày 2/10/1948, liên đoàn được thành lập theo sáng kiến của ông Hôxenegri, Chủ tịch hội đồng công chứng thành phố Buenôt Airet – thủ đô của Argentima. Sau đó, Đại hội đồng của liên đoàn đã quyết định trụ sở của Liên đoàn đặt tại trụ sở của thành phố Nam Mỹ này.
Liên đoàn công chứng La tinh quốc tế đã đề ra các Mục tiêu hoạt động, các cơ quan của Liên đoàn:
Khi mới thành lập, Liên đoàn chỉ có 20 nước tham gia, đến nay số thành viên đã lên tới 62 nước, trong số đó có 21 thành viên mới được kết nạp trong vòng 8 năm gần đây. Các nước thành viên chủ yếu tập trung ở Châu Âu, Châu Mỹ La tinh, các nước thuộc địa cũ của Pháp ở Châu Phi. Riêng ở Bắc Mỹ chỉ có hai thành viên là vùng Quebec của Canada và bang Luisane của Hoa Kỳ; ở Châu Á có 3 nước tham gia là Nhật Bản, Trung Hoa và Thổ Nhĩ Kỳ.
Đầu năm 1995, Ủy ban hợp tác quốc tế đã nhận và xét đơn gia nhập Liên đoàn công chứng quốc tế hệ La tinh của công chứng liên bang Nga, Estonia, Panama, Croatia, Ucraina, Ghinê, Trung Hoa. Một số nước đang trên đường tiến tới việc thiết lập lại hệ thống công chứng tự do như: Rumani, Bungari, Belaruxia, Mondova. Ở Châu Á, Ủy ban này đang có mối liên hệ và khích lệ công chứng các nước: Indoneisa, Lào, Việt Nam. Hội đồng thường trực đã quyết định tổ chức ở La Habana hai cuộc hội thảo từ 21 đến 25/3/1995 để bàn về việc công chứng Cuba sẽ tái nhập Liên đoàn sau gần 40 năm vắng bóng.
Sự phát triển hùng mạnh của hệ thống công chứng La tinh được thể hiện qua những ưu điểm hiển nhiên của nó so với hệ thống Anglo-sacxon. Những ưu điểm đó được thấy rõ ở chỗ công chứng viên hoạt động với tư cách cá nhân về mặt tài chính, chịu trách nhiệm về hành vi công chứng đã thực hiện, họ hoạt động nhân danh nhà nước, phục vụ lợi ích công, tạo ra sự tin cậy và an toàn pháp lý cho các giao dịch, giảm đến mức thấp nhất những tranh chấp về hợp đồng đã công chứng.
Phương châm ngành công chứng tự trang trải về mặt tài chính đã chẳng những trút bỏ được gánh nặng cho ngân sách nhà nước mà ngược lại còn bổ sung cho ngân sách thông qua việc nộp một khối lượng thuế đáng kể của các công chứng viên và tạo điều kiện để Nhà nước thu một khối lượng thuế trước bạ rất lớn gắn liền với việc chuyển quyền sở hữu bất động sản.
Một số ví dụ điển hình công chứng hệ la tinh – Quy chế công chứng viên ở Cộng hoà Pháp:
Pháp, công chứng là một nghề đã có từ thế kỷ XII, nó trải qua sự thăng trầm của nhiều chế độ khác nhau, qua nhiều cuộc cách mạng và chiến tranh. Năm 1803, chính thể Bonaperte đã cho ra đời luật VENTOSE, đây là đạo luật đầu tiên của Pháp về tổ chức và hoạt động mang tính kỹ thuật cao mà một số điều khoản cơ bản của nó vẫn còn có hiệu lực đến ngày nay. Sau đó, Luật này được sửa đổi bổ sung bằng Pháp lệnh cải cách công chứng năm 1945 và nhiều pháp lệnh khác.
Công chứng chiếm vị trí hàng đầu trong số các nghề luật ở Pháp, doanh thu của ngành Công chứng đạt 27 tỷ FF mỗi năm chiếm khoảng 45% tổng số doanh thu của các nghề luật ( luật sư, tư vấn, thừa phát lại, bán đấu giá …). Hiện có hơn 7.800 công chứng viên, trong đó có khoảng 1.200 công chứng viên nữ, sử dụng hơn 43.000 nhân viên nghĩa là có tất cả trên 51.000 người làm việc trong ngành công chứng so với 32.000 trong ngành luật sư và 17.000 trong ngành tư vấn pháp luật. Có khoảng gần 4.550 phòng công chứng được phân bố trên khắp lãnh thổ và gần 60% công chứng hành nghề trong các hiệp hội nghề nghiệp dân sự. Hoạt động công chứng chủ yếu trong lĩnh vực bất động sản, hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên từ nhiều năm nay, nó phát triển khá mạnh trong lĩnh vực luật kinh doanh, tư vấn pháp luật.
Phạm vi hoạt động của công chứng viên
Cộng hoà Pháp, pháp luật chỉ quy định có tính nguyên tắc về phạm vi các việc công chứng, để từ đó công chứng viên bằng sự tinh vi, sáng suốt và nội tâm nghề nghiệp mà chấp nhận thực hiện hoặc từ chối mỗi yêu cầu của khách hàng (xác định mục đích có trái pháp luật, trái với tập quán tốt lành và gây hại cho người thứ ba hoặc cho cộng đồng, cho nhà nước hay không). Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Bốn lĩnh vực bao trùm hoạt động công chứng của công chứng viên tại Pháp là:
- Lĩnh vực gia đình (mọi vấn đề liên quan đến gia sản – công chứng viên xác nhận quyền sở hữu hoặc quản lý tài sản (nhà, đất, máy móc thiết bị, định giá tài sản, kê khai, thu nhập …, hoặc định đoạt tài sản)). Lập hôn ước, thay đổi chế độ tài sản trong hôn nhân, chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn hoặc sau khi chết. Công chứng viên đưa ra lời khuyên về cơ chế quản lý tài sản, đồng thời là người trọng tài trung gian hỗ trợ cho nhiều chủ đề khác nhau trong luật gia đình và thừa kế. Ngoài ra, công chứng viên còn có vai trò giải quyết những vấn đề pháp lý khác nhau như công nhận con ngoài giá thú, con nuôi, đỡ đầu …
- Lĩnh vực bất động sản (quan trọng thứ hai của ngành công chứng): Công chứng viên được khách hàng yêu cầu ở mọi mức độ của hoạt động về bất động sản (xây dựng, mua bán đất đai, công chứng viên tạo nên căn cứ về sở hữu, làm môi giới để người mua và người bán gặp nhau, lập hợp đồng mua bán thông qua tín dụng. Ngoài ra, công chứng viên còn tham gia vào việc quản lý bất động sản, họ chỉ dẫn cho đương sự biết về trị giá của đất đai và nhà cửa thông qua những chuyên gia giám định theo mặt bằng giá thị trường.
- Trong lĩnh vực kinh doanh: Công chứng bắt buộc chứng nhận khai vốn để thành lập công ty. Ngoài ra công chứng viên còn làm các việc: chứng nhận việc thành lập các tổ chức xã hội, lập hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại, hợp đồng cho thuê, tăng vốn điều lệ, nhượng vốn kinh doanh, giải thể một công ty,… tư vấn cho đại hội đồng công ty, lập biên bản cuộc họp.
- Trong lĩnh vực tư vấn: Tư vấn pháp luật, đưa ra lời khuyên vô tư cho các bên và làm cho các bên hiểu rõ ý nghĩa và hậu quả pháp lý của hợp đồng.
Quy định về tiêu chuẩn Công chứng viên tại CH Pháp
Công chứng viên ở Pháp vừa là viên chức hoạt động nhân danh Nhà nước, vừa là thành viên của nghề tự do, có nghĩa là người làm dịch vụ, người tư vấn đáng tin cậy của cá nhân, công ty và tổ chức. Công chứng viên là viên chức công có nhiệm vụ đem lại tính đích thực cho các văn bản và hợp đồng của cá nhân, tổ chức. Công chứng viên chịu trách nhiệm cá nhân và thực hiện chức năng của mình một cách độc lập trong khuôn khổ một nghề tự do.
Tính hai mặt của chức năng công chứng là rất cơ bản:
- Với tư cách là viên chức công (ủy viên công quyền), công chứng viên đem lại cho khách hàng một sự an toàn trong các quan hệ về hợp đồng, đem lại một tính đích thực cho các văn bản do mình lập, có giá trị như những văn bản do các công lại khác lập.
- Với tư cách là người làm nghề tự do, công chứng viên hoạt động bằng nguồn kinh phí tư nhân, thiết lập với khách hàng những quan hệ riêng và bảo đảm cho hoạt động của phòng công chứng có hiệu quả và sự đa dạng hóa hoạt động của mình.
Khái niệm viên chức công đã được xác định ở Điều 1 Pháp lệnh ngày 2 tháng 9 năm 1995, lấy lại gần như nguyên văn định nghĩa trong Luật 25 Ventose năm 1803:
Công chứng viên là viên chức công (officier public) được Nhà nước bổ nhiệm để lập văn bản và hợp đồng do pháp luật quy định phải công chứng hoặc do khách hàng tự nguyện yêu cầu, đem lại tính đích thực cho các văn bản và hợp đồng đó, có giá trị như văn bản của cơ quan công quyền để đảm bảo chính xác ngày tháng, năm, lưu trữ lâu dài và cấp các bản sao công chứng từ bản gốc.
Với tư cách là người đem lại tính đích thực cho văn bản, đem lại một hiệu lực chấp hành riêng biệt, công chứng viên có nhiệm vụ rất nặng nề trong hệ thống các tổ chức hoạt động về luật pháp của Pháp. Công chứng viên là những người tư vấn cho các bên do luật quy định và các bên có nghĩa vụ tin tưởng vào công chứng viên. Công chứng viên không chỉ đem lại tính đích thực cho văn bản và hợp đồng, với niềm tin và căn cứ vững chắc, luật pháp đã giao cho họ một vai trò xứng đáng hơn, cao hơn cả, đó là vai trò của một người được coi là vô tư đáng tin cậy của các bên.
Công chứng viên đóng vai trò của một người đã tuyên thệ với những lời thề rất thiêng liêng, cao thượng, nên không thể có những nghi ngờ về sự thiếu trung thực hoặc có những mờ ám trong giao kết. Công chứng viên đã phải đi sâu vào một quá trình làm việc căng thẳng, nặng nề để tránh những sai sót cho dù là nhỏ nhất. Do vậy, một văn bản công chứng khó có thể bị phản bác, trong khi đó những điều khoản của hợp đồng được ký dưới hình thức tư chứng thư dễ bị bác bỏ trước tòa.
Quy hoạch công chứng viên tại CH Pháp
Theo đề nghị của Hội đồng công chứng tối cao, Bộ trưởng Tư pháp quyết định những biện pháp để phân bố một cách hợp lý nhất các phòng công chứng, phân bố công chứng viên theo vị trí địa lý và mật độ dân số và nhu cầu công chứng trong phạm vi toàn lãnh thổ.
Việc thành lập, di chuyển, xóa bỏ một phòng công chứng, việc thành lập, thay đổi hoặc xóa bỏ một chi nhánh của phòng công chứng, việc chỉ định nơi đặt trụ sở của phòng công chứng hoặc chi nhánh đều phải được công bố bằng quyết định của Chưởng ấn – Bộ tư pháp.
Bổ nhiệm công chứng viên tại CH Pháp
Theo quy định của Điều 41 Sắc lệnh ngày 5/7/1973, Chưởng ấn – Bộ Tư pháp bổ nhiệm công chứng viên bằng Quyết định đăng trên công báo.
Trong thực tế, một người đã có bằng hành nghề công chứng và có đủ các điều kiện khác do luật yêu cầu, song họ chưa thể được Bộ Tư pháp bổ nhiệm công chứng viên một cách dễ dàng và nhanh chóng khác hẳn với một số nghề tư nhân khác (luật sư, kiểm toán, bác sỹ, dược sỹ…) Một mặt, do số lượng phòng công chứng rất hạn chế, mặt khác do yêu cầu tuyển chọn kỹ lưỡng và nghiêm ngặt, nên họ chỉ bổ nhiệm trong một số tình huống và Chưởng ấn –Bộ Tư pháp có vai trò quản lý Nhà nước rất quan trọng trong việc bổ nhiệm và phân bố công chứng viên.
Đối với việc bổ nhiệm công chứng viên cho những phòng bị khuyết (do bị chết hoặc bị cách chức) hoặc do những phòng mới được thành lập thêm, thì Bộ trưởng Tư pháp chỉ có thể xem xét và bổ nhiệm sau khi đã có ý kiến của phòng quản lý công chứng cấp tỉnh và Hội đồng công chứng khu vực, và theo đề nghị của ban giám khảo kỳ thi tuyển công chứng viên.
Hệ thống Công chứng Anglo-Sacxon
Hệ thống công chứng Anglo-Sacxon (hệ Anh – Mỹ) không thừa nhận thể chế công chứng, có nghĩa là không thừa nhận thể chế mà người lập văn bản, hợp đồng chuyên biệt được trang bị một quyền năng, thay mặt nhà nước và cho phép người đó đem lại tính xác thực cho những văn bản được chứng nhận. Chức năng công chứng ở các nước theo hệ thống này được giao cho các luật sư hoặc hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của giáo hội thực hiện theo phương thức kiêm nhiệm.
Đó là những “công chứng viên” không chuyên biệt. Trước khi được bổ nhiệm làm công chứng viên, họ phải có thâm niên tối thiểu một số năm hành nghề luật sư thuộc Hiệp hội luật sư hoặc là hộ tịch viên hay cố vấn pháp lý của Giáo hội.
Mặt khác, một số nhân viên ngoại giao và lãnh sự được giao thẩm quyền thực hiện một số việc công chứng ở nước ngoài. Các nước có thể chế công chứng theo mô hình này gồm: Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (trừ bang Louisane), Canada, (trừ bang Quebec), Ấn Độ, Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan…các nước theo hệ Anglo-Sacxon, quyền tự do thỏa thuận về tiền thù lao và sự giải quyết nhanh chóng công việc là ưu điểm trong việc tổ chức và hành nghề công chứng. Khi thực hiện công chứng, các luật sư và hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của Giáo hội chỉ công chứng về mặt hình thức như: nhận diện đúng khách hàng, ghi đúng ngày tháng, ghi lại một cách trung thành thỏa thuận của các bên và ý chí của từng bên. Họ không quan tâm đến việc xác định tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không cần biết thỏa thuận có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không, không chịu trách nhiệm nếu có điều khoản nào đó trong hợp đồng bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba.
Trong hệ thống luật Anglo-Sacxon, khi soạn thảo hợp đồng, các bên gặp nhau, có sự trợ giúp của người tư vấn riêng của mình và khi có tranh chấp hoặc khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên yêu cầu sự can thiệp của thẩm phán.
Những hợp đồng, văn bản được lập bởi những người kiêm thực hiện công chứng mang lại sự an toàn pháp lý thấp, không được coi là chứng cứ xác thực, hiển nhiên trước tòa án, tỷ lệ tranh chấp xảy ra nhiều hơn so với công chứng của các hệ thống khác.
Theo số liệu chính thức được công bố trong một báo cáo mà Phó tổng thống Mỹ đã gửi cho Thượng Nghị viện năm 1999: trong 5 năm, số lượng các tranh chấp về hợp đồng tăng từ 25% đến 27% hàng năm. Còn ở Anh, cũng có tình trạng như vậy: trong 20 năm, số lượng các tranh chấp về bất động sản đã tăng từ 10% lên 30% và cuộc chiến về giá cả, sự phá giá giữa các luật sư và các chức danh khác kiêm nhiệm chức năng công chứng đã kéo theo những hậu quả đặc biệt tai hại đối với chất lượng dịch vụ và là nguyên nhân làm phát sinh ngày càng nhiều tranh chấp.
Công chứng viên trong hệ thống công chứng Nhà nƣớc bao cấp
Hệ thống công chứng nhà nước bao cấp (hệ colectiviste) là mô hình công chứng được tổ chưc khá chặt chẽ hoạt động chuyên nghiệp bằng sự bao cấp của nhà nước thông qua việc cấp ngân sách hành chính để hoạt động. Tổ chức công chứng là một loại hình cơ quan bổ trợ tư pháp trong bộ máy hành pháp của Chính phủ.
Công chứng viên (và cả nhân viên nghiệp vụ hoặc thư ký công chứng) đều là công chức nhà nước, hưởng lương từ nguồn ngân sách quốc gia và được hưởng mọi chế độ chính sách như những công chức khác. Công chứng viên được bổ nhiệm để chứng nhận hợp đồng và văn bản, giúp đỡ pháp lý cho cá nhân, tổ chức, tạo ra sự an toàn pháp lý và sự tin cậy cho các giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật.
Điển hình của hệ thống này là công chứng viên của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Hệ thống này phát triển mạnh nhất vào những năm 1970 đến 1989 bao gồm: công chứng Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Bun-ga-ri, Hung-ga-ri, Ru-ma-ni, Cu Ba, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam…Sau khi Liên Xô bị sụp đổ, hệ thống xã hội chũ nghĩa không còn, hệ thống công chứng này cũng dần dần bị thu hẹp và đi vào cải cách để phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế thị trường. Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Trong hệ thống công chứng Nhà nước bao cấp, Nhà nước đảm bảo cơ sở vật chất của phòng công chứng như trụ sở, phương tiện, thiết bị văn phòng, kinh phí hoạt động bao gồm cả quỹ lương và nhà nước cũng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Các phòng công chứng đăt dưới sự quản lý song trùng trực thuộc: vừa đặt dưới sự quản lý nghiệp vụ, chuyên môn của Bộ Tư pháp, vừa đặt dưới sự quản lý của chính quyền địa phương.
Cùng với các phòng công chứng chuyên trách, một số cơ quan hành chính được giao thực hiện kiêm nhiệm thêm một số việc công chứng đơn giản ở những nơi tập trung dân cư nhưng chưa thành lập phòng công chứng . Mặt khác, môt số nhân viên ngoại giao và lãnh sự được giao thẩm quyền thực hiện một số việc công chứng ở nước ngoài.
Hoạt động công chứng của các nước theo hệ thống này mang tính kỹ thuật đơn giản, có nghĩa là công chứng viên chỉ là người thực hiện hành vi chứng nhận đơn giản, chứng nhận một văn bản chỉ chú trọng đến hình thức, tính hợp pháp của văn bản, căn cứ vào các giấy tờ do người yêu cầu xuất trình, hoặc nộp để nhận dạng, xác định năng lực hành vi dân sự, tình trạng pháp lý của tài sản và là người ghi chép vào sổ những sự kiện đã thực hiện, ít chú trọng đến việc tư vấn, xác minh.
Công chứng ở nƣớc Cộng hòa Ba Lan – một ví dụ về Cải cách công chứng
Ngày 25.04.1989, Nhà nước Ba Lan đã ban hành Luật số 176 về cải cách tổ chức và hoạt động công chứng. Đó là bước ngoặc lớn về sự phát triển của công chứng ở Ba Lan, quá độ chuyển đổi cơ chế từ hệ thống công chứng Nhà nước bao cấp, trong đó công chứng viên là công chức Nhà nước sang mô hình công chứng mới vừa tồn tại các phòng công chứng Nhà nước, vừa phát triển các phòng công chứng hành nghề tự do, theo khuôn mẫu của công chứng hệ La tinh. Việc cải cách này nhằm đáp ứng và theo kịp những yêu cầu và biến đổi của nền kinh tế thị trường mà theo đó, quyền sở hữu tư nhân được thừa nhận, quyền tự do kinh doanh của các cá nhân và pháp nhân được khẳng định và nhằm phục vụ chính sách mở cửa giao lưu quốc tế của Nhà nước Ba Lan.
Về tổ chức và hoạt động, thì công chứng Ba Lan được đổi mới chiếu theo mô hình công chứng của Cộng hòa Pháp, Liên bang Đức, Argentina… tuy nhiên có tính đến những điều kiện riêng biệt mang màu sắc riêng của Ba Lan và một thực tế là đang tồn tại một số lượng đáng kể phòng công chứng Nhà nước và một đội ngũ công chứng viên là công chức Nhà nước. Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Mục tiêu quan trọng nhất của đạo luật này là tạo ra một hệ thống công chứng tư nhân, đồng thời sử dụng có hiệu quả số lượng phòng công chứng Nhà nước hiện có để dần dần tư nhân hóa các cơ sở đó, chuyển công chứng viên Nhà nước thành công chứng viên hành nghề trong khuôn khổ một nghề tự do; nâng cao hiểu biết pháp luật và trình độ chuyên môn cho công chứng viên đang hành nghề và đổi mới phương thức đào tạo công chứng viên và thư ký công chứng theo những tiêu chuẩn quốc tế.
Luật tổ chức công chứng của Ba Lan năm 1989 là kết quả của công tác nghiên cứu nghiêm túc, khẩn trương của nhiều luật gia, chuyên viên nghiên cứu, công chứng viên, thư ký công chứng dựa trên cơ sở và phạm vi điều chỉnh của Bộ Luật Dân sự mới, đồng thời tham khảo pháp luật công chứng, kinh nghiệm nghề nghiệp của nhiều nước trên thế giới đặc biệt là công chứng của các nước có truyền thống lâu đời trong liên minh châu Âu.
Công chứng viên ở Ba Lan là những công chức công, song song tồn tại hai loại :
Công chứng viên Nhà nước (notaire – fonctionnaire)
Đó là những viên chức được bổ nhiệm từ trước năm 1989 đang làm việc tại trụ sở các phòng công chứng Nhà nước, họ được Nhà nước trả lương từ nguồn ngân sách Nhà nước và hoạt động được bảo đảm bằng cơ sở vật chất (trụ sở, phương tiện) và kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp. Toàn bộ lệ phí thu được đều nộp vào ngân sách Nhà nước.
Công chứng viên tư nhân (notaire privé)
Đó là những người mới được bổ nhiệm hoặc là những người được chuyển từ công chứng viên Nhà nước; họ có trụ sở riêng, tài khoản và kinh phí hoạt động riêng; họ là chủ quản lý phòng công chứng, họ thu lệ phí theo bảng giá do Nhà nước ấn định và nộp các khoản thuế theo quy định của luật thuế hiện hành.
Những người hội đủ những điều kiện sau đây có thể được Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm làm công chứng viên:
- Có quốc tịch Ba Lan;
- Có bằng cử nhân luật;
- Đã tham gia công tác công chứng;
- Có tư cách, phẩm chất, đạo đức tốt;
- Thi đỗ kỳ thi tuyển công chứng;
- Cam kết sẽ tự giác thực hiện mọi trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
- Đã là công chứng viên tập sự ít nhất một năm;
- Có đủ 26 tuổi đời.
Phạm vi hoạt động công chứng của công chứng viên tại Ba Lan:
Luật số 176 đã quy định 8 nhóm việc công chứng mà cơ bản trong các luật trước đã quy định:
- Soạn thảo và chứng nhận các hợp đồng;
- Thực hiện việc thị thực các giấy tờ và hành vi pháp lý;
- Lập biên bản các sự kiện;
- Chứng nhận ngân phiếu, thương phiếu;
- Nhận quản giữ các giấy tờ tài liệu;
- Cấp các bản sao công chứng;
- Thảo đơn từ cho các bên khách hàng;
- Các việc công chứng khác do pháp luật quy định.
Như vậy, về nguyên tắc thì công chứng viên Ba Lan có nhiệm vụ chứng nhận các hợp đồng, các hành vi công chứng mà pháp luật quy định buộc phải công chứng, đồng thời chứng nhận những hành vi công chứng tuy pháp luật không bắt buộc nhưng do khách hàng tự nguyện yêu cầu. Tuy nhiên, công chứng viên có quyền từ chối công chứng khi nhận thấy yêu cầu công chứng trái pháp luật hoặc trái với thuần phong mỹ tục.
Riêng đối với các hành vi thị thực, pháp luật đã quy định một số việc thường gặp:
- Thị thực chữ ký;
- Thị thực bản sao từ bản chính;
- Thụ thực ngày xuất trình giấy tờ;
- Thị thực sự trình diện hoặc nơi ở của khách hàng.
Song song với việc thị thực của các công chứng viên, Chính phủ có thể ủy quyền cho một số cơ quan hành chính và ngân hàng (ở những nơi chưa có phòng công chứng) để thực hiện một số hành vi thị thực nêu trên. Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Những đặc trưng và ưu điểm của hệ thống công chứng Latinh:
Thông qua việc nghiên cứu công chứng của hệ thống công chứng La tinh trong đó có một điển hình là công chứng Pháp, chúng ta có thể rút ra một số nét đặc trưng và những ưu điểm của hệ thống công chứng này như sau:
- Công chứng trong khuôn khổ một nghề tự do được thể hiện rõ trong việc thực hiện chức năng mang tính công thông qua quyền tự do tổ chức hoạt động trong nội bộ phòng công chứng, trong việc chi trả tiền công tính theo lao động; Trong khả năng cạnh tranh lành mạnh, không cần phô trương, quảng cáo một khái niệm về độc quyền và quyền tự do lựa chọn khách hàng; trong sự phát triển chính đáng từ nguồn khách hàng thường xuyên và nhất là trong trách nhiệm cá nhân của công chứng viên đối với hành vi công chứng do mình thực hiện được hỗ trợ bằng quỹ bồi thường trách nhiệm của toàn ngành công chứng.
- Công chứng viên là viên chức được Nhà nước trao cho một phần quyền năng để lập các văn bản, hợp đồng trong sự tiến triển của các hợp đồng pháp luật, kinh tế và xã hội mà theo quy định của pháp luật hoặc theo sự tự nguyện của khách hàng muốn đem lại cho các văn bản và hợp đồng đó một tính đích thực có giá trị như văn bản do các cơ quan công quyền khác cấp, hạn chế được đến mức thấp nhất những tranh chấp dân sự, làm giảm bớt gánh nặng quá tải về xét xử của các Tòa án.
- Công chứng viên là những nhà pháp luật gần gũi nhất với cuộc sống. Sứ mệnh của họ là giúp mọi người lựa chọn và định đoạt tài sản của mình theo cách hợp lý nhất, đồng thời họ cũng là những người tư vấn vô tư nhất cho các cá nhân và các chủ thể kinh tế khác trong lĩnh vực kinh doanh và bảo hộ tài sản và các quyền về tài sản.
- Công chứng viên là người có đủ tinh thông về kỹ thuật và sự thanh khiết về đạo đức. Trình độ tinh thông thể hiện ở chỗ nhà thực hành phải biết tự đào tạo nghiệp vụ cơ bản, thường xuyên cập nhật và hoàn thiện những kiến thức pháp luật. Nhưng sự trong sáng về đạo đức còn quan trọng hơn nhiều, nó đòi hỏi ở công chứng viên không chỉ lòng trung thành mà cả thái độ công minh, sự tôn trọng triệt để các bí mật được giao, lòng can đảm để đảm nhận những trách nhiệm.
- Trong một thế giới ngày càng văn minh, khi mà các quan hệ xã hội được pháp luật bảo hộ bằng những quy định rất chi tiết, trong một đất nước tự do nơi mà các cá nhân, tổ chức luôn luôn có nhu cầu được Nhà nước bảo vệ, trong một môi trường luôn biến động nơi mà an toàn pháp lý trở thành vấn đề cấp thiết, thì ngành công chứng phải đóng một vai trò trọng yếu trong số các ngành của luật tư pháp.
- Ở Cộng hòa Ba Lan và một số nước xã hội chủ nghĩa cũ khác, công chứng đã và đang được thay đổi từ hệ thống công chứng Nhà nước bao cấp thành công chứng hoạt động tự do theo khuôn mẫu La tinh. Sự chuyển đổi này là một tất yếu trong xu thế phát triển của kinh tế thị trường, để phù hợp với sự tiến triển của những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và pháp luật, sau sự xuất hiện của một loạt quan hệ theo Bộ luật Dân sự, gắn liền với việc thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về tài sản.
- Phạm vi hoạt động của công chứng ở các nước mới được cải cách, dần dần bị thu hẹp đối với các hành vi thị thực. Tuy nhiên, hoạt động công chứng tập trung và phát triển trong đời sống các hợp đồng dân sự, đặc biệt là những giao dịch liên quan đến việc bảo vệ, chuyển quyền sở hữu tài sản và tư vấn pháp luật.
- Sự gia nhập Liên đoàn công chứng quốc tế hệ La tinh của công chứng Ba Lan và một số nước xã hội chủ nghĩa cũ đã làm tăng sức mạnh của Liên đoàn, bổ sung vào pháp điển hóa luật công chứng, làm giàu thêm kho tàng và kinh nghiệm nghề nghiệp, thúc đẩy quá trình hòa nhập với kinh tế thế giới.
- Sự phát triển hùng mạnh của hệ thống công chứng La tinh được thể hiện qua những ưu điểm hiển nhiên của nó so với hệ thống công chứng Anglo-sacxon và hệ thống công chứng Nhà nước bao cấp. Những ưu điểm đó được thấy rõ nhất ở chỗ công chứng viên trong hoạt động với tư cách cá nhân về mặt tài chính, chịu trách nhiệm cá nhân bằng tài sản của chính mình về hành vi công chứng đã thực hiện, họ vẫn hoạt động nhân danh Nhà nước, chịu sự kiểm tra giám sát của các cơ quan Nhà nước và phục vụ lợi ích công.
- Trong xu thế phát triển mới của thế giới, một số nước thuộc địa cũ của Pháp sau khi giành được độc lập đã cải cách kinh tế, và theo đó đã tổ chức lại hệ thống công chứng trên cơ sở cấu trúc do Pháp đã đặt nền móng và xây dựng từ đầu thế kỷ XIX. Mặc dù ở mỗi nước có sự khác nhau về chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội, pháp luật, trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân, nhưng ở các nước đó vẫn có điểm chung nhất: công chứng viên là viên chức công – người được Nhà nước ủy quyền để thực hiện một quyền năng công chứng, hoạt động trong khuôn khổ một nghề tự do.
- Phương châm ngành công chứng tự trang trải về mặt tài chính đã chẳng những trút bỏ được gánh nặng cho ngân sách Nhà nước mà ngược lại còn bổ sung cho ngân sách thông qua việc nộp một khối lượng thuế đáng kể của các công chứng. Như vậy, ở Ba Lan cũng như ở một số nước xã hội chủ nghĩa cũ khác, hoạt động công chứng dưới hình thức một nghề tự do là cách tốt nhất để tăng khối lượng và chất lượng phục vụ.
- Thực tiễn áp dụng những cải cách mới về tổ chức và hoạt động công chứng ở một số nước xã hội chủ nghĩa cũ này chứng tỏ rằng sự phục hồi công chứng tự do đã nâng cao khả năng làm việc của công chứng, đáp ứng những yêu cầu bảo vệ lợi ích của các cá nhân và pháp nhân được ghi trong trong Hiến pháp. Nhiều công chứng viên đã có liên hệ với các nhà chuyên môn về luật và các thực tập sinh, trang bị hệ thống máy vi tính và những phương tiện làm việc hiện đại nâng cao khả năng đảm nhiệm công việc lên nhiều lần.
- Việc chuyển từ mô hình công chứng Nhà nước sang mô hình công chứng tư nhân được thực hiện trên ba nguyên tắc: vừa bảo vệ được quyền và lợi ích của các chủ sở hữu, vừa hoàn thiện hoạt động chức năng của hệ thống công chứng và vừa phù hợp với tinh thần của luật công chứng quốc tế.
- Những sửa đổi không làm nghiêm trọng thêm tình hình của các tầng lớp xã hội, đồng thời chú ý bảo vệ quyền tiếp tục làm việc của những công chứng viên Nhà nước để dần dần chuyển họ thành công chứng viên tư nhân thực thụ. Ngoài ra, những quy định mới đều được kế thừa từ pháp luật công chứng Nhà nước và tôn trọng tính truyền thống, tập quán và ý thức pháp luật của nhân dân mỗi nước. Trong thời kỳ đầu chuyển đổi cơ chế, Nhà nước đã dành một khoản ngân sách để tu bổ và hỗ trợ giúp nâng cấp phòng công chứng Nhà nước có từ trước để dần dần tư nhân hóa những cơ sở đó thành những phòng công chứng tư nhân hoặc thành phòng công chứng của nhiều cổ đông. Công chứng ở những nước này đang phấn đấu để một tương lai không xa, có được một hệ thống công chứng theo đúng ý nghĩa đầy đủ của nó: đó là công chứng viên hoạt động trong khuôn khổ một nghề hoàn toàn tự do, với tư cách là viên chức công – người được Nhà nước giao cho một quyền năng, họ hoàn toàn độc lập khi thực hiện chức năng và chỉ biết tuân theo pháp luật.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triên công chứng viên trong các chế độ cũ ở Việt Nam Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
1.2.2.1. “Công chứng viên” thời kỳ phong kiến Việt Nam
Trên thế giới, công chứng viên là một nghề đã có từ rất lâu đời. Còn ở Việt Nam, qua nghiên cứu lịch sử chúng ta có thể thấy rằng từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XVIII nếu xét về một số nội dung liên quan đến sở hữu tài sản thì đã thấy có manh nha hoạt động gần giống như hoạt động của công chứng viên ngày nay (tất nhiên với tên gọi khác). Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, chỉ xét riêng về mặt luật lệ, qua nghiên cứu Lịch triều hiến chương loại chí, Cổ luật Việt Nam, Pháp chế sử Việt Nam [55], [101] chưa thấy xuất hiện thuật ngữ công chứng giống như lịch sử cổ đại và phong kiến ở nhiều nước trên thế giới và do đó cũng không có khái niệm công chứng viên. Nhưng dựa trên những văn kiện, những sự kiện xảy ra trên thực tế lịch sử, một số tác giả nghiên cứu cho rằng loại hình công chứng là việc lập các công chứng thư bởi các viên chức nhà nước, nó có hiệu lực pháp lý ngay để thực hiện, phân biệt với những người lập “tư chứng thư” của những người hành nghề làm chứng tự do hoàn toàn mà giá trị văn bản của họ chỉ có thể được các cơ quan, quan lại, viên chức nhà nước tham khảo khi xảy ra các vụ kiện tụng mà thôi. [3], [103, tr. 95]. Điều này đã rất đúng so với trên thực tiễn. Tuy vậy, nếu xét về lịch sử ra đời và phát triển của Nhà nước phong kiến ở Việt Nam thì thấy đã có manh nha về hoạt động công chứng. Dưới thời Lê, di chúc được làm dưới dạng một tài liệu được gọi là chúc thư. Để có giá trị, chúc thư phải được lập thành văn bản có hình thức nhất định, nếu người làm chúc thư không biết chữ thì chúc thư cần phải được xã trưởng viết hộ và chứng thực nhằm ngăn ngừa khả năng gian lận có thể xảy ra đối với chúc thư bởi người thứ ba. Pháp luật thời kỳ này cũng đã quy định việc xử phạt đối với việc làm giả mạo giấy tờ [57], [58]. Trong các văn tự mua, bán, cầm cố ruộng đất, nhà cửa cũng được quy định phải có chứng nhận của xã trưởng – mà xét về mặt dân sự đây chính là một dạng thức công chứng.
Qua nghiên cứu lịch sử chúng ta có cơ sở khẳng định, Việt Nam là một quốc gia có các quy định của pháp luật phát triển không ngừng [53]. Có hệ thống pháp luật tiến bộ tương đương về chức năng so với những quan niệm pháp luật phương tây cận đại [117].
Thật vậy, ngay từ trong thực tế lịch sử thời kỳ phong kiến nước ta cũng vậy. Một mặt, nhà nước vẫn khuyến khích nhân dân tham gia cung cấp chứng cứ khi có yêu cầu (loại hoạt động này chúng ta đều biết đã xuất hiện từ thời cổ đại và tồn tại cho đến tận ngày nay), ví dụ: trong “Quốc triều thư khế” (Thể thức giấy tờ, khế ước dùng trong triều) như chúc thư, văn khế bán ruộng đất, văn khế cầm cố ruộng đất, văn ước vay nợ, giấy giao kèo, văn ước bán trâu, bò… đều quy định người chứng kiến, người bảo lãnh, người viết thay phải điểm chỉ vào văn tự [69, tr. 61], [70], [78]. Nhưng mặt khác, trong các giao dịch nói trên của nhân dân, những giao dịch nào quan trọng thì nhà nước đó vẫn đòi hỏi phải có sự thị thực (bản chất như công chứng) của những viên chức nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện (bản chất giống như công chứng viên bây giờ). Ví dụ như trong bộ luật “Hoàng Việt Luật lệ” (thời vua Gia Long nhà Nguyễn, 1944 ), phần Hộ luật, Điều thứ 521 đã ghi: “Những khoản-ước về việc di-chuyển bất-động-sản, về việc lưu-chuyển hay lập ra những vật-quyền về bất-động-sản, thời phải có viên-chức thị-thực để đăng-ký và sổ bảo-tồn điền-trạch mới có giá trị”, Ngoài ra, cũng trong bộ luật này cũng có rất nhiều điều quy định các giao dịch quan trọng trong dân chúng đều phải có thị thực bởi viên chức nhà nước được giao quyền thì mới được luật pháp công nhận. Mà trong lịch sử, tinh thần của Bộ luật này là do quan lại nhà Nguyễn vận dụng từ thời “Quốc triều hình luật” và “Quốc triều thư khế” có sửa đổi để ban hành. [53, tr. 21].
Như vậy, tuy thời kỳ phong kiến nước ta chưa có chế định (quy chế) công chứng viên một cách rõ ràng nhưng về mặt lý luận thì đã có những quy định cơ bản về quy chế này, ví dụ: Những người thực hiện công chứng (tương đương công chứng viên) phải là viên chức nhà nước (quan, lại).
1.2.2.2. Công chứng viên Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
Đến thời kỳ Pháp thuộc, sau Hòa ước Giáp thân ngày 06/06/1884 được ký kết với Pháp. Nước Việt Nam mất hẳn tính cách một quốc gia độc lập về phương diện pháp lý, vì đã trở thành một nước dưới sự bảo hộ của Pháp quốc. Thời kỳ này công chứng với tư cách là thể chế bắt đầu xuất hiện và được áp dụng ở Việt Nam cùng với sự thành lập tổ chức và hoạt động của Tòa án Pháp tại Việt Nam, mô hình công chứng được tổ chức theo mô hình công chứng của Pháp [3], [89]. Và cũng từ đó, tên gọi công chứng viên và các quy chế về công chứng viên bắt đầu chính thức xuất hiện ở nước ta.
Tổ chức và hoạt động công chứng trong giai đoạn này được xác lập bằng Sắc lệnh ngày 24/8/1931 của Tổng thống Cộng hòa Pháp về tổ chức công chứng được áp dụng ở Đông Dương theo quyết định ngày 7/10/1931 của viên toàn quyền Đông Dương. Ở Việt Nam chỉ có một văn phòng công chứng tại Hà Nội, ba văn phòng công chứng ở Sài Gòn, ngoài ra ở các thành phố Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng thì các việc công chứng do chánh lục sự Tòa án sơ thẩm kiêm nhiệm. Có thể coi đây là văn bản pháp lý đầu tiên làm cơ sở cho việc thiết lập hệ thống công chứng ở Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc.
Tổ chức và hoạt động công chứng ở các nước thuộc địa của Pháp chịu sự chi phối bởi pháp luật công chứng của Pháp. Chưởng ấn Bộ trưởng Tư pháp, bổ nhiệm công chứng viên, thành lập văn phòng công chứng, giám sát hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên. Hội đồng công chứng tối cao được đặt bên cạnh Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm quản lý điều hành hội đồng công chứng các khu vực. Hội đồng công chứng các khu vực chịu sự giám sát của Tòa thượng thẩm. Ở các nước thuộc địa không có văn phòng quản lý công chứng cấp tỉnh, mà chỉ có một số thành phố lớn có văn phòng công chứng của các công chứng viên do tổng thống Pháp bổ nhiệm, công chứng viên là người Pháp. Mô hình công chứng được thiết lập theo mô hình công chứng hệ La tinh, công chứng viên đứng ra tổ chức và điều hành mọi hoạt động của văn phòng công chứng và chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi công chứng của mình gây ra.
Công chứng viên cuối cùng người Pháp tại Việt Nam là ông DEROCHE, là công chứng viên người Pháp tại văn phòng công chứng ở Hà Nội.
1.2.2.3. Công chứng viên thời kỳ Miền Nam Việt Nam
Miền Nam Việt Nam, sau Hiệp định Giơnevơ 1954, ngày 29/11/1954 Bảo Đại ký Dụ số 43 quy định thể thế chưởng khế, chưởng khế là người Việt Nam, là viên chức hưởng lương chưởng khế (thể chế công chứng nhà nước). Quốc gia chịu trách nhiệm dân sự về lỗi do chưởng khế phạm phải khi hành sự, hoặc những công việc họ được phó thác vì chức vụ chưởng khế [111]. Ở Sài Gòn trước 1975 còn tồn tại 1 Phòng chưởng khế, các văn bản được công chứng, thị thực bởi chưởng khế của Phòng chưởng khế này.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Công chứng là một nghề đã có từ hàng ngàn năm. Công chứng viên và quy chế công chứng viên là một chế định rất quan trọng và là một tất yếu khách quan không thể thiếu hệ thống pháp luật và trong lòng xã hội. Ở Việt Nam, qua nghiên cứu lịch sử chúng tôi thấy rằng từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XVIII nếu xét về khía cạnh quản lý của nhà nước phong kiến đương thời đối với các giao dịch dân sự đã thấy có manh nha quy định về hoạt động công chứng, nhất là thể chế công chứng được hình thành từ thời Pháp thuộc càng cho thấy việc phát triển lý luận về công chứng viên và quy chế công chứng viên là khía cạnh khoa học đã có từ lâu đời và rất cần được phát triển trong tương lai. Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY