Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Marketing dịch vụ trong phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1 Xu thế phát triển thương mại dịch vụ trên thế giới
3.1.1 Xu thế “dịch vụ hóa” nền kinh tế thế giới
Trong những thập kỷ gần đây, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu sang các ngành dịch vụ. Tỷ trọng của dịch vụ hiện chiếm hơn 65% tổng sản lượng kinh tế toàn cầu. Giá trị sản lượng của nhiều ngành dịch vụ (viễn thông, vận tải, tài chính…) đã vượt xa các ngành công nghiệp truyền thống như năng lượng và chế tạo. Chẳng hạn, du lịch thu hút gần 11% lực lượng lao động thế giới, (nói cách khác cứ 9 lao động thì có 1 người làm việc trong du lịch), tạo ra 10,2% GNP toàn cầu. Thương mại dịch vụ quốc tế trong hai thập kỷ qua cũng phát triển nhanh với tốc độ cao hơn thương mại hàng hóa. Năm 2023, xuất khẩu dịch vụ của cả thế giới đạt 1.860 tỷ USD, gấp 2,25 lần năm 1990 và chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu toàn cầu (xem Phụ lục 2.2). Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Quá trình “dịch vụ hóa” nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ ở hầu hết các nước không phân biệt trình độ phát triển. Ở các nước công nghiệp phát triển, quá trình “dịch vụ hóa”đã đưa nền kinh tế các nước này chuyển từ cơ cấu công nghiệp hóa sang cơ cấu kinh tế dịch vụ, với tỷ trọng dịch vụ chiếm từ 70-80% GDP và lực lượng lao động xã hội. Ngành dịch vụ ở Hoa Kỳ hàng năm tạo 80% cơ hội việc làm, xuất khẩu dịch vụ chiếm tới 30% tổng kim ngạch xuất khẩu (xem Phụ lục 2.4). Đối với các nước đang phát triển, dịch vụ cũng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với tỷ trọng 40-50% GDP. Sự phát triển của dịch vụ trở thành một trong những yếu tố phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, nghĩa là trình độ phát triển kinh tế của một nước càng cao thì dịch vụ càng phong phú, đa dạng và tỷ trọng của dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của nước đó càng lớn.
Dịch vụ là yếu tố đầu vào thiết yếu của mọi quá trình sản xuất (nghiên cứu& triển khai, thiết kế, tư vấn, xúc tiến, marketing…). Sự phát triển của dịch vụ thúc đẩy và gắn liền với chuyên môn hóa sâu sắc và hiện đại hóa kinh tế. Các dịch vụ như viễn thông, vận tải, tài chính…là những ngành kinh tế then chốt, cung cấp dịch vụ hạ tầng cơ bản cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Dịch vụ và thương mại dịch vụ ngày càng đa dạng hóa. Do tính đa dạng hóa của dịch vụ, nên chưa có một khái niệm thống nhất về dịch vụ, bao quát hết các bộ phận cấu thành của dịch vụ. Vì vậy, những số liệu thống kê dịch vụ và thương mại dịch vụ chưa phản ánh chính xác sự vận động và phát triển của dịch vụ hiện nay. Dịch vụ có tính “năng động” hơn so với hàng hóa trong việc thỏa mãn nhu cầu luôn biến đổi của con người. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về dịch vụ ngày càng đa dạng hóa.
Quá trình “dịch vụ hóa” kinh tế được thúc đẩy bởi những nhân tố sau đây:
- Dịch vụ hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hội và phân công lao động xã hội. Khoa học công nghệ phát triển thúc đẩy phân công lao động và chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc, làm thay đổi cơ cấu sản xuất, tăng hàm lượng dịch vụ trong sản phẩm hàng hóa. Thực tế cho thấy các sản phẩm công nghiệp có quy trình sản xuất phức tạp cần có những đầu vào dịch vụ (services inputs) hạ tầng và bổ trợ có chuyên môn hóa cao như thiết kế, nghiên cứu và triển khai (R&D), marketing, phân phối, bảo hiểm… Mặt khác, cách mạng khoa học công nghệ cũng tạo điều kiện cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các ngành dịch vụ. Nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin và thương mại điện tử, các giao dịch dịch vụ qua biên giới đang phát triển mạnh. Phần lớn các giao dịch dịch vụ tài chính và viễn thông quốc tế hiện được thực hiện qua mạng máy tính.
- Hầu hết các sản phẩm dịch vụ có hệ số co dãn cầu- thu nhập lớn. Do vậy, cùng với quá trình phát triển kinh tế, thu nhập dân cư gia tăng khiến cho nhu cầu về dịch vụ ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Do đó, khi kinh tế càng phát triển thì dịch vụ càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing
3.1.2 Xu thế tự do hóa thương mại dịch vụ Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Xu thế toàn cầu hóa kinh tế thể hiện sự liên kết quốc tế ngày càng sâu sắc quá trình sản xuất, kinh doanh và các loại thị trường giữa các quốc gia. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế không chỉ diễn ra thông qua thương mại hàng hóa, đầu tư mà còn cả thương mại dịch vụ. Do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất hiện đại, quá trình toàn cầu hóa dịch vụ trong những thập kỷ qua, nhất là từ thập kỷ 80 trở lại đây có những bước phát triển mới về chất. Thương mại dịch vụ quốc tế ngày càng được mở rộng với tốc độ tăng trưởng nhanh hơn thương mại hàng hóa. Tỷ trọng thương mại dịch vụ trong thương mại quốc tế hiện nay đạt 20%, trong đó các nước phát triển chiếm hơn 70% lưu chuyển thương mại dịch vụ thế giới (Bắc Hoa Kỳ 22%, EU 45%, Nhật Bản 5%). Thương mại dịch vụ có nhiều tiềm năng tăng trưởng trong thời gian tới bởi tỷ trọng thương mại dịch vụ trong thương mại quốc tế hiện chưa tương xứng với vai trò và tỷ trọng của dịch vụ trong cơ cấu kinh tế thế giới (65% GDP toàn cầu) cũng như cơ cấu kinh tế của các nước.
Các định chế kinh tế quốc tế với chức năng “giám sát”, “điều tiết” quá trình tự do hóa thương mại quốc tế nói chung, thương mại dịch vụ nói riêng đã được thành lập. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) dành riêng Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) để điều chỉnh thương mại dịch vụ quốc tế. Mục tiêu của GATS/WTO nhằm hình thành thị trường dịch vụ cạnh tranh, thống nhất trên phạm toàn cầu thông qua từng bước dỡ bỏ những rào cản đối với thương mại dịch vụ. GATS là hiệp định khung quốc tế đầu tiên điều chỉnh thương mại dịch vụ, có tính ràng buộc đối với tất cả các nước thành viên của WTO. GATS điều chỉnh những biện pháp của các nước thành viên tác động tới thương mại dịch vụ được thực hiện thông qua bốn phương thức cung cấp (xem thêm Chương 1) theo các nguyên tắc: (i) nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN); (ii) Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT); (iii) Nguyên tắc công khai, minh bạch hóa; (iv) Nguyên tắc tự do hóa từng bước (progressive liberalization); (v) Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước thành viên đang phát triển và/ hoặc đang trong quá trình chuyển đổi. Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Mức độ tự do hóa thương mại dịch vụ trong khuôn khổ GATS nhìn chung còn hạn hẹp cả về số lượng và mức độ cam kết trong từng phương thức cung cấp dịch vụ. Phần lớn cam kết theo GATS của các nước hiện nay chỉ dừng ở mức hiện trạng mở cửa thị trường tại thời điểm ký hoặc gia nhập WTO. Bình quân mỗi nước thành viên GATS cam kết khoảng 25 phân ngành dịch vụ trong tổng số 155 phân ngành theo phân loại của GATS [37]. Du lịch có nhiều nước thành viên cam kết nhất với hơn 90% thành viên WTO cam kết ít nhất một phân ngành trong du lịch. Tuy nhiên, cam kết của các nước gia nhập WTO gần đây cho thấy mức độ cam kết tự do hóa dịch vụ của những nước này sâu rộng hơn nhiều so với cam kết của các nước có cùng trình độ phát triển tại thời điểm thành lập WTO.
Về mức độ cam kết theo phương thức cung cấp dịch vụ, mặc dù thương mại dịch vụ qua phương thức hiện diện thể nhân chiếm tỷ trọng nhỏ trong thương mại dịch vụ quốc tế nhưng có mức độ tự do hóa thấp do phương thức này nhạy cảm cao với vấn đề lưu chuyển lao động giữa các nước. Trong bốn phương thức, phương thức tiêu dùng ở nước ngoài có mức độ tự do hóa cao nhất với khoảng 50% cam kết không hạn chế tiếp cận thị trường. Phương thức cung cấp qua biên giới và phương thức hiện diện thương mại luôn là trọng tâm của đàm phán thương mại dịch vụ, thể hiện sự thỏa hiệp giữa các nước trong tự do hóa thương mại dịch vụ bởi hai phương thức này chiếm tới 80% tổng giao dịch thương mại dịch vụ quốc tế và có tính khả thi nhất về kinh tế- kỹ thuật trong cung cấp dịch vụ.
3.1.3 Xu thế chuyển dịch cơ cấu thương mại dịch vụ quốc tế
Dịch vụ có hàm lượng công nghệ ngày càng chiếm vị trí hàng đầu. Ngày nay, các dịch vụ như dịch vụ thông tin, tư vấn, tài chính, tín dụng, dịch vụ phần mềm máy tính, thương mại điện tử… có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế của các quốc gia. Các loại dịch vụ này được coi là “trí tuệ của nền kinh tế”, thúc đẩy tiến trình đi vào kinh tế tri thức.Tỷ trọng dịch vụ có hàm lượng công nghệ trong thương mại dịch vụ quốc tế tăng nhanh, trong khi các dịch vụ truyền thống có xu hướng giảm. Trước sự phát triển vũ bão của khoa học và công nghệ, sự vận động phức tạp của kinh tế thế giới và cạnh tranh quốc tế gay gắt, buộc các nước phải tăng hàm lượng trí tuệ và công nghệ cho các sản phẩm bao gồm các sản phẩm dịch vụ, nhằm tránh tụt hậu về kinh tế.
Biểu 3.2: Tỷ trọng xuất khẩu một số dịch vụ trong tổng xuất khẩu dịch vụ thế giới 1990 – 2023
Dịch vụ phục vụ cho khai thác thị trường và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm phát triển nhanh chóng và rất đa dạng. Các dịch vụ tiếp thị, quảng cáo, vận tải, bảo hành hàng hóa… có xu hướng phát triển rất nhanh. Các dịch vụ này đòi hỏi chất lượng ngày càng cao và sử dụng công nghệ hiện đại nhằm hỗ trợ và xúc tiến tiêu thụ hàng hóa, tạo cơ hội cho tái sản xuất mở rộng đối với nền sản xuất xã hội. Nhờ có sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, nhiều hình thức kinh doanh quốc tế mới đã hình thành như: thương mại điện tử, xúc tiến kinh doanh qua mạng…
Dịch vụ phục vụ đời sống, tinh thần của con người ngày càng phong phú và mở rộng. Khi đời sống vật chất càng được nâng cao thì nhu cầu về đời sống tinh thần càng cao. Đi đôi với nâng cao đời sống vật chất là phát triển hệ thống dịch vụ để đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của con người như các dịch vụ vui chơi giải trí, học tập, du lịch, văn hóa, chăm sóc sức khoẻ…
3.2 Cơ hội và thách thức đối với phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
3.2.1 Cơ hội
Kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay, với nỗ lực đổi mới và cải cách kinh tế, Việt Nam đã từng bước hình thành nền kinh tế thị trường, giữ vững ổn định chính trị- xã hội và duy trì tăng trưởng kinh tế cao. Thời kỳ 1991-2015, GDP tăng bình quân 8,2%/năm; từ 2016 đến nay tăng trưởng GDP bình quân trên 7%/ năm, cao hơn mức trung bình của khu vực (4-5%) và chỉ sau Trung Quốc. Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam từng bước được xác lập và hoàn thiện theo hướng tạo lập môi trường thuận lợi, minh bạch và cạnh tranh bình đẳng. Trong môi trường kinh tế vĩ mô như vậy, các doanh nghiệp dịch vụ ở Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển.
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam đẩy mạnh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở tất cả các cấp độ (song phương, tiểu vùng, khu vực, toàn cầu), trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế (thương mại, đầu tư, khoa học- công nghệ…). Năm 2015, Việt Nam gia nhập ASEAN, đang thực hiện các cam kết hội nhập khu vực trong khuôn khổ AFTA, AFAS, AIA và tiến tới xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Năm 2018, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của APEC. Năm 2020, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký Hiệp định thương mại song phương. Đặc biệt, trong khuôn khổ đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã tiến hành 9 vòng đàm phán và đang nỗ lực đàm phán song phương để sớm gia nhập tổ chức này… Việc tham gia các định chế kinh tế- thương mại quốc tế và khu vực tạo động lực thúc đẩy cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam phải nâng cao khả năng cạnh tranh. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho các doanh nghiệp dịch vụ tiếp cận các nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ bên ngoài để mở rộng và hiện đại hóa, nhất là các doanh nghiệp dịch vụ viễn thông, ngân hàng, du lịch, hàng không… Thông qua giảm thiểu rào cản, xóa bỏ phân biệt đối xử trong thương mại dịch vụ, các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam có thể tiếp cận nhiều thị trường mới ở nước ngoài, có thêm cơ hội và đối tác để phát triển kinh doanh. Môi trường hợp tác và cạnh tranh quốc tế cho phép các doanh nghiệp dịch vụ phát huy lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế tạo hiệu ứng “kéo-đẩy” giữa thương mại hàng hóa, đầu tư và thương mại dịch vụ. Bởi vì sự phát triển của thương mại hàng hóa, đầu tư sẽ kéo theo sự phát triển của thương mại dịch vụ, ngược lại, sự phát triển của thương mại dịch vụ thúc đẩy sự phát triển của thương mại hàng hóa, đầu tư.
3.2.2 Thách thức Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Mặc dù kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao (trên 7%/năm), song quy mô kinh tế và thị trường Việt Nam nhỏ so với hầu hết các nước trong khu vực. Quy mô thị trường của Việt Nam chỉ bằng 50% của Philippines, 40% Malaysia, 30% Thái Lan, 23% Indonesia và 3% Trung Quốc. Thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam thấp nên sức mua của thị trường cũng rất thấp. GDP ngang giá sức mua ở Việt Nam năm 2020 là 2016 USD/người, ở Indonesia 3043 USD/người, Philippines 3971 USD/người, Thái Lan 6402 USD/người, Trung Quốc 3976 USD/người, Malaysia 9068 USD/người [26, tr. 44- 45]. Do vậy, quy mô và sức mua thị trường thấp là một trong những yếu tố bất lợi từ phía cầu đối với phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam.
Pháp luật thương mại dịch vụ ở nước ta chưa đồng bộ và đầy đủ. Hiện nay, những quy định về thương mại dịch vụ nằm rải rác ở rất nhiều văn bản pháp luật thuộc các loại văn bản khác nhau, do nhiều cơ quan nhà nước ban hành. Mặc dù khung pháp lý cho thương mại dịch vụ đã từng bước được tạo lập nhưng nhìn chung còn thiếu nhiều quy định cho từng dịch vụ cụ thể, chẳng hạn như dịch vụ nghiên cứu & triển khai (R&D), dịch vụ nghiên cứu thị trường, tư vấn quản lý… Sự thiếu đồng bộ này đã làm giảm tính minh bạch, tính ổn định cũng như tính dự đoán trước (predictability) của pháp luật thương mại dịch vụ ở Việt Nam, do đó ảnh hưởng tiêu cực đến việc hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp dịch vụ.
Hội nhập kinh tế quốc tế đặt yêu cầu pháp luật thương mại dịch vụ của Việt Nam phải tương thích với các nguyên tắc, chuẩn mực của pháp luật thương mại quốc tế, mà nền tảng là hệ thống quy tắc thương mại của WTO. Hơn nữa, các nước thành viên WTO có xu hướng yêu cầu khắt khe hơn, thời hạn hưởng ưu đãi ngắn hơn… đối với các nước đang đàm phán gia nhập WTO, trong đó có Việt Nam. Đây là một thách thức lớn đối với pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam. Bởi tính chất cơ bản của nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế đang chuyển đổi, phải xử lý những quan hệ phức tạp: giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng XHCN, giữa hội nhập và bảo vệ chủ quyền, bản sắc văn hóa, giữa hợp tác và cạnh tranh, giữa vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế… Do đó, xây dựng, điều chỉnh pháp luật thương mại dịch vụ vừa phải thích ứng với nguyên tắc, chuẩn mực pháp luật thương mại quốc tế vừa phải phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội nói chung, pháp triển dịch vụ nói riêng ở Việt Nam.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi nên các yếu tố của cơ chế thị trường và cơ chế cũ tồn tại đan xen lẫn nhau. Nguyên tắc bình đẳng trong kinh doanh giữa các thành phần kinh tế đã được pháp luật thừa nhận, song trong thực tiễn nguyên tắc này chưa được thực hiện triệt để. Trong nhiều lĩnh vực dịch vụ như tài chính, viễn thông, kiểm toán… pháp luật vẫn phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần khác. Tình trạng độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong những dịch vụ hạ tầng then chốt chưa được kiểm soát hiệu quả. Mặt khác, những dịch vụ đã mở cửa cho cạnh tranh như quảng cáo, du lịch, môi giới, tư vấn… chưa được quản lý tốt dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh. Độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh thực sự không chỉ là những trở ngại đối với sự phát triển và hội nhập kinh tế của các doanh nghiệp dịch vụ, mà còn tác động tiêu cực đến nền kinh tế nói chung. Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam phải chấp nhận thích ứng với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt từ các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trên thị trường trong nước và quốc tế, “buộc phải đấu với những võ sĩ hạng lớn trên cùng một võ đài”. Rõ ràng, đây là thách thức rất lớn bởi năng lực cạnh tranh của dịch vụ và doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam còn thấp do hạn chế về vốn, công nghệ, nhân lực, năng lực quản lý. Tuy vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, nếu các doanh nghiệp dịch vụ không tích cực tham gia “sân chơi chung” thì thách thức còn lớn hơn nhiều, không tránh khỏi bị “bỏ rơi” và “tụt hậu”. Để trụ vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp dịch vụ cần có lộ trình hội nhập hợp lý, tích cực và không ngừng nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh.
Những cơ hội và thách thức nói trên cần phải được xem xét trong trạng thái động, bởi cơ hội và thách thức chỉ có tính tương đối, luôn vận động, đan xen và tác động qua lại lẫn nhau. Cơ hội, thách thức có thể chuyển hóa lẫn nhau tuỳ theo từng điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Ví dụ, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nếu các doanh nghiệp dịch vụ không tranh thủ được cơ hội tiếp cận vốn, công nghệ tiên tiến, thị trường từ bên ngoài sẽ không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu…
3.3 Mục tiêu, phương hướng phát triển thương mại dịch vụ ở Viẹt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đến năm 2010
3.3.1 Mục tiêu
Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2021-2010 xác định mục tiêu phát triển dịch vụ đến năm 2010: “Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 – 8%/năm và đến 2010 chiếm 42 – 43% GDP, 26 – 27% tổng số lao động”.
Về dịch vụ thương mại, hình thành các trung tâm thương mại lớn, các chợ nông thôn, nhất là ở miền núi, bảo đảm cung cấp một số sản phẩm thiết yếu cho vùng sâu, vùng xa và hải đảo; tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ nông sản; phát triển thương mại điện tử. Về dịch vụ vận tải, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hàng hóa, hành khách ngày càng hiện đại, an toàn, có sức cạnh tranh, vươn nhanh ra thị trường khu vực và thế giới. Dành thị phần lớn cho doanh nghiệp trong nước trong vận chuyển hàng hóa Việt Nam theo đường biển và đường hàng không quốc tế. Về dịch vụ bưu chính- viễn thông, tiếp tục phát triển nhanh và hiện đại hóa dịch vụ bưu chính – viễn thông; phổ cập sử dụng Internet; đến năm 2010, số máy điện thoại, số người sử dụng Internet trên 100 dân đạt mức trung bình trong khu vực. Về du lịch, phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước. Về tài chính- tiền tệ, mở rộng các dịch vụ tài chính – tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán,… đi thẳng vào công nghệ hiện đại, áp dụng các quy chuẩn quốc tế; từng bước hình thành trung tâm dịch vụ tài chính lớn trong khu vực.
3.3.2 Phương hướng chủ yếu phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam đến năm 2010 Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
3.3.2.1 Xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển thương mại dịch vụ
Trong thời gian qua, chúng ta mới chỉ tập trung vào xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển tổng thể cho các ngành sản xuất vật chất để tạo ra sản phẩm hàng hóa mà chưa có kế hoạch xây dựng một chiến lược, quy hoạch phát triển tổng thể, định hướng phát triển chung cho lĩnh vực dịch vụ. Dịch vụ và thương mại dịch vụ chỉ được lồng ghép và thường được coi là một nội dung thứ yếu trong các chiến lược, quy hoạch phát triển chung. Hiện nay, một số phân ngành dịch vụ đã tự xây dựng chiến lược phát triển riêng cho mình, nhưng đều là do tự phát do nhu cầu bức xúc của thực tiễn nên các chiến lược này thiếu sự liên kết liên ngành, chỉ tập trung phát triển riêng ngành mình, chưa vì mục tiêu chung của nền kinh tế xã hội. Điều này cũng lý giải tình trạng phát triển dịch vụ manh mún và thiếu đồng bộ, phối hợp trong các ngành dịch vụ ở Việt Nam trong thời gian qua. Do vậy, xây dựng chiến lược tổng thể phát triển triển thương mại dịch vụ của Việt Nam là rất cần thiết, để từ đó xây dựng, điều chỉnh, cập nhật các chiến lược phát triển riêng cho từng ngành, phân ngành dịch vụ.
3.3.2.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Cùng với việc chủ động thực hiện các cam kết quốc tế về dịch vụ, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh của mình và các sản phẩm dịch vụ; hỗ trợ các doanh nghiệp xâm nhập, mở rộng thị trường dịch vụ cả trong và ngoài nước, phát triển các loại hình dịch vụ mới.
Nhà nước tiếp tục huy động các nguồn vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước để nâng cấp, xây dựng mới kết cấu hạ tầng dịch vụ nhằm tạo thuận lợi cho phát triển dịch vụ và nâng cao năng lực cạnh tranh của dịch vụ. Vốn ngân sách nhà nước cần được ưu tiên đầu tư cho phát triển, hiện đại hóa có trọng điểm kết cấu hạ tầng dịch vụ cơ bản, đặc biệt là giao thông vận tải, cảng hàng không, cảng biển, mạng trục viễn thông, khu du lịch tổng hợp quốc gia, tài chính-ngân hàng. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa và đổi mới tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp dịch vụ nhà nước để huy động nguồn lực xã hội cho phát triển dịch vụ, trước hết ở các ngành bảo hiểm, ngân hàng, du lịch, vận tải, viễn thông…
Giảm chi phí, giảm giá thành dịch vụ là một trong những giải pháp hàng đầu để nâng cao sức cạnh tranh. Tới đây, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải rà soát phấn đấu giảm chi phí, nhất là giảm chi phí sản xuất như chi phí đầu vào, chi phí quản lý, chi phí hành chính, chi phí tiếp thị…
Nâng cao năng suất lao động, chất lượng dịch vụ thông qua đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao trình độ nghiệp vụ của nhân viên phục vụ, tổ chức lại quy trình phục vụ…
3.3.2.3 Tạo dựng môi trường kinh doanh dịch vụ bình đẳng, thuận lợi
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật thương mại dịch vụ theo hướng tạo môi trường chính sách, pháp luật thuận lợi cho phát triển thương mại dịch vụ, đồng thời tương thích với các quy định và thông lệ quốc tế, nhất là các quy định của WTO về thương mại dịch vụ.
Cạnh tranh và độc quyền là hai mặt đối lập, muốn cạnh tranh phát triển thì phải chống độc quyền hoặc kiểm soát chặt chẽ độc quyền, chống lạm dụng và lợi dụng độc quyền để thao túng thị trường. Loại bỏ hoặc hạn chế độc quyền trong dịch vụ mới khuyến khích được cạnh tranh, thúc đẩy doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia phát triển thương mại dịch vụ. Do đó, cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh trong thương mại dịch vụ. nước ta hiện nay, tư tưởng phân biệt đối xử còn tồn tại ngay trong quá trình hoạch định chính sách cũng như thực tiễn kinh doanh. Để tạo lập môi trường bình đẳng và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, cần xóa bỏ phân biệt đối xử, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, kinh doanh những dịch vụ mà Nhà nước không cấm hoặc không cần nắm giữ. Muốn vậy, cần thiết lập mặt bằng pháp lý chung cho doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế như ban hành Luật doanh nghiệp chung, Luật đầu tư chung, xóa bỏ những quy định phân biệt đối xử về đất đai, tài chính, thuế, tín dụng… trong lĩnh vực dịch vụ.
3.4 Giải pháp marketing nhằm đẩy mạnh phát triển thương mại dịch vụ Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
3.4.1 Nâng cao nhận thức về marketing dịch vụ và xây dựng quy trình marketing dịch vụ
Hiện nay, trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, bên cạnh vốn, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, marketing cũng trở thành một công cụ quan trọng. Việc thấu hiểu, sử dụng chuyên nghiệp và linh hoạt công cụ marketing tạo cho doanh nghiệp ưu thế và khả năng cạnh tranh. Trong cùng điều kiện về vốn, công nghệ, lao động… doanh nghiệp nào áp dụng marketing tốt hơn, thì doanh nghiệp đó có lợi thế cạnh tranh hơn, có khả năng thâm nhập thị trường và tiếp cận khách hàng tốt hơn. Dưới góc độ sử dụng marketing dịch vụ là công cụ cạnh tranh, rõ ràng các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam “bất lợi” hơn các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Đây là thách thức thực sự đối với các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam, nhất là khi các biện pháp bảo hộ được dỡ bỏ và thị trường dịch vụ được mở cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài theo lộ trình hội nhập.
Kết quả điều tra cho thấy nhận thức về marketing dịch vụ của doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam rất hạn chế, hầu hết các doanh nghiệp mới chỉ nhận thức marketing dịch vụ ở khâu xúc tiến dịch vụ. Muốn tiến hành marketing dịch vụ có hiệu quả, các doanh nghiệp dịch vụ cần chủ động, tích cực tự đào tạo hoặc tham gia các khóa/ chương trình huấn luyện về marketing, sao cho mọi thành viên của doanh nghiệp, hoặc ít nhất là cán bộ quản lý và cán bộ marketing hiểu đúng và hiểu đủ marketing dịch vụ là một quy trình thống nhất và có hệ thống từ việc tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng dịch vụ đến tìm cách thoả mãn các nhu cầu đó. Chỉ khi nào người cung cấp dịch vụ nắm vững những nguyên tắc, nội dung cơ bản của marketing dịch vụ, thì marketing dịch vụ mới được áp dụng khoa học, có hệ thống và mang tính chuyên nghiệp cao trong kinh doanh dịch vụ. Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Nhận thức phải được cụ thế hóa thành hành động, nghĩa là nhận thức về marketing dịch vụ cần được “chuyển hóa” thành quy trình marketing và tổ chức thực hiện marketing của doanh nghiệp.
Thứ nhất, về tổ chức bộ máy thực hiện marketing. Theo điều tra thì ở nhiều doanh nghiệp dịch vụ, phòng/ ban marketing chưa làm đúng và đủ chức năng của mình, chủ yếu mới chỉ làm “tiếp thị”, quảng cáo, chăm sóc khách hàng, quan hệ công chúng…. Do vậy, các doanh nghiệp dịch vụ cần đổi mới tư duy và tổ chức bộ phận marketing của mình bảo đảm phòng/ban marketing đóng vai trò chủ chốt trong việc nghiên cứu thị trường, hoạch định chiến lược, kế hoạch kinh doanh; tổ chức, theo dõi, đánh giá thực hiện chiến lược, kế hoạch kinh doanh….
Thứ hai, điều tra cho thấy hoạt động marketing của các doanh nghiệp dịch vụ chưa có hệ thống, không theo một quy trình nhất định. Để vận dụng marketing có hiệu quả, doanh nghiệp dịch vụ cần xây dựng quy trình marketing dịch vụ phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp, tính chất và đặc điểm dịch vụ được cung cấp. Cho dù kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ nào, theo Luận văn, quy trình marketing của doanh nghiệp dịch vụ cũng phải bao gồm những bước cơ bản sau đây:
- Bước 1: Phân tích môi trường marketing dịch vụ. Doanh nghiệp nghiên cứu, phân tích các yếu tố tác động doanh nghiệp dịch vụ, bao gồm cả các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể dùng những kỹ thuật phân tích khác nhau như phân tích PEST, phân tích DRETS, phân tích SWOT… để phân tích môi trường marketing dịch vụ.
- Bước 2: Nghiên cứu, phân đoạn thị trường để xác định đoạn thị trường mục tiêu và định vị dịch vụ thích hợp cho từng đoạn thị trường được lựa chọn.
- Bước 3: Xây dựng chiến lược, kế hoạch marketing mix dịch vụ cho từng đoạn thị trường dịch vụ.
- Bước 4: Tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá chiến lược, kế hoạch marketing: doanh nghiệp tổ chức triển khai thực hiện marketing; theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện chiến lược, kế hoạch để có biện pháp điều chỉnh chiến lược, kế hoạch marketing phù hợp với sự biến động của thị trường.
Nghiên cứu môi trường maketing dịch vụ
Nghiên cứu, phân đoạn thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu và định vị dịch vụ
Xây dựng chiến lược, kế hoạch marketing
Tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá chiến lược, kế hoạch marketing
Căn cứ vào điều kiện, năng lực của từng doanh nghiệp và lĩnh vực dịch vụ, doanh nghiệp dịch vụ có thể cụ thể hóa những bước nói trên để có được quy trình marketing tối ưu cho doanh nghiệp.
3.4.2 Tăng cường nghiên cứu thị trường và nhu cầu người tiêu dùng dịch vụ Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Trong marketing, mọi quyết định đều bắt nguồn từ nhu cầu của thị trường, nên có thể nói nghiên cứu thị trường là khâu quyết định trong qui trình marketing. Nếu nghiên cứu thị trường được làm tốt sẽ cung cấp đầy đủ thông tin chính xác để giúp doanh nghiệp dịch vụ đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp và hiệu quả cao. Ngược lại, nếu công tác nghiên cứu thị trường thu thập về những thông tin không chính xác, không phản ảnh đúng thực tế thị trường, và trên cơ sở đó quyết định được đưa ra không sát thực tế, dẫn đến kinh doanh không hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp dịch vụ ở Việt Nam, hoặc do đánh giá không đúng vai trò của nghiên cứu thị trường, hoặc do hạn chế về nguồn lực (nhân lực, vốn…), đã không quan tâm đúng mức đến nghiên cứu thị trường, nên sản phẩm dịch vụ không thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng dịch vụ về chất lượng, giá cả, độ thỏa dụng…, khó cạnh tranh được với người cung cấp dịch vụ nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp dịch vụ cần chủ động tổ chức nghiên cứu thị trường có hệ thống, phù hợp với nhu cầu và năng lực của doanh nghiệp như xác định cụ thể những thông tin mình cần, các nguồn lực tài chính cần thiết, đào tạo cán bộ nghiên cứu, xây dựng quy trình lưu chuyển và xử lý thông tin thị trường…
Yếu tố quyết định sự thành công của một dịch vụ là làm hài lòng người sử dụng dịch vụ. Làm thế nào biết được khách hàng có hài lòng với dịch vụ hay không? Cách chính xác nhất là điều tra chính khách hàng đã và / hoặc sẽ quyết định tiêu dùng dịch vụ của doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, kỹ thuật nghiên cứu thị trường và khách hàng ngày càng phát triển, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp dịch vụ nghiên cứu, thu thập thông tin khách hàng, thị trường dịch vụ.
Thông tin là chìa khoá để am hiểu thị trường. Doanh nghiệp phải dự báo được những thay đổi của thị trường dịch vụ trong nước và quốc tế, qua đó ứng phó và thích nghi với những thay đổi đó. Muốn vậy, tăng cường nghiên cứu thị trường phải gắn liền với nâng cao năng lực nghiên cứu, thu thập, xử lý thông tin thị trường. Các doanh nghiệp dịch vụ cần quan tâm đến đào tạo cán bộ marketing nắm vững các kỹ năng nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, thu thập- phân tích- xử lý thông tin.
Bên cạnh việc phát huy khả năng tự nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp dịch vụ cũng cần tranh thủ đa dạng hóa các nguồn thông tin thị trường, trong đó chú ý hơn đến các tư vấn thị trường và các hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ. Về phần mình, các hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ như hiệp hội vận tải, hiệp hội du lịch, hiệp hội ngân hàng… cần phát huy vai trò tích cực hơn trong việc cung cấp các thông tin chuyên ngành dịch vụ cho các doanh nghiệp thành viên, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên trong nghiên cứu thị trường. Các tổ chức tư vấn thị trường cần hoạt động theo cơ chế vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Cạnh tranh để nâng cao chất lượng và giảm giá thành thông tin thị trường, từ đó mọi doanh nghiệp dịch vụ có thể tiếp cận được với thông tin; hợp tác để chia sẻ, khuyến khích chuyên môn hóa nhằm nâng cao chất lượng thông tin, tránh tình trạng trùng lắp thông tin.
3.4.3 Chiến lược sản phẩm dịch vụ Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Tư duy và triết lý marketing dịch vụ là không thể tách biệt dịch vụ với thị trường và người tiêu dùng dịch vụ. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp dịch vụ phải xây dựng chiến lược sản phẩm dịch vụ với các cặp dịch vụ/thị trường mục tiêu. Cặp dịch vụ/thị trường có thể là: dịch vụ hiện có – thị trường hiện có, dịch vụ mới – thị trường hiện có; dịch vụ hiện có – thị trường mới; dịch vụ mới – thị trường mới…
Chuyên môn hoá dịch vụ là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt, chỉ những dịch vụ có chất lưọng cao mới có thể trụ vững được trên thị trường trong nước và quốc tế. Chuyên môn hoá dịch vụ giúp người cung cấp dịch vụ tập trung nguồn lực, tranh thủ lợi thế “hiệu quả theo quy mô”, đặc định hóa dịch vụ cho từng đoạn thị trường, nâng cao chất lượng và giảm giá thành dịch vụ.
Đa dạng hóa dịch vụ không đối lập với chuyên môn hóa dịch vụ, mà trái lại cần kết hợp hài hòa với chuyên môn hóa dịch vụ phù hợp với năng lực của doanh nghiệp dịch vụ. Đa dạng hóa dịch vụ giúp doanh nghiệp phân tán và giảm thiểu rủi ro kinh doanh, nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt và sự biến động thất thường của thị trường. Nhu cầu dịch vụ rất phong phú, nên không thể kinh doanh dịch vụ hiệu quả và có năng lực cạnh tranh cao nếu doanh nghiệp dịch vụ chỉ cung cấp các dịch vụ nghèo nàn, đơn điệu. Đa dạng hóa dịch vụ không “đồng nghĩa” với đầu tư và kinh doanh “dàn trải”, mà là chiến lược sản phẩm khai thác tối ưu các năng lực, ưu thế của doanh nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu của từng đoạn thị trường mục tiêu được lựa chọn.
Dịch vụ trọn gói: nhu cầu của con người có tính liên tục và linh hoạt, tạo thành những “chuỗi” nhu cầu. Vì thế, một doanh nghiệp không thể thỏa mãn mọi “chuỗi” nhu cầu của con người. Ví dụ, với dịch vụ du lịch chuỗi nhu cầu cơ bản của khách du lịch gồm: nhu cầu tìm hiểu thông tin du lịch để chọn điểm du lịch, nhu cầu đi lại giữa nơi cư trú và điểm du lịch, nhu cầu lưu trú tại điểm du lịch, nhu cầu thưởng thức những đặc trưng du lịch, nhu cầu thanh toán thuận lợi, v.v… kéo theo các dịch vụ được liên kết liên hoàn tạo thành dịch vụ trọn gói hoặc dịch vụ tổng thể. Mặc dù phải chuyên môn hóa dịch vụ, song chuyên môn hóa cần được hiểu theo chiều dọc, tức là mỗi doanh nghiệp tập trung thỏa mãn vào một hoặc một số “khúc”, “mắt xích” trong chuỗi nhu cầu dịch vụ. Bên cạnh chuyên môn hóa dịch vụ, các doanh nghiệp dịch vụ cần có sự liên kết chặt chẽ với nhau theo từng ngành, lĩnh vực, kể cả liên kết với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài để tạo thành các dịch vụ trọn gói, khép kín. Liên kết dịch vụ không chỉ bổ sung cho chuyên môn hóa dịch vụ mà còn làm tăng giá trị và chất lượng của dịch vụ được cung cấp.
Nhu cầu dịch vụ luôn biến đổi và linh hoạt đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm phát triển dịch vụ mới để thỏa mãn những nhu cầu mới. Triết lý của marketing dịch vụ là phát hiện nhu cầu dịch vụ để thỏa mãn tối ưu những nhu cầu đó. Nghiên cứu thị trường dịch vụ không chỉ dừng lại ở việc phát hiện các nhu cầu hiện hữu mà còn dự báo xu thế vận động của thị hiếu người tiêu dùng dịch vụ, từ đó có chiến lược “đón đầu” đưa ra sản phẩm dịch vụ mới. Ví dụ, khoa học công nghệ hiện nay đang phát triển theo xu hướng hội tụ (convergence), nên các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trên cơ sở nghiên cúu và dự báo trước nhu cầu thị trường để đưa ra các sản phẩm dịch vụ mới trên cơ sở xu hướng hội tụ công nghệ. Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Về nâng cao chất lượng dịch vụ, trong môi trường cạnh tranh, chất lượng dịch vụ của nhà cung cấp dịch vụ được khẳng định thông qua công tác chăm sóc khách hàng. Đây là khâu quan trọng trong hoạt động kinh doanh dịch vụ, bởi khách hàng là yếu tố trung tâm trong quá trình tạo dịch vụ, không có khách hàng không thể có dich vụ. Qua việc lắng nghe, tiếp thu những ý kiến phản ánh của khách hàng về chất lượng dịch vụ, giải quyết kịp thời thắc mắc của khách hàng, nhà cung cấp dịch vụ có thể thu thập những thông tin phản hồi về dịch vụ, từ đó đề ra nhiều biện pháp nâng cao chất lượng dịch vụ của mình. Các doanh nghiệp cần mở rộng nhiều trung tâm dịch vụ khách hàng, tạo ra nhiều kênh tiếp xúc trực tiếp khách hàng. Nhân viên giao dịch cần được thường xuyên tập huấn nghiệp vụ, nâng cao thái độ phục vụ, tạo niềm tin cho khách hàng. Tuy nhiên các doanh nghiệp cần nhận thức rõ công tác chăm sóc khách hàng không chỉ được thực hiện trong phạm vi phòng chăm sóc khách hàng hay các trung tâm dịch vụ khách hàng mà cần trở thành nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp. Về chăm sóc khách hàng, có thể tham khảo kinh nghiệm của Ngân hàng ANZ. Ngân hàng ANZ thành lập trung tâm giải quyết khiếu nại khách hàng, ở đó mọi khiếu nại của khách hàng về dịch vụ của ngân hàng (có thể gửi qua thư, điện thoại, internet, gặp trực tiếp…) đều được giải quyết ngay hoặc chậm nhất trong vòng 10 ngày làm việc.
3.4.4 Định giá dịch vụ
Định giá đúng là một trong những công cụ cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế. Định giá dịch vụ phức tạp và khó khăn hơn nhiều so với định giá hàng hóa, bởi dịch vụ có tính vô hình và tính không đồng nhất của dịch vụ. Qua nghiên cứu thực trạng định giá dịch vụ của các doanh nghiệp dịch vụ hiện nay, ta thấy việc định giá của doanh nghiệp dịch vụ vừa tuỳ tiện, vừa cứng nhắc. Sự tuỳ tiện thể hiện ở chỗ hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, lạm dụng độc quyền, kinh doanh “chộp dựt”; sự cứng nhắc thể hiện ở chỗ nhà nước can thiệp quá sâu vào quá trình định giá một số dịch vụ hạ tầng. Kết quả là giá dịch vụ ở nước ta kém cạnh tranh hơn các nước, trong nhiều trường hợp người tiêu dùng chịu gánh nặng (viễn thông, điện, hàng không, du lịch…). Để nâng cao khả năng cạnh tranh về giá dịch vụ, các doanh nghiệp phải đổi mới việc định giá dịch vụ:
- Giá dịch vụ phải dựa trên cơ sở quan hệ cung- cầu trên thị trường. Đây là nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường. Trong tiến trình hội nhập, thị trường dịch vụ trong nước hội nhập với thị trường dịch vụ thế giới và khu vực,.giá dịch vụ trong nước có xu hướng thống nhất với giá dịch vụ quốc tế. Do đó, các doanh nghiệp dịch vụ cần nghiên cứu và theo dõi sát sự vận động không chỉ thị trường trong nước mà cả thị trường dịch vụ quốc tế để định mức giá dịch vụ phù hợp với vận động của cung cầu dịch vụ.
- Tăng cường đổi mới công nghệ, tối ưu hóa quản lý và quy trình phục vụ để giảm thiểu chí phí và giá thành dịch vụ. Bảo hộ chỉ có thời hạn nên việc định giá độc quyền cao chỉ mang tính nhất thời. Do vậy, để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh, sự lựa chọn duy nhất của doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam là phát huy vai trò chủ động, tích cực tối ưu hóa quản lý và kinh doanh dịch vụ để nâng cao lực cạnh tranh về giá trước các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
- Do dịch vụ có tính không đồng nhất, nên định giá dịch vụ phải rất linh hoạt. Bên cạnh định giá theo chi phí, các doanh nghiệp dịch vụ cần quan tâm đúng mức đến việc đánh giá cảm nhận của khách hàng về giá, qua đó định giá đúng đối với từng đối tượng khách hàng.
3.4.5 Xúc tiến dịch vụ Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Kết quả điều tra cho thấy, hoạt động xúc tiến dịch vụ hầu như mang tính tự phát, hiệu quả không cao. Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp dịch vụ cần xây dựng chiến lược/ kế hoạch xúc tiến phù hợp với khả năng của doanh nghiệp nhằm phối kết hợp các hoạt động xúc tiến của doanh nghiệp. Nếu không tự thực hiện được các hoạt động xúc tiến, doanh nghiệp có thể thuê các công ty tư vấn xúc tiến dịch vụ để tranh thủ những kỹ năng, nghiệp vụ xúc tiến. Công tác xúc tiến dịch vụ cần tránh dàn trải, nên có trọng tâm, trọng điểm nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả xúc tiến. Các hình thức xúc tiến dịch vụ cần được đa dạng hóa, đổi mới liên tục để tạo hấp dẫn đối với người tiêu dùng dịch vụ. Để nâng cao hiệu quả xúc tiến, các doanh nghiệp dịch vụ tăng cường hợp tác, phối hợp xúc tiến dịch vụ, nhất là đối với các dịch vụ trọn gói đòi hỏi phải có sự tham gia cung cấp của nhiều doanh nghiệp dịch vụ. Ví dụ, việc phối hợp xúc tiến dịch vụ du lịch với hàng không có lợi cho cả doanh nghiệp du lịch và hàng không, giúp những doanh nghiệp này có thể giảm chi phí, tăng quy mô các hoạt động xúc tiến.
Thương hiệu là một công cụ xúc tiến quan trọng. Do tính vô hình của dịch vụ, người tiêu dùng trước khi quyết định tiêu dùng dịch vụ không thể cảm nhận được chất lượng dịch vụ bằng giác quan thông thường. Chính uy tín của doanh nghiệp dịch vụ được thể hiện qua thương hiệu là yếu tố rất quan trọng lôi kéo khách hàng tiêu dùng dịch vụ của doanh nghiệp. Do vậy, thương hiệu là tài sản vô hình, thậm chí vô giá của doanh nghiệp, giúp củng cố sự trung thành của khách hàng truyền thống, tạo cơ hội thu hút thêm khách hàng mới, giảm chi phí xúc tiến, đồng thời trở thành công cụ xúc tiến dịch vụ hữu hiệu của doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường. Song đáng tiếc hiện nay thương hiệu dịch vụ chưa được các doanh nghiệp dịch vụ quan tâm. Theo Tác giả, để xây dựng và phát triển thương hiệu dịch vụ bền vững và hiệu quả, các doanh nghiệp dịch vụ cần:
Nâng cao nhận thức về thương hiệu trong toàn thể doanh nghiệp từ cấp lãnh đạo tới nhân viên phục vụ. Bởi nhận thức đúng vai trò của thương hiệu, doanh nghiệp mới đầu tư thích đáng cho xây dựng và phát triển thương hiệu. Việc tuyên truyền, giáo dục trong doanh nghiệp cần được chú trọng nhằm tạo ý thức xây dựng và bảo vệ hình ảnh, uy tín của dịch vụ và doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần có chiến lược thương hiệu trong chiến lược marketing. Chiến lược và chính sách thương hiệu của doanh nghiệp phải được thấm nhuần trong toàn bộ doanh nghiệp.
Đăng ký bảo hộ thương hiệu để bảo vệ thương hiệu theo pháp luật.
Xây dựng thương hiệu phải đi đôi với bảo vệ, giữ gìn và phát triển thương hiệu. Muốn vậy, cần coi trọng uy tín trong kinh doanh dịch vụ thông qua nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá thành, phát triển kênh phân phối…
3.4.6 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dịch vụ Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Cấp ra quyết định và quản lý, các doanh nghiệp dịch vụ cần nâng cao trình độ quản trị kinh doanh dịch vụ, marketing dịch vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý của doanh nghiệp có đủ năng lực hoạch định, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch kinh doanh, vận dụng marketing trong việc điều hành, quản lý kinh doanh dịch vụ. Muốn vậy, doanh nghiệp cần đầu tư hơn nữa cho đào tạo thường xuyên, quy củ cán bộ quản lý dưới nhiều hình thức đào tạo khác nhau. Bên cạnh những mảng kiến thức cơ bản, nội dung đào tạo cần chú trọng nâng cao kỹ năng phân tích chính sách, pháp luật, quản trị, vận dụng thành thạo marketing… cấp tác nghiệp, nhân viên phục vụ có vị trí quan trọng trong quá trình “tương tác” với khách hàng để tạo ra dịch vụ, trực tiếp tạo nên ấn tượng của khách hàng đối với doanh nghiệp dịch vụ. Nhân viên phục vụ là yếu tố “hữu hình” mà khách hàng có thể cảm nhận trực tiếp, do đó đối với khách hàng nhân viên phục vụ thể hiện hình ảnh của doanh nghiệp. Yêu cầu đội ngũ nhân viên phục vụ phải thành thạo nghiệp vụ, tác phong phục vụ chuyên nghiệp để thỏa mãn nhu cầu dịch vụ của khách hàng. Muốn vậy, doanh nghiệp dịch vụ cần quan tâm hơn đến đào tạo đội ngũ nhân viên phục vụ có bài bản, chuyên nghiệp. Ngoài việc đào tạo ở các cơ sở đào tạo nghề, doanh nghiệp dịch vụ cần chú trọng đào đạo tại chỗ (on- the- spot training), thường xuyên và liên tục cho nhân viên, tập trung nâng cao kỹ năng phục vụ, văn hóa giao tiếp, kỹ năng xử lý sự cố trong quá trình phục vụ… Một trong những vướng mắc hiện nay đào tạo nguồn nhân lực là đào tạo chưa sát với thực tế, kính phí đào tạo của doanh nghiệp và nhà nước còn hạn hẹp. Để giải quyết vướng mắc này, các doanh nghiệp dịch vụ cần chủ động, tích cực nghiên cứu, triển khai mô hình liên kết đào tạo: trường dạy nghề- doanh nghiệp nhằm kết hợp nguồn lực của nhà nước với doanh nghiệp cho đào tạo, gắn đào tạo với thực tiễn kinh doanh.
3.4.7 Đầu tư cho cơ sở vật chất dịch vụ
Cơ sở vật chất là “cấu thành vật chất” của dịch vụ, là yếu tố không thể thiếu trong cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, cơ sở vật chất và hạ tầng dịch vụ hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu phát triển thương mại dịch vụ. Để nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng dịch vụ, các doanh nghiệp cần đặc biệt chú trọng đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất và hạ tầng dịch vụ của doanh nghiệp. Trong điều kiện phần lớn doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, khả năng tài chính, công nghệ hạn chế, để phát triển cơ sở vật chất dịch vụ, các doanh nghiệp dịch vụ cần chú ý một số điểm sau:
Xây dựng chiến lược, kế hoạch, lộ trình phát triển, nâng cấp hạ tầng dịch vụ phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp làm cơ sở định hướng, tổ chức thực hiện đầu tư cơ sở vật chất dịch vụ.
Đầu tư phải gắn với hiệu quả sử dụng và căn cứ vào kết quả nghiên cứu thị trường và định hướng phát triển của doanh nghiệp.
Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đầu tư cho cơ sở vật chất dịch vụ, trong đó chú ý các hình thức liên doanh, liên kết cổ phần với các đối tác trong và ngoài nước. Việc liên kết với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài không chỉ giải quyết vấn đề vốn, công nghệ mà còn giúp tranh thủ thị trường, khách hàng, kinh nghiệm quản lý dịch vụ và thúc đẩy tham gia vào thị trường dịch vụ quốc tế.
3.5 Một số kiến nghị đối với Nhà nước Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Trong điều kiện trình độ phát triển thương mại dịch vụ, năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ và doanh nghiệp dịch vụ ở Việt Nam còn thấp, áp lực cạnh tranh quốc tế ngày càng lớn, sự hỗ trợ của nhà nước là hết sức cần thiết và cần tập trung vào những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, tạo dựng môi trường kinh doanh dịch vụ bình đẳng, thuận lợi cho các doanh nghiêp dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế thông qua đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật thương mại dịch vụ theo hướng:
Rà soát hệ thống Luật để có sự thống nhất giữa các qui định, bổ sung các qui định còn thiếu ở các Luật, trước hết là Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện pháp luật cho các ngành dịch vụ ngân hàng, tài chính, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, du lịch, vận tải… nhằm điều chỉnh các hành vi kinh doanh dịch vụ; tiến tới Luật hoá các hoạt động thương mại dịch vụ, chế định nghĩa vụ người cung cấp dịch vụ và khách hàng cũng như chất lượng của dịch vụ cung cấp…
Xây dựng chiến lược tổng thể phát triển thương mại dịch và chiến lược phát triển các ngành dịch vụ cụ thể, trong đó xác định những dịch vụ mà các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh và xác định mức độ tham gia của nước ngoài với lộ trình hợp lý; bảo đảm mở cửa thị trường dịch vụ phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước và ngành. Mục tiêu phát triển dịch vụ cần được nghiên cứu kỹ càng và phải là các mục tiêu “ưu tiên” có căn cứ kinh tế và khoa học.
Xây dựng các qui định quản lý chất lượng dịch vụ, đặc biệt trong các ngành nhạy cảm như viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…
Đối với những lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng, văn hoá, y tế…, cần nhanh chóng xây dựng những qui chế về hành nghề, những qui định thận trọng và bảo lưu khả năng can thiệp hợp lý của nhà nước trong những trường hợp nhất định. Đối với những dịch vụ còn duy trì độc quyền, nhà nước cần có lộ trình dỡ bỏ độc quyền, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, hạn chế ảnh hưởng vị thế độc quyền của doanh nghiệp, phân biệt chức năng kinh doanh và nghĩa vụ đối với xã hội của các doanh nghiệp dịch vụ.
Thứ hai, đẩy mạnh tiến trình đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ, trong đó chú trọng đẩy nhanh cổ phần hóa và chuyển sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn để bảo đảm các doanh nghiệp dịch vụ nhà nước hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Thúc đẩy triển khai thí điểm cổ phần hóa một số tổng công ty lớn của nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, vận tải… để đúc kết kinh nghiệm, mở rộng cổ phần hóa các tổng công ty dịch vụ nhằm hình thành những tập đoàn dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ ba, hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường dịch vụ trong nước và quốc tế cho doanh nghiệp. Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin thị trường bằng cách trực tiếp cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp thông qua các cơ quan, tổ chức của nhà nước như cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại, các trung tâm thông tin kinh tế, tổ chức xúc tiến thương mại… Để nâng cao hiệu quả hỗ trợ thông tin thị trường cho doanh nghiệp dịch vụ, Luận văn xin đề xuất:
Nhu cầu thông tin lớn và đa dạng, trong khi nguồn lực của nhà nước có hạn, do đó nhà nước cần tập trung cung cấp thông tin cảnh báo, dự báo vĩ mô về xu thế vận động của thương mại dịch vụ quốc tế, của từng dịch vụ cụ thể; xu thế phát triển, đầu tư của các tập đoàn, công ty dịch vụ lớn trên thế giới… để định hướng các doanh nghiệp dịch vụ trong nước chủ động xây dựng, điều chỉnh chiến lược kinh doanh dịch vụ nhằm tranh thủ các cơ hội phát triển, giảm thiểu rủi ro, thiệt hại. Đối với những thông tin chuyên sâu theo yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp, nên để các hiệp hội, tổ chức nghiên cứu thị trường…. cung cấp theo cơ chế thị trường.
Củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực cho các cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin thương mại, các trung tâm thông tin kinh tế- thương mại của nhà nước, mở rộng phạm vi cung cấp thông tin của những cơ quan, tổ chức này bao gồm cả lĩnh vực dịch vụ. Nghiên cứu chuyển các trung tâm thông tin kinh tế của nhà nước sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp công ích để nâng cao tính độc lập, tự chủ, phát huy năng động trong cung cấp thông tin, qua đó nâng cao chất lượng cung cấp thông tin. Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển dịch vụ thông tin thị trường, nghiên cứu thị trường, tư vấn kinh doanh…
Thứ tư, tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp xúc tiến dịch vụ, đặc biệt là xúc tiến ở thị trường nước ngoài. Hiện nay, ngoại trừ du lịch, xúc tiến dịch vụ hầu như bị “bỏ ngỏ” ở cấp vĩ mô. Các chương trình, kế hoạch xúc tiến thương mại của Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại) chỉ tập trung cho thương mại hàng hóa. Để nâng cao hỗ trợ xúc tiến dịch vụ cho doanh nghiệp, Luận văn xin đề xuất:
Kiện toàn, tăng cường năng lực cho Cục Xúc tiến thương mại, tham khảo kinh nghiệm mô hình xúc tiến thương mại của các nước (như JETRO của Nhật Bản, KOTRA của Hàn Quốc…); mở rộng phạm vi xúc tiến thương mại của Cục Xúc tiến thương mại bao trùm tất cả các hoạt động thương mại hàng hóa và dịch vụ.
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại của các cơ quan thương vụ và ngoại giao ở nước ngoài; xây dựng những cơ quan này thực sự trở thành “cầu nối” giữa các doanh nghiệp Việt Nam với thị trường nước sở tại.
Nới lỏng các quy định đặt văn phòng đại diện, chi nhánh của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài để khuyến khích các doanh nghiệp dịch vụ tăng cường xúc tiến, mở rộng thị trường và kênh phân phối dịch vụ ra nước ngoài.
Đối với dịch vụ du lịch, Chính phủ đã có chủ trương thành lập văn phòng đại diện du lịch quốc gia ở nước ngoài để xúc tiến du lịch. Do vậy, đề nghị Cục Xúc tiến du lịch khẩn trương nghiên cứu, triển khai mở văn phòng đại diện du lịch quốc gia tại các thị trường du lịch trọng điểm như Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Hàn Quốc…
Thứ năm, sự hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực dịch vụ là hết sức cần thiết và mang hiệu quả lâu dài. Hỗ trợ của nhà nước trong đào tạo nhân lực dịch vụ nên tập trung vào:
- Tăng cường giảng dạy thương mại dịch vụ, marketing dịch vụ trong các trường kinh tế, quản trị kinh doanh.
- Đầu tư xây dựng, nâng cấp các trường, trung tâm dạy nghề trong lĩnh vực dịch vụ như tài chính, ngân hàng, du lịch, viễn thông…
- Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho chuyên gia, kỹ thuật viên nước ngoài sang Việt Nam thực hiện đào tạo, huấn luyện tại chỗ cho lao động Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ; khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài để thực tập, đào tạo, huấn luyện chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là tại công ty mẹ ở nước ngoài.
- Sử dụng vốn ODA và hỗ trợ kỹ thuật cho các dự án đào tạo cán bộ quản lý dịch vụ, nhân viên phục vụ trong những lĩnh vực dịch vụ ưu tiên phát triển như du lịch, tài chính- ngân hàng, viễn thông, hàng không, hàng hải…
KẾT LUẬN
Cơ cấu kinh tế thế giới đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ sang kinh tế dịch vụ. Toàn cầu hóa kinh tế phát triển mạnh, thúc đẩy tự do hóa thương mại hàng hóa, đầu tư và dịch vụ. Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ bao gồm dỡ bỏ rào cản đối với thương mại hàng hóa mà còn cả thương mại dịch vụ. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, dịch vụ Việt Nam vừa có cơ hội phát triển vừa gặp không ít thách thức. Trình độ phát triển dịch vụ, năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ và doanh nghiệp dịch vụ thấp. Thực tế đó do nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân quan trọng là các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam chưa chú trọng vận dụng marketing dịch vụ vào thương mại dịch vụ. Do vậy, việc đánh giá thực trạng vận dụng marketing dịch vụ trong thương mại dịch vụ ở Việt Nam, qua đó đề xuất những giải pháp marketing nhằm thúc đẩy phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu cấp thiết. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, Luận văn đã tập trung nghiên cứu và hoàn thành những nội dung chủ yếu sau đây: Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
Luận văn góp phần hệ thống hoá cơ sở lý thuyết về dịch vụ, thương mại dịch vụ và marketing dịch vụ; làm rõ marketing dịch vụ là một bộ phận của marketing. Mối quan hệ giữa marketing dịch vụ và marketing là quan hệ giữa cái riêng và cái chung, do đó marketing dịch vụ mang bản chất, chức năng của marketing, dựa trên những nguyên tắc, triết lý của marketing. Xuất phát từ tính chất đặc thù của dịch vụ, Luận văn làm rõ những bản chất, chức năng, đặc thù của marketing dịch vụ so với marketing hàng hóa; làm sáng tỏ các nội dung cơ bản của marketing dịch vụ như môi trường marketing dịch vụ, phân đoạn thị trường và định vị dịch vụ, marketing- mix dịch vụ. Đây là những vấn đề cơ bản về marketing dịch vụ và hết sức cần thiết để vận dụng marketing dịch vụ trong thực tiễn kinh doanh dịch vụ.
Luận văn nêu được thực trạng phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy có những bước phát triển nhất định, song thương mại dịch vụ ở nước ta về cơ bản vẫn phát triển ở trình độ thấp, tỷ trọng dịch vụ trong GDP có xu hướng giảm, cơ cấu dịch vụ lạc hậu, mức độ hội nhập quốc tế trong thương mại dịch vụ hạn chế, năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ và doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam thấp….
Thông qua điều tra 93 doanh nghiệp dịch vụ, Luận văn đã phân tích thực trạng vận dụng marketing dịch vụ của các doanh nghiệp dịch vụ ở Việt Nam dưới góc độ nhận thức về marketing dịch vụ, nghiên cứu thị trường, xây dựng chiến lược/ kế hoạch marketing, hoạt động marketing- mix dịch vụ, từ đó rút ra những hạn chế cần khắc phục trong việc vận dụng marketing dịch vụ của các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam.
Luận văn nêu được căn cứ làm cơ sơ đề xuất giải pháp marketing cho các doanh nghiệp dịch vụ trong hội nhập kinh tế quốc tế. Những căn cứ này gồm: xu thế phát triển thương mại dịch vụ trên thế giới có tác động đến sự phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam; cơ hội và thách thức đối với phát triển thương mại dịch vụ ỏ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế; mục tiêu và phương hướng phát triển dịch vụ đến năm 2010.
Thông qua phân tích thực trạng vận dụng marketing dịch vụ của các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam và những căn cứ nêu trên, Luận văn đã đề xuất 7 nhóm giải pháp marketing cho các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những giải pháp đó bao gồm: (i) nâng cao nhận thức về marketing dịch vụ và xây dựng quy trình marketing dịch vụ; (ii) tăng cường nghiên cứu thị trường và nhu cầu dịch vụ; (iii) xây dựng chiến lược sản phẩm dịch vụ; (iv); đổi mới việc định giá dịch vụ; (v) tăng cường và nâng cao hiệu quả xúc tiến dịch vụ, trong đó chú trọng xây dựng, phát triển, bảo vệ thương hiệu dịch vụ; (vi) nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dịch vụ; (vii) tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng dịch vụ.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện các giải pháp marketing nói trên và phát triển thương mại dịch vụ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước: (i) tạo dựng môi trường kinh doanh dịch vụ bình đẳng, thuận lợi; (ii) đẩy mạnh tiến trình đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp dịch vụ nhà nước để thúc đẩy các doanh nghiệp này nâng cao năng lực cạnh tranh; (iii) đổi mới và nâng cao hiệu quả hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường dịch vụ trong nước và quốc tế cho doanh nghiệp; (iv) tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp xúc tiến dịch vụ, đặc biệt là xúc tiến ở các thị trường nước ngoài; (v) hỗ trợ các doanh nghiệp trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
Marketing dịch vụ là lĩnh vực tương đối mới, chưa được nghiên cứu sâu và vận dụng nhiều ở Việt Nam. Với những kết quả nghiên cứu nêu trên, Tác giả mong muốn góp phần nhỏ bé vào nghiên cứu marketing dịch vụ, nâng cao nhận thức về marketing dịch vụ của các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam, qua đó vận dụng marketing dịch vụ trong thương mại dịch vụ một cách khoa học và có hệ thống, biến marketing dịch vụ trở thành “phương tiện”, “công cụ” để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy vậy, do nguồn thông tin, thời lượng nghiên cứu và khả năng có hạn, nên mặc dù có nhiều nỗ lực, song Tác giả nhận thấy Luận văn không tránh khỏi thiếu xót. Vì vậy, Tác giả mong nhận được những góp ý quý báu của các nhà khoa học, các thầy, cô giáo, đồng nghiệp và bạn đọc để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Đặc biệt, Tác giả xin chân thành cảm ơn TS. Đỗ Thị Loan, Trưởng Khoa Sau đại học, trường Đại học Ngoại thương Hà Nội đã tận tình hướng dẫn Tác giả hoàn thành Luận văn. Tác giả cũng xin chân thành cám ơn gia đình, các thầy, cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp ủng hộ, hỗ trợ tác giả hoàn thành Luận văn. Luận văn: Giải pháp áp dụng marketing trong thương mại VN
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Marketing trong PT thương mại dịch vụ ở Việt Nam