Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chất lượng sản phẩm, hàng hoá liên quan trực tiếp đến sự an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người, tài sản và môi trường. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, các nước cũng cần ngăn cản các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia. Đối với doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, hàng hoá không những là thước đo quan trọng khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là chuẩn mực trong các quan hệ kinh tế, thương mại và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
“Không có thương hiệu mạnh nếu không có sản phẩm tốt”. Câu nói này cho thấy tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm, hàng hóa và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đối với doanh nghiệp và quốc gia. Trong môi trường kinh doanh hiện nay, cạnh tranh trở thành một yếu tố mang tính quốc tế đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp mà chất lượng sản phẩm trở thành một trong những chiến lược quan trọng nhất làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Xu thế toàn cầu hoá mở ra thêm nhiều thị trường nhưng cũng làm tăng thêm lượng cung trên thị trường. Người tiêu dùng có quyền lựa chọn nhà sản xuất, cung ứng một cách rộng rãi hơn. Người tiêu dùng coi trọng giá trị của chất lượng hơn là lòng trung thành đối với nhà sản xuất trong nước, và giá cả chưa hẳn trong mọi trường hợp đã là nhân tố quyết định trong sự lựa chọn của người tiêu dùng. Yêu cầu đối với chất lượng hàng hóa của thị trường cả trong và ngoài nước ngày càng khắt khe. Chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế đất nước và sự phát triển của doanh nghiệp. Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là một trong những công cụ quan trọng để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, một mặt làm cho chất lượng sản phẩm, hàng hóa thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng và mặt khác nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý – cơ sở để chiếm lĩnh, mở rộng thị trường, tăng cường vị thế, uy tín trên thị trường.
Việt Nam có nhiều thuận lợi trong việc thừa kế những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại cùng những kinh nghiệm quản lý kinh tế tiên tiến của các nước phát triển. Với chính sách mở cửa, Việt Nam đã ngày càng thu hút được nhiều các công ty, các tập đoàn kinh doanh đầu tư tham gia vào nền kinh tế. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và phát huy các phương pháp quản lý chất lượng mới, hiện đại trong các doanh nghiệp ở Việt Nam. Cùng với những thuận lợi, các doanh nghiệp Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn thách thức trong quá trình hội nhập và khẳng định chất lượng sản phẩm Việt Nam như: sức ép từ hàng nhập khẩu, từ thủ tục và tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt của những thị trường quan trọng như Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản,… . Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đã từng bước hình thành công tác quản lý nhà nước về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Các văn bản quy phạm pháp luật ban hành là hành lang pháp lý quan trọng cho việc triển khai hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa như: Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa…
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 và các Nghị định, văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn những vướng mắc như các quy định pháp luật còn chồng chéo, chưa rõ ràng; thiếu các quy chuẩn kỹ thuật tương ứng,…
Vì vậy, nghiên cứu pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, nhất là xác định rõ nội dung quy định về quản lý, các quy định tác động tiêu cực đến hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam là rất cần thiết. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam” để nghiên cứu.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Việc thực hiện nghiên cứu đề tài nêu trên có ý nghĩa khoa học và thực tiễn đó là:
- Cung cấp thông tin về tình hình ban hành, thực thi các văn bản pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- Góp phần nâng cao nhận thức của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, thực hiện trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Tìm ra những hạn chế, tồn tại trong pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu quy định pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- Tìm hiểu thực tiễn ban hành và áp dụng pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, từ đó nêu ra những hạn chế, tồn tại trong các quy định này.
- Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Trong đó đề cập đến nội dung quy định, thực trạng quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đồng thời nêu lên những hạn chế, thiếu sót trong các văn bản quy phạm pháp luật, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận không đi sâu vào nghiên cứu tất cả các vấn đề về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa mà chỉ tập trung vào một số lĩnh vực còn nhiều vướng mắc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những nội dung của đề tài/ làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của khóa luận bao gồm: phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, khóa luận được chia thành 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- Chương 2. Thực trạng pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam.
- Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA
1.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
1.1.1. Khái niệm chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và được sử dụng rất phổ biến trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Tuy nhiên, hiểu như thế nào là chất lượng sản phẩm, hàng hóa lại là vấn đề không đơn giản. Thuật ngữ này được khái quát bằng hàng trăm các định nghĩa khác nhau phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Đứng ở những góc độ nghiên cứu khác nhau và tuỳ theo mục tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh có thể đưa ra những quan niệm về chất lượng xuất phát từ sản phẩm, từ người sản xuất hay từ đòi hỏi của thị trường.
Quan niệm xuất phát từ sản phẩm cho rằng chất lượng sản phẩm được phản ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó hoặc giá trị sử dụng của nó. Theo quan niệm này, chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với các thuộc tính hữu ích của sản phẩm.
Nhà sản xuất lại quan niệm chất lượng sản phẩm là sự phù hợp và tuân thủ đúng những tiêu chuẩn, những yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật đã được đặt ra từ trước. Chất lượng sản phẩm theo quan điểm này chỉ thể hiện mối quan tâm của nhà sản xuất đối với việc sản phẩm đạt được những tiêu chuẩn được đặt ra.
Xuất phát từ nền kinh tế thị trường, những khái niệm chất lượng sản phẩm xuất phát và gắn bó chặt chẽ với các yếu tố cơ bản của thị trường như nhu cầu, cạnh tranh, giá cả… Đã có hàng trăm định nghĩa về chất lượng sản phẩm theo quan niệm này được đưa ra bởi các tác giả khác nhau. Đại diện cho nhóm này có một số các định nghĩa tiếp cận từ nhu cầu của người tiêu dùng và từ mặt giá trị:
Từ nhu cầu của người tiêu dùng, tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu – European Organization For Quality Control (EOQC) cho rằng: “Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng”[13]. Còn Philip Crosby trong quyển “Chất lượng là thứ cho không” đã diễn tả chất lượng như sau: “Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu”.
Với cách tiếp cận từ mặt giá trị, chất lượng sản phẩm được đặt trong mối quan hệ giữa lợi ích thu được từ việc tiêu dùng sản phẩm với chi phí bỏ ra để mua sản phẩm: “Chất lượng là cái mà khách hàng phải trả đúng với cái họ nhận được.”[16]
Nhìn chung, mọi định nghĩa tuy có khác nhau về câu chữ nhưng tựu chung đều nêu lên bản chất cuối cùng mà cả người sản xuất và người tiêu dùng đều quan tâm hướng tới đó là sự phù hợp với yêu cầu. Thể hiện điều này, quan điểm đầy đủ hiện nay về chất lượng được Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO (International Organization for Standardization) định nghĩa: “Chất lượng là mức độ của một tập hợp các thuộc tính vốn có của đối tượng đáp ứng các yêu cầu” [14]. Yêu cầu ở đây được hiểu là những nhu cầu hay mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu chung hay bắt buộc.
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 của Việt Nam cũng giải thích thuật ngữ “chất lượng sản phẩm, hàng hóa” như quan điểm trên: “Sản phẩm là kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng. Hàng hoá là sản phẩm được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp thị… Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hóa đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.” (Điều 3) Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Từ những điểm chung có thể đưa ra định nghĩa sau về chất lượng sản phẩm, hàng hóa: Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là mức độ thỏa mãn của một tập hợp các thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa đối với các yêu cầu.
1.1.1.2. Khái niệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Quản lý chất lượng là một khía cạnh của chức năng quản lý để xác định và thực hiện chính sách chất lượng. Hoạt động quản lý trong lĩnh vực chất lượng được gọi là quản lý chất lượng.
Hiện nay tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quản lý chất lượng:
A.G.Robertson, một chuyên gia người Anh về chất lượng cho rằng “Quản lý chất lượng được xác định như là một hệ thống quản trị nhằm xây dựng chương trình và sự phối hợp các cố gắng của những đơn vị khác nhau để duy trì và tăng cường chất lượng trong các tổ chức thiết kế, sản xuất, đảm bảo sản xuất có hiệu quả và thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng.”
Đối với A.V.Feigenbaum, nhà khoa học người Mỹ: “Quản lý chất lượng là một hệ thống hoạt động thống nhất có hiệu quả của những bộ phận khác nhau trong một tổ chức, chịu trách nhiệm triển khai các tham số chất lượng, duy trì và nâng cao chất lượng.” [12]
Còn theo tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO 9000 “Quản lý chất lượng là các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng.”[14]
Tuy tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng, song nhìn chung có những điểm giống nhau như: Quản lý chất lượng là hệ thống các hoạt động, các biện pháp (hành chính, tổ chức, kinh tế, kỹ thuật, xã hội và tâm lý) của các chủ thể có trách nhiệm quản lý. Mục tiêu trực tiếp của quản lý chất lượng là đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng phù hợp với nhu cầu thị trường.
Như vậy, có thể rút ra định nghĩa chung về quản lý chất lượng như sau: Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là hoạt động của một chủ thể nhằm định hướng phát triển, nâng cao và kiểm soát chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Với định nghĩa này, “quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa” được hiểu theo nghĩa rộng, tức là không chỉ dành cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, mà còn cho tất cả các tổ chức khác như tổ chức sự nghiệp: Nhà trường, bệnh viện, viện nghiên cứu…và cả các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị.
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định: Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
“Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam.
Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá.” (Điều 5)
Theo đó, Luật sử dụng thuật ngữ “quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa” để nói đến trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh. Khi đề cập đến trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 dùng thuật ngữ “quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá”.Theo cách hiểu này,quản lý chất lượng chỉ là hoạt động của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh là người tổ chức và thực hiện việc sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hàng, cung cấp dịch vụ. Đây được coi là nghĩa hẹp của quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Khóa luận sử dụng thuật ngữ “quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa” với nghĩa rộng, bao gồm quản lý chất lượng của người sản xuất, kinh doanh và quản lý chất lượng của nhà nước.
1.1.2. Vai trò của quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa có vai trò rất quan trọng đối với xã hội, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Đối với xã hội:
Việc quản lý chất lượng là nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa, hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động.
Hơn nữa, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa có vai trò định hướng và bảo đảm cho hoạt động chất lượng có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển kinh tế phải dựa vào đẩy mạnh xuất khẩu, mà muốn đẩy mạnh xuất khẩu phải dựa vào tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Muốn tăng cường khả năng cạnh tranh thì phải nâng cao được năng suất và chất lượng. Sản phẩm hàng hóa Việt Nam phải có chất lượng mang tầm quốc tế và khu vực. Với định hướng này, nhà nước tạo điệu kiện để doanh nghiệp cải tạo, đổi mới hệ thống công nghệ sản xuất, trang thiết bị đo lường, kiểm nghiệm để đáp ứng đòi hỏi của thị trường. Cũng từ đòi hỏi của thị trường, không chỉ sản phẩm, hàng hóa phải đảm bảo yêu cầu chất lượng mà bản thân hệ thống quản lý sản xuất các sản phẩm, hàng hóa đó cũng phải đảm bảo chất lượng.
Đối với doanh nghiệp: Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Quản lý chất lượng cho phép doanh nghiệp xác định đúng hướng sản phẩm cần cải tiến, thích hợp với những mong đợi của khách hàng cả về tính hữu ích và giá cả. Đồng thời, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đảm bảo tạo ra các sản phẩm có chất lượng, tạo uy tín, niềm tin của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp. Người tiêu dùng chỉ đến với doanh nghiệp khi sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng thỏa mãn nhu cầu của họ.
Sản xuất là khâu quan trọng tạo thêm giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa do đó nếu như việc quản lý chất lượng sản phẩm tốt sẽ tạo ra những sản phẩm có lợi cho người dùng và giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao.
Tăng cường quản lý chất lượng sẽ giúp cho việc xác định đầu tư đúng hướng, khai thác quản lý sử dụng công nghệ, con người có hiệu quả hơn. Đây là lý do vì sao quản lý chất lượng được đề cao trong những năm gần đây. Như vậy, về mặt chất hay lượng việc bỏ ra những chi phí ban đầu để đảm bảo chất lượng sản phẩm sẽ giúp tổ chức, doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro về sau và hoạt động có hiệu quả hơn.
Đối với người tiêu dùng: quản lý chất lượng góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, làm thỏa mãn những nhu cầu của người tiêu dùng và góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.1.3. Trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Theo các định nghĩa về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã nêu trên ta có thể thấy phạm vi quản lý là rất rộng. Tuy nhiên, đứng ở phạm vi quốc gia quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa được thực hiện chủ yếu ở hai cấp độ chính là Nhà nước và Doanh nghiệp. Trách nhiệm quản lý chủ yếu cũng tập trung ở quản lý Nhà nước và quản lý trong các doanh nghiệp.
Thứ nhất, quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa:
Trước hết phải thấy rằng quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là hoạt động tổng hợp mang tính kỹ thuật, kinh tế và xã hội, có mục tiêu, biến đổi theo thời gian và thông qua các cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức.
Khoản 3 Điều 5 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 “Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá.” Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng hóa có trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm ở cấp Nhà nước. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Mục tiêu quản lý chất lượng của Nhà nước Việt Nam là “bảo đảm minh bạch, khách quan, không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng hóa và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa, phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.”
Để thực hiện những mục tiêu nói trên, các biện pháp sau đây được tiến hành: Ban hành và áp dụng tiêu chuẩn chất lượng; kiểm tra và chứng nhận chất lượng; áp dụng và chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng; công nhận năng lực kỹ thuật và quản lý của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chất lượng; thanh tra và xử lý các vi phạm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Những biện pháp quản lý của nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa này được thể hiện trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Điều đó phù hợp với xu hướng chung của quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Thứ hai, quản lý chất lượng trong doanh nghiệp
Hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong doanh nghiệp về nguyên lý khác với hoạt động quản lý của nhà nước đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Điều này là do tính chất tổ chức của cơ quan nhà nước và của doanh nghiệp rất khác nhau vì những mục tiêu khác nhau.
Khoản 2 Điều 5 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định: “Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá Việt Nam”. Theo đó, trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm ở cấp độ Doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của người sản xuất, kinh doanh.
Hoạt động quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp hay nói rộng hơn là của các tổ chức không phải là nhà nước cũng hết sức đa dạng do tính chất hoạt động của các tổ chức này. Nhà nước chỉ quản lý chất lượng với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước hướng tới mục tiêu đảm bảo an toàn cho sản phẩm, hàng hóa, bảo vệ lợi ích của các cá nhân, tổ chức. Trong khi đó, doanh nghiệp với mục đích sinh lời thực hiện quản lý chất lượng không chỉ đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cơ bản Nhà nước quy định để đảm bảo an toàn cho sản phẩm, hàng hóa, mà còn phải nâng cao chất lượng, từ đó tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Vê lý luận, pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân, được nhà nước đảm bảo thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì mục đích bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của con người và sự phát triển bền vững của xã hội.
Chất lượng sản phẩm, hàng hoá chịu ảnh hưởng tác động đồng thời của các chủ thể là nhà nước, người sản xuất và người tiêu dùng. Để sản phẩm, hàng hoá bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường, đòi hỏi mỗi chủ thể phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình để tác động lên các yếu tố về chất lượng của sản phẩm, hàng hoá. Do đó, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là tổng hợp các mối quan hệ giữa chủ thể quản lý là cơ quan nhà nước hay người sản xuất, kinh doanh và đối tượng bị quản lý trong các quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Mối quan hệ này xuất phát từ không chỉ nhu cầu của chủ thể quản lý, mà còn từ tính chất của đối tượng quản lý là những sản phẩm, hàng hóa được sản xuất, kinh doanh để tiêu dùng và nhằm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng.
Từ đó có thể định nghĩa: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là tổng thể các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa cơ quan nhà nước, người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng trong việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội.
Với tư cách là phương tiện hàng đầu của quản lý nhà nước đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa, pháp luật xác định địa vị pháp lý của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh có liên quan đến lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý chất lượng hướng vào mục tiêu nâng cao chất lượng của sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế trong bối cảnh tự do hoá thương mại và hội nhập. Cũng thông qua pháp luật, Nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý chất lượng về sản phẩm, hàng hóa Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Nguyên tắc là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cơ bản đối với hoạt động xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật. Các nguyên tắc này cần phải được tôn trọng, tuân thủ trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật, trong áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và thực hiện pháp luật của mọi cá nhân, tổ chức. Khi xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý chất lượng cần phải đáp ứng các nguyên tắc chủ yếu sau:
Thứ nhất, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng
Trong cơ chế thị trường, người tiêu dùng là người chấp nhận và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ. Người tiêu dùng đề ra các yêu cầu về sản phẩm, dịch vụ, chất lượng và giá cả. Do đó, quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ phải được hướng tới người tiêu dùng và nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Hơn nữa, trong mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng thì người tiêu dùng được xem là yếu thế hơn do người tiêu dùng ở thế bị động khi tiếp nhận sản phẩm, hàng hóa với nguồn thông tin hạn chế, không có kinh nghiệm, chuyên môn trong đánh giá chất lượng.
Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được xem là quan trọng trong hoạt động thương mại nói chung và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa nói riêng. Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 đề cập đến nội dung nguyên tắc này khi quy định người sản xuất, kinh doanh có nghĩa vụ phải đưa thông tin trung thực về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, cảnh báo về khả năng gây mất an toàn của sản phẩm, đồng thời, người sản xuất, kinh doanh phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của mình và bồi thường khi có thiệt hại xảy ra.
Thứ hai, bảo đảm quyền tự do quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của người sản xuất, kinh doanh
Môi trường phát triển kinh tế hội nhập ngày nay đã tạo ra nhiều thách thức mới trong kinh doanh, và cạnh tranh trở thành một yếu tố quan trọng đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được thể hiện thông qua hai chiến lược cơ bản: chất lượng sản phẩm và giá cả. Trước đây, giá cả thường là yếu tố quan trọng nhất của năng lực cạnh tranh vì lúc bấy giờ đời sống vật chất của con người chưa cao, nhưng khi kinh tế phát triển, chất lượng cuộc sống được nâng cao, xu thế cạnh tranh đã ngả về chất lượng. Do đó, vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong doanh nghiệp càng được đề cao. Nhà nước có tác dụng tạo ra môi trường, cung cấp phương tiện để doanh nghiệp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, mà trách nhiệm quan trọng ở đây là bảo đảm quyền tự do trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp.
Nguyên tắc này được ghi nhận trong Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa khi quy định về quyền của người sản xuất, kinh doanh. Điều 9 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định người sản xuất được quyền tự do quyết định và công bố mức chất lượng sản phẩm do mình sản xuất, quyết định các biện pháp kiểm soát nội bộ để đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Các hoạt động lợi dụng hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa để cản trở bất hợp pháp, gây phiền hà, sách nhiễu đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh đều bị cấm. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Thứ ba, đảm bảo quản lý nhà nước
Người sản xuất, kinh doanh được tự do trong quản lý chất lượng, sản phẩm của mình nhưng tự do này phải được thực hiện theo một khuôn khổ nhất định. Đó là đảm bảo sự tham gia quản lý của nhà nước nhằm thực thi các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 5 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 về nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Theo quy định này, nhà nước quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá bằng cách thiết lập một trật tự cần thiết về kỹ thuật thông qua các quy định về an toàn chất lượng, sản phẩm hàng hóa và các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để kiểm tra người sản xuất, kinh doanh có bảo đảm an toàn cho sản phẩm, hàng hoá được đưa ra thị trường hay không nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.
Thứ tư, tạo thuận lợi cho thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động sản xuất, kinh doanh diễn ra phổ biến, sôi động. Nhà nước với chức năng kinh tế xây dựng một khuôn khổ pháp luật điều chỉnh nền kinh tế thị trường, bảo vệ anh toàn cho các hoạt động kinh tế; xây dựng luật chống độc quyền, bảo vệ tự do cạnh tranh lành mạnh… tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại. Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa do đó được xây dựng và đảm bảo thực hiện để tạo thuận lợi cho thương mại.
Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 26 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa khi quy định về thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp. Việc thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp của giữa các quốc gia giúp hạn chế tối thiểu sự chồng chéo trong hoạt động đánh giá sự phù hợp – biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, cắt giảm chi phí và loại bỏ những rào cản phi thuế quan đối với thương mại, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại trong nước và thương mại quốc tế.
1.2.3. Nội dung của pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
1.2.3.1. Chế định về thẩm quyền quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Các cơ quan nhà nước và người sản xuất, kinh doanh có thẩm quyền quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Về cơ bản, nhà nước không can thiệp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp, hoạt động nội bộ, quá trình sản xuất do người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa hoàn toàn chịu trách nhiệm. Nhà nước đặt ra các yêu cầu, điều kiện cho quá trình sản xuất như đặt ra các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và các yêu cầu khác để doanh nghiệp áp dụng, thực hiện. Sản phẩm sau khi thực hiện đầy đủ các quy định của nhà nước đều được tự do lưu thông trên thị trường. Nhà nước chỉ kiểm tra hàng hóa lưu thông trên thị trường khi có nhu cầu quản lý hoặc khi có khiếu nại của người tiêu dùng. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Như vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa quản lý các khía cạnh an toàn, vệ sinh, môi trường của sản phẩm và tác động của nó tới xã hội thông qua hệ thống quy chuẩn kỹ thuật bắt buộc áp dụng, các thông tư quản lý cấp Bộ và các biện pháp thanh tra, kiểm tra sự thực thi và phù hợp của sản phẩm, hàng hóa với các văn bản quản lý trên. Còn người sản xuất, kinh doanh quản lý chất lượng trên cơ sở ban hành hay áp dụng bộ tiêu chuẩn cơ sở, bao gồm cả tiêu chuẩn cho sản phẩm, tiêu chuẩn về hệ thống quản lý và các công cụ cải tiến.
Việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của người sản xuất, kinh doanh ngoài mục tiêu đảm bảo an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường mà còn có mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa. Trong khi đó, quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà nước chỉ nhằm thực thi các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tức là chỉ đảm bảo khía cạnh an toàn của sản phẩm.
1.2.3.2. Các biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Quản lý chất lượng cũng như bất kỳ một loại quản lý nào đều phải được thực hiện bởi một số biện pháp nhất định. Dựa trên các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, cơ quan nhà nước và cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh có thể sử dụng các biện pháp sau để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa:
Thứ nhất, công bố tiêu chuẩn áp dụng
Công bố tiêu chuẩn áp dụng là việc người sản xuất, kinh doanh công bố các tiêu chuẩn cơ sở sử dụng làm căn cứ cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa của mình trước khi đưa sản phẩm, hàng hóa ra thị trường. Doanh nghiệp có quyền chủ động trong sản xuất, kinh doanh, có quyền lựa chọn áp dụng các tiêu chuẩn phù hợp với mình. Song, hình thức công bố tiêu chuẩn cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải có nhận thức sâu sắc hơn về trách nhiệm trước người tiêu dùng, phải bảo đảm hàng hóa đạt tiêu chuẩn chất lượng đã công bố, phải thường xuyên kiểm tra chất lượng hàng hóa và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa do mình sản xuất, kinh doanh. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải bảo đảm trung thực, chính xác trong việc thông tin, quảng cáo về chất lượng hàng hóa của mình, phải đảm bảo hàng hóa theo quy định. Những thông tin này là kênh thông tin trực tiếp từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng, đồng thời đây cũng là cơ sở để các cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng tiến hành việc kiểm tra, thanh tra sau công bố.
Tiêu chuẩn cơ sở có thể được xây dựng theo những phương thức cơ bản sau:
- Chấp nhận tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực hoặc tiêu chuẩn nước ngoài tương ứng thành tiêu chuẩn cơ sở. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
- Xây dựng mới tiêu chuẩn cơ sở trên cơ sở sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ, các kết quả thử nghiệm, đánh giá, phân tích và thực nghiệm.
- Sửa đổi, bổ sung tiêu chuẩn cơ sở hiện hành.
Nội dung tiêu chuẩn cơ sở thể hiện các chỉ tiêu an toàn và các chỉ tiêu đặc trưng có tính chất quyết định đối với chất lượng của sản phẩm mang tên và được xem xét lại khi có yêu cầu thay đổi cần thiết để đảm bảo luôn đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với các quy định hiện hành hoặc mới ban hành.
Thứ hai, công bố sự phù hợp
Để đảm bảo chất lượng sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường nhà sản xuất cần phải đặt ra các tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm của mình. Nhà sản xuất có thể áp dụng tiêu chuẩn quốc gia và/hoặc tự xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho sản phẩm của mình, việc lựa chọn tiêu chuẩn nào để áp dụng là hoàn toàn tự nguyện của nhà sản xuất. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, để sản phẩm hàng hóa được đưa ra lưu thông, mua bán, trao đổi thì chúng cần được nhà sản xuất, nhà nhập khẩu công bố chất lượng hàng hóa.
Công bố sự phù hợp bao gồm công bố hợp chuẩn và công bố hợp quy. Công bố hợp chuẩn là việc tổ chức, cá nhân tự công bố sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường phù hợp với tiêu chuẩn tương ứng. Công bố hợp quy là việc tổ chức, cá nhân tự công bố sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.
Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là cơ sở để thực hiện hoạt động công bố sự phù hợp. Các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật xác định những hàng hoá, dịch vụ nào có thể hoặc không thể trao đổi, và theo đó hoạt động mua bán trao đổi được phép hay không được phép diễn ra. Đồng thời, thông qua các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật này, nhà nước thực hiện quản lý chất lượng chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Thuật ngữ “tiêu chuẩn” được định nghĩa trong Hiệp định TBT là: “Tài liệu do một cơ quan được thừa nhận ban hành để sử dụng chung và nhiều lần, trong đó quy định các quy tắc, hướng dẫn hoặc các đặc tính của sản phẩm hoặc các quy trình và phương pháp sản xuất có liên quan mà việc tuân thủ là không bắt buộc. Tài liệu này cũng có thể bao gồm tất cả hoặc chỉ liên quan riêng đến thuật ngữ, biểu tượng, cách thức bao gói, yêu cầu về dãn nhãn hoặc ghi nhãn đươc áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc phương pháp sản xuất.” Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Đối với quy chuẩn kỹ thuật, Hiệp định TBT định nghĩa là: “Tài liệu quy định đặc tính của sản phẩm hoặc quy trình và các phương pháp sản xuất có liên quan, bao gồm các quy định hành chính mà việc tuân thủ là bắt buộc. Quy chuẩn kỹ thuật có thể bao gồm tất cả hoặc chỉ liên quan riêng đến thuật ngữ, biểu tượng, cách thức bao gói, yêu cầu về dãn nhãn hoặc ghi nhãn đươc áp dụng cho một sản phẩm, quy trình hoặc phương pháp sản xuất.” [22]
Quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn quy định các đặc tính của một sản phẩm, như kích cỡ, hình dáng, thiết kế, chức năng và cách vận hành sản phẩm, hoặc cách thức ghi nhãn hoặc đóng gói trước khi sản phẩm được đem ra bán. Sự khác nhau giữa tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật nằm ở tính bắt buộc áp dụng. Trong khi việc tuân thủ tiêu chuẩn là tự nguyện, thì đối với quy chuẩn kỹ thuật, việc tuân thủ là bắt buộc và có hiệu lực pháp luật. Theo đó, nếu một sản phẩm không đáp ứng các yêu cầu của một quy chuẩn kỹ thuật, nó sẽ không được phép đưa ra thị trường. Trong trường hợp tiêu chuẩn, sản phẩm không phù hợp tiêu chuẩn sẽ vẫn được phép lưu thông trên thị trường, nhưng thị phần của sản phẩm này có thể bị ảnh hưởng nếu sản phẩm khác đáp ứng được các tiêu chuẩn được người tiêu dùng ưa chuộng.
Việc ban hành hay quy định áp dụng các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là rất cần thiết cho nhiều vấn đề từ bảo vệ môi trường, an toàn, an ninh quốc gia đến việc bảo vệ người tiêu dùng. Đây là công cụ kỹ thuật quan trọng để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá vì tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy định các yêu cầu an toàn mà sản phẩm, hàng hoá phải đạt được để có thể được đưa vào lưu thông, tiêu dùng; đồng thời nó cũng là căn cứ để đánh giá sản phẩm, hàng hóa có đảm bảo yêu cầu an toàn hay không.
Thứ ba, đánh giá sự phù hợp
Đánh giá sự phù hợp là một thủ tục được quốc tế thừa nhận để chứng tỏ rằng các yêu cầu cụ thể đối với một sản phẩm, quy trình, hệ thống, con người hay tổ chức đã được đáp ứng.
Đề cập về tầm quan trọng của thử nghiệm, chứng nhận và công nhận trong nền kinh tế toàn cầu, Tiêu chuẩn ISO/IEC 17011: Đánh giá sự phù hợp – Các yêu cầu chung đối với các tổ chức công nhận khi công nhận các tổ chức đánh giá sự phù hợp, quy định: “Trong lĩnh vực quản lý, cơ quan có thẩm quyền nhà nước thực thi pháp luật liên quan đến việc chấp nhận các sản phẩm, dịch vụ để bảo vệ an toàn, sức khoẻ, môi trường, ngăn ngừa gian lận hoặc vì sự công bằng trên thị trường. Trong lĩnh vực tự nguyện, nhiều ngành công nghiệp trong phạm vi một nền kinh tế hay toàn cầu, thiết lập các hệ thống đánh giá sự phù hợp và chấp nhận, nhằm đạt được một trình độ kỹ thuật tối thiểu, tạo điều kiện cho việc so sánh [giữa các sản phẩm, dịch vụ, hệ thống], và cũng để đảm bảo cạnh tranh bình đẳng. Một điều kiện tiên quyết đối với kinh doanh bình đẳng là bất cứ sản phẩm hay dịch vụ nào, khi đã chính thức được chấp nhận trong một nền kinh tế, thì phải được lưu thông tự do tại những nền kinh tế khác mà không phải tiến hành nhiều thử nghiệm, giám định, chứng nhận lặp lại v.v. Điều này là cần thiết cho dù toàn bộ hay một phần của sản phẩm hoặc dịch vụ có phải là đối tượng chịu sự quản lý hay không.” [20]
Theo định nghĩa của Thỏa ước về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (Technical Barrieers to Trade – TBT) của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), thủ tục đánh giá sự phù hợp là bất cứ thủ tục nào được áp dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để xác định rằng các yêu cầu có liên quan trong các quy định hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật có được thực hiện hay không [22]. Các thủ tục này đánh giá sản phẩm và các điều kiện sản xuất ra các sản phẩm đó để đưa ra sự đảm bảo với các cơ quan có thẩm quyền và người tiêu dùng rằng các yêu cầu quy định đã được thực hiện. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Thủ tục đánh giá sự phù hợp bao gồm các hoạt động kỹ thuật như thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận và công nhận nhằm xác định rằng các sản phẩm hoặc quá trình đáp ứng các yêu cầu được quy định trong quy chuẩn và tiêu chuẩn.
Thử nghiệm là một phương thức đánh giá sự phù hợp phổ biến nhất. Trước khi đưa một sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường thì sản phẩm hay dịch vụ đó, cần được thử nghiệm nhằm đảm bảo sự tuân thủ với các chỉ tiêu kỹ thuật có trong tiêu chuẩn tài liệu quy định về chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ đó.
Giám định là hình thức đơn giản nhất, là việc kiểm tra số lượng và/hoặc trọng lượng của hàng hoá kinh doanh, hoặc nếu xảy ra ở biên giới, việc kiểm tra có thể bao gồm việc kiểm tra các tài liệu xuất/nhập khẩu với kiểm tra thực tế lô chuyến hàng trên cơ sở đánh giá nghiệp vụ. Các tổ chức giám định kiểm tra một phạm vi rộng lớn các sản phẩm, nguyên liệu, quá trình, quy trình làm việc, dịch vụ trong lĩnh vực tư cũng như công; mục đích chung là nhằm giảm rủi ro cho người mua, người sở hữu, người sử dụng hoặc người tiêu dùng của những đối tượng đã được giám định.
Chứng nhận là khi một bên thứ ba đưa ra một đảm bảo bằng văn bản rằng một sản phẩm (kể cả dịch vụ), quá trình, con người, tổ chức hoặc dịch vụ phù hợp với những yêu cầu cụ thể. Hoạt động chứng nhận bao gồm chứng nhận sản phẩm và chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng.
Khi sản phẩm được chứng nhận có nghĩa là sản phẩm đó có các chỉ tiêu chất lượng, vệ sinh an toàn phù hợp với qui định trong tiêu chuẩn (hoặc quy chuẩn kỹ thuật) có liên quan. Điều này đã tạo lòng tin của khách hàng đối với nhà sản xuất, góp phần nâng cao uy tín của nhà sản xuất, vì thế giúp cho nhà sản xuất dễ dàng trong việc mở rộng thị trường và thuyết phục khách hàng chấp nhận sản phẩm.
Những sản phẩm được chứng nhận sẽ có ưu thế cạnh tranh đối với những sản phẩm cùng loại khi chưa được chứng nhận, chính vì vậy mà hoạt động chứng nhận sản phẩm đã trở thành công cụ tiếp thị hữu hiệu cho nhà sản xuất. Chứng nhận sản phẩm cũng là một cách thức kiểm soát sản xuất, trên cơ sở đó sẽ giúp nhà sản xuất giữ ổn định chất lượng; cải tiến năng suất; giảm sự lãng phí và giảm tỉ lệ sản phẩm bị phế phẩm.
Công nhận:
Các hoạt động đánh giá sự phù hợp được thực hiện bởi tổ chức đánh giá sự phù hợp. Để đánh giá sự phù hợp, các tổ chức đánh giá sự phù hợp phải được công nhận, hoạt động công nhận này cũng là cơ sở cho việc thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp tạo ra sự tin tưởng và thúc đẩy tiếp cận thị trường thế giới. Để tăng độ tin cậy vào các hoạt động đánh giá sự phù hợp giữa các nước, cần phải đạt được thoả thuận chính thức mang tên Thỏa thuận Công nhận Lẫn nhau (MRA – Mutual Recognition Agreement/ Arrangement). Đây là thỏa thuận giữa hai nước nhằm công nhận các kết quả thử nghiệm, giám định, chứng nhận hay công nhận của nhau. MRA giúp hạn chế sự chồng chéo của các hoạt động đánh giá sự phù hợp đối với sản phẩm, dịch vụ và hệ thống trước khi được xuất khẩu. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Theo đó, công nhận là quy trình theo đó một tổ chức thẩm quyền công nhận chính thức một tổ chức hoặc cá nhân có năng lực tiến hành những công việc cụ thể. Công nhận được tiến hành đối với các phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn, các tổ chức giám định, tổ chức chứng nhận sản phẩm và tổ chức chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng. Hoạt động công nhận là cơ sở để thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp, từ đó hạn chế tối đa việc thử nghiệm và chứng nhận lại, giảm chi phí và loại bỏ các rào cản phi quan thuế trong thương mại và cản trở tiếp cận thị trường
Thứ tư, kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, việc kiểm tra, thanh tra việc thực thi pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quản lý nhà nước nói chung và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa nói riêng. Thực chất, hoạt động thanh tra, kiểm tra đảm bảo việc quản lý của nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh.
Thanh tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa là việc xem xét, đánh giá và xử lý việc thực hiện pháp luật của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa do tổ chức, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự pháp luật quy định. Cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà phải chịu trách nhiệm pháp lý khác nhau. Thông qua trách nhiệm này đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trong việc bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hoá của mình trước xã hội, người tiêu dùng, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Việc đảm bảo hoạt động thanh tra chính là một hình thức thể hiện sự kiểm tra của công dân đối với hoạt động thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước để hạn chế, tiến tới loại trừ thói quan liêu, cửa quyền, tệ nạn tham nhũng, cũng như tình trạng vô pháp luật, góp phần củng cố pháp chế, bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và tự do của công dân.
Còn kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa là việc xem xét tình hình thực tế việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, hàng hóa của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh. Kiểm tra chất lượng chất lượng sản phẩm, hàng hóa thực hiện là một trong các yếu tố quan trọng đảm bảo thực sự và trên thực tế các hoạt động sản xuất, kinh doanh được thực hiện. Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa được phân chia thành các giai đoạn theo quá trình từ hình thành, hoàn chỉnh sản phẩm đến lưu thông trên thị trường và đưa vào sử dụng sản phẩm. Trong sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm bao gồm các nội dung như kiểm tra việc áp dụng quy chuẩn kỹ thuật, kiểm tra kết quả đánh giá sự phù hợp, nhãn hàng hóa, dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy,… Hoạt động kiểm tra chất lượng hàng hóa trong nhập khẩu, lưu thông trên thị trường gồm kiểm tra nhãn hàng hóa, dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy, thử nghiệm mẫu theo tiêu chuẩn đã công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng,…
Mục đích của cơ chế này là bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy các quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và phát triển kinh tế – xã hội. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
1.2.3.3. Trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Để hoạt động thanh tra, kiểm tra có hiệu quả cần xác định được trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa và việc xác định nhiệm vụ của mỗi cơ quan trong từng lĩnh vực cũng là điều rất cần thiết.
Phân công vai trò và trách nhiệm trong quản lý, cũng giống như trong các lĩnh vực khác, đóng một vị trí lớn trong hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Trong lĩnh vực quản lý chất lượng có rất nhiều nhóm lĩnh vực nhỏ hơn có thể phân ra, phụ thuộc vào từng sản phẩm, hàng hóa như thực phẩm, thiết bị y tế, cây trồng, vật liệu xây dựng,… Do đó để thuận tiện cho hoạt động quản lý, mỗi nhóm lĩnh vực này sẽ do các cơ quan khác nhau phụ trách. Việc phân công này thường căn cứ vào từng lĩnh vực đặc thù mà mỗi cơ quan sẽ phụ trách khác nhau. Sự chuyên trách như vậy sẽ làm cho hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao vì sẽ tận dụng hiệu quả hơn các nguồn lực. Tuy nhiên, dù quản lý các lĩnh vực riêng song giữa các cơ quan cùng cấp này vẫn rất cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau vì nhà nước là một thể thống nhất và các lĩnh vực quản lý cũng vậy.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Quản lý chất lượng có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay bởi vì quản lý chất lượng một mặt làm cho chất lượng sản phẩm, hàng hóa thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng và mặt khác nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý. Đó là cơ sở để doanh nghiệp chiếm lĩnh, mở rộng thị trường, tăng cường vị thế, uy tín trên thị trường. Quản lý chất lượng cho phép doanh nghiệp xác định đúng hướng sản phẩm cần cải tiến, thích hợp với những mong đợi của khách hàng cả về tính hữu ích và giá cả.
Trong chương I, khóa luận đã đề cập đến cơ sở lý luận về quản lý chất lượng và pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa bao gồm các khái niệm, vai trò và trách nhiệm quản lý chất lướng sản phâm, hàng hóa; khái niệm, nguyên tắc xây dựng và thực hiện pháp luật và nội dung pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Chất lượng sản phẩm, hàng hoá liên quan trực tiếp đến sự an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người, tài sản và môi trường được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn công bố áp dụng và quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Người sản xuất, kinh doanh và các cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Người sản xuất, kinh doanh hoàn toàn tự chủ và tự chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa do mình làm ra trước Nhà nước và người tiêu dùng. Nhà nước không can thiệp quá nhiều vào hoạt động của doanh nghiệp mà chỉ quản lý thông qua việc ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Để thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, người sản xuất, kinh doanh và nhà nước có thể thực hiện các biện pháp: công bố tiêu chuẩn áp dụng, công bố sự phù hợp, đánh giá sự phù hợp và thanh tra, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Khóa luận: Pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa