Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Các quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

Thỏa thuận  trọng tài thương mại là thỏa thuận bằng văn bản, các bên ký đưa tất cả hoặc một phần tranh chấp đã có hoặc sẽ có khả năng tranh chấp ra giải quyết bằng hình thức trọng tài. Trái ngược với tòa án giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trừ khi có thỏa thuận khác của các bên đương sự. Và thỏa thuận là điều kiện tiên quyết để đưa tranh chấp ra giải quyết bằng phương pháp trọng tài thương mại.

1.1. Hình thức thỏa thuận

Trong hầu hết các trường hợp thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. Điều này đảm bảo cho thỏa thuận trọng tài có giá trị như một chứng cứ xác thực việc các bên muốn giải quyết bằng hình thức trọng tài. Pháp luật của hầu hết  các  nước đều quy định thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản, tuy nhiên điều khoản trọng tài cũng có thể bằng miệng, nhưng rất ít.

Ở Việt Nam, Theo Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại, thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:

  1. Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.
  2. Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
  3. Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
  4. Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;

Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.

Thông thường, có hai cách để thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:

Thứ nhất,  trước khi có tranh chấp, các bên dự đoán trước và sẽ thỏa thuận hình thức trọng tài ngay từ đầu. Thỏa thuận này sẽ được ghi vào hợp đồng xác lập mối quan hệ giữa các bên. Vì điều khoản này chỉ mang tính dự liệu nên thường ngắn gọn, sau này khi xảy ra tranh chấp các bên sẽ bàn sâu hơn

Thứ hai,  khi có tranh chấp, các bên thỏa thuận dùng phương pháp trọng tài để giải quyết tranh chấp của mình. Thỏa thuận này sẽ được lập thành một văn bản riêng (theo quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại ) và coi như gắn liền với hợp đồng chính. Tuy nhiên, trên thực tế hình thức thỏa thuận  trọng tài này thường ít được sử dụng vì sau khi xảy ra tranh chấp, các bên khó lòng mà ngồi lại để thỏa thuận mà thường tìm đến cơ quan tòa án để giải quyết.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

1.2. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu

Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài có liên quan chặt chẽ đến các điều kiện luật định về năng lực chủ thể tham gia thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền trọng tài, ý chí tự nguyện của các chủ thể và hình thức của thỏa thuận. Một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực khi đáp ứng được đủ các điều kiện trên theo luật định hay những thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi không đáp ứng đủ những điều kiện đó. Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Thứ nhất,  điều kiện về năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể là vấn đề đầu tiên và là tiền đề nên rất cần được quan tâm khi tiến hành đàm phán thỏa thuận trọng tài vì một trong hai bên không có năng lực chủ thể sẽ khiến điều khoản này vô hiệu. Đối với mỗi chủ thể, sẽ có những  quy phạm pháp luật khác nhau để điều chỉnh sao cho phù hợp với từng loại chủ thể riêng biệt. Chủ thể gồm: cá nhân, pháp nhân và cơ quan nhà nước và đều có pháp luật riêng để điều chỉnh. Ví dụ: theo Khoản 1 Điều 16 Bộ Luật Dân sự 2015: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự” và theo Điều 86 Bộ Luật dân sự 2015: “1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác; 2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký;3. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.”

Thứ hai, điều kiện về thẩm quyền của trọng tài. Với nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên và tính ưu việt của mình, trọng tài ngày càng được sử dụng nhiều hơn khi xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, không phải tranh chấp nào cũng có thể sử dụng phương pháp trọng tài thương mại ngay cả khi các bên đã nhất trí. Điều đó xảy ra khi pháp luật có quy định cấm sử dụng phương pháp trọng tài thương mại. Ví dụ : Trong thương mại quốc  tế, Việt Nam đã tuyên bố bảo lưu đối với Công ước New York 1958  tại  quyết  định số 453 QĐ/CTN của Chủ tịch nước ngày 17/07/1995, không cho phép thỏa thuận trọng tài đối với tất cả các vấn đề liên  quan đến trật tự công cộng. Các vấn đề phổ biến mà không được áp dụng trọng tài như :  vấn đề liên quan đến nhân thân (năng lực chủ thể, ly hôn…), các hợp đồng ký kết do lừa đảo hoặc vô đạo đức; tranh chấp về phát minh, nhãn hàng hóa…

Thứ ba, điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài. Điều kiện về hình thức là điều kiện cơ bản nhất, đó là sự thể hiện ra bên ngoài của các bên đương sự khi đã thống nhất ý chí. Như đã phân tích tại mục 1.1, hầu hết các quốc gia đều yêu cầu thỏa thuận trọng tài phải được ký kết bằng văn bản, quy định này đã trở thành tập quán quốc tế chung bởi chỉ có thể xác lập bằng văn bản mới tạo ra sự tin tưởng cho các bên, đồng thời là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên khi phát sinh tranh chấp. Vi phạm về hình thức là một trong những nguyên nhân làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc phán quyết của trọng tài không được công nhận.

Thứ tư, điều kiện về ý chí tự nguyện của chủ thể. Suy cho cùng, thỏa thuận trọng tài là một loại hợp đồng, trong đó ý chí tự nguyện của chủ thể đóng vai trò là một nguyên tắc quan trọng trong quá trình xác lập. Vì vậy, thỏa thuận sẽ không có hiệu lực nếu như không có sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể. Trong trường hợp một bên chứng minh được họ bị ép buộc, lừa dối hoặc nhầm lẫn khi ký thỏa thuận trọng tài và yêu cầu tòa án tuyên hủy thỏa thuận thì được chấp thuận.

Vậy nên, thỏa thuận trọng tài là một yếu tố không thể thiếu trong tố tụng trọng tài thương mại. Thỏa thuận này sẽ loại trừ thẩm quyền xét xử của tòa án trong đa số các trường hợp. Và có tác dụng ràng buộc các bên bởi nó được xác lập trên cơ sở ý chí  tự nguyện và bình đẳng của chính các bên. Từ đó, nếu không có thỏa thuận trọng tài sẽ không có giải quyết tranh chấp bằng phương pháp trọng tài.

2. Các nguyên tắc của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

2.1 Nguyên tắc thỏa thuận

Luật tư nói chung và luật thương mại nói riêng, việc ý chí của các bên luôn được đặt lên hàng đầu (miễn sao không vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến đạo đức xã hội ….) trong chế định trọng tài thương mại cũng không ngoại lệ. Các bên tự mình thỏa thuận, thống nhất ý chí sử dụng trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp hay trọng tài chỉ có thẩm quyền khi các bên trao cho. Sự thỏa thuận chỉ được xem là có hiệu lực khi một trong hai bên không bị lừa dối, nhầm lẫn.

Vậy nên, để đi đến giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì thỏa thuận chính là tiền đề.

2.2 Nguyên tắc độc lập

Một số tổ chức trọng tài yêu cầu trọng tài viên xác nhận bằng văn bản rằng họ đang và sẽ độc lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kì sự kiện hoặc chi tiết nào có thể có khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. Theo quy định tại Điều 20 Luật trọng tài thương mại năm 2010, trọng tài viên phải đàm bảo những điều kiện tối thiểu (phân tích rõ hơn ở mục 3). Tất cả những quy định trên đều nhằm đảm bảo nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan trọng việc giải quyết tranh chấp thương mại. Khi tham giải giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài viên phải thật sự là người thứ ba độc lập, vô tư, không liên quan đến các bên có tranh chấp cũng như không có bất kì lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh chấp đó. Trọng tài viên phải từ chối giải quyết tranh chấp, các bên có quyền yêu cầu thay đổi Trọng tài viên giải quyết tranh chấp trong các trường hợp sau đây:

  • Trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại diện của một bên;
  • Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp;
  • Có căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, khách quan;
  • Đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản. Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Kể từ khi được chọn hoặc được chỉ định, Trọng tài viên phải thông báo bằng văn bản cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và các bên về những tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của mình. Nếu trọng tài viên không vô tư, không khách quan trong việc giải quyết vụ tranh chấp , vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên (trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài) thì quyết định của hội đồng trọng tài có trọng tài viên này sẽ bị hủy (Điều 68 Luật trọng tài thương mại năm 2010). Trọng tài viên là người được các bên có tranh chấp lựa chọn giải quyết tranh chấp cho họ. Để giải quyết tranh chấp một cách công bằng, hợp lí, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên , trọng tài viên phải tuân theo các quy định của pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền mọi người sống và làm việc theo pháp luật, bản thân pháp luật đã hàm chứa yếu tố công bằng và văn minh. Nhà nước luôn kêu gọi, đề ra khẩu hiệu “sống và làm việc theo pháp luật” để từ đó mọi người nghiêm chỉnh chấp hành nhưng không phải lúc nào và ở đâu người dân cũng đều thực hiện đúng theo pháp luật. Khi giải quyết các tranh chấp thương mại theo thủ tục trọng tài, trọng tài viên phải tuân theo các quy định của pháp luật vì nếu trọng tài viên không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi phạm đạo đức trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài.

2.3 Nguyên tắc công bằng

Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình Theo khoản 3 Điều 4 Luật trọng tài thương mại thì “Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”. Theo nguyên tắc này thì giữa các bên có tranh chấp thương mại khi tham gia vào giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì đều có quyền và nghĩa vụ pháp lí ngang nhau. Họ được đảm bảo tối đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương diện trong quá trình giải quyết. Các bên có thể lựa chọn trung tâm trọng tài, hình thức trọng tài, trọng tài viên…Và giữa các bên có thể thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp. Khi các bên tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thì Hội đồng trọng tài phải tôn trọng và có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Nếu không sẽ dẫn tới hậu quả là quyết định của Hội đồng trọng tài sẽ bị Tòa án hủy theo yêu cầu của các bên.

2.4 Tôn trọng sự thỏa thuận của các bên Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh (khoản 2 Điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010). Như vậy, các bên có thể thuận thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Một trong những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài là các bên có tranh chấp được đảm bảo tối đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương diện trong quá trình giải quyết với điều kiện các thảo thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội. Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết mà trọng tài viên phải tôn trọng , nếu không sẽ dẫn đến hậu quả là quyết định của hội đồng trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của các bên. Quyền hạn của hội đồng trọng tài là do các bên giao cho họ. Các bên thỏa thuận chọn trung tâm trọng tài nào và hình thức trọng tài nào thì chỉ có trung tâm trọng tài và hình thức trọng tài đó có thẩm quyền giải quyết. Các bên lựa chọn trọng tài viên nào thì trọng tài viên đó có thẩm quyền giải quyết. Nếu các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết thì chỉ có trọng tài viên duy nhất đó có quyền giải quyết. Các bên có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết vụ tranh chấp. Chỉ khi không có thỏa thuận của các bên về địa điểm giải quyết thì hội đồng trọng tài mới quyết định. Các bên còn có quyền thỏa thuận thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. Chủ tịch hội đồng trọng tài chỉ có quyền quyết định thời gian mở phiên họp giải quyết nếu các bên không có thỏa thuận khác.

2.5 Nguyên tắc giải quyết một lần Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Theo khoản 5 Điều 4 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì “ Phán quyết trọng tài là chung thẩm” hay giải quyết một lần. Đây là nguyên tắc quan trọng để giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến nhất, với nhiều ưu điểm nổi bật như thời gian xử lý nhanh, nội dung tranh chấp được giữ bí mật, phán quyết của trọng tài là chung thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị. Điều này có nghĩa là ngay sau khi hội đồng trọng tài công bố quyết định trọng tài, các bên phải thi hành quyết định trọng tài, trừ trường hợp một trong các bên làm đơn yêu cầu tòa án hủy quyết định trọng tài. Trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các bên có nhiều quyền định đoạt về việc được tự do lựa chọn trọng tài, quy tắc tố tụng, luật áp dụng, địa điểm, ngôn ngữ, thời gian tiến hành tố tụng trọng tài, quốc tịch của trọng tài viên. Thẩm quyền của trọng tài thương mại bao gồm tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại và tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài thương mại… với hai hình thức hoạt động là trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc. Cũng theo quy định của Luật trọng tài thương mại, Tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên. Một trong các căn cứ khiến phán quyết trọng tài bị hủy là chứng cứ giả mạo; trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài.

3. Tiêu chuẩn trọng tài viên

Pháp luật các nước thế giới và Việt Nam khá thống nhất về định nghĩa trọng tài viên. Theo khoản 5 điều 3 quy định : “Trọng tài viên là người được các bên lựa chọn hoặc được Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này.” Để trở thành trọng tài viên,  cá nhân phải đáp ứng đủ những điều kiện tối thiểu và trong một số trường hợp người đáp ứng đủ điều kiện tối thiểu này không thể trở thành trọng tài viên.

Theo pháp luật nước ngoài, nhiều nước không quy định điều kiện đối với trọng tài viên. Ví dụ như “Luật trọng tài thương mại của Thụy Điển không có bất kỳ quy định nào về điều kiện cần phải đáp ứng để trở thành trọng tài viên mà chỉ quy định về các trường hợp không được làm trọng tài viên : không có năng lực hành vi, đã từng là thẩm phán giải quyết tranh chấp đó; và một số trường hợp không đảm bảo khách quan, trung thực nếu làm trọng tài viên. Luật trọng tài thương mại của Nhật bản quy định các bên có thể khước từ trọng tài viên khi người đó không có năng lực pháp lý, điếc, câm hay bị tước hỏ hoặc bị treo các quyền dân sự (khoản 3, Điều 792). Điều 20 của các quy tắc trọng tài của Hiệp hội trọng tài Nhật Bản cũng chỉ đưa ra một quy định có tính nguyên tắc: “Không ai có quyền lợi trong vụ việc xét xử trọng tài được làm trọng tài viên…”. Ở Hoa Kỳ, Luật trọng tài thương mại thống nhất không quy định về vấn đề tiêu chuẩn trọng tài viên và quốc tịch của trọng tài viên, vì vậy các luật sư, thương nhân và những người khác đều có thể được chỉ định làm trọng tài viên theo sự lựa chọn của các bên. Ở cộng hòa Liên bang Đức, việc chỉ định trọng tài viên được quy định tại điều 1035 ZPO. Về cơ bản, bất kỳ cá nhân nào cũng có thể làm trọng tài viên. Điều kiện duy nhất đòi hỏi đối với trọng tài viên là năng lực hành vi của người đó không bị hạn chế. Trọng tài viên không đòi hỏi phải có kiến thức về pháp lý, đặc biệt cũng không đòi hỏi phải có năng lực như thẩm phán. Nhưng trong thực tế, đại đa số những người làm trọng tài viên ở Đức lại đã qua đào tạo pháp lý. Ngoài những đòi hỏi ít ỏi được quy định trong pháp luật, các bên đương sự có thể thỏa thuận một số tiêu chuẩn trọng tài viên phải đáp ứng.”  (trích Sách chuyên khảo về Trọng tài thương mại –  TS Đỗ Văn Đại )

Theo pháp luật Việt Nam, điều 20 Luật Trọng tài thương mại quy định: Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Những người có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể làm Trọng tài viên:

  1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự;
  2. Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên;
  3. Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên.”

Thứ nhất, tiêu chuẩn cá nhân có năng lực hành vi. Theo suy đoán chủ  quan, chủ thể luật trọng tài thương mại 2010 nhắc đến là cá nhân bởi lẽ pháp luật hiện hành không ghi nhận năng lực hành vi dân sự đối với các chủ thể khác như pháp nhân.

Thứ hai, trình độ đại học và kinh nghiệm thực tế. Tiêu chí này đã tồn tài từ pháp lệnh trọng tài thương mại và còn đến ngày nay. Điểm b, khoản 1, điều 20 Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định : “Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên”. Nếu tìm hiểu không kỹ, nhiều người sẽ hiểu lầm điều luật trên đang hướng đến trình độ đại học Luật ( cử nhân luật). Nhưng thực tế đã chứng minh, với điều kiện là bằng đại học tức là cử nhân luật vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của đương sự. Bở lẽ,  trọng tài thương mại giải  quyết các tranh chấp trong rất nhiều lĩnh vực  liên quan đến nhiều chủ thể và những người được lựa chọn làm trọng tài viên phải là các chuyên gia rất giỏi trên rất nhiều lĩnh vực, ví dụ như địa chất, hóa học, lý học… Vậy nên, Luật Trọng tài thương mại quy định như vậy là rất hợp lý.

Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ cũng là một điều đáng để lưu tâm. Vì trong thời kỳ kinh tế hội nhập, việc thương nhân Việt Nam làm việc với thương nhân nước ngoài không còn là hiếm và cũng là để nâng cao chuyên môn thông qua trao đổi với đồng nghiêp nước ngoài. Vậy tại sao nó lại không được ghi nhận trong điều kiện của trọng tài viên. Theo suy đoán cá nhân, có thể do có nhiều loại hình trọng tài (trọng tài vụ việc, trọng tài trong nước, trọng tài nước ngoài, trọng tài thường trực …) nên nhà làm luật đã không đưa vào.

Thứ ba, trường hợp đặc biệt. Khoản 1, điều 20 Luật Trọng tài thương mại  quy định : “Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên”. Đây là một quy định mới, so với pháp lệnh trọng tài thương mại. Với quy định này, cá nhân không nhất thiết phải có trình độ đại học và công tác trong ngành đã học để trở thành trọng tài viên. Quy định này rất hợp lý, vì bằng cách này hay cách khác một chủ thể không cần phải có bằng đại học nhưng hoàn toàn có thể có nhiều kiến thức liên quan đến tranh chấp thương mại.

Bên cạnh những tiêu chuẩn cơ bản, trọng tài viên phải không nằm trong những trường hợp bị cấm sau : Theo khoản 2, điều 20 Luật Trọng tài thương mại quy định: “ Những người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây không được làm Trọng tài viên: Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

  1. Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức thuộc Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án;
  2. Người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích.”

Đối với điểm a, khoản 2 Luật Trọng tài thương mại chỉ cấm với những người đang giữ chức vụ trên, mà không cấm những người đã về hưu hoặc không còn giữ chức vụ nữa.  Đây là một  quy định hoàn toàn hợp lý vì: Một, những người đã làm những chức trên thường có rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực họ làm việc; Hai, để tránh sự không khách quan của trọng  tài viên khi tham gia giải quyết tranh chấp.

Đối với điểm b, khoản 2 Luật Trọng tài thương mại có một số điểm đáng phải lưu tâm. Một nguyên tắc bất di bất dịch của luật hình sự không chỉ tại Việt Nam mà trên toàn thế giới đó là: một người chỉ được coi là có tội khi có một bản án có hiệu lực của tòa án. Vì vậy, việc bị can, bị cáo bị hạn chế việc làm trọng tài thương mại cũng là một sự bất công đối với họ.

4. Thủ tục tố tụng trọng tài thương mại

Thủ tục tố tụng trọng tài là một trong những nội dung thỏa thuận giữa các bên. Như đã phân tích ở trên, các bên có thể tự mình đưa ra những quy tắc riêng của mình nhưng thông thường sẽ chọn một trong những quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài. Thủ tục tố tụng trọng tài thường có một số trình tự, thủ tục chính như sau:

Thứ nhất, nộp đơn kiện, thường đơn kiện do nguyên đơn đệ trình phải chứa những nội dung nhất định theo quy định của pháp luật về trọng tài hoặc trong bản quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài được lựa chọn. Luật mẫu về trọng tài của UNCITRAL quy định đơn kiện phải làm rõ một số vấn đề như : tên và địa chỉ của các bên, yêu cầu của nguyên đơn, căn cứ pháp lý, hợp đồng có phát sinh tranh chấp và phương pháp giải quyết tranh chấp… Sau khi nhận được đơn khởi kiện, bị đơn sẽ trả lời đơn khởi kiện bằng văn bản: bào chữa, đưa ra quan điểm về phương pháp trọng tài…

Thứ hai, chọn và chỉ định trọng tài viên. Trên cơ sở số trọng tài và tiêu chuẩn của trọng tài viên đã được xác định trong điều khoản của trọng tài, các bên sẽ tiến hành lựa chọn trọng tài viên. Thông thường có hai cách để chọn, nếu trong hợp đồng  quy định chỉ cần một trọng tài viên thì nguyên đơn đưa ra một  danh sách ít nhất 5 trọng tài viên cho bị đơn chọn; nếu điều khoản trọng tài quy định cần ba trọng tài viên thì thường mỗi bên chọn ra một trọng tài viên, sau đó hai người sẽ chọn ra người còn lại. Trong trường hợp không thống nhất được việc lựa chọn trọng tài viên, các bên sẽ lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giúp họ chỉ định trọng tài viên. Các trọng tài viên được chọn có quyền và nghĩa vụ tự khước từ hoặc chỉ một hay các bên khước từ nếu thấy có các mối liên hệ nhất định đối với vụ tranh chấp hoặc với các bên tranh chấp. Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Thứ ba, chuẩn bị xét xử. Đây là giai đoạn để các bên tranh chấp cũng như trọng tài viên tiến hành các hoạt động chính: điều tra, nghiên cứu hồ sơ  và tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa trọng tài viên  và các bên tranh chấp. Trọng tài viên, theo sáng kiến của các bên, có thể nghe nhân chứng, giám định viên trình bày về những vấn đề  có liên quan đến tranh chấp, hoặc trong một số trường hợp có thể cần đến sự hỗ trợ của tòa án vì các lệnh của trọng tài thì thường không có giá trị bắt buộc đối với những người thứ ba. Pháp luật của một số nước không cho  phép trọng tài viên được gặp gỡ các bên trước khi xét xử.

Thứ tư, trong phần lớn các vụ việc, giải quyết bằng trọng tài thương mại quốc tế, phiên họp xét xử là thời điểm đầu tiên mà các bên tranh chấp và trọng tài viên thực sự gặp nhau, do vậy đây là cơ hội để từng bên trình bày tất cả các tài liệu, chứng cứ của mình và kiểm tra các lập luận, chứng cứ của phía bên kia. Để đảm bảo bí mật kinh doanh, các  phiên họp không tiến hành công khai và chỉ có các bên tranh chấp, đại diện của họ và các trọng tài viên tham dự. Các trọng tài viên đóng vai trò tích cực trong việc điều khiển, yêu cầu các bên đưa ra những chứng cứ, lập luận cần thiết để làm rõ vụ việc. Hai nguyên tắc quan trọng để đảm bảo giá trị của phán quyết trọng tài là: các bên phải có được cơ hội đầy đủ để trình bày vấn đề của mình, các bên phải được đối xử công bằng.

Cuối cùng, ra phán quyết của trọng tài. Sau khi kết thúc phiên họp xét xử, trọng tài viên chuẩn bị ra phán quyết dựa trên các căn cứ: Luật áp dụng cho hợp đồng, các điều khoản hợp đồng, tập quán và thông lệ thương mại quốc tế. Phán quyết được thực hiện theo nguyên tắc đa số, theo thông lệ quốc tế, phán quyết phải được thể hiện bằng văn bản viết, có nêu rõ lý do giải quyết từng vấn đề. Phán quyết  trọng tài bằng văn bản phải ghi rõ ngày, tháng, có hữ ký của trọng tài viên Trong trường hợp quyết định theo đa số thì phải có chữ ký của trọng tài viên biểu quyết tán thành. Ngôn ngữ của phán quyết phải tuân theo quy định của nước nơi trọng tài tiến hành. Phán quyết của trọng tài phải được hoàn thành trong một thời hạn nhất định và gửi cho các bên để đảm bảo tính nhanh chóng, dứt điểm của quá trình trọng tài. Thời hạn này do các bên thỏa thuận, do trung tâm trọng tài hoặc do luật tố tụng áp dụng cho trọng tài quy định. Theo quy tắc trọng tài của Hoa Kỳ thời hạn này là 30 ngày sau khi kết thúc xét xử.

5. Hiệu lực phán quyết trọng tài thương mại Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Theo khoản 5 điều 61 Luật Trong tài thương mại, phán quyết trọng tài có hiệu lực kể từ ngày ban hành, có nghĩa là đối với các bên, phán quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày công bố. Đối với cơ quan nhà nước, phán quyết trọng tài cũng có hiệu lực thi hành ngay. Do đó, bên được thi hành có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành phán quyết trọng tài mà không cần thông qua thủ tục công nhận, cho thi hành như phán quyết của trọng tài nước ngoài. Cụ thể, theo khoản 1 điều 66  Luật Trọng tài thương mại, hết thời hạn thi hành phán quyết  trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thì theo quy định tài điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài. Đây là một biện pháp bảo đảm quyết định của trọng tài sẽ được thi hành bởi cơ quan thi hành án trong trường hợp bên phải thi hành không tự nguyện thi hành. Đối với phán quyết của trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ  quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký.

6. Thi hành phán quyết trọng tài thương mại

Phán quyết trọng tài của Việt Nam được thi hành như các bản án, quyết định của tòa án Việt Nam. Phán quyết trọng tài được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Điều đó không có nghĩa là thủ tục thi hành phán quyết trọng tài chỉ căn cứ vào các quy định trong Luật thi hành án dân sự. Chúng ta cần kết hợp với những quy định trong luật trọng tài thương mại về vấn đề này. Chẳng hạn, chúng ta cần xác định cơ quan thi hành phán quyết trọng tài trên cơ sở của điều 8  Luật trọng tài thương mại theo đó “cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi hội đồng trọng tài ra phán quyết. Với quy định trên thì cơ  quan có thẩm quyền thi hành là cơ  quan thi hành án cấp tỉnh. Về thẩm quyền theo lãnh thổ, đó là cơ  quan “nơi hội đồng trọng tài ra phán quyết”. Quy định sau này là rất khó hiểu: nếu nơi hội đồng trọng tài ra phán quyết là Hải Phòng thì tại sao lại không yêu cầu cơ quan thi hành án  dân sự ngoài Hải Phòng? Sẽ là thuyết phục khi chúng ta ghi nhận cả thẩm quyền của cơ quan thi hành dân sự ngoài nơi phán quyết được ban hành như nơi người phải thi hành phán quyết có tài sản hay điều kiện khác để thi hành phán quyết trọng tài.

Hiện nay, thừa phát lại có thẩm quyền thi hành bản án, quyết định của tòa án. Tuy nhiên, Điều 34 của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại không có quy định về khả năng thừa phát lại thi hành phán quyết trọng tài. Do đó, trong quy định hiện hành, dường như chỉ có cơ  quan thi hành án mới có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.

Đối với việc thi hành bản án, các quy định pháp luật về việc thi hành phán quyết trọng tài vẫn còn có nhiều điểm bất cập, có thể kể đến một số bất cập như sau: Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Thứ nhất, về chủ thể yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 31 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 thì quyền yêu cầu thi hành án thuộc về “đương sự” bao gồm người được thi hành án và người phải thi hành án. Trong khi đó Luật trọng tài thương mại năm 2010 chỉ quy định bên được thi hành phán quyết có quyền làm đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài. Do đó trong trường hợp bên phải thi hành phán quyết muốn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài khi bên được thi hành phán quyết chưa yêu cầu thì hiện nay pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể.

Thứ hai, về thủ tục tiếp nhận và thụ lý phán quyết, quyết định của Trọng tài: Theo Khoản 1 Điều 66 Luật trọng tài thương mại năm 2010, nếu hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật trọng tài thương mại năm 2010, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là ngày phán quyết của Hội đồng Trọng tài có hiệu lực không phải là ngày phán quyết của Hội đồng trọng tài được đưa ra thi hành tại cơ quan THADS có thẩm quyền. Hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài được xác định căn cứ theo Điều 61 và Điều 66 Luật trọng tài thương mại năm 2010. Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 61 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì trong phán quyết trọng tài có nội dung “Thời hạn thi hành phán quyết”. Vì vậy, để xác định điều kiện tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS phải căn cứ vào nội dung này để xác định hai vấn đề: Một là đã hết thời hạn thi hành phán quyết; Hai là bên phải thi hành phán quyết có yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài hay không, từ đó cơ quan THADS mới có căn cứ để tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án và thụ lý giải quyết vụ việc.

Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật trọng tài thương mại. Điều 62 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định: Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày ban hành phán quyết trọng tài, bên yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc phải gửi đơn xin đăng ký phán quyết trọng tài tới Tòa án có thẩm quyền. Sau khi nhận được đơn xin đăng ký phán quyết trọng tài thì Tòa án thực hiện việc đăng ký hoặc từ chối đăng ký phán quyết. Vì vậy, để có thể tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS phải yêu cầu đương sự chứng minh việc phán quyết trọng tài đã được đăng ký tại Tòa án.

Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác nhận tình trạng pháp lý của phán quyết trọng tài gặp nhiều khó khăn. Để yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài, người yêu cầu thi hành phải chứng minh phán quyết trọng tài đó không bị Tòa án tuyên hủy. Nhiều trường hợp các đương sự yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xác nhận phán quyết trọng tài không bị tuyên hủy đều không nhận được câu trả lời từ phía Tòa án, dẫn tới hồ sơ thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự bị chậm hoặc không được tiếp nhận do không xác nhận được tình trạng pháp lý của phán quyết. Hơn nữa, việc xác định tình trạng pháp lý của phán quyết trọng tài là trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự hay đương sự còn chưa được quy định rõ dẫn tới khó khăn trong công tác thụ lý thi hành án.

Liên quan đến vấn đề này, tại Kiến nghị số 1680/PTM – VP ngày 14/07/2017 của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam về việc thi hành phán quyết trọng tài  thì một trong những bất cập khi nộp đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài là việc Cơ quan THADS yêu cầu đương sự phải cung cấp giấy xác nhận của Tòa án về việc thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Trong khi Tòa án lại không có bất kỳ quy trình hay thủ tục nào để cấp Giấy xác nhận này, việc cấp giấy hoàn toàn phụ thuộc vào thực tiễn của mỗi Tòa án. Việc thi hành phán quyết trọng tài bị phụ thuộc vào việc Tòa án cấp giấy xác nhận đã hạn chế quyền và lợi ích chính đáng của bên được thi hành. Mặt khác, thủ tục xin xác nhận của Tòa án là một thủ tục hành chính độc lập, phải thực hiện trước khi nộp hồ sơ đến cơ quan THADS, dẫn đến quy trình yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài bị tăng gấp đôi về thủ tục. Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Đồng thời Kiến nghị cũng nêu ra bất cập về quy định bên yêu cầu THA phải có bằng chứng về việc phán quyết trọng tài  đã có giá trị thi hành. Thực tế, bên yêu cầu thi hành án sẽ rất khó để biết thông tin Tòa án có đang thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài hay không. Trong khi bên phải thi hành phán quyết trọng tài là chủ thể nộp đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và Tòa án có thẩm quyền xem xét hủy phán quyết trọng tài lại có thể dễ dàng cung cấp thông tin. Do đó, quy định việc lấy thông tin từ bên phải thi hành phán quyết trọng tài hoặc Tòa án sẽ là hợp lý hơn. Có thể thấy, các kiến nghị nói trên đã phản ánh đúng phần nào những bất cập trong việc thụ lý yêu cầu thi hành PQTT hiện nay.

Thứ ba, về thời hiệu thi hành phán quyết Trọng tài. Theo pháp luật về thi hành án dân sự (Điều 30 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 và Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS) thì  thời hiệu yêu cầu thi hành án là 5 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 5 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 5 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

Theo khoản 5 Điều 61 Luật trọng tài thương mại thì phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 66 Luật trọng tài thương mại năm 2010 lại quy định:  Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật trọng tài thương mại, và thời hạn đăng ký là 1 năm kể từ ngày ban hành phán quyết.

Vấn đề đặt ra là thời hiệu yêu cầu thi hành án được tính bắt đầu từ thời điểm nào là chính xác: kể từ ngày có phán quyết trọng tài hay từ khi phán quyết đó được đăng ký tại tòa án? Có thể thấy, sự không thống nhất giữa các quy định pháp luật nói trên đã khiến cho thời hiệu thi hành phán quyết trọng tài vụ việc chỉ còn chưa được 4 năm kể từ ngày phán quyết trọng tài có hiệu lực chứ không phải 5 năm.

Do đó cần có quy định cụ thể hơn về vấn đề này. Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Thứ tư, về thẩm quyền thi hành phán quyết, quyết định của Trọng tài. Theo Điều 8 Luật trọng tài thương mại năm 2010, cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết. Trên thực tế các trung tâm trọng tài thường tập trung tại các thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ chí Minh. Theo đó các phán quyết trọng tài chủ yếu được ban hành tại các trung tâm trọng tài đặt tại hai thành phố này. Theo số liệu thống kê tại Báo cáo số 74/BC-BTP, trong 4 năm (từ năm 2011 đến 31/12/2015) các trung tâm trọng tài đã ban hành 1.831 phán quyết trọng tài, riêng trong năm 2015, các trung tâm trọng tài đã giải quyết được 1.255 vụ tăng 389 vụ việc so với năm 2014. Trong đó, VIAC đã thụ lý, giải quyết 226 vụ, trung bình gần 60 vụ/năm; Trung tâm Trọng tài thương mại thành phố Hồ Chí Minh (TRACENT) thụ lý, giải quyết 291 vụ, trung bình hơn 70 vụ/năm. Các trung tâm trọng tài khác chỉ giải quyết từ 5 đến 10 vụ/năm.

Các doanh nghiệp thường có hoạt động kinh doanh tại khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước, việc quy định cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết có thể dẫn tới khó khăn cho các doanh nghiệp không có trụ sở kinh doanh tại hai thành phố này khi nộp đơn yêu cầu thi hành phán quyết.

Mặt khác, theo quy định tại Điều 55 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải uỷ thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Như vậy, cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết có thể lại phải ủy thác thi hành án đến nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở, dẫn đến thời gian tổ chức thi hành án bị kéo dài.

Do đó cần xem xét nên mở rộng phạm vi cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài, bao gồm cả cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi bên phải thi hành phán quyết có tài sản hoặc có trụ sở chính. Quy định như vậy sẽ góp phần giảm tải cho các cơ quan THADS nơi tập trung nhiều vụ việc Trọng tài thương mại và cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho bên được thi hành phán quyết trọng tài.

Thứ năm, việc yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài. Việc yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài được quy định tại Chương XI Luật trọng tài thương mại năm 2010 (Từ Điều 68 đến Điều 72) và Điều 14 Nghị Quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010, trong đó quy định cụ thể về căn cứ, trình tự thủ tục yêu cầu và xem xét hủy Phán quyết trọng tài. Tuy nhiên lại thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp một bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài nhưng không được Tòa án công nhận và việc kéo dài thời gian thi hành phán quyết gây ra thiệt hại đối với bên được thi hành phán quyết. Điều này dẫn đến bên phải thi hành phán quyết trọng tài thường tìm mọi cách để đưa ra yêu cầu phản đối để phán quyết bị bác bỏ, dẫn đến tốn kém thời gian và chi phí cho bên được thi hành phán quyết. Do đó cần quy định chặt chẽ hơn nữa về việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và có những quy định ràng buộc trách nhiệm đối với bên yêu cầu hủy phán quyết nhằm hạn chế tối đa việc lợi dụng quyền yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài để kéo dài thời gian thi hành án.

7. Sự hỗ trợ của tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

7.1 Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ

Luật Trọng tài thương mại quy định hai nguyên tắc cơ bản trong thu thập chứng cứ. Một mặt, các bên có quyền và nghĩa vụ cung cấp cho Hội đồng trọng tài các chưng cứ chứng minh tình tiết liên quan đến các vấn đề tranh chấp. Mặt khác, hội đồng trọng  tài cũng có thẩm quyền: Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, yêu cầu người làm chứng cung cấp thông tin và tài liệu liên quan đến việc giải quyết tranh chấp; tự mình hoặc theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, yêu cầu đánh giá hoặc định giá tài sản tranh chấp để có căn cứ giải quyết tranh chấp hoặc trưng cầu ý kiến chuyên gia. Trong trường hợp trọng tài hoặc các bên đã thực hiện tất cả những biện pháp nhưng không tự mình thu thập được các chứng cứ trên đây thì có quyền đề nghị Tòa án yêu cầu các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác lưu giữ chứng cứ cung cấp cho Tòa án ( Điều 46 Luật Trọng tài thương mại ) Văn bản đề nghị tòa án phải xác định vấn đề tranh chấp hiện đang được trọng tài giải quyết, chứng cứ cần thu thập, lý do tại sao chưa thu thập được chứng cứ, tên và địa chỉ cơ quan, tổ chức hay cá nhân hiện đang quản lý và lưu giữ chứng cứ cần thu thập ( Điều 46 Luật trọng tài thương mại ). Văn bản đề nghị phải được gửi kèm với đơn khởi kiện trọng tài, thỏa thuận trọng tài, tài liệu liên quan và tài liệu, chứng cứ chứng minh việc không thu thập được chứng cứ đó. Tòa án có thẩm quyền phải  xử lý yêu cầu thu thập chứng cứ đó như sau:

  • Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu, chánh án phải phân công một thẩm phán xem xét và giải quyết yêu cầu
  • Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, thẩm phán xử lý yêu cầu phải gửi thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức hoặc cá nhận hiện quản lý, lưu giữ chứng cứ để yêu cầu cung cấp chứng cứ đó cho Tòa án.
  • Thẩm quyền cũng phải gửi thông báo đó đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để Viện kiểm sát thực hiện chức năng và nhiệm cụ của mình theo luật.
  • Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của tòa án, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân hiện đang quản lý, giữ chứng cứ phải nộp chứng cứ lên tòa án.
  • Hết thời hạn này mà cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân không thể giao nộp chứng cứ, thì phải thông báo cho tòa án bằng văn bản về lý do không giao nộp.
  • Khi hết thời hạn này, nếu chứng cứ không được giao nộp, tòa án phải thông báo ngay cho hội đồng trọng tài và người yêu cầu được biết, đồng thời thông báo bằng văn bản cho cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật Cơ quan , tổ chức hoặc cá nhân không tuân thủ yêu cầu của toàn án mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật tùy theo bản chất và mức độ nghiêm trọng của vi phạm. Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.
  • Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được chứng cứ từ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp, tòa án phải thông báo cho Hội đồng trọng tài và người yêu cầu để giao nhận chứng cứ.

7.2 Tòa án hỗ trợ triệu tập người làm chứng

Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên và xét thấy cần thiết, hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp. Khi họi đồng trọng tài đã triệu tập người làm chứng hợp lệ nhưng người làm chứng vắng mặt mà không có lý do chính đáng và sự vắng mặt của người làm chứng cản trở việc giải quyết tranh chấp,  thì hội đồng trọng tài có thể gửi văn bản đề nghị Tòa án ra quyết định triệu tập người làm chứng đó có mặt tại phiên họp của hội đồng trọng tài. Yêu cầu triệu tập người làm chứng phải ghi rõ những thông tin sau : Nội dung vụ việc hiện đang được trọng tài giải quyết; họ tên và địa chỉ người làm chứng; lý do triệu tập người làm chứng và thời gian, địa điểm người làm chứng cần có mặt.

Văn bản đề nghị triệu tập người làm chứng phải gửi kèm theo bản sao đơn khởi kiện, thỏa thuận trọng tài, tài liệu khác có liên quan và tài liệu, chứng cứ chứng minh việc triệu tập hợp lệ những người làm chứng không có mặt tại phiên trọng tài mà không có lý do chính đáng và sự vắng mặt của người làm hứng cản trở việc giải quyết tranh chấp. Tòa án có thẩm quyền phải xử lý yêu cầu người làm chứng như sau:

Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu bằng văn bản của hội đồng trọng tài, chánh án tòa án có thẩm quyền phân công một thẩm phán xem xét và giải quyết yêu cầu đó.

  • Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, thẩm phán phải ra quyết định triệu tập người làm chứng. Tòa án chỉ triệu tập người làm chứng khi có đủ chứng cứ cho thấy rằng hội đồng trọng tài đã triệu tập người làm chứng hợp lệ nhưng người làm chứng không có mặt và không đưa ra lý do chính đáng cho sự vắng mặt của mình và sự vắng mặt của người làm chứng cần cản trở việc giải quyết tranh chấp
  • Tòa án phải gửi ngay quyết định triệu tập cho Hội đồng trọng tài, người làm chứng và Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình theo luật.

7.3 Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quyết định của tòa án Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Biện pháp khẩn cấp tạm thời là bất kỳ biện pháp tạm thời nào mà qua đó, sau khi trọng tài thụ lý đến trước khi ban hành phán quyết cuối cùng đối với tranh chấp, Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án yêu cầu một bên bảo toàn chứng cứ, bảo vệ tài sản, duy trì tình trạng hiện tại chờ kết quả của tố tụng trọng tài. Biện pháp khẩn cấp tạm thời mà hội đồng trọng tài có thể áp dụng bao gồm các loại sau:  

  • Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
  • Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện hoặc một số hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài
  • Kê biên tài sản đang tranh chấp
  • Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc tất cả các bên tranh chấp
  • Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên

Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.

Trước khi xem xét đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, tòa án phải kiểm tra thỏa thuận của các bên xem: các bên có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không; biện pháp khẩn cấp tạm thời nào đã được thỏa thuận hay áp dụng trong tố tụng trọng tài và tòa án nào có thẩm quyền ra quyết định. Theo điều 48 điều 53 Luật Trọng tài thương mại, chỉ các bên  trong tố tụng trọng tài được quyền yêu cầu Tòa án ban hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tam thời để hỗ trợ tố tụng trọng tài. Các bên không được phép yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Yêu cầu tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải cung cấp: thông tin được  quy định tại điều Điều 50 Luật Trọng tài thương mại và chứng cứ chứng minh sự cần thiết áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo Điều 91, điều 111 Bộ luật Tố tụng dân sự, người yêu cầu phải cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh nhu cầu: thu thập hoặc bảo vệ chứng cứ liên quan đến tranh chấp, bảo đảm  thi hành phán quyết trong tương lai, tránh những thiệt hại không thể khắc phục được. Yêu cầu trên đây khác nhau phụ thuộc vào bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời được yêu cầu áp dụng. Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

Chứng cứ phải chứng minh tình tiết mà người yêu cầu dựa vào đó để yêu cầu áp dụng biện pháp tạm thời, bao gồm những tình tiết quan trọng mà tòa án phải biết. Khi xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thẩm phán phải đề nghị người yêu cầu xác nhận rằng họ chưa yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại điều 49 Luật Trọng tài thương mại. Đồng thời, tòa án phải kiểm tra, xem xét những tài liệu gửi kèm đơn để xác định xem liệu họ đã có yêu cầu tòa án hay hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời hay chưa. Trong trường hợp biện pháp mà các bên yêu cầu không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài thì không cần thiết phải xác minh như trên. Lưu ý, khi xem xét yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Thẩm phán phải tránh việc xem xét trước nội dung vụ tranh chấp.

Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biên pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tòa án chỉ xem xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chứ không giải quyết nội dung tranh chấp. Việc xác định thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải căn cứ vào Điều 7 Luật Trọng tài thương mại. Trừ khi các bên thỏa thuận khác, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng sẽ có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Địa điểm này có thể khác với địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

7.4. Tòa án công nhận và cho thi hành bản án của trọng tài nước ngoài

Công nhận phán quyết của trọng tài là thủ tục biến các phán quyết của trọng tài thành một bộ phận của pháp luật quốc gia, theo đó phán quyết được Hội đồng trọng tài ban hành có hiệu lực thi hành như bản án do tòa án quốc gia ban hành. Một phán quyết của trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam sẽ có hiệu lực pháp lý như bất kỳ bản án, quyết định dân sự nào của Tòa an Việt Nam có hiệu lực thi hành (Điều 472 Bộ Luật tố tụng dân sự). Việc công nhận phán  quyết của trọng tài nước ngoài là một việc làm tất yếu để thi hành nó. Việc thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt  Nam được thực hiện trên cơ sở quyết định của Tòa án có thẩm quyền về công nhận và cho thi hành (Điều 427 Bộ luật tố tụng dân sự ). Thủ tục xem xét việc công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, phù hợp với công ước NewYork mà Việt Nam tham gia. Khi tòa án được yêu cầu công nhận phán quyết trọng tài, Tòa án không chỉ được yêu cầu công nhận hiệu lực pháp lý và tác động của phán quyết, mà còn phải đảm bảo phán quyết đó được thi hành thông qua việc sử dụng các chế tài pháp lý sẵn có. Bộ Luật tố tụng dân sự quy định rằng phán quyết được công nhận sẽ thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự ( Điều 427 Bộ Luật tố tụng dân sự ) Khóa luận: Quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Thực tiễn hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x