Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

2.1. Về thẩm quyền quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa

Việc thi hành các Luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã tạo nên sự chuyển biến lớn đối với nhận thức chung về chất lượng và quản lý chất lượng trong rất nhiều Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức doanh nghiệp ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước dần ý thức được phạm trù quản lý nhà nước đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong cơ chế kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp cũng nhận thức được rõ ràng hơn trách nhiệm của mình đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ quy định trong Luật Doanh nghiệp và Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định:

1. Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam.

2. Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.”

Như vậy, chủ thể có thẩm quyền quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa là người sản xuất, kinh doanh và cơ quan quản lý nhà nước. Trong đó, người sản xuất, kinh doanh quản lý nhằm đảm bảo an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam. Cơ quan quản lý nhà nước quản lý nhằm thực thi các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đảm bảo người sản xuất, kinh doanh thực thi theo quy định pháp luật về chất lượng. Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Thẩm quyền quản lý chất lượng của các chủ thể quản lý được quy định tại Khoản 1 Điều 5 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa:

Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Căn cứ vào khả năng gây mất an toàn, sản phẩm, hàng hóa được quản lý như sau:

  1. Sản phẩm, hàng hóa nhóm 1 được quản lý chất lượng trên cơ sở tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng; 
  2. Sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 được quản lý chất lượng trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng.

Chính phủ quy định cụ thể việc ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hóa nhóm 2.

Theo đó, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản lý trên cơ sở các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với sản phẩm nhóm 1 và nhóm 2. Việc phân loại sản phẩm nhóm 1 và nhóm 2 để quản lý được dựa trên khả năng gây mất an toàn có thể xảy ra của sản phẩm, hàng hóa. Sản phẩm, hàng hóa được phân thành 2 nhóm sau:

Nhóm 1 gồm những sản phẩm, hàng hóa không có hoặc ít có khả năng gây mất an toàn. Sản phẩm, hàng hóa được coi là không có hoặc ít có khả năng gây mất an toàn nếu trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích, không gây ra nguy hại hoặc ít có khả năng gây ra nguy hại đến sức khỏe và sự an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản và môi trường.

Nhóm 2 gồm những sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn.

Sản phẩm, hàng hóa được coi là có khả năng gây mất an toàn nếu trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích, vẫn có tiểm năng khả năng gây ra nguy hại đến sức khỏe và sự an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản và môi trường.

Việc phân nhóm theo mức độ như vậy để ưu tiên những sản phẩm, hàng hóa đòi hỏi phải có sự kiểm soát nghiêm ngặt của Nhà nước không chỉ ở sản phẩm đầu ra của sản xuất mà cả ở các khâu quan trọng trong quá trình nghiên cứu thiết kế, tổ chức sản xuất và kiểm tra trong nội bộ cơ sở sản xuất.

Theo đó, những sản phẩm, hàng hóa không có khả năng gây mất an toàn được quản lý dựa trên cơ sở tiêu chuẩn do người sản xuất công bố. Những sản phẩm hàng hóa có khả năng gây mất an toàn được quản lý chất lượng trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.2. Về các biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa

2.2.1. Công bố tiêu chuẩn áp dụng Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Cùng với sự phát triển về kinh tế – xã hội trong những năm vừa qua, hàng hóa được đưa ra thị trường ngày càng đa dạng. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là trên thị trường, sản phẩm do các nhà sản xuất khác nhau, đưa ra nhiều khi có mức giá và mức chất lượng không đồng bộ, thậm chí tỷ lệ nghịch; thông tin về hàng hóa không chính xác. Đặc biệt nạn hàng giả, hàng kém chất lượng chẳng những làm thiệt hại cho người tiêu dùng mà còn đe dọa tới an toàn, sức khỏe của mỗi người và hiệu quả sản xuất của nhiều doanh nghiệp.

Để đẩy mạnh hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, phù hợp với xu thế hội nhập, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 có nội dung quan trọng đó là quy định các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải thực hiện việc công bố tiêu chuẩn áp dụng. Điều 23 Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định:

“1. Người sản xuất, người nhập khẩu tự công bố các đặc tính cơ bản, thông tin cảnh báo, số hiệu tiêu chuẩn trên hàng hóa hoặc một trong các phương tiện sau đây:

  1. Bao bì hàng hóa;
  2. Nhãn hàng hóa;
  3. Tài liệu kèm theo sản phẩm, hàng hóa.
  4. Nội dung của tiêu chuẩn công bố áp dụng không được trái với yêu cầu của quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành.”

Theo đó, người sản xuất, người nhập khẩu công bố tiêu chuẩn áp dụng thông qua hình thức ghi số hiệu tiêu chuẩn được áp dụng, cảnh báo hoặc các đặc tính cơ bản trên nhãn hoặc bao gói sản phẩm, hàng hóa hoặc trong các tài liệu giao dịch, giới thiệu sản phẩm và các hình thức thích hợp khác. Nội dung xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn thực hiện theo Thông tư số 21/2007/TTBKHCN ngày 28/9/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn về xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn.

Đây là một phương thức quản lý chất lượng hàng hóa được áp dụng nhằm nâng cao trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh trước người tiêu dùng đối với chất lượng sản phẩm. Theo phương thức này, doanh nghiệp là chủ thể trong việc công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đồng thời doanh nghiệp cũng phải tự chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hóa do mình công bố. Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

So với hình thức đăng ký chất lượng hàng hóa trước đây thì thủ tục công bố tiêu chuẩn chất lượng được thực hiện đơn giản hơn. Trên thực tế, vấn đề công bố tiêu chuẩn áp dụng vẫn còn tình trạng đối tượng đã công bố tiêu chuẩn chất lượng nhưng sản phẩm, hàng hóa mà họ đưa ra thị trường không đạt mức chất lượng đã công bố. Như trường hợp Công ty Cổ phần Quốc tế Đông Trung (Lâm Đồng) đăng ký hàm lượng dinh dưỡng trên giấy phép, bao bì NPK là 53%, nhưng kiểm tra chỉ đạt 8,2%. Hay như trường hợp Công ty Đông Hải (Đà Nẵng), hàm lượng đăng ký là 53%, kiểm định chỉ có gần 3%… [24]

Việc công bố tiêu chuẩn áp dụng bao gồm các đặc tính cơ bản, thông tin cảnh cáo, số hiệu tiêu chuẩn có thể thông qua các phương tiện khác nhau, trong đó có nhãn hàng hóa. Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hóa được ban hành là cơ sở pháp lý cao nhất phục vụ quản lý nhà nước về ghi nhãn hàng hóa. Về cơ bản, nghị định đã đáp ứng các yêu cầu hội nhập và quản lý sản xuất, kinh doanh, lưu thông phân phối sản phẩm hành hóa, đáp ứng sự phát triển kinh tế, thương mại.

Tuy nhiên quá trình thực hiện Nghị định và các văn bản liên quan đến nhãn hàng hóa còn thể hiện một số tồn tại, vướng mắc như:

Việc ghi nhãn và dán nhãn phụ trên bao bì nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu (bao gồm cả nguyên liệu, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến, gia vị) là vấn đề cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thủy sản. Một số doanh nghiệp đã bị Ðoàn kiểm tra Quản lý thị trường xử phạt với lý do nguyên liệu thủy sản nhập khẩu (để chế biến xuất khẩu) lưu tại kho chỉ có nhãn tiếng Anh, không có nhãn phụ tiếng Việt. Tuy nhiên, đa số doanh nghiệp thủy sản nhập nguyên liệu thủy sản để sản xuất xuất khẩu hoặc nhập kinh doanh để sản xuất tiếp hàng xuất khẩu (không lưu thông hay tiêu thụ trong nuớc), nên không thể có được nhãn phụ tiếng Việt theo quy định. Yêu cầu ghi nhãn phụ tiếng Việt chỉ áp dụng cho sản phẩm được đưa ra lưu thông ở thị trường trong nước còn hàng hóa dùng để chế biến hàng xuất khẩu, không lưu thông trong nước (bao gồm cả nguyên liệu, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến, gia vị) thì không phải ghi nhãn phụ tiếng Việt. Vấn đề này sẽ được giải quyết khi Nghị định 43/2017/NĐ-CP về Nhãn hàng hóa có hiệu lực vào 1/6/2017 tới đây. Theo Nghị định mới, nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, linh kiện nhập khẩu về để sản xuất, không bán ra thị trường không phải ghi nhãn phụ.

Một quy định nữa không phù hợp về vấn đề ghi nhãn hàng hóa là: Khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 27/10/2014 hướng dẫn ghi nhãn hàng hóa đối với thực phẩm, phụ gia thực phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm bao gói sẵn (sau đây viết tắt là Thông tư 34) như sau: “Nội dung bắt buộc phải ghi nhãn: tên sản phẩm; thành phần cấu tạo; định lượng sản phẩm; ngày sản xuất; thời hạn sử dụng và hướng dẫn bảo quản; hướng dẫn sử dụng; tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về sản phẩm; xuất xứ; số Giấy Tiếp nhận bản công bố hợp quy hoặc Giấy Xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm; các khuyến cáo, cảnh báo an toàn thực phẩm”. Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Quy định có “số Giấy tiếp nhận công bố hợp quy hoặc xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm” này chỉ đúng khi doanh nghiệp nhập khẩu phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm để tiêu thụ trong nước. Còn việc nhập khẩu những mặt hàng này để chế biến sản phẩm thủy sản xuất khẩu hoặc làm nguyên liệu sản xuất tiếp thì không phù hợp.

Hơn nữa, quy định về đối tượng điều chỉnh tại Thông tư 34 chưa rõ ràng, cụ thể tại Khoản 2, Điều 1 của Thông tư 34 về “Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng” chỉ nêu chung chung là không áp dụng đối với sản phẩm sơ chế, nhưng trong Thông tư chưa nói rõ sản phẩm như thế nào được coi là sản phẩm sơ chế.

Trong những năm gần đây tiến trình hội nhập của Việt Nam đã và đang được triển khai mạnh mẽ. Việt Nam đã ký kết các Hiệp định với Liên minh kinh tế Á – Âu (EEU), Hàn Quốc và ký kết tuyên bố kết thúc đàm phán FTA song phương giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã mở ra một chặng đường mới cho doanh nghiệp Việt Nam bước vào môi trường kinh doanh rộng lớn. Các doanh nghiệp Việt Nam phải tuân thủ các quy định của các tổ chức mà Việt Nam tham gia, như những quy định rất khắt khe trong Hiệp định Đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương về vấn đề xuất xứ hàng hóa mà Việt Nam bắt buộc phải cam kết thực hiện. Trong đó có các cam kết về nhãn hàng hóa đối với hàng hóa cụ thể, về việc xác định xuất xứ hàng hóa… Như vậy, hiện nay xuất xứ hàng hóa và việc xác định xuất xứ hàng hóa có rất nhiều quy định khác nhau và phức tạp, đặt ra vấn đề cần phải được rà soát để sửa đổi cho thống nhất và phù hợp, tránh vi phạm các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

2.2.2. Công bố sự phù hợp Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Trong số các biện pháp quản lý chất lượng có quy định biện pháp người sản xuất kinh doanh công bố hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất hoặc cung cấp phù hợp với tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Đây là một trong các bài quản lý được ISO đưa ra và khuyến khích các quốc gia áp dụng.

Biện pháp này được quy định trong Luật, Nghị định, Thông tư như: Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Thông tư  số 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; Thông tư số 23/2007/TT-BKHCN ngày 28/9/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn xây dựng, thẩm định và ban hành quy chuẩn kỹ thuật,…

Việc áp dụng phương thức này sẽ làm giảm bớt sự can thiệp không cần thiết của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian cho doanh nghiệp và sản phẩm sẽ rẻ hơn, nhanh đến với người tiêu dùng hơn. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng để thực hiện phương thức này, Nhà nước đã đặt niềm tin rất lớn vào các doanh nghiệp khi thể hiện trách nhiệm xã hội của mình đối với chất lượng hàng hóa, dịch vụ mình làm ra hay cung cấp, bên cạnh đó đòi hỏi người tiêu dùng phải nâng cao nhận thức để hiểu được các quyền hợp pháp và trách nhiệm công dân của mình đối với vấn đề chất lượng sản phẩm trong quá trình mua và sử dụng chúng.

Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là cơ sở để người sản xuất, kinh doanh thực hiện công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy.

Về tiêu chuẩn:

Hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam về cơ bản được xây dựng và sửa đổi trên cơ sở rà soát các TCVN hiện hành và xây dựng mới TCVN, bổ sung kịp thời các tiêu chuẩn thuộc các đối tượng theo yêu cầu quản lý cấp bách,… Mới đây, Việt Nam đã ban hành TCVN 9000:2015 và TCVN 9001:2015 thay thế các tiêu chuẩn cũ để phù hợp với tiêu chuẩn của Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO 9000 và ISO 9001. Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Theo thống kê của Viện Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam (VSQI), tính đến hết tháng 12/2015, có 8.625 Tiêu chuẩn Quốc gia đã được Bộ KHCN công bố, sử dụng rộng rãi trong các hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh. Hiện tại mức độ hài hòa của hệ thống TCVN đối với các tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực đạt trên 45%, mục tiêu đến năm 2020 là 60% nhằm đảm bảo cho vị trí của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam tại thị trường trong nước và trên thị trường quốc tế, đóng góp vào mục tiêu đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. [26]

Tuy nhiên, hệ thống TCVN thực sự chưa đáp ứng rộng rãi, thực sự chưa phát huy được hiệu quả và hiệu lực cao. Trình độ khoa học kỹ thuật của nhiều TCVN còn thấp và lạc hậu.

Về quy chuẩn kỹ thuật:

Hệ thống Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia được hình thành và phát triển trên cơ sở quy định của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật để quản lý đối với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường có khả năng gây mất an toàn, bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động thực vật, môi trường sinh thái; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác. Tổng số QCVN hiện có là 632 QCVN, do 13 Bộ quản lý chuyên ngành xây dựng, ban hành với sự thẩm định của Bộ KHCN.

Trong tổng số 632 QCVN, số lượng QCVN điều chỉnh đối tượng sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 theo quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là 425 QCVN, chiếm tỷ lệ 67% tổng số QCVN hiện hành, tập trung vào các vấn đề an toàn, chất lượng, bảo vệ môi trường, sức khỏe…. Với kết quả này, hiện còn 86 đối tượng/nhóm đối tượng sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 còn chưa có QCVN tương ứng (thuộc các lĩnh vực: Trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy; Trang thiết bị kỹ thuật ngành Công an; Dịch vụ trong lĩnh vực giao thông, vận tải; Công trình kết cấu hạ tầng giao thông; Vật liệu nổ công nghiệp; Công trình vui chơi công cộng; Trang thiết bị y tế; Hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng, y tế; Vị thuốc đông y có độc tính; Thiết bị y học cổ truyền) [26]. Trong khi đó, có những sản phẩm, hàng hóa không thuộc Danh mục sản phẩm, hàng hóa nhóm 2, nhưng lại được ban hành Quy chuẩn kỹ thuật như: sản phẩm dinh dưỡng công thức cho trẻ đến 12 tháng tuổi; các sản phẩm chất bột từ sữa;…

Theo Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 được quản lý chất lượng trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng. Việc thiếu quy chuẩn kỹ thuật gây khó khăn cho việc người sản xuất thực hiện việc công bố hợp quy theo quy định pháp luật, đồng thời gây khó khăn cho việc quản lý những sản phẩm, hàng hóa này của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

2.2.3. Đánh giá sự phù hợp Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Đánh giá sự phù hợp là một dịch vụ khoa học công nghệ quan trọng, phục vụ đắc lực cho hoạt động giao lưu thương mại. Mục đích của đánh giá sự phù hợp là cung cấp lòng tin cho người sử dụng rằng các yêu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ và hệ thống được đáp ứng. Niềm tin tưởng đó, đến lượt bản thân nó, sẽ đóng góp trực tiếp cho sự chấp nhận của thị trường đối với các sản phẩm, dịch vụ và hệ thống này. Sự tin tưởng của người sử dụng có thể đạt được thông qua sự hợp tác giữa các tổ chức đánh giá sự phù hợp hoặc các tổ chức được công nhận, dẫn đến việc thừa nhận lẫn nhau và sự quảng bá xuyên biên giới về công việc của các bên tham gia.

Việt Nam chính thức gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và một loạt các Hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết như Liên minh Hải quan, Việt Nam-EU, Việt Nam – Hàn Quốc… Với tiến trình hội nhập này, các hoạt động giao thương hàng hóa trong nước cũng như xuất khẩu sẽ có nhiều thay đổi. Các rào cản về mặt thuế quan trong hoạt động xuất nhập khẩu sẽ được gỡ bỏ, thay vào đó các hàng rào phi thuế quan (chủ yếu là rào cản kỹ thuật – TBT, biện pháp kiểm dịch động thực vật – SPS) sẽ được thiết lập. Do đó, các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa của Việt Nam bên cạnh thuận lợi về thuế suất nhập khẩu, sẽ gặp nhiều khó khăn khi phải vượt qua các hàng rào về mặt kỹ thuật.

Việc tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật có thể cản trở thương mại quốc tế. Đặc biệt nếu sản phẩm được xuất khẩu tới nhiều thị trường, đòi hỏi phải thử nghiệm nhiều lần. Nhà sản xuất có thể gặp khó khăn trong việc đảm bảo sự chấp nhận cho sản phẩm của họ tại các thị trường nước ngoài. Một trong những khó khăn chính mà các nhà xuất khẩu đối mặt là chi phí thử nghiệm hoặc chứng nhận. Các chi phí này có thể cắt giảm đáng kể nếu một sản phẩm có thể được thử nghiệm một lần và kết quả thử nghiệm hay chứng nhận của nó được chấp nhận ở tất cả các thị trường. Khái niệm quốc tế hiện nay là “Chứng nhận một lần, được chấp nhận ở mọi nơi”. Điều này có thể đạt được thông qua mạng lưới ngày càng gia tăng các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) giữa các nhà quản lý và các tổ chức công nhận quốc tế.

Thừa nhận lẫn nhau sẽ thúc đẩy việc tiếp cận các thị trường quốc tế; tạo nền tảng kỹ thuật cho thương mại quốc tế bằng việc nâng cao tin tưởng và chấp nhận các bên liên quan đối với kết quả chứng nhận và dữ liệu thử nghiệm đã được công nhận. Hiệp định rào cản kỹ thuật trong thương mại của Tổ chức Thương mại thế giới (TBT/WTO) Việt Nam tham gia thúc đẩy việc thừa nhận các kết quả đánh giá sự phù hợp của nhau như một biện pháp giảm rào cản trong thương mại. Hiệp định nhấn mạnh rằng sự tin tưởng vào độ chính xác của các kết quả đánh giá sự phù hợp là điều kiện tiên quyết cho việc thừa nhận các đánh giá đó.

Nhà nước đã ban hành hoàng loạt các quy định về đánh giá sự phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu về quản lý chất lượng như: Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007; Thông tư số 09/2009/TT-BKHCN ngày 08/4/2009 của Bộ Khoa học và Công nghệ Hướng dẫn về yêu cầu, trình tự, thủ tục chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp; Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;… Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Thời gian qua, hoạt động đánh giá sự phù hợp, bao gồm công nhận, chứng nhận, giám định, thử nghiệm ngày càng đi vào nề nếp. Từ năm 1995 đến 2015, Văn phòng Công nhận Chất lượng (BoA) – Bộ Khoa học và Công nghệ đã đánh giá, công nhận được hơn 900 tổ chức đánh giá sự phù hợp bao gồm: phòng thử nghiệm và phòng hiệu chuẩn; phòng thí nghiệm y tế; tổ chức chứng nhận và tổ chức giám định theo tiêu chuẩn quốc tế. Các tổ chức được công nhận thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau như: cơ quan quản lý nhà nước; Viện nghiên cứu; trường đại học; doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp tư nhân; công ty liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài. Hệ thống các phòng thử nghiệm của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, các cơ quan quản lý chuyên ngành có khả năng thử nghiệm được nhiều chỉ tiêu chất lượng, vệ sinh an toàn của nhiều loại sản phẩm hàng hóa như thực phẩm, cơ khí, điện-điện tử, cao su, nhựa, vải sợi, giấy, xăng dầu, vật liệu xây dựng và công trình, thuốc chữa bệnh cho người, thuốc thú y, chất bảo quản và phòng trừ dịch hại, cây trồng, môi trường… với các trang thiết bị tin cậy, chính xác, nhiều thiết bị thuộc loại thế hệ mới, tiên tiến ngang với trình độ quốc tế. Hoạt động chứng nhận hợp chuẩn, chứng nhận hợp quy, công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy  được triển khai theo quy định.

Hoạt động công nhận là một biện pháp để giúp cho việc thừa nhận lẫn nhau kết quả thử nghiệm/hiệu chuẩn, giám định chất lượng và chứng nhận chất lượng, để các tổ chức có sự tin tưởng vào độ chính xác của các kết quả đanh giá sự phù hợp. Khoản 10 Điều 3 Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 giải thích: “Công nhận là việc xác nhận phòng thử nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức chứng nhận sự phù hợp, tổ chức giám định có năng lực phù hợp với các tiêu chuẩn tương ứng.” Công nhận năng lực của các tổ chức đánh giá sự phù hợp được xem là một trong những trụ cột trong đánh giá sự phù hợp. 

Hoạt động công nhận các phòng thử nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức chứng nhận, tổ chức giám định trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế cũng được tiến hành trên phạm vi cả nước, nhằm nâng cao độ tin cậy của các kết quả đo lường, thử nghiệm, chứng nhận, giám định do các phòng thí nghiệm, tổ chức chứng nhận, giám định cung cấp, đặc biệt là chuẩn bị điều kiện để hội nhập và thừa nhận lẫn nhau các kết quả chứng nhận, thử nghiệm.

Tuy nhiên, việc đánh giá sự phù hợp của nước ta còn tồn tại không ít hạn chế trong quy định quản lý gây khó khăn cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Cụ thể:

Trong hoạt động giám định: Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Phát hiện hàng giả, hàng nhái trên thị trường không khó vì chúng được bày bán khá công khai tại những nơi công cộng, nhiều loại chỉ cần nhìn mắt thường cũng biết là hàng giả, nhưng để khẳng định đó là hàng giả trước khi xử lý lại không dễ chút nào. Theo quy định của pháp luật, để xử lý được hàng giả thì bắt buộc phải có giám định kết luận hàng giả. Nhiều mặt hàng giả, hàng kém chất lượng, chi phí giám định rất đắt, khi đưa đi giám định buộc lực lượng thực thi phải tạm ứng kinh phí giám định, nếu đúng là hàng giả thì phải tiêu hủy. Theo quy định của pháp luật thì chính đương sự vi phạm phải nộp khoản tiền giám định đó nhưng hầu như không có đương sự nào tự nguyệt chịu nộp và việc cưỡng chế thi hành cũng khó khăn. Mặt khác, muốn giám định hàng giả, hàng nhái, lực lượng quản lý phải có yêu cầu từ chủ sở hữu thương hiệu bị làm giả, làm nhái. Tuy nhiên, đối với hàng hóa có nguồn gốc từ các nước không đăng ký chất lượng tại Việt Nam, hàng hóa không có ai xác nhận là hàng giả vì không có cơ quan đại diện của nhà sản xuất tại Việt Nam khi xảy ra vi phạm khó có thể giám định được.

Trong hoạt động công nhận:

Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ngày 24/7/2009 ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức KHCN (sau đây viết tắt là Quyết định số 97) gây nhầm lẫn khi quy định cá nhân được phép thành lập tổ chức KHCN để nghiên cứu các lĩnh vực, trong đó có “dịch vụ công nhận phòng thử nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức giám định, tổ chức chứng nhận hệ thống, tổ chức chứng nhận sản phẩm”. Sau khi được ban hành, Quyết định số 97 đã gây hiểu nhầm việc cá nhân được thành lập tổ chức KHCN để thực hiện các hoạt động công nhận phòng thử nghiệm, phòng hiệu chuẩn, tổ chức giám định, tổ chức chứng nhận hệ thống, tổ chức chứng nhận sản phẩm như là tổ chức thực hiện hoạt động công nhận theo Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Từ sự hiểu nhầm này đã hình thành thêm tổ chức công nhận được thành lập theo Luật Doanh nghiệp, điển hình là Công ty Cổ phần Công nhận quốc tế – AoV đã thực hiện hoạt động công nhận phòng thử nghiệm.

Căn cứ vào các quy định của Luật doanh nghiệp, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật và Luật Khoa học Công nghệ, thực tế cho thấy AoV chỉ là một doanh nghiệp, không phải là tổ chức khoa học công nghệ, không phải là tổ chức công nhận. Mà theo quy định của pháp luật thì chỉ có tổ chức công nhận được thành lập và đăng ký theo quy định của pháp luật về khoa học công nghệ, đồng thời phải đáp ứng đủ các điều kiện và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật mới được phép hoạt động công nhận. Như vậy, AoV không đáp ứng được các điều kiện của pháp luật để có thể tiến hành các hoạt động công nhận. Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Một bất cập khác có thể kể đến là sự không đồng nhất giữa các văn bản. Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật ban hành năm 2006 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 quy định tổ chức công nhận là đơn vị sự nghiệp khoa học thực hiện đánh giá, công nhận năng lực của phòng thử nghiệm/hiệu chuẩn, tổ chức chứng nhận sự phù hợp, tổ chức giám định. Tuy nhiên, theo Luật KHCN năm 2013 thì không còn khái niệm đơn vị sự nghiệp khoa học, theo đó tổ chức KHCN bao gồm 3 loại hình: tổ chức KHCN công lập, tổ chức KHCN ngoài công lập, tổ chức KHCN có vốn nước ngoài. Vì vậy, cần phải sửa đổi quy định để có sự đồng nhất [17].

2.2.4. Kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa

Kiểm tra, thanh tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa là một trong những biện pháp quan trọng của công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Hoạt động này được thực hiện dựa trên hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Chính phủ, các Bộ, ban, ngành đã ban hành nhiều văn bản quy định về kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong sản xuất, lưu thông trên thị trường. Cụ thể, việc kiểm tra được quy định trong Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Thanh tra năm 2010; Chính phủ ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hóa phải kiểm tra về chất lượng kèm theo Quyết định 50/2006/QĐ-TTg của Chính phủ về việc ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hóa phải kiểm tra về chất lượng; Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Thông tư 26/2012/TT-BKHCN quy định việc kiểm tra Nhà nước về chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường; Quyết định số 1171/QĐ-BKHCN ngày 27/5/2015 về việc công bố Danh mục hàng hóa nhập khẩu phải kiểm tra chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trước khi thông quan thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Công Thương cũng ban hành Thông tư số 46/2015/TT-BCT quy định kiểm tra về chất lượng sản phẩm trong sản xuất thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương,…

Nhà nước đã có những quan tâm đúng mức đến công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, thực hiện các biện pháp xử lý nghiêm các hành vi vi phạm nhằm bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và môi trường sống. Tuy nhiên công tác thanh tra, kiểm tra vẫn tồn tại nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, kinh doanh, cụ thể:

Số lượng cơ sở, mặt hàng được kiểm tra hàng năm còn hạn chế, chỉ chiểm khoảng 2,5% tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh sản phẩm, hàng hóa có nguy cơ gây mất an toàn (nhóm 2) cần phải kiểm tra. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp khi đăng ký chứng nhận hợp quy thì sản phẩm đảm bảo phù hợp quy chuẩn kỹ thuật nhưng khi đưa hàng hóa ra lưu thông lại không đạt chuẩn.[21] Nhiều vụ việc khi xảy ra những hậu quả nghiêm trọng thì cơ quan chức năng mới tăng cường quản lý, thanh tra, kiểm tra. Điển hình trong thời gian vừa qua, trên địa bàn cả nước đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm do sử dụng rượu không rõ nguồn gốc, không phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, không bảo đảm an toàn thực phẩm, đặc biệt là vụ ngộ độc nghiêm trọng tại huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu ngày 13/2/2017 đã làm 69 người bị ngộ độc, trong đó có 9 người bị tử vong [23].

Công tác xử lý vi phạm còn hạn chế, mức độ xử lý không đảm bảo được tính răn đe, các quy định xử lý vi phạm còn chồng chéo, gây khó khăn cho việc thực hiện trên thực tế. Cụ thể việc thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm trong lĩnh vực xăng dầu cũng gặp khó khăn do có sự chồng chéo về xử lý vi phạm hành chính giữa Nghị định 97/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí dầu mỏ hóa lỏng (sau đây viết tắt là Nghị định 97) và Nghị định 80/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa (sau đây viết tắt là Nghị định 80) đối với đo lường chất lượng xăng dầu. Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Điều 10 Nghị định 80 quy định mức phạt thấp nhất là 200.000 đồng, cao nhất tới 100 triệu đồng, đối với các hành vi như : “Không có chứng chỉ kiểm định; sử dụng chứng chỉ kiểm định đã hết hiệu lực; tự ý tháo dỡ niêm phong, kẹp chì, dấu kiểm định, tem kiểm định trên phương tiện đo; làm thay đổi cấu trúc kỹ thuật, đặc tính kỹ thuật đo lường của phương tiện đo; tác động, điều chỉnh, sửa chữa, lắp thêm, rút bớt, thay thế cấu trúc kỹ thuật của phương tiện đo làm sai lệch kết quả đo hoặc sử dụng các thiết bị khác để điều chỉnh sai số của phương tiện đo vượt quá giới hạn sai số cho phép…”.

Cũng trong lĩnh vực này, tại Điều 22 của Nghị định 97 quy định hành vi gian lận về sử dụng phương tiện đo lường trong kinh doanh xăng dầu cũng nêu rõ những hành vi vi phạm tương tự. Cụ thể: Không có chứng chỉ kiểm định; sử dụng chứng chỉ kiểm định đã hết hiệu lực;… Hành vi làm thay đổi cấu trúc kỹ thuật, đặc tính kỹ thuật đo lường của phương tiện đo; tác động, điều chỉnh, sửa chữa, lắp thêm, rút bớt, thay thế cấu trúc kỹ thuật của phương tiện đo làm sai lệch kết quả đo hoặc sử dụng các thiết bị khác để điều chỉnh sai số của phương tiện đo vượt quá giới hạn sai số cho phép. Với những hành vi này, mức phạt hành chính thấp nhất 5 triệu đồng và cao nhất là 50 triệu đồng.

Một quy định khác tại khoản 7, Điều 20 của Nghị định 80 quy định xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm về chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường (trong đó có xăng dầu), mức phạt tiền từ 3 lần đến 5 lần tổng giá trị sản phẩm, hàng hóa vi phạm tại thời điểm đối với các hành vi bán sản phẩm, hàng hóa có chất lượng không phù hợp với quy định của quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; thay thế, đánh tráo, thêm, bớt thành phần hoặc chất phụ gia, pha trộn tạp chất làm giảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa so với quy định của quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.

Trong khi đó, Điều 23 của Nghị định 97 quy định xử phạt hành đối với các hành vi vi phạm quy định về chất lượng xăng dầu lưu thông trên thị trường, như: “pha trộn chất phụ gia hoặc các chất khác vào xăng dầu làm thay đổi chất lượng xăng dầu hoặc chất lượng xăng dầu không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; mua bán xăng dầu có chất lượng không phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn công bố áp dụng…”, mức phạt từ 1 lần đến 2,5 lần giá trị hàng hóa.

Như vậy, cùng một lĩnh vực đo lường, chất lượng hàng hóa thì các quy định về hành vi vi phạm và mức xử phạt hành chính của Nghị định 97 đã có sự chồng chéo, thiếu thống nhất so với Nghị định 80/2013 ban hành ngày 19/7/2013 (cụ thể trùng về hành vi nhưng Nghị định 97 có mức phạt thấp hơn). Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần sớm thống nhất các quy định về xử phạt.

2.3. Về trách nhiệm quản lý về chất lượng sản phẩm, hàng hóa Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Khác với các lĩnh vực khác, hoạt động quản lý chất lượng hàng hóa diễn ra ở hầu hết các Bộ, ngành. Do vậy, ngoài quy định trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, còn quy định cụ thể trách nhiệm quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực khác. Theo đó, các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của Bộ, ngành; tổ chức và chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm trong sản xuất… Đặc biệt đã quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường, trong quá trình sử dụng có khả năng gây mất an toàn, cụ thể như sau:

Bộ Y tế chịu trách nhiệm đối với thực phẩm, dược phẩm, vắc xin, sinh phẩm y tế, mỹ phẩm, nguyên liệu sản xuất thuốc và thuốc cho mọi người, hóa chất gia dụng, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn, trang thiết bị y tế;

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm đối với cây trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, chế phẩm sinh học dùng trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công trình thủy lợi, đê điều;

Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm đối với phương tiện giao thông vận tải, phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi công vận tải chuyên dùng, phương tiện, thiết bị thăm dò, khai thác trên biển, công trình hạ tầng giao thông;

Bộ Công Thương chịu trách nhiệm đối với thiết bị áp lực, thiết bị nâng đặc thù chuyên ngành công nghiệp, hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp, trang thiết bị khai thác mỏ, dầu khí, trừ các thiết bị, phương tiện thăm dò, khai thác trên biển;

Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm đối với công trình dân dụng, công trình công nghiệp, công trình hạ tầng kỹ thuật;

Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm đối với phương tiện, trang thiết bị quân sự, vũ khí đạn dược, khí tài, sản phẩm phục vụ quốc phòng, công trình quốc phòng;

Bộ Công an chịu trách nhiệm đối với trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy; trang thiết bị kỹ thuật, vũ khí đạn dược, khí tài, công cụ hỗ trợ, trừ phương tiện, trang thiết bị quân sự, vũ khí đạn dược, khí tài, sản phẩm phục vụ quốc phòng, công trình quốc phòng. Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 và Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong sản xuất, trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường, trong quá trình sử dụng. Tuy nhiên, quy định trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nhà nước còn hạn chế trong việc phân công trách nhiệm quản lý giữa các Bộ, ngành, Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 chưa phân định rõ ràng về đối với một số sản phẩm, hàng hóa của một số Bộ, ngành, ví dụ như: giữa Bộ Y tế với Bộ Công Thương; giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Y tế; giữa Bộ Lao động Thương binh và Xã hội với Bộ Công Thương… . Cụ thể, Điều 32 Nghị định 132/2008/NĐ-CP quy định Bộ Công Thương và Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đều có trách nhiệm quản lý về chất lượng sản phẩm, hàng hóa đối với máy móc, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, gây khó khăn trong việc xác định cơ quan chịu trách nhiệm chính, khả năng có quy định chồng chéo, trùng lặp cao dẫn đến các thủ tục xem xét sau đó gây mất thời gian cho việc thực hiện các quy định trên thực tế. Theo đó, cần phải sớm quy định rõ ràng trách nhiệm của các Bộ, ngành, đảm bảo hiệu quả quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trên thực tế.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Để triển khai Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 và Nghị định số 132/2008/NĐ-CP, các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực, trong đó có Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn và tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biết, hướng dẫn thực hiện.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa được ban hành khá đầy đủ. Các văn bản quy phạm pháp luật ban hành là hành lang pháp lý quan trọng, tạo sự thống nhất và đồng bộ cho việc triển khai hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa (trong sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường và trong quá trình sử dụng). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, việc thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa còn một số vướng mắc, cần xem xét sửa đổi, bổ sung này trong thời gian tới, cụ thể như sau:

Thứ nhất, một số sản phẩm, hàng hóa chưa có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia điều chỉnh tương ứng.

Cụ thể, tại Điều 32 Nghị định 132/2008/NĐ- CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ quy định trách nhiệm của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, trong đó có quy định trách nhiệm của Bộ Công Thương. Hiện Bộ Công Thương đã ban hành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, nhưng còn một số sản phẩm, hàng hóa thuộc trách nhiệm quản lý của ngành Công Thương vẫn chưa có các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia điều chỉnh như phân bón vô cơ các loại, sản phẩm dệt may các loại, thiết bị thông tin phòng nổ,… Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Thứ hai, có sự chồng chéo trong xử lý vi phạm và trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý chất lượng. Cụ thể:

Về xử lý vi phạm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Điều 22, 23 Nghị định số 97/2013/NĐ-CP ngày 27/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí dầu mỏ hóa lỏng, đã quy định hành vi gian lận về sử dụng phương tiện đo lường trong kinh doanh xăng dầu và hành vi vi phạm quy định về chất lượng xăng dầu lưu thông trên thị trường. Việc quy định về xử phạt hành hành vi nêu trên tại Nghị định số  97/2013/NĐ-CP về bản chất là tương tự với xử phạt hành vi quy định tại Điều 10 (vi phạm trong sử dụng phương tiện đo nhóm 2) và Điều 20 (vi phạm về chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường) của Nghị định số 80/2013/NĐ-CP quy định về xử  phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Quy định này đã dẫn đến tình trạng cùng một hành vi vi phạm về sử dụng phương tiện đo; về chất lượng xăng dầu lưu thông trên thị trường lại được điều chỉnh bởi 02 Nghị định xử phạt với chế tài hành chính khác nhau áp dụng đối với người thực hiện hành vi vi phạm.

Trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý chất lượng sản phẩm cũng có sự chồng chéo, theo Nghị định số 132/2008/NĐ-CP của Chính phủ có 15 Bộ được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm trong sản xuất, trong đó có Bộ Y tế, Bộ Công Thương và Bộ Khoa học và Công nghệ…, do đó khó có thể xác định chính xác cơ quan chịu trách nhiệm chính, nhất là khi thực hiện quản lý một lĩnh vực cụ thể.

Trong danh mục hàng hóa có sự chồng chéo khi các hàng hóa thuộc diện điều chỉnh của nhiều luật chuyên ngành dẫn đến một mặt hàng phải thực hiện đồng thời nhiều thủ tục nên khó khăn, mất thời gian, tốn chi phí. Chẳng hạn, nồi cơm điện có ba luật điều chỉnh và có ba Bộ khác nhau quản lý. Kiểm tra chất lượng điện thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, kiểm tra dán tem năng lượng trong Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả điều chỉnh và nồi dùng để nấu cơm nên có Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm điều chỉnh.

Thứ ba, về quy định nhãn hàng hóa: Việc quy định ghi “số Giấy tiếp nhận công bố hợp quy hoặc xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm” đối với phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm nhập khẩu để chế biến sản phẩm thủy sản xuất khẩu hoặc làm nguyên liệu sản xuất tiếp là không phù hợp.

Thứ tư, mức xử lý vi phạm trong lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng hóa còn thấp. Nghị định số 80/2013/NĐ-CP về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa  có mức phạt một số vi phạm hành chính còn thấp không đủ răn đe nên dẫn đến khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền khi xử lý vi phạm, ví dụ mức phạt về nhãn hàng hóa, một số hành vi vi phạm về mã số mã vạch..

Thứ năm, không đồng nhất giữa các văn bản pháp luật.

Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật ban hành năm 2006 không đồng nhất với Luật KH&CN năm 2013 khi quy định về đơn vị sự nghiệp. Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật quy định tổ chức công nhận là đơn vị sự nghiệp khoa học, trong khi Luật KH&CN năm 2013 thì không còn khái niệm đơn vị sự nghiệp khoa học, mà tổ chức KH&CN bao gồm 3 loại hình: tổ chức KH&CN công lập, tổ chức KHCN ngoài công lập, tổ chức KH&CN có vốn nước ngoài. Khóa luận: Thực trạng PL quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Kiến nghị PL về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x