Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu tác động của quản trị vốn lưu động tới lợi nhuận của các công ty ngành thực phẩm niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1 Tổng quan về quản trị vốn lưu động
Trong nền kinh tế quốc dân, mỗi doanh nghiệp được coi như một tế bào của nền kinh tế với nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hóa, lao vụ, dịch vụ cung cấp cho xã hội, doanh nghiệp có thể thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
2.1.1 Vốn lưu động Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
“Vốn lưu động” là thuật ngữ dùng để chỉ dòng vốn cấp thiết đáp ứng nhu cầu về tiền cho các hoạt động thường ngày của một doanh nghiệp. Theo Phan Đình Nguyên (2013), biểu hiện dưới hình thái vật chất của vốn lưu động là tài sản lưu động. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Vốn lưu động là một công cụ trong quá trình quản trị công ty để tạo ra lợi nhuận và sự tăng trưởng. Sự thiếu hụt vốn lưu động có thể dẫn đến những khó khăn trong hoạt động hàng ngày của công ty (Horne & achowicz, 2000). Trong bảng cân đối kế toán, có hai khoản mục quan trọng có liên quan tới vốn lưu động là “Tổng vốn lưu động” (Gross working capital) và “Vốn lưu động ròng” (Net working capital). “Tổng vốn lưu động” được biết tới như là tổng các tài sản ngắn hạn và được định nghĩa bởi từ điển “Tài chính ngân hàng” (Law & Smullen, 2005) của Oxford như sau:
“Tổng vốn lưu động là tổng các khoản tiền và tương đương tiền mà công ty đang nắm giữ. Các khoản tương đương tiền có thể là hàng tồn kho, khoản phải thu, và đầu tư tài chính ngắn hạn”
“Vốn lưu động ròng là lượng vốn thanh khoản trong hoạt động hàng ngày của công ty và được đo lường bởi hiệu số giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn” Trong các nghiên cứu kinh tế thông thường đề cập đến vốn lưu động ròng và đôi khi được gọi tắt là vốn lưu động.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kế Toán
2.1.2 Quản trị vốn lưu động
Trước năm 1980, quản trị vốn lưu động thông thường được chia nhỏ thành tiền mặt, khoản phải thu, khoản phải trả và mỗi thành phần được quản trị bởi từng nhà quản lý riêng (Sartoris & Hill, 1983). Tuy nhiên (Sartoris & Hill, 1983) cho rằng việc quản trị vốn lưu động hiệu quả cần phải được xem xét một cách tổng thể bằng cách kết hợp cả ba thành phần này lại. Các nghiên cứu kinh tế hiện nay cũng xem xét việc quản trị vốn lưu động dưới cái nhìn tổng thể như (Sartoris & Hill, 1983) đã đề cập. Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
Theo Paramasivan & Subramanian (2009), quản trị vốn lưu động ( orking capital management – CM) là việc “xử lý các hoạt động lập kế hoạch, tổ chức và kiểm soát các nhân tố cấu thành nên vốn lưu động như là tiền mặt, vay ngắn hạn, khoản phải trả, khoản phải thu và tồn kho”. Từ điển “Tài chính ngân hàng” (Law & Smullen, 2005) của Oxford định nghĩa CM như sau: “WCM liên quan tới việc quản trị mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và vốn ngắn hạn với mục tiêu là đảm bảo việc duy trì các hoạt động kinh doanh hàng ngày và đảm bảo đủ dòng tiền để phục vụ cho việc chi trả các khoản nợ ngắn hạn tới hạn và các chi phí hoạt động sắp xảy ra”.
Kết hợp các khái niệm nêu trên, nghiên cứu này đưa ra khái niệm về quản trị vốn lưu động như sau:
“Quản trị vốn lưu động là việc quản trị các nhân tố tạo thành vốn lưu động như tiền mặt, vay ngắn hạn, khoản phải trả, khoản phải thu, và tồn kho nhằm mục đích duy trì các hoạt động kinh doanh hàng ngày và đảm bảo đủ dòng tiền để chi trả các khoản nợ ngắn hạn tới hạn và các chi phí hoạt động sắp xảy ra”.
Quản trị vốn lưu động là công việc vô cùng quan trọng của công ty, đặc biệt là đối với các công ty sản xuất thương mại và phân phối bởi vì thông thường các công ty này có lượng vốn lưu động chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản (Raheman & Nasr, 2007). Việc quản trị vốn lưu động không tốt có thể làm cho một công ty đang hoạt động hiệu quả và có lợi nhuận ổn định trở nên bị phá sản (Kargar & Bluementhal, 1994).
2.1.3 Mục tiêu của quản trị vốn lưu động Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
Theo Gitman (2009) mục tiêu của quản trị vốn lưu động là tối thiểu hóa chu kỳ tiền mặt (Cash conversion cycle – CCC) và lượng vốn tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Nó tập trung vào việc kiểm soát các khoản phải thu, các khoản phải trả, và quản lý việc đầu tư vào hàng tồn kho. Quản trị vốn lưu động đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại, sự ổn định và hiệu quả kinh doanh của công ty. einraub và Visscher (1998) cho rằng các nhà quản lý có thể quản trị vốn lưu động theo ba hướng tiếp cận mang tính đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro: năng động, ôn hòa và bảo thủ.
Đặc điểm của chiến lược năng động là lợi nhuận cao và rủi ro cao. Trong chiến lược này công ty nắm giữ một lượng hàng tồn kho tối thiểu, lượng tiền mặt vừa đủ và thúc ép khách hàng trả tiền hàng sớm ngay khi có thể. Bằng cách đó công ty sẽ tối thiểu hóa chi phí tồn kho và chi phí dành cho khoản phải thu, nhưng đánh đổi lại công ty sẽ gặp rủi ro trong việc không đủ lượng hàng cung cấp ra thị trường hoặc trong dự phòng rủi ro. Chiến lược ôn hòa mang đặc điểm của lợi nhuận và rủi ro ở mức trung bình, công ty đưa ra chính sách tồn kho, tồn trữ tiền mặt và kỳ thu tiền hàng ở mức trung bình. Cuối cùng, chiến lược bảo thủ đề cập tới mục đích an toàn, ở đó công ty chấp nhận mức lợi nhuận thấp nhất nhưng đổi lại mức rủi ro cũng ở mức thấp nhất. Trong chiến lược này, công ty đạt được lợi thế khi giảm được chi phí cung ứng, tránh được hiện tượng giá cả hàng hóa dao động lớn, tăng doanh thu nhờ vào việc chấp nhận chính sách tồn kho cao và khoản phải thu cao. Tuy nhiên do chi phí dành cho tồn kho và các khoản phải thu tăng nên làm cho lợi nhuận giảm xuống đồng thời công ty còn phải đối mặt với rủi ro không thu được các khoản khách hàng mua do chấp nhận nới rộng chính sách bán chịu.
Sự thành công của một doanh nghiệp có liên quan nhiều đến quản trị vốn lưu động có hiệu quả hay không? Mỗi doanh nghiệp đều có thể đưa ra một con số doanh thu tuyệt vời, giá trị tài sản lớn, quy mô vốn đồ sộ…. Tuy nhiên, độ lớn của những con số này không nói lên tất cả và cũng không có nghĩa là doanh nghiệp đang nắm giữ rất nhiều tiền. Tiền của doanh nghiệp có thể đọng ở các khoản phải thu, hàng tồn kho, lượng vốn biết đâu lại là các khoản phải trả. Vì vậy cần phải xem xét một cách cẩn trọng các thông tin, chỉ số của doanh nghiệp trong đó có hoạt động quản lý vốn lưu động là quản trị các thành phần cấu thành nên nó bao gồm quản trị vốn bằng tiền, các khoản phải thu, các khoản phải trả và quản trị hàng tồn kho
2.2 Các nhân tố chính cấu thành nên vốn lưu động Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
Các nhân tố chính cấu thành nên quản trị vốn lưu động thường được sử dụng bao gồm: Quản trị khoản phải thu, Quản trị khoản phải trả, Quản trị hàng tồn kho, Quản trị vốn bằng tiền.
2.2.1 Quản trị khoản phải thu
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để khuyến khích người mua, doanh nghiệp thường áp dụng phương pháp bán chịu cho khách hàng. Mua bán chịu phát sinh khi người bán tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu sẩn phẩm hàng hóa dịch vụ của mình cho người mua với cam kết trả tiền vào một ngày xác định trong tương lai. Điều này có thể làm tăng thêm một số chi phí do việc tăng thêm các khoản nợ phải thu của khách hàng như chi phí quản lý nợ phải thu, chi phí thu hồi nợ, chi phí rủi ro….Đổi lại doanh nghiệp cũng có thể tăng thêm được lợi nhuận nhờ mở rộng số lượng sản phẩm tiêu thụ.
Mục tiêu của quản trị khoản phải thu là tối đa hóa giá trị của công ty thông qua việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Với mục đích này, các nhà quản lý tài chính có thể tối ưu hóa giá trị của doanh thu, kiểm soát được chi phí dành cho khoản phải thu, kiểm soát nợ xấu, duy trì số lượng khách hàng mua chịu ở mức tối thiểu dựa vào chính sách bán chịu (Timothy & Joseph, 2002).
Công ty có thể nắm được bức tranh tổng thể về việc quản trị khoản phải thu thông qua chỉ số “Kỳ thu tiền bình quân” (Average Collection Period – ACP). Theo Brigham và Houston (2003) ACP là khoảng thời gian cho phép khách hàng thanh toán tiền hàng. ACP còn được gọi là số ngày chưa thu doanh thu (Days Sales Outstanding – DSO). ACP được tính như sau
ACP = 365/(Vòng quay các khoản phải thu) = 365/(Doanh thu/ Bình quân khoản phải thu)
Gitman (2009) và Hatten (2008) đưa ra ý kiến rằng tất cả các công ty phải tính toán chỉ số này để quyết định hiệu quả của lượng tín dụng cung cấp cho khách hàng và chính sách thu hồi công nợ. Chỉ số này cao có nghĩa là các nhà quản lý cần phải quản lý số lượng khoản phải thu không thể thu hồi, ngược lại chỉ số này thấp là một chỉ báo rằng có thể tồn tại một chính sách giới hạn tín dụng quá mức chịu đựng của khách hàng.
2.2.2 Quản trị khoản phải trả Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
Khác với các khoản phải thu, các khoản phải trả là các khoản vốn mà doanh nghiệp phải thanh toán cho khách hàng theo các hợp đồng cung cấp, các khoản phải nộp cho Ngân sách Nhà nước hoặc thanh toán tiền công cho người lao động. Việc quản trị các khoản phải trả không chỉ đòi hỏi doanh nghiệp phải thường xuyên duy trì một lượng vốn tiền mặt để đáp ứng nhu cầu thanh toán mà còn đòi hỏi việc thanh toán các khoản phải trả một cách chính xác, an toàn, và nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng.
Khi công ty đặt mua hàng và được người bán chấp nhận cho thanh toán trả chậm thì công ty đã sử dụng được một nguồn tài trợ vốn. Quản trị khoản phải trả là việc tối ưu hóa lợi ích và các rủi ro liên quan tới các khoản phải trả. Việc này phụ thuộc vào các yếu tố như thời gian thanh toán, hạn mức mua chịu, chiết khấu, ký gửi hay tính mùa vụ.
Việc quản trị yếu kém các khoản phải trả có thể dẫn công ty tới nguy cơ phá sản. Gánh nặng nợ nần do mua chịu quá nhiều trong khi không thể đẩy mạnh doanh thu bán hàng và không có biện pháp gia tăng dòng ngân lưu từ hoạt động kinh doanh sẽ đưa công ty tới chỗ suy yếu về tài chính và thiếu hụt nguồn tiền để trả nợ
Công ty có thể kiểm soát khoản phải trả thông qua chỉ số “Kỳ trả tiền bình quân” (Average Payment Period – APP). Chỉ số này được xác định như sau:
APP = 365/(Vòng quay các khoản phải trả) = 365/(Giá vốn hàng bán/Bình quân khoản phải trả)
Nếu một công ty có kỳ trả tiền bình quân thấp, tức là công ty đó thanh toán các khoản phải trả nhanh và vì vậy có thể nhận được các khoản chiết khấu do thanh toán nhanh. Ngược lại nếu chỉ số này cao, có thể công ty không đủ tiền để thanh toán khoản phải trả đúng hạn và cũng sẽ không nhận được các khoản chiết khấu thanh toán. Để quản lý tốt các khoản phải trả, doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra, đối chiếu các khoản phải thanh toán với khả năng thanh toán của doanh nghiệp để chủ động đáp ứng các yêu cầu thanh toán khi đến hạn. Doanh nghiệp còn phải lựa chọn các hình thức thanh toán thích hợp an toàn và hiệu quả nhất đối với doanh nghiệp.
2.2.3 Quản trị hàng tồn kho Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
Hàng tồn kho là một bộ phận quan trọng của tài sản ngắn hạn, nó được coi như là một khoản đầu tư. Hàng tồn kho bao gồm ba loại cần phải được quản lý: tồn kho nguyên vật liệu, tồn kho bán thành phẩm và tồn kho thành phẩm. Hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành nghề và không phải tồn kho thấp là tốt hay cao là xấu. Vấn đề ở chỗ mức tồn kho như thế nào là hợp lý. Quản trị hàng tồn kho liên quan tới việc tối ưu hóa chi phí đầu tư vào hàng tồn kho mà việc này phụ thuộc vào nhu cầu về hàng tồn kho, chi phí đặt hàng và chi phí tồn kho. Đầu tư quá mức và mất cân đối vào hàng tồn kho khiến cho công ty không đủ vốn để tài trợ cho các hoạt động cần thiết khác. Ngược lại, đầu tư quá ít vào hàng tồn kho sẽ làm cho công ty mất cơ hội tăng doanh thu khi nhu cầu tăng lên và không có đủ hàng hóa dự phòng trong các tình huống rủi ro. Do vậy công ty cần phải có đủ hàng tồn kho để có thể phục vụ cho các nhu cầu tăng bất thường nhưng phải đảm bảo chi phí tồn trữ hàng tồn kho không vượt quá lợi nhuận mà nó đem lại (Brealey and Myers, 2003).
Công ty có thể kiểm soát hàng tồn kho thông qua chỉ số “Số ngày tồn kho” (Inventory Turnover – IT). Chỉ số này được tính như sau:
IT = 365/(Vòng quay hàng tồn kho ) = 365/(Doanh thu/Bình quân hàng tồn kho)
2.2.4 Quản trị vốn bằng tiền
Tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển và tiền gửi ngân hàng, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn là một bộ phận quan trọng cấu thành vốn bằng tiền của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự trữ vốn tiền mặt ở một quy mô nhất định. Nhu cầu dự trữ vốn tiền mặt trong các doanh nghiệp thông thường là để đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng ngày như mua sắm hàng hóa, vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết. Ngoài ra còn xuất phát từ nhu cầu dự phòng để ứng phó với những nhu cầu vốn bất thường chưa dự đoán được và động lực trong việc dự trữ tiền mặt để sẵn sàng sử dụng khi xuất hiện các cơ hội kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao. Việc duy trì một mức dự trữ vốn tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội thu được chiết khấu trên hàng mua trả đúng kỳ hạn, làm tăng hệ số khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
2.3 Tác động của quản trị vốn lưu động tới lợi nhuận công ty Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
2.3.1 Sơ lược về đo lường lợi nhuận công ty
Lợi nhuận được coi là thước đo quan trọng nhất trong việc đo lường hiệu quả hoạt động hay rộng hơn là đo lường giá trị công ty. Thông thường lợi nhuận được đo lường theo giá trị tuyệt đối hoặc giá trị tương đối. Khía cạnh lợi nhuận được đo lường bằng giá trị tuyệt đối, nó mang ý nghĩa khác biệt mang tính quy mô về doanh thu so với từng loại chi phí hoặc so với tổng chi phí. Các chỉ ti êu phổ biến thường bao hàm lợi nhuận gộp, lợi nhuận trước thuế và lãi vay, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh tài chính, lợi nhuận từ hoạt động đầu tư, lợi nhuận trước thuế hay lợi nhuận sau thuế.
Khi lợi nhuận được đo lường theo giá trị tương đối nó được hiểu một cách rõ ràng hơn là khả năng sinh lợi từ một nguồn lực nhất định (ví dụ: lợi nhuận trên tổng tài sản, nói lên khả năng sinh lợi của tài sản). Một số chỉ số đo lường phổ biến được biết đến như tỷ suất sinh lợi từ tổng tài sản (ROA), tỷ suất sinh lợi từ tài sản hoạt động (GOP), tỷ suất sinh lợi từ vốn đầu tư (ROCE) hay tỷ suất sinh lợi từ vốn chủ sở hữu (ROE) (Brealey & Myers, 2003).
Các nghiên cứu thực nghiệm trước khi tìm hiểu về ảnh hưởng của quản trị vốn lưu động tới lợi nhuận của doanh nghiệp đã chủ yếu sử dụng các biến số đo lường lợi nhuận theo giá trị tương đối như: ROA, GOP, ROCE hay ROE. Trong đó hai chỉ số được sử dụng trong ước lượng nhiều nhất là ROA và ROE.
2.3.2 Ảnh hưởng của quản trị vốn lưu động tới lợi nhuận Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
Các chủ đề nghiên cứu về vốn lưu động thường tập trung vào vấn đề khai thác các khía cạnh khác nhau của quản trị vốn lưu động tới lợi nhuận của công ty. Các khía cạnh này thông thường là các yếu tố cấu thành nên quản trị vốn lưu động bao gồm: kỳ thu tiền bình quân, kỳ trả tiền bình quân, số ngày tồn kho và tỷ lệ nắm giữ tiền mặt.
Kỳ thu tiền bình quân và số ngày tồn kho thường được tìm thấy trong các nghiên cứu thực nghiệm như là các biến số tác động âm tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Deloof (2003), người đã phân tích mẫu nghiên cứu các công ty Bỉ và ang (2002) đã phân tích mẫu nghiên cứu của các công ty Nhật Bản và Đài Loan, cả hai nhấn mạnh rằng các công ty có thể tăng lợi nhuận bằng cách giảm số ngày khoản phải thu, số ngày hàng tồn kho. Khi doanh nghiệp kéo dài chu kỳ sản xuất cũng như nới lỏng chính sách bán hàng ở khía cạnh trả chậm đã tạo ra ảnh hưởng tiêu cực cho lợi nhuận của công ty. Chu kỳ sản xuất kéo dài hơn mức trung bình chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng quản trị sản xuất thấp (xuất phát từ yếu tố máy móc hoặc năng lực quản lý điều hành) và nó khiến cho doanh nghiệp gặp nhiều phí tổn trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ vốn ngắn hạn (Garcia & Martinez, 2004). Những điều này tất yếu dẫn tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giảm. Tuy nhiên, trái với quan niệm truyền thống, đầu tư nhiều vào hàng tồn kho cũng có thể làm tăng lợi nhuận. Khi hàng tồn kho cao được duy trì, nó làm giảm các chi phí gián đoạn trong quá trình sản xuất, giảm chi phí cung ứng, bảo vệ chống lại sự biến động giá cả và tổn thất kinh doanh do sự khan hiếm của sản phẩm (Blinder v à Maccini, 1991). Thời gian thu tiền kéo dài hơn mức trung bình thông thường được đánh đổi lại bằng mức giá bán cao hơn hoặc mức chiết khấu giảm và như vậy lợi nhuận có thể không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên khi kỳ thu tiền bình quân tác động âm tới lợi nhuận điều đó có nghĩa là sự đánh đổi này không thành công (Deloof, 2003) hay tệ hơn nữa là doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều khách hàng có năng lực tài chính yếu kếm. Ở một khía cạnh khác, có thể doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thấp và như vậy không có lợi thế đàm phán về chính sách bán hàng với các khách hàng của mình.
Kỳ trả tiền bình quân cũng thường được tìm thấy là có tác động nghịch chiều tới lợi nhuận trong các nghiên cứu thực nghiệm. Về mặt lý thuyết, doanh nghiệp có lợi thế nếu như kéo dài hơn nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ để từ đó cân đối với chu kỳ thu tiền của mình. Tuy nhiên khi việc kéo dài này lại ảnh hưởng âm tới lợi nhuận của doanh nghiệp, điều đó có nghĩa hoặc là doanh nghiệp đánh đổi thời gian kéo dài với mức giá sẵn sàng trả cao hơn do gặp khó khăn về thanh khoản hoặc doanh nghiệp thực sự rơi vào hoàn cảnh khó khăn dẫn đến phải trì hoãn các khoản phải trả và chấp nhận các khoản phạt trả chậm (Lazaridis & Tryfonidis, 2006).
Tiền mặt và các khoản tương đương tiền có thể được so sánh với hàng tồn kho vì nó cũng là một dạng của một nguyên liệu mà công ty cần để kinh doanh. Nó được kỳ vọng tác động cùng chiều với lợi nhuận. Để quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, các doanh nghiệp cần phải có một lượng tiền mặt dự trữ. Nếu dự trữ quá nhiều so với nhu cầu thực tế sẽ làm vốn tiền mặt bị ứ đọng. Mặt khác, lạm phát ngày càng tăng sẽ làm giảm sút nhanh chóng sức mua của dòng tiền. Ngược lại nếu dự trữ quá ít sẽ làm giảm khả năng thanh toán, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp.
2.4 Các nghiên cứu trước đây Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
2.4.1 Các nghiên cứu nước ngoài
García và Martínez (2004) thu thập số lượng 8,872 quan sát của các công ty vừa và nhỏ tại Tây Ban Nha trong giai đoạn 1996 – 2002. Biến đại diện cho khả năng sinh lời được tác giả sử dụng trong nghiên cứu là lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) được tính bằng lợi nhuận trước thuế và lãi vay chia cho tổng tài sản trừ đi tài sản chính. Các biến độc lập bao gồm chu kỳ luân chuyển tiền (CCC), kỳ thu tiền bình quân (ACP), số ngày tồn kho (IT), kỳ trả tiền bình quân (APP). Các biến số thể hiện đặc điểm của công ty bao gồm kích cỡ công ty (SIZE), tăng trưởng doanh thu (SGRO ), nợ trên tổng tài sản (DEBT), tăng trưởng GDP hàng năm (GDPGR). Kết quả nghiên cứu cho thấy chu kỳ luân chuyển tiền, kỳ thu tiền bình quân, số ngày tồn kho, kỳ trả tiền bình quân đều có tác động âm tới lợi nhuận. Từ nghiên cứu này, các tác giả đã chứng minh rằng những nhà quản lý có thể tạo ra giá trị bằng việc giảm kỳ thu tiền bình quân và số ngày tồn kho xuống. Thêm vào đó, việc rút ngắn chu kỳ luân chuyển tiền sẽ giúp cho công ty cải thiện được lợi nhuận.
Deloof (2003) đã phân tích 1.009 công ty phi tài chính của Bỉ từ 1992 – 1996. Ông thấy rằng lợi nhuận hoạt động gộp của một công ty có mối quan hệ nghịch chiều với kỳ luân chuyển hàng tồn kho (ICP) và kỳ thu tiền bình quân (ACP). Do đó, Ông đề nghị các nhà quản trị tài chính có thể cố gắng để nâng cao lợi nhuận bằng cách tăng thời hạn thanh toán trung bình và giảm kỳ luân chuyển hàng tồn kho và kỳ thu tiền bình quân. Ông cũng khuyến cáo rằng lợi nhuận có liên quan mạnh mẽ đến quản trị vốn lưu động của một công ty.
Lazaridis & Tryfonidis (2006) thực hiện nghiên cứu “Mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu động và lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Athen” giai đoạn 2001 – 2004 với lượng mẫu gồm 131 công ty. Tác giả sử dụng tỷ lệ doanh thu thuần từ tài sản hoạt động làm biến phụ thuộc. Các biến độc lập bao gồm chu kỳ luân chuyển tiền (CCC), kỳ thu tiền bình quân (ACP), số ngày tồn kho (IT), kỳ trả tiền bình quân (APP), khả năng thanh toán ngắn hạn (CR), nợ trên tổng tài sản (DR), tăng trưởng doanh thu (SG) và tổng doanh thu (Size). Kết quả cho thấy tồn tại mối liên hệ âm và có ý nghĩa thống kê giữa chu kỳ luân chuyển tiền và lợi nhuận. Theo các tác giả, các nhà quản trị có thể tạo ra lợi nhuận hoặc giá trị cho công ty cũng như các cổ đông bằng cách xử lý đúng chu kỳ luân chuyển tiền và giữ cho các nhân tố khác cấu thành nên vốn lưu động ở mức tối ưu có thể.
Trong nghiên cứu của Mustafa Afeef (2011) vê tác động của quản trị vốn luân chuyển đến lợi nhuận của 40 doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thị trường chứng khoán Pakistan giai đoạn 2003 – 2008. Biến đại diện cho khả năng sinh lời được tác giả sử dụng trong nghiên cứu là lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA). Các biến độc lập gồm kỳ thu tiền bình quân (RCP), kỳ luân chuyển hàng tồn kho (ICP), kỳ thanh toán bình quân (PDP), chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCC), tỷ lệ thanh toán hiện thời (CR), quy mô doanh nghiệp (LNS), tốc độ phát triển doanh thu (SG), đòn bẩy (FL). Kết quả nghiên cứu cho thấy, kỳ luân chuyển hàng tồn kho và kỳ thu tiền bình quân có tác động tiêu cực đến ROA, hàm ý rằng để tăng thêm lợi nhuận, kỳ luân chuyển hàng tồn kho phải được giữ càng ngắn càng tốt. Tương tự, biến kỳ thu tiền bình quân cũng có tác động tiêu cực đến ROA, cho thấy rằng việc kỳ thu tiền đúng thời hạn sẽ tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong khi đó, không tìm thấy sự tác động quan trọng giữa ROA và kỳ thanh toán bình quân, chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và tỷ lệ thanh toán hiện thời.
Pouraghajan & Emamgholipourarchi (2012) tìm hiểu về ảnh hưởng của việc quản trị vốn lưu động tới lợi nhuận và giá trị thị trường của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Tehran trong giai đoạn 2006 tới 2010. Các tác giả đã sử dụng biến số lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), lợi nhuận trên vốn chủ đầu tư (ROIC) và giá trị thị trường của công ty (TQ) để đo lường lợi nhuận của công ty. Các biến độc lập gồm chu kỳ luân chuyển tiền (CCC), khả năng thanh toán ngắn hạn (CACL), tỷ lệ tài sản ngắn hạn so với tổng tài sản (CATA), tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản (CLTA), tỷ lệ nợ so với tổng tài sản (DTAR). Kết quả cho thấy chu kỳ luân chuyển tiền (CCC) và tỷ số nợ trên tổng tài sản có tác động nghịch chiều và có ý nghĩa đến lợi nhuận của công ty. Ngoài ra các tác giả còn sử dụng biến phụ thuộc Tobin’Q để đo lường giá trị thị trường của công ty nhưng kết quả nghiên cứu không cho thấy sự tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc này.
Bagchi và Khamrui (2012) nghiên cứu về mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu động và lợi nhuận của các công ty trong ngành hàng tiêu dùng nhanh tại thị trường Ấn Độ. Các tác giả đã sử dụng biến số lợi nhuận trên tổng tài sản để đo lường lợi nhuận của công ty. Các biến số độc lập gồm chu kỳ luân chuyển tiền (CCC), kỳ thu tiền bình quân (AC), kỳ trả tiền bình quân (AD), số ngày tồn kho (AI), nợ trên vốn chủ sở hữu (DER), tỷ số thanh toán lãi vay (ICR). Đây là một nghiên cứu về sự tác động của quản trị vốn lưu động tới lợi nhuận cho một ngành cụ thể. Nghiên cứu đã tìm ra ảnh hưởng âm của quản trị vốn lưu động tới lợi nhuận, cụ thể là yếu tố “ Chu kỳ luân chuyển tiền” (CCC) tăng lên sẽ khiến cho lợi nhuận giảm xuống. Vì vậy các nhà quản trị có thể tạo ra các giá trị cho cổ đông bằng cách giảm yếu tố này tới mức tối thiểu có thể. Khác với các mô hình nghiên cứu đã đề cập ở trên, nghiên cứu này đã gộp chung các biến số “Kỳ thu tiền bình quân”, “Kỳ trả tiền bình quân”, và “Số ngày tồn kho” vào chung một mô hình, đồng thời vẫn xét riêng biến số “Chu kỳ luân chuyển tiền” ở mô hình còn lại. Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
Theo Ahmad Ahmadpour và ctg (2012), nghiên cứu về sự tác động của quản trị vốn lưu động đến khả năng sinh lời của 112 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Tehran từ năm 2000 – 2009. Biến phụ thuộc đại diện cho khả năng sinh lời của doanh nghiệp là biến lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Các biến độc lập ảnh hưởng đến ROE được tác giả lựa chọn đưa vào mô hình là kỳ thu tiền bình quân (ACP), kỳ luân chuyển hàng tồn kho (ITID), kỳ thanh toán bình quân (APP), chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCC), tỷ lệ thanh toán hiện thời (CR), tỷ lệ nợ (DR), quy mô doanh nghiệp (SIZE) và tỷ lệ tài sản chính trên tổng tài sản (FATA). Kết quả cho thấy rằng có một mối quan hệ tiêu cực mạnh mẽ giữa các thành phần của quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Tỷ lệ thanh toán hiện thời và tỷ lệ nợ có mối quan hệ tích cực đến khả năng sinh lời, trong khi đó quy mô doanh nghiệp và tỷ số tài sản tài chính có mối quan hệ tiêu cực.
Tương tự như hướng nghiên cứu của Ahmad Ahmadpour và ctg (2012), nghiên cứu của nhóm tác giả Adeel Mumtaz và ctg (2011) cũng cho rằng có tồn tại sự tác động tiêu cực giữa quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Cụ thể, nhóm tác giả nghiên cứu một mẫu gồm 22 doanh nghiệp ngành hóa học cho giai đoạn từ năm 2005 đến 2010. Các biến độc lập được sử dụng trong nghiên cứu gồm doanh số bán hàng (SALE), quy mô doanh nghiệp (SIZE), kỳ thu tiền bình quân (NDR), kỳ luân chuyển hàng tồn kho (NDI), đòn bẩy (LEV), vốn chủ sở hữu (EQUITY) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Biến lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) được sử dụng để đại diện cho khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các biến doanh số bán hàng, quy mô doanh nghiệp, kỳ luân chuyển hàng tồn kho, hàng tồn kho, GDP và vốn chủ sở hữu có mối quan hệ đồng biến với ROA, trong khi đó kỳ thu tiền bình quân và đòn bẩy tài chính có mối quan hệ nghịch biến với ROA. Điểm hạn chế của nghiên cứu này là mẫu điều tra quá nhỏ, giai đoạn cũng không đủ dài nên có thể không khái quát được hết đặc điểm của quản trị vốn lưu động đối với ngành hóa học.
Nghiên cứu của Binti Mohamad & Mohd Saad (2010) được dựa trên dữ liệu thứ cấp của 172 công ty của Malaysia. Họ đánh giá tác động của các thành phần khác nhau của vốn lưu động trên lợi nhuận và giá trị thị trường của các công ty. Nghiên cứu bao phủ một khoảng thời gian 5 năm từ 2003 đến 2007. Với mục đích này họ sử dụng các thành phần vốn lưu động khác nhau, cụ thể là chu kỳ chuyển đổi tiền mặt, tỷ lệ nợ, tài sản lưu động trên tổng tài sản, nợ ngắn hạn trên tổng tài sản và tỷ lệ thanh toán hiện hành. Để xem hiệu quả của các thành phần vốn lưu động trong hoạt động tài chính họ sử dụng Q’s Tobin, lợi nhuận trên vốn đầu tư và lợi nhuận trên tài sản là một thước đo của hoạt động tài chính của các doanh nghiệp lựa chọn. Để đưa ra các kết quả họ đã sử dụng phân tích tương quan và phân tích hồi quy. Kết quả cho thấy rằng có tồn tại một mối quan hệ nghịch chiều giữa các thành phần vốn lưu động khác nhau với hiệu quả hoạt động của công ty.
Để kiểm tra tác động của quản trị vốn lưu động đến lợi nhuận của các công ty
Ấn Độ. Sharma & Kumar (2011) đã thu thập dữ liệu của 263 công ty phi tài chính trên sàn chứng khoán Bombay (BSE) từ năm 2000 đến năm 2008 và sử dụng hồi quy OLS. Kết quả cho thấy quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lợi tương quan cùng chiều trong các công ty của Ấn Độ. Nghiên cứu cũng cho thấy kỳ chuyển đổi hàng tồn kho và kỳ thanh toán bình quân có mối quan hệ ngược chiều với lợi nhuận, trong khi đó kỳ thu tiền bình quân và chu kỳ chuyển đổi tiền mặt có mối quan hệ cùng chiều với lợi nhuận.
Đồng quan điểm với Sharma & Kumar (2011), nghiên cứu của David M. Mathuva (2010) cũng cho rằng có sự tồn tại mối tương quan nghịch biến giữa kỳ thanh toán tiền bình quân với lợi nhuận. Cụ thể tác giả đã sử dụng mẫu của 30 công ty được niêm yết trên sàn chứng khoán Nairobi (NSE) – Kenya trong khoảng thời gian từ 1993 đến năm 2008. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng có sự tồn tại mối tương quan nghịch biến giữa kỳ thu tiền bình quân, kỳ trả tiền bình quân với lợi nhuận. Và có mối tương quan đồng biến giữa kỳ chuyển đổi hàng tồn kho với lợi nhuận.
2.4.2 Các nghiên cứu trong nước Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
Dong, Huynh Phuong và Jyh-tay Su (2010), tìm hiểu về mối liên hệ giữa quản trị vốn lưu động và lợi nhuận của công ty trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời kỳ 2006 – 2008 với lượng mẫu là 130 công ty. Các tác giả đã tìm thấy chu kỳ luân chuyển tiền tác động âm tới lợi nhuận. Từ đó các tác giả đề nghị rằng các nhà quản trị công ty có thể tạo ra giá trị cho cổ đông bằng cách xử lý tính cân bằng của chu kỳ luân chuyển tiền và giữ cho các nhân tố khác cấu thành nên quản trị vốn lưu động ở mức tối ưu.
Chu Thị Thu Thủy (2012) nghiên cứu về mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lời của các công ty cổ phần ngành công nghiệp chế biến, chế tạo niêm yết trên HOSE với 97 quan sát của 97 công ty trong năm 2012. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ có tăng khả năng quản lý khoản phải thu khách hàng trong các công ty này mới gia tăng được khả năng sinh lời, hay thời gian thu nợ càng ngắn thì khả năng sinh lời càng cao. Điều này có thể lý giải rằng nếu công ty thu hồi nợ tốt thì vốn đưa vào đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh càng nhanh, giảm được các chi phí cơ hội và tăng hiệu quả hoạt động. Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy đòn bẩy tài chính, quy mô công ty và tỷ số tài sản tài chính có tác động mạnh đến khả năng sinh lời, do đó các công ty cần phải chú ý trong việc gia tăng hoạt động đầu tư tài chính sao cho hiệu quả. Hạn chế của bài nghiên cứu này là mẫu nghiên cứu chỉ sử dụng số liệu của 97 công ty ngành công nghiệp chế biến, chế tạo niêm yết trên HOSE và chỉ sử dụng trong năm 2012, số liệu ngắn hạn. Do đó, kết quả nghiên cứu có thể khác nếu chọn mẫu lớn hơn và thời gian nghiên cứu dài hơn.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hân (2012) đã sử dụng mẫu của 20 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010 cho thấy ROA có mối tương quan phủ định với Chu kỳ luân chuyển tiền bình quân (CCC), Kỳ thu tiền bình quân (ACP), Kỳ luân chuyển hàng tồn kho (ICP) và cho thấy rằng ROA có mối tương quan khẳng định với kỳ thanh toán cho khách hàng (APP). Bên cạnh đó tác giả cũng chứng minh rằng tỷ suất sinh lời có mối tương quan thuận với đòn bẩy tài chính (LEV) và có mối tương quan nghịch với quy mô công ty (CS), tỷ số đầu tư tài chính đầu tư dài hạn (FFAR), số năm công ty tồn tại (AGE).
Nghiên cứu của Võ Xuân Vinh (2013) đã sử dụng mẫu của 80 doanh nghiệp ngành công nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2007 đến năm 2011 cung cấp bằng chứng thực nghiệm là thời gian trả tiền không có tác động rõ rệt đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Điều này cho thấy rằng các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu chưa thực sự quan tâm đến việc quản trị các khoản phải trả nhằm tăng lợi nhuận cho doang nghiệp. Bên cạnh đó tỷ lệ thanh toán nhanh (CR) có mối tương quan dương với ROA. Ngoài ra kết quả cho thấy thời gian thu tiền, thời gian tồn kho, chu kỳ luân chuyển tiền đều có tác động ngược chiều với khả năng sinh lợi. Do đó khi giá trị các biến giải thích giảm đồng nghĩa với khả năng sinh lợi tăng.
Bảng 2.1 Bảng tóm tắt kết quả nghiên cứu các công trình trước
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Mặc dù trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có rất nhiều nghiên cứu về việc quản trị vốn lưu động có tác động đến lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nhìn chung các tác giả đều sử dụng tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản để đo lường tác động chính sách vốn lưu động đến lợi nhuận của các doanh nghiệp. Như đã đề cập ở trên, phần lớn các nghiên cứu khi tìm hiểu về bốn biến số “Kỳ thu tiền bình quân”, “Kỳ trả tiền bình quân”, “Số ngày tồn kho”, và “Chu kỳ luân chuyển tiền mặt” đều tìm thấy ảnh hưởng ngược chiều của các yếu tố này đến lợi nhuận của công ty. Chỉ một số ít các nghiên cứu tìm thấy tác động cùng chiều, ví dụ như Sharma và Kumar (2011) phát hiện “Kỳ thu tiền bình quân” tác động dương tới lợi nhuận hay Mathuva (2010) cũng tìm thấy ảnh hưởng tương tự của “số ngày tồn kho”. Luận văn: Tổng quan về vốn lưu động tại các Cty thực phẩm
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Thực trạng lợi nhuận của các Công ty thực phẩm