Luận văn: Tổng quan về thông tin tự nguyện của các Cty VN

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổng quan về thông tin tự nguyện của các Cty VN hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam – nghiên cứu ở 03 nhóm ngành – Công nghiệp, xây dựng và tài chính dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. LÝ THUYẾT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TỰ NGUYỆN

2.1.1. Tổng quan về công bố thông tin tự nguyện Luận văn: Tổng quan về thông tin tự nguyện của các Cty VN

Theo Adina P. và Ion P. (2008) với đề tài “Aspects regarding corporate mandatory and voluntary disclosure”, thông tin là trung tâm của các thị trường vốn hoạt động tốt nhất. Các báo cáo mang tính so sánh, dễ hiểu, thực tế và có chất lượng sẽ làm tăng niềm tin của nhà đầu tư và hiệu quả của thị trường.

Theo Đặng Thị Thúy Hằng (2011) khi viết về “Thực trạng và giải pháp cho vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt nam”, công bố thông tin kế toán là toàn bộ thông tin được cung cấp thông qua hệ thống các báo cáo tài chính của một công ty trong một thời kỳ nhất định (bao gồm cả báo cáo giữa niên độ và báo cáo thường niên). Phân loại theo tính chất, thông tin công bố gồm hai loại là các thông tin công bố bắt buộc và thông tin công bố tự nguyện.

Thông tin công bố bắt buộc là các thông tin kế toán được yêu cầu công bố bởi luật pháp và các quy định có liên quan đến công bố thông tin. Ở mỗi quốc gia có những quy định cụ thể, các quy định của Luật kinh doanh, Luật chứng khoán, Ủy ban chứng khoán, … Hiện nay, quy định của thông tư 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012 của Bộ tài chính ban hành quy định về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán là văn bản quy định về các mục thông tin bắt buộc công bố khi tham gia thị trường chứng khoán.

Thông tin công bố tự nguyện thì không mang tính bắt buộc và nằm ngoài những mục thông tin bắt buộc công bố. Ở mỗi doanh nghiệp có mức độ CBTT tự nguyện khác nhau và có thể ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, có thể là những yếu tố liên quan đến văn hóa, truyền thống, đặc điểm kinh tế, xã hội, tài chính của riêng công ty đó. Nghiên cứu của Meek (1995) về CBTT tự nguyện tại các nước phát triển tại khu vực Mỹ, Anh và các nước Châu Âu cho thấy vùng/quốc gia là một trong 03 yếu tố quan trọng nhất giải thích mức độ CBTT tự nguyện.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

2.1.2. Vai trò của công bố thông tin tự nguyện

Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh toàn cầu, để mở rộng và phát triển công ty, các nhà quản lý cần tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp, nâng cao vị thế, niềm tin từ phía nhà đầu tư và các bên liên quan. Một trong những phương pháp đó là công bố thông tin và để đáp ứng ngày càng lớn nhu cầu thông tin, thì công ty cần công bố nhiều hơn là các thông tin bắt buộc của các cơ quan có thẩm quyền nơi hoạt động.

Adina và Ion (2008) kết luận rằng công bố thông tin là một yếu tố rất quan trọng nhằm đảm bảo việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực trong xã hội và làm giảm bớt thông tin bất cân xứng giữa công ty và các bên liên quan của nó.

Dựa trên lý thuyết ủy nhiệm, khi có sự tách bạch vai trò người sở hữu và người quản lý sẽ xuất hiện thông tin bất cân xứng, những người sở hữu sẽ không nắm được thông tin đúng đắn, chính xác về tình hình công ty như người quản lý trực tiếp điều hành. Do đó, khi công bố thông tin tự nguyện thì đó là các thông tin được chọn lọc, có mục đích hướng đến sự đánh giá, nhận định về tình hình hoạt động trong hiện tại và hướng phát triển của công ty trong tương lai. Từ đó thu hút vốn đầu tư, tạo niềm tin với chủ sở hữu, nhà đầu tư cũng như các bên liên quan khác. Các nhà đầu tư có nhu cầu về thông tin để đánh giá thời gian và rủi ro trong dòng tiền hiện tại và tương lai để họ có thể nhận định tình hình của công ty (Meek, 1995).

2.2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN TỰ NGUYỆN Luận văn: Tổng quan về thông tin tự nguyện của các Cty VN

Theo Adina và Ion (2008), có nhiều yếu tố ảnh hướng đến mức độ CBTT tự nguyện như: mức độ, tần số và phương pháp sử dụng trong CBTT; mục tiêu thành lập của tổ chức/công ty; quy mô công ty; tình trạng niêm yết; văn hóa tổ chức và sự phức tạp trong kinh doanh; số lượng, loại và văn hóa của các nhà sở hữu công ty; chi phí cho việc CBTT; mức độ thuận lợi để CBTT; mức độ cạnh tranh; thị phần và lợi nhuận trong doanh nghiệp.

Trong khuôn khổ phạm vi đề tài, nghiên cứu trên báo cáo thường niên, tác giả đưa ra lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm trước kết hợp với các lập luận nhằm đưa ra các giả thuyết nghiên cứu. Để dễ hiểu, ở mỗi nhân tố, tác giả cũng lựa chọn cách thức đo lường nhân tố. Sau đó, ở chương 3 – Phương pháp nghiên cứu, sẽ có bảng tổng hợp và tóm tắt các biến, cách thức đo lường.

Các giả thuyết được sử dụng kiểm định cho cả ba nhóm ngành: công nghiệp, xây dựng và tài chính.

2.2.1. Quy mô công ty

Nhiều nghiên cứu cho thấy quy mô công ty có tác động cùng chiều với mức độ CBTT tự nguyện.Điều này có thể phù hợp với thực tế, theo lý thuyết ủy nhiệm, việc tách biệt vai trò người sở hữu và người trực tiếp quản lý sẽ dẫn đến một số loại chi phí, gọi là chi phí ủy nhiệm bao gồm chi phí giám sát, chi phí liên kết và chi phí khác (Jensen và Meckling,1976). Người sở hữu muốn giảm các chi phi ủy nhiệm thì cần nhà quản lý công bố thông tin nhiều hơn, các công ty càng lớn thì thông tin càng nhiều và yêu cầu thông tin từ người sở hữu cũng cao hơn. nước phát triển, theo nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) về các nhân tố ảnh hưởng CBTT tự nguyện trên báo cáo thường niên ở Mỹ, Anh và các nước Châu Âu thì quy mô công ty, vùng/quốc gia và tình trạng niêm yết quốc tế là 03 yếu tố quan trọng nhất giải thích cho CBTT tự nguyện. Các công ty lớn thì thường phức tạp hơn và có quy mô sở hữu lớn nên có nhiều thông tin cần phải công bố.Nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu của Fathi (2013) tại Tunisian cũng có thấy ảnh hưởng cùng chiều của quy mô công ty và mức độ CBTT tự nguyện. Fathi (2013) thực hiện nghiên cứu trên các công ty phi tài chính từ năm 2004 – 2009 dựa trên danh mục CBTT có trọng số và không có trọng số mức độ quan trọng của mỗi mục thông tin.

Tại Việt nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) phân tích các nhân tố tác động đến CBTT tự nguyện của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ chí minh cho thấy chỉ có quy mô công ty là biến giải thích cho CBTT tự nguyện.

Thông thường, quy mô công ty dược đo lường bởi tổng tài sản. Trong nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995), tác giả đo lường quy mô công ty bằng tổng doanh thu, bởi vì thực hiện nghiên cứu tại nhiều nước nên việc quy đổi tổng tài sản sẽ bị ảnh hưởng nhiều do liên quan đến nhiều khoản mục trong tài sản. Trong đề tài, tác giả sử dụng tổng tài sản để đo lường quy mô công ty, điều này phù hợp vì có thể so sánh quy mô công ty trong từng nhóm ngành (công nghiệp, xây dựng và tài chính) như mục tiêu ban đầu đưa ra.

2.2.2. Tỷ số nợ trên tổng tài sản Luận văn: Tổng quan về thông tin tự nguyện của các Cty VN

Tác động giữa tỷ số nợ/tổng tài sản và mức độ công bố thông tin tự nguyện được nghiên cứu ở nhiều nước, tuy nhiên kết quả khác nhau.

Nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) cho thấy không có ảnh hưởng đáng kể của một tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu đến CBTT tự nguyện.

Hossain (1995) nghiên cứu về công bố thông tin tự nguyện của các công ty tại New Zealand trong môi trường đang thu hút vốn đầu tư, nghiên cứu thực nghiệm với 05 biến độc lập, trong đó có biến đòn bẩy nợ, kết quả cho thấy mức ảnh hưởng đáng kể của nó đến mức độ công bố thông tin tự nguyện tự nguyện. Nghiên cứu Akhtaruddin và cộng sự (2009) quản trị công ty và công bố thông tin tự nguyện tại Malaysia cũng cho thấy kết quả tương tự Hossain (1995), đòn bẩy hoạt động có tác động tích cực đến công bố thông tin.

Tại Việt nam, Huỷnh Thị Vân (2013) khảo sát trên 51 công ty xây dựng niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hà nội, cho thấy đòn bẩy nợ tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin.

Công ty sử dụng đòn bẩy nợ tốt cho thấy sự tín nhiệm của công ty với các chủ nợ bên ngoài. Các chủ nợ có thể yêu cầu họ công bố thông tin nhiều hơn nhằm phục vụ cho việc giám sát hoặc nhưđiều khoản thoả thuận trên hợp đồng tín dụng.

Tác giả sử dụng tỷ lệ nợ/tổng tài sản, không tính trên vốn chủ sở hữu vì đề tài nghiên cứu trên từng nhóm ngành. Ở mỗi nhóm ngành có sự khác nhau về quy mô vốn khác nhau. Điều này tương tự cách tính của Huafang Xiaovà JianguoYuan(2007).

2.2.3. Lợi nhuận

Nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) không cho thấy ảnh hưởng của lợi nhuận (lợi nhuận sau thuế/doanh thu) đến CBTT tự nguyện tại Anh, Mỹ và một số nước Châu Âu.

Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) cũng cho thấy không có mối liên hệ giữa lợi nhuận và

CBTT tự nguyện được khảo sát tại các công ty niêm yết trên Sở GDCK Thành phố

Hồ chí minh. Lợi nhuận được tính bằng lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản.

Các công ty có lợi nhuận thì thường công bố nhiều thông tin. Dựa trên lý thuyết ủy nhiệm, đạt được lợi nhuận là thành quả cố gắng của người quản lý công ty, do đó khi lợi nhuận càng cao họ càng muốn CBTT để nhà sở hữu tin tưởng, đầu tư vốn và cũng là cách để nhà quản lý nâng cao giá trị bản thân trên thị trường lao động.

Tác giả lựa chọn đo lường biến “lợi nhuận” bằng lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản.

2.2.4. Cấu trúc sở hữu vốn Luận văn: Tổng quan về thông tin tự nguyện của các Cty VN

Trong phạm vi giới hạn của đề tài, tác giả lựa chọn kiểm định hai yếu tố trong cấu trúc sở hữu vốn là tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn và tỷ lệ sở hữu của tổ chức.

Tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn

Tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn cho thấy mức độ tập trung vốn của các cổ đông. Nghiên cứu của Fathi (2013) cho thấy tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớnchiếm tỷ trọng càng cao thì mức độ công bố thông tin tự nguyện càng thấp, với mức ý nghĩa 5%, chấp nhận giả thuyết.

Theo pháp luật Việt nam, cổ đông chính được quy định tại điều 6 Luật chứng khoán số 27/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 do Quốc hội ban hành, là các cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ năm tỷ lệ trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành. Thông tin của cổ đông lớn được công bố đối với các công ty đại chúng theo thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012 của Bộ tài chính ban hành trên báo cáo thường niên.

Tỷ lệ sở hữu của Nhà nước

Khi các cổ đông lớn là các nhà đầu tư tổ chức, họ có thể có các đóng góp đáng kể đến quy trình quản trị, cải thiện việc minh bạch thông tin. Bởi vì họ là một tổ chức, có hình thức tương tự như chính công ty họ có quyền sở hữu, họ hiểu và cần những thông tin cần thiết trên báo cáo tài chính để kiểm soát số vốn họ đầu tư.

Fathi (2013) cho thấy tác động giữa nhà đầu tư tổ chức đến mức độ công bố thông tin tự nguyện không đáng kể, đó là tác động cùng chiều.

Tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài

Nhiều nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của các công ty sở hữu bởi các cổ đông nước ngoài đến CBTT tự nguyện. Các cổ đông nước ngoài có xu hướn giám sát chặt chẽ hơn, một phần qua các thông tin được công bố trên báo cáo hàng năm. Các thông tin ngoài yêu cầu bắt buộc giúp họ hiểu rõ hơn, rút ngắn khoảng cách về mặt địa lý.

Sở hữu nước ngoài cũng giúp làm đa dạng sở hữu, sự mở rộng trong sở hữu công ty là một nhân tố tác động tích cực đến CBTT tự nguyện trong kết quả nghiên cứu của Chau và Gray (2002) khi nghiên cứu về cấu trúc sở hữu và CBTT tự nguyện.

Nghiên cứu của Meek (1995) cũng cho thấy tình trạng công ty niêm yết quốc tế ảnh hưởng tốt đến CBTT tự nguyện do yêu cầu của người sở hữu.

2.2.5. Tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị không điều hành

Xã hội luôn có yêu cầu cao hơn đối với công bốthông tin của công ty niêm yết, điều đó đòi hỏi các công ty phải “tự nguyện hơn” (dưới sự giám sát của xã hội) trong công bố thông tin. Công bố thông tin “tự nguyện” sẽ làm giảm sự thiếu hụt thông tin. Xét trên góc độ nội tại, bản thân quản trị công ty có ảnh hưởng mang tính quyết định tới chất lượng thông tin công bố. (Trần Thị Thanh Tú và cộng sự, 2014)

Bố trí thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) độc lập là một trong các nguyên tắc cơ bản trong Bộ nguyên tắc quản trị công tydoTổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (gọi tắc là OECD – Organization for Economic Co-operation and Development) ban hành. Thành viên HĐQT không điều hành có khả năng đưa ra những phán quyết độc lập đối với các vấn đề khi tiềm ẩn xung đột về lợi ích (Bộ nguyên tắc quản trị công ty của OECD, 2004, trang 25).

Tương tự nhận định trên, một số nghiên cứu như Fathi (2013), Akhtaruddin và cộng sự (2009) cũng cho thấy thành viên HĐQT độc lập thúc đẩy việc công bố thông tin, mặc dù kết quả tại Tunisian thì không có tác động đáng kể.

Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Ho và Wong (2001)khi kiểm nghiệm 04 đặc điểm của quản trị công ty đến công bố thông tin, cho thấy không có sự ảnh hưởng tích cực của tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành đến mức độ công bố thông tin tự nguyện mà chỉ có uỷ ban kiểm toán có ảnh hưởng đáng kể. Tương tự, kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) lại không cho thấy mối liên hệ nào giữa tỷ lệ này với CBTT tự nguyện khi thực hiện khảo sát trên các công ty niêm yết tại Sở GDCK Thành phố Hồ chí minh.

Bố trí thành viên hội đồng quản trị độc lập (HĐQT) là một thông lệ tốt trên thế giới. Cùng tiến trình hội nhập, Việt nam cũng quy định về thành viên HĐQT độc lập tại quyết định số 12/2007/QĐ-BTC ngày 13/03/2007 từ năm 2012 thay thế bằng quyết định số 121/2012/QĐ-BTC ngày 26/07/2012 của Bộ tài chính. Trong đó, đối với công ty đại chúng và công ty niêm yết thì hội đồng quản trị phải có ít nhất một phần ba là thành viên HĐQT độc lập và thành viên HĐQT không điều hành. Trong đó, thông tư quy định rõ về thành viên HĐQT độc lập và thành viên HĐQT không điều hành. Do hạn chế của đề tài, tác giả nghiên cứu tác động củatỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành đến mức độ công bố thông tin tự nguyện.

2.2.6. Tách biệt vai trò chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc Luận văn: Tổng quan về thông tin tự nguyện của các Cty VN

Nghiên cứu tại Tunisian của Fathi (2013) cho rằng việc kết hợp chủ tịch HĐQT có tác động tiêu cực đến mức độ công bố thông tin, tức là có xu hướng che dấu thông tin bất lợi. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu tại Hồng Kông của Ho và Wong (2001) không cho thấy việc tách biệt hai vị trí này có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin.

Theo lý thuyết uỷ nhiệm, luôn có mâu thuẫn giữa người sở hữu và người điều hành. Chủ tịch hội đồng quản trị đại diện cho người sở hữu, giám đốc điều hành đại diện cho người điều hành. Do đó, việc tách biệt vai trò của hai cá nhân là điều cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Môi trường lành mạnh, sự kiểm soát được thực thi đúng đắn từ đó thúc đẩy tính minh bạch của thông tin. Mặc dù pháp luật Việt nam không bắt buộc các công ty tách biệt vai trò giữa chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc điều hành, tuy nhiên việc tách biệt cho thấy một cơ chế rõ ràng hơn. Ngày nay, một số công ty lớn cũng tự nguyện tách biệt vai trò của hai vị trí này, và công bố rộng rãi với cổ đông.

2.3. LÝ THUYẾT ỦY NHIỆM

Lý thuyết uỷ nhiệm là lý thuyết nền tảng được nghiên cứu nhiều và nổi bật trong quá trình nghiên cứu của nhiều tác giả. Đề tài nghiên cứu dựa trên lý thuyết ủy nhiệm.

Lý thuyết uỷ nhiệm phát triển bởi Jensen và Meckling (1976). Sở dĩ lý thuyết uỷ nhiệm được quan tâm nhiều hơn vì các công ty có xu hướng mở rộng quy mô, lĩnh vực kinh doanh, khi đó kiến thức, kinh nghiệm của người sở hữu sẽ không đáp ứng đủ khả năng quản lý công ty mà họ có xu hướng giám sát, kiểm tra kết quả đạt được, từ đó khiến họ có nhu cầu thuê mướn người quản lý.

Theo lý thuyết uỷ nhiệm (lý thuyết đại diện – agency theory), áp dụng trong các công ty phát triển về quy mô, người sở hữu (người uỷ nhiệm – principal) không phải là người trực tiếp điều hành công ty mà họ có thể thuê các nhà quản lý (người được uỷ nhiệm – agency) đại diện họ điều hành công ty. Do đó, người chủ sở hữu là người chịu các rủi ro trong phần vốn mình bỏ ra nhưng không có quyền quyết định hoạt động kinh doanh của công ty. Còn ngược lại, nhà quản lý là người có quyền quyết định hoạt động của công ty mặc dù chỉ là người làm thuê trong công ty. Chính vì thế, lý thuyết chỉ ra những vấn đề trong việc tách biệt vai trò người sở hữu và người quản lý nhưng vẫn đảm bảo lợi ích cho người sở hữu.

Lý thuyết uỷ nhiệm cho rằng người sở hữu và người quản lý luôn tìm mọi cách tối đa hoá lợi ích của mình. Người sở hữu tìm cách để đạt được những khoản lợi nhuận lớn, chia cổ tức nhiều và mang đến giá trị tăng thêm cho công ty. Còn đối với người quản lý, tối đa hoá lợi ích trong quá trình ra quyết định, đôi khi không vì lợi ích của cả công ty mà vì lợi ích cá nhân hoặc vì lý do khác trong thời gian được thuê làm nhà quản lý. Do ràng buộc bởi thời gian thuê, nên có thể họ vì mục tiêu đạt được ngắn hạn mà bỏ qua lợi ích trong dài hạn. Từ những rủi ro phải gánh chịu và tách biệt vai trò, người sở hữu sẽ phát sinh một số khoản chi phí nhằm ràng buộc người quản lý phải tối đa hoá lợi ích của mình như chi phí giám sát, chi phí liên kết, chi phí khác… gọi chung là chi phí uỷ nhiệm.

Bên cạnh đó, người sở hữu cũng yêu cầu cao trong việc công bố thông tin về tình hình hoạt động để biết được người quản lý đã sử dụng vốn mà họ đã bỏ ra. Do đó, để giảm thiểu chi phí ủy nhiệm, càng cần tăng cường thông tin giữa người sở hữu và người quản lý. Hầu hết các nghiên cứu trước đây ở trong và ngoài nước đều dựa trên lý thuyết ủy nhiệm, như Meek và cộng sự (1995), Chau và Gray (2002), Xiao và Yuang (2007), Nguyễn Thị Thu Hảo (2014)…

2.4. PHÂN CHIA NHÓM NGÀNH CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN HAI SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Luận văn: Tổng quan về thông tin tự nguyện của các Cty VN

Việc phân chia nhóm ngành của hai Sở GDCK Hà nội và Thành phố Hồ chí minh được áp dụng trong các năm gần đây. Sở GDCK Hà nội áp dụng từ năm 2013, Sở GDCK Thành phố Hồ chí minh từ năm 2012.

Phân chia nhóm ngành trên thị trường chứng khoán Việt nam có ý nghĩa quan trọng đối với nhà đầu tư. Nhóm ngành cho nhà đầu tư nhìn thấy tổng quan hơn tình hình tăng giảm, xu hướng của một nhóm ngành so với nhóm ngành khác, thay vì nhìn cận cảnh chỉ một doanh nghiệp, so sánh với doanh nghiệp khác. Ngoài ra, việc phân chia nhóm ngành làm nền tảng cho việc xây dựng chỉ số ngành mà hiện nay, Sở GDCK Hà nội xây dựng được chỉ số 03 nhóm ngành: công nghiệp, xây dựng và tài chính. Đây cũng là 03 nhóm ngành mà tác giả sử dụng để nghiên cứu mỗi Sở giao dịch chứng khoán ban hành một tiêu chuẩn phân ngành áp dụng đối với các công ty niêm yết hoặc đăng ký giao dịch và được thực hiện định kỳ, cập nhật liên tục. Mặc dù chưa có sự thống nhất,nhưng cả hai Sở GDCK tại Việt nam đều ban hành dựa trên Hệ thống ngành kinh tế Việt nam 2007 (gọi tắt là VISIC 2007) dựa trên tiêu chí là doanh thu hoạt động của công ty.

Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam 2007 (VietNam Standard Industrial Classification 2007 – VSIC 2007) được Tổng cục Thống kê xây dựng trên cơ sở Phân ngành chuẩn quốc tế (phiên bản 4.0) đã được Ủy ban Thống kê Liên hợp quốc thông qua tại kỳ họp tháng 3 năm 2006 chi tiết đến 4 chữ số (ISIC Rev.4)và khung phân ngành chung của ASEAN chi tiết đến 3 chữ số (ACIC). Đồng thời căn cứ trên tình hình thực tế sử dụng Hệ thống ngành kinh tế quốc dân ban hành năm 1993 và nhu cầu điều tra thống kê, Tổng cục Thống kê đã phát triển Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam đến 5 chữ số.Quy định về nội dung các ngành kinh tế thuộc Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam đã được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phê duyệt và ban hành tại Quyết định số 337/QĐ-BKH ngày 10 tháng 4 năm 2007.

Tác giả giới thiệu khái quát về hai hệ thống phân ngành của hai Sở GDCK tại Việt nam.

2.4.1. Phân ngành theo hệ thống ngành kinh tế HaSIC của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

Từ ngày 01/10/2012, Sở GDCK Hà nội áp dụng hệ thống phân ngành HaSIC. HaSIC (Hanoi Stock Exchange Standard Industrial Classification) là hệ thống ngành kinh tế được phát triển bởi Sở GDCK Hà Nội trên cơ sở Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam (VSIC 2007) của Tổng cục Thống kê và khuyến nghị về Hệ thống ngành kinh tế ISIC phiên bản 4 của Liên Hiệp Quốc. HaSIC sử dụng phân ngành cho các công ty niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên Sàn GDCK Hà Nội.

HaSIC bao gồm 3 cấp ngành với 11 ngành cấp I, 39 ngành cấp II và 1 93 ngành cấp III. Các nhóm ngành cấp I của HaSIC:

Dựa trên tiêu chí phân ngành là doanh thu, và được phân loại vào quý 3 hàng năm. Các nguyên tắc phân ngành của HaSIC do Sở GDCK Hà nội công bố cũng dựa trên doanh thu bình quân lớn nhất để xác định hoạt động kinh doanh chính của công ty.

Theo đó, hoạt động sản xuất kinh doanh nào mang lại doanh thu bình quân lớn nhất trong 3 năm liên tiếp chiếm trên 50% của tổng doanh thu bình quân công ty thì được xếp vào ngành cấp I duy nhất trong hệ thống phân ngành HaSIC.

Đối với trường hợp không đáp ứng điều kiện trên thì HNX áp dụng nguyên tắc từ trên xuống để xếp vào ngành cấp I trong hệ thống HaSIC.

Ngoài ra, các trường hợp không xác định được hoạt động kinh doanh chính của công ty thì HNX dựa vào các thông tin khác kết hợp để xác định hoạt động kinh doanh chính của công ty đó.

Sở giao dịch chứng khoán Hà nội xây dựng một hệ thống phân ngành riêng được áp dụng dựa trên các tiêu chuẩn phân ngành, giúp các công ty xác định được lĩnh vực kinh doanh chính từ đó có khả năng so sánh với các công ty cùng ngành.

Việc phân ngành được thực hiện ngay khi công ty bắt đầu niêm yết và được điều chỉnh định kỳ.

2.4.2. Phân ngành các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Luận văn: Tổng quan về thông tin tự nguyện của các Cty VN

Quy tắc phân ngành các công ty niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ chí minh được ban hành kèm theo quyết định số 01/2012/QĐ-SGDCK TP.HCM ngày 23/02/2012 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Sở GDCK Thành phố Hồ chí minh.

Sở GDCK Thành phố Hồ chí minh sẽ phân ngành cho các công ty bắt đầu từ 15/04 đến 30/06 hàng năm. Mỗi công ty sẽ được phân vào một ngành cấp III duy nhất trong Hệ thống ngành kinh tế Việt nam (VSIC 2007) dựa trên hoạt động kinh doanh chính của công ty đó. VSIC 2007 bao gồm 21 nhóm nhóm ngành 88 ngành cấp 2; 242 ngành cấp 3; 437 ngành cấp 4 và 642 ngành cấp 5.

Về tiêu chí lựa chọn để phân ngành, tương tự như Sở GDCK Hà nội, theo Quy tắc phân ngành các công ty niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ chí minh: “doanh thu là tiêu chí được Sở GDCK Thành phố Hồ chí minh xem xét để quyết định hoạt động kinh doanh chính của công ty niêm yết. Theo đó, hoạt động kinh doanh nào mang lại doanh thu lớn nhất trong tổng doanh thu của một công ty niêm yết tại Sở sẽ được xem là hoạt động kinh doanh chính của công ty đó.”

Về nguyên tắc phân ngành, được ghi rõ trong quy tắc phân ngành được ban hành năm 2012. Cơ sở để xác định phân ngành là các số liệu thu thập từ Phiếu thu thập thông tin về công ty, bản cáo bạch và các báo cáo tài chính hàng năm của công ty niêm yết. Nguyên tắc phân ngành của HOSE tương tự như HNX được xác định thông qua doanh thu bình quân của 3 năm liên tiếp.

Hoạt đông kinh doanh nào mang lại doanh thu bình quân lớn nhất trong 3 năm liên tiếp chiếm trên 50% trở lên trong tổng doanh thu bình quân của công ty thì xếp công ty đó vào ngành cấp 3 duy nhất theo hệ thống phân ngành VSIC 2007 tương ứng hoạt động đó.

Trường hợp không có hoạt động kinh doanh nào có doanh thu đáp ứng điều kiện trên thì áp dụng theo nguyên tắc từ trên xuống để xếp công ty vào một ngành cấp 3 duy nhất trong hệ thống phân ngành VSIC 2007 tương ứng hoạt động đó, theo hướng:

“Nhóm các hoạt động kinh doanh đơn lẻ cấp 3 tương đồng rồi sắp xếp vào ngành cấp 2 và cấp 1 tương ứng ;

  • Xác định ngành cấp 1 có doanh thu bình quân cao nhất;
  • Trong ngành cấp 1, xác định ngành cấp 2 có doanh thu bình quân cao nhất;
  • Trong ngành cấp 2, xác định ngành cấp 3 có doanh thu bình quân cao nhất.

Đây được xem là ngành hoạt động chính của công ty niêm yết.” (Quy tắc phân ngành các công ty niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ chí minh).

Ngoài ra, đối với các công ty niêm yết có hoạt động hỗn hợp theo chiều dọc và hỗn hợp theo chiều ngang được thống nhất cho các quốc gia sử dụng ISIC phiên bản 4 cũng như áp dụng các quy ước phân ngành một số hoạt động kinh tế cụ thể của Việt nam theo VSIC 2007.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Các nghiên cứu về mức độ công bố thông tin tự nguyện được đề cập khá nhiều và thực hiện ở nhiều nước phát triển và đang phát triển. Vai trò quan trọng của công bố thông tin được nghiên cứu ở nhiều đề tài trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, các nhân tố tác động đến công bố thông tin tự nguyện được kiểm định ở nhiều quốc gia, khu vực khác nhau và cũng có những kết quả khác biệt nhau. Luận văn: Tổng quan về thông tin tự nguyện của các Cty VN

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY 

===>>> Luận văn: Thực trạng về niên yết thị trường chứng khoán VN

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x