Luận văn: Thực trạng về niên yết thị trường chứng khoán VN

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng về niên yết thị trường chứng khoán VN hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam – nghiên cứu ở 03 nhóm ngành – Công nghiệp, xây dựng và tài chính dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

3.1. XÁC ĐỊNH PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN, QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU

3.1.1. Phương pháp tiếp cận Luận văn: Thực trạng về niên yết thị trường chứng khoán VN

Đề tài kết hợp phương pháp tiếp cận suy diễn, và chủ yếu là phương pháp định lượng. Phương pháp định lượng nhằm mục đích thu thập dữ liệu để kiểm định các lý thuyết khoa học.

Xác định khe hổng nghiên cứu

Lý thuyết nghiên cứu

Mô hình, giả thuyết nghiên cứu

Xây dựng đề cương và Thiết kế nghiên cứu

Kiểm định mô hình, giả thuyết

Hình 3.1. Quy trình nghiên cứu (Nguồn: Tác giả xây dựng)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

3.1.3. Quy trình nghiên cứu

Theo phương pháp định lượng, tác giả sử dụng phương pháp thông kê mô tả trước khi thực hiện các kiểm định trong mô hình hồi quy đa biến.

Bước 1: Thống kê, mô tả kết quả đạt được ở các biến độc lập, biến phụ thuộc trong mô hình của 03 nhóm ngành. Thống kê kết quả nhỏ nhất, lớn nhất, trung bình của mỗi biến.

Bước 2: Quy trình nghiên cứu được thực hiện thông qua 04 kiểm định cơ bản trước khi xác định mô hình hồi quy cuối cùng.

Kiểm định 1: Kiểm định mức ý nghĩa của hệ số hồi quy với hệ số t – student cần nhỏ hơn hoặc bằng 0.05.

Kiểm định 2: Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình với hệ số R2 hiệu chỉnh và chỉ số F trên bảng phân tích ANOVA. Để kiểm định độ phù hợp của mô hình hồi quy, giả thuyết đặt ra là R2 của tổng thể bằng 0.

Kiểm định 3: Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến (Multiple Collinearity). Hiện tượng đa cộn tuyến là trạng thái trong đó các biến độc lập có tương quan chặt chẽ với nhau, điều này cần được thực hiện khi mô hình hồi quy có nhiều biến như mô hình trong đề tài này. Một phương pháp xác định hiện tượng đa cộng tuyến không xảy ra là yêu cầu hệ số VIF (Variance Inflation Factor) nhỏ hơn 10.

Kiểm định 4: Sau khi các biến thông qua 03 kiểm định trên, tiến hành kiểm định phương sai của phần dư thay đổi (kiểm định Spearman). Đây là một trong các giả định quan trọng trước khi chạy mô hình hồi quy . Hiện tượng phương sai của phần dư thay đổi gây ra nhiều hậu quả đối với mô hình ước lượng bằng phương pháp OLS (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008).

Công cụ hỗ trợ

Công cụ thống kê SPSS phiên bản 20.0 được sử dụng hỗ trợ kiểm định mô hình hồi qui nhiều biến.

3.2. XÁC ĐỊNH BIẾN Luận văn: Thực trạng về niên yết thị trường chứng khoán VN

3.2.1. Xác định biến phụ thuộc: Mức độ công bố thông tin tự nguyện

Theo Nguyễn Chí Đức và Hoàng Trọng (2012), tự nguyện công bố thông tin là một khái niệm khá trừu tượng, đó là việc ngoài các thông tin cưỡng chế bắt buộc phải công bố theo quy định, thì người quản lý phải chủ động trong việc công bố rộng rãi các thông tin liên quan đến tình hình tài chính, các thông tin chiến lược cũng như các thông tin phi tài chính của doanh nghiệp. Do đó, không có sự đồng nhất cho việc đo lường mức độ CBTT tự nguyện của công ty. Từ đó, có các mô hình đo lường khác nhau.

Từ các nghiên cứu trước, nhóm tác giả Francisco, Maria và Macro (2009) cho rằng để đo lường thông tin công bố của công ty là một nhiệm vụ phức tạp. CBTT có thể được đo lường bằng việc kết hợp 03 chỉ số: chất lượng, phạm vi và số lượng. Do không sử dụng mô hình của nhóm tác giả này nên tác giả không đề cập sâu hơn.Kết quả cho thấy việc lựa chọn một phương pháp tính chỉ số công bố thông tin có thể ảnh hưởng đến xếp hạng của một công ty, và cho rằng việc lựa chọn một chỉ số đo lường CBTT cũng là một giới hạn của đề tài. Điều này là phù hợp, vì có thể khi đo lường mức độ CBTT với phương pháp khác thì rất có thể kết quả khác nhau (mặc dù có sự tương quan) nhưng điều đó có thể ảnh hưởng đến các giải pháp, chính sách được đưa ra trong mục đích nghiên cứu của đề tài.

Một phương pháp thường sử dụng phương pháp theo dạng danh mục (checklist). Mỗi danh mục được sử dụng phù hợp với từng vùng, đặc điểm kinh tế, quy định riêng.Danh sách được nhiều tác giả phát triển, ở mỗi danh sách có cách phân chia khác nhau, một số tác giả cũng sử dụng danh mục và điều chỉnh, bổ sung phù hợp nếu cần thiết.

Một tác giả xây dựng danh sách hạng mục khác để đo lường mức độ CBTT tự nguyện là nghiên cứu của Meek (1995), thông tin tự nguyện công bố bao gồm 85 mục chia thành 03 loại thông tin: thông tin chiến lược (strategic information), thông tin tài chính (financial information) và thông tin phi tài chính (nonfinancial information). Trong mỗi loại thông tin, Meek chia thành các hạng mục trong đó có các mục thông tin. Việc chia thành 03 loại thông tin cũng có ý nghĩa, nó hướng đến các đối tượng quan tâm. Thông tin chiến lược và thông tin tài chính liên quan đến quyết định nhà đầu tư. Thông tin phi tài chính thể hiện trách nhiệm xã hội của công ty, hướng đến quan tâm của cơ quan Nhà nước, người lao động và các đối tượng khác có quan tâm… Vì vậy, có thể kết quả chỉ ra liên quan đến mỗi mục thông tin khác nhau. Meek và cộng sự (1995) tính chỉ số công bố thông tin tự nguyện tính theo cách cộng vào và không có trọng số. Đo lường công bố thông tin tự nguyện không có trọng số, tác giả đưa ra một số lý do phù hợp, thứ nhất vì người xây dựng chỉ số không biết được người sử dụng tham chiếu, quan tâm đến mục thông tin nào; thứ hai, đối với những thông tin tự nguyện nếu xác định một mục nào đó quan trọng thì có thể xem các mục khác ít quan trọng, như vậy các công ty sẽ có cách tăng chỉ số như nhau. Điều này hợp lý bởi vì đây là những thông tin tự nguyện công bố nên mức độ quan tâm như nhau, đối với những thông tin bắt buộc thì luôn quan trọng, trong đó có những thông tin cơ bản về doanh nghiệp thì hiển nhiên phải công bố. Nếu nghiên cứu về mức độ công bố thông tin chung thì việc đánh giá trọng số cho mỗi mục thông tin là cần thiết, như nghiên cứu của Fathi (2013), còn đối với việc đo lường mức độ CBTT tự nguyện thì không sử dụng trọng số là hợp lý. Luận văn: Thực trạng về niên yết thị trường chứng khoán VN

Danh mục thông tin công bố tự nguyện của Meek (1995) được bổ sung bởi Chau và Gray (2002) một số mục nhằm hoàn thiện hơn. Ví dụ trong mục “mua lại và thanh lý”, Chau và Gray bổ sung việc trình bày khoản thu lại từ việc thanh lý, các khoản lợi thế thương mại còn Meek (1995) chỉ để cập đến lý do của việc mua lại và thanh lý. Mô hình này phù hợp để áp dụng tại Việt nam và mục đích nghiên cứu của đề tài, đo lường chỉ số công bố tự nguyện. Mô hình bao gồm 113 mục thông tin công bố tự nguyện (thể hiện ở phụ lục 01), được chia thành 12 nhóm mục thông tin. Thông tin chiến lược từ nhóm mục 1 đến nhóm mục 5, thông tin phi tài chính từ nhóm 6 đến nhóm 8, và thông tin tài chính từ nhóm 9 đến nhóm 12.

Trong nghiên cứu của mình, tác giả Akhtaruddin và cộng sự (2009) cho biết sử dụng danh sách hạng mục thông tin tự nguyện được phát triển bởi Chau and Gray (2002) và một số tác giả khác, danh mục thông tin chia thành các loại: thông tin chung, thông tin quản trị công ty, thông tin tài chính, thông tin phân tích tài chính, thông tin về mua và thanh lý tài sản, thông tin dự án, thông tin về nhân sự, thông tin trách nhiệm xã hội, trình bày đồ thị cho thông tin tài chính. Sau khi đối chiếu với các hạng mục bắt buộc, còn lại 74 mục. Từ đó, tính toán chỉ số, giá trị là 1 nếu có công bố và ngược lại là 0. Chỉ số công bố được tính bằng tổng điểm đạt được chia tổng điểm mà công ty có thể đạt được, các chỉ số tính đều nhau và không có trọng số.

Tại Việt nam, nghiên cứu của Nguyễn Chí Đức và Hoàng Trọng (2012) sử dụng mô hình của Meek (1995) nhằm đo lường mức độ công bố thông tin tự nguyện của các công ty niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ chí minh. Tác giả đối chiếu giữa 85 mục với các thông tin bắt buộc công bố của thông tư số 57/2004/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày 17/6/2004 về việc “Hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán” còn lại 23 hạng mục thông tin (9 hạng mục thông tin chiến lược, 5 hạng mục thông tin tài chính, 9 hạng mục thông tin phi tài chính) và tính điểm 1 đối với thông tin được công bố, là 0 nếu không công bố.

Phương pháp của Nguyễn Đức Chí và Hoàng Trọng (2012) tương tự phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu về quản trị công ty và mức độ công bố thông tin tự nguyện của Akhtaruddin và cộng sự (2009), Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) về cách tính chỉ số đo lường mức độ công bố thông tin tự nguyện.

Dựa trên những phân tích trên, tác giả lựa chọn phương pháp danh mục thông tin công bố tự nguyện của Meek (1995) và bổ sung bởi Chau và Gray. Sau đó, đối chiếu với quy định hiện hành của Việt nam là thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012 của Bộ tài chính về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Thông tư hiện hành này thay thế cho thông tư số 57/2004/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành ngày 17/6/2004 mà Nguyễn Chí Đức và Hoàng Trọng (2004) đã nghiên cứu. Danh mục công bố tự nguyện của Meek (1995), phát triển bổ sung của Chau và Gray (2002) được tác giả dịch sang tiếng Việt và trình bày ở phụ lục 01.

Như đã đề cập, danh mục được đối chiếu và loại trừ các mục thông tin bắt buộc công bố theo quy định tại thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012 của Bộ tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán (gọi tắt là thông tư 52/2012/TT-BTC). Từ đó, xác định các hạng mục thông tin công bố tự nguyện và tiến hành khảo sát điểm cho từng công ty trong quan sát được lựa chọn.

Cách tính điểm cho chỉ số công bố thông tin tự nguyện: đối với mỗi hạng mục được tính 1 điểm nếu doanh nghiệp có công bố thông tin và ngược lại là 0.

Chỉ số công bố thông tin tự nguyện là tỷ số giữa số điểm khảo sát của công ty đạt được chia cho tổng số điểm công ty có thể đạt được.

Ký hiệu biến phụ thuộc VDI, viết tắt cụm từ Voluntary Disclosure Index.

3.2.2. Xác định các biến độc lập, cách thức đo lường biến độc lập Luận văn: Thực trạng về niên yết thị trường chứng khoán VN

Từ những lập luận đưa ra ở chương 2, các biến độc lập và cách thức đo lường của các biến độc lập được trình bày ở bảng 3.1.

Bảng 3.1. Tóm tắt các biến độc lập, ký hiệu và cách thức đo lường

Cùng chiều: Giả thuyết dự đoán biến độc lập có tác động cùng chiều đến biến phụ thuộc.

Ngược chiều: Giả thuyết dự đoán biến độc lập có tác động ngược chiều đến biến phụ thuộc.

Có tác động: Có mối tương quan có ý nghĩa thống kê.

3.2.3. Giả thuyết nghiên cứu

Dựa trên các nghiên cứu trước và xác định các nhân tố ở mục 2.4, tương ứng 8 giả thuyết được đưa ra như sau:

Giả thuyết 1: Quy mô công ty có tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện.

Giả thuyết 2: Tỷ lệ nợ/tổng tài sản có tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện.

Giả thuyết 3: Lợi nhuận có tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện.

Giả thuyết 4: Tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớncó tác động ngược chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện.

Giả thuyết 5: Tỷ lệ sở hữu của Nhà nước có tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện.

Giả thuyết 6: Tỷ lệ sở hữu nước ngoài có tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện.

Giả thuyết 7: Tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị không điều hànhcó tác động cùng chiều đến mức độ công bố thông tin tự nguyện.

Giả thuyết 8: Tách biệt vai trò chủ tịch hội đồng quản trị với giám đốc có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện.

3.2.4. Mô hình nghiên cứu Luận văn: Thực trạng về niên yết thị trường chứng khoán VN

Từ những lập luận trên, tác giả áp dụng mô hình nghiên cứu tương đồng với các tác giả trước. Mô hình hồi quy đa biến dự đoán ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ công bố thông tin tự nguyện dựa trên mẫu thu thập được đưa ra:

  • VDI Chỉ số công bố thông tin tự nguyện của một công ty
  • SIZE Quy mô công ty
  • LEV Tỷ số nợ/tổng tài sản
  • ROA Lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản
  • MAJOR Tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn
  • STATE Tỷ lệ sở hữu của Nhà nước
  • FOREIGN Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
  • IND Tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành
  • DUAL Tách biệt vai trò chủ tịch HĐQT và giám đốc/tổng giám đốc
  • Mô hình hồi qui bội (MLR), vì cần kiểm địnhtác động của nhiều biến độc lập với một biến phụ thuộc định lượng.
  • Tỷ số nợ/tổng tài
  • Quy mô công ty
  • Lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản
  • Tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn
  • Chỉ số CBTT tự nguyện
  • Tách biệt vai trò chủ tịch HĐQT và GĐ
  • Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập
  • Tỷ lệ sở hữu của
  • Nhà nước
  • Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài

Sơ đồ 3.2. Mô hình các nhân tố ảnh hưởng mức độ công bố thông tin tự nguyện

3.3. DỮ LIỆU

Biến phụ thuộc: Để tính chỉ số đo lường chỉ số công bố thông tin tự nguyện, tác giả chấm điểm báo cáo thường niên của từng công ty theo phụ lục thông tin công bố tự nguyện số 02 sau khi đã đối chiếu với quy định tại Việt nam.

Biến độc lập: Dữ liệu các biến độc lập được thu thập trên báo cáo thường niên có đính kèm báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các công ty đại chúng niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà nội và Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ chí minh.

Các báo cáo thường niên được thu thập trên website lưu trữ công bố thông tin của hai website của Sở GDCK Hà nội (http://hnx.vn) Sở GDCK Thành phố Hồ chí minh (http://www.hsx.vn).

Thời gian giới hạn của dữ liệu thu thập là trên báo cáo thường niên năm 2014.

3.4. MẪU Luận văn: Thực trạng về niên yết thị trường chứng khoán VN

Do đề tài thực hiện kiểm định trên 03 nhóm ngành. Số lượng công ty niêm yết trên 03 nhóm ngành không giống nhau nên kích thước mẫu cũng sẽ khác nhau.

Số liệu thống kê số lượng công ty được phân ngành cấp I của 03 nhóm ngành thể hiện như sau:

  • Theo tên gọi của Hệ thống phân ngành kinh tế của HOSE là Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm.

Trong số 03 nhóm ngành thì ngành công nghiệp có số công ty nhiều nhất. Tác giả tiến hành xác định kích thước mẫu trước. Chuẩn bị phân tích dữ liệu và kiểm định mô hình mối liên hệ giữa các nhân tố và mức độ công bố thông tin tự nguyện, tác giả lựa chọn mẫu theo công thức kinh nghiệm được sử dụng ở các nghiên cứu sử dụng mô hình hồi qui bội (Nguyễn Đình Thọ, 2012, trang 499), như sau: ≥50+8

Trong đó:

n là kích thước mẫu tối thiểu cần thiết

p là số lượng biến độc lập trong mô hình

P được xác định là 8 biến độc lập. Từ công thức trên, ta xác định kích thước mẫu cần lớn hơn hoặc bằng114 quan sát. Tác giả lựa chọn kích thước mẫu là 114 quan sát.

Đối với ngành xây dựng và tài chính thì tổng thể không lớn nên không thể áp dụng công thức như ngành công nghiệp. Do đó, tác giả tính toán số quan sát theo tỷ lệ tỷ lệ ước lượng. Đối với ngành xây dựng, tổng số lượng là 103 công ty. Với tỷ lệ 60%, kích thước mẫu được lựa chọn là 61 công ty.

Tương tự đối với ngành tài chính có tổng thể thấp nhất là 45 công ty niêm yết tính trên cả hai Sở GDCK, tác giả sẽ lựa chọn ngẫu nhiên 35 công ty, tương ứng với trên 70% số lượng công ty niêm yết theo ngành cấp I là tài chính.

Như vậy, kích thước mẫu được xác định đối với ngành công nghiệp là 114 công ty, ngành tài chính là 35 công ty, và ngành xây dựng là 61 công ty. Tổng kích thước mẫu của 03 mô hình tương ứng với 03 nhóm ngành là 210 công ty.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Mô hình bao gồm 08 biến độc lập và 01 biến phụ thuộc. Kích thước mẫu được xác định cụ thể. Ngành công nghiệp là 114 quan sát, ngành xây dựng là 61 quan sát và ngành tài chính là 35 quan sát. Công cụ hỗ trợ kiểm định là phần mềm thống kê SPSS (Statistical Package for the Social Sciences) phiên bản 20. Luận văn: Thực trạng về niên yết thị trường chứng khoán VN

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY 

===>>> Luận văn: Giải pháp nghiên cứu thị trường chứng khoán VN

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x