Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Quy định của pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ

2.1.1. Thẩm quyền thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ

Hoạt động điều tra các VAHS hay điều tra chống người thi hành công vụ đều được tiến hành hoạt động đầu tiên bằng hoạt động thu thập chứng cứ. Thẩm quyền thu thập chứng cứ trong điều tra VAHS có những nét khác biệt so với thu thập chứng cứ trong các giai đoạn tố tụng khác.

Quá trình chứng minh VAHS phải trải qua những giai đoạn khác nhau. Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về các giai đoạn (các bước) của quá trình chứng minh, mỗi quan điểm đều dựa trên một cơ sở lý luận, cách thức phân chia cụ thể. Tuy nhiên, có thể khẳng định: Quá trình chứng minh chỉ bao gồm ba giai đoạn: thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ [3, tr.132]. Như vậy, thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu của quá trình chứng minh VAHS. Kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác điều tra, truy tố, xét xử. Do vậy, hoạt động này cần phải được tiến hành một cách khách quan, thận trọng theo đúng quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật khác liên quan. Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Tội phạm xảy ra bao giờ cũng để lại các dấu vết trong thế giới khách quan dưới các hình thức vật chất hoặc phi vật chất. Để chứng minh tội phạm thì phải thu thập các dấu vết để lại. Thu thập chứng cứ chính là việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp và phương pháp theo quy định của pháp luật để phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản những tài liệu, đồ vật, thông tin…liên quan để phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Thu thập chứng cứ chính là tổng hợp các hành vi phát hiện, thu giữ, ghi nhận và bảo quản chứng cứ.

Trên thực tế, nguồn phản ánh về VAHS thông thường có thể bao gồm hai nhóm chính là nguồn phản ánh từ con người và nguồn phản ánh từ dấu vết, tài liệu, vật chứng. Những nguồn phản ánh này còn gọi là “dấu vết” với ba loại chính – dấu vết hình thành từ sự phản ánh hình dạng, kích thước và một số thuộc tính khác của đối tượng gây vết; dấu vết phản ánh cấu trúc bên trong của đối tượng gây vết và; dấu vết là một phần vật thể bị tách ra từ tổng thể của đối tượng gây vết…Từ những nguồn lưu giữ thông tin này, bằng các kinh nghiệm nghề nghiệp, khả năng tư duy, quan sát và sự vững vàng chuyên môn, pháp luật, các điều tra viên sẽ thuận lợi hơn trong giai đoạn đầu tiên của quá trình chứng minh – thu thập chứng cứ. Bởi lẽ, một logíc đương nhiên rằng – các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (đặc biệt là CQĐT và điều tra viên) chỉ có thể thu thập được chứng cứ nếu phát hiện ra nó. Nếu phát hiện chứng cứ đầy đủ và bảo đảm chất lượng thì sẽ là yếu tố thành công của các giai đoạn tiếp sau và toàn bộ cả quá trình chứng minh trong VAHS. Để phát hiện chứng cứ, cần thiết phải đánh giá những thông tin có giá trị chứng minh các sự kiện, tình tiết của vụ án, tuy vậy sự đánh giá này mang tính chất sơ bộ, còn việc kết luận nó thuộc về Tòa án – Hội đồng xét xử.

Sau khi phát hiện chứng cứ, thu thập chứng cứ là hoạt động đầu tiên của quá trình chứng minh trong VAHS. Hoạt động này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn bộ quá trình chứng minh, để ghi nhận chứng cứ và thu giữ chứng cứ. Vì vậy, nhằm tái tạo lại các tình tiết của vụ án đã xảy ra trước đó đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập được đầy đủ những thông tin về vụ việc phạm tội đó, bởi vì các thông tin phản ánh về hoạt động của tội phạm được hình thành, tồn tại có tính quy luật và là tất yếu khách quan. Do đó, các kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Các cơ quan tiến hành tố tụng cần đặc biệt quan tâm đến hoạt động này vì kết quả sẽ là thuận lợi hay khó khăn cho việc chứng minh VAHS phụ thuộc vào số lượng và chất lượng các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong VAHS.

Theo quy định của BLTTHS năm 2015, thì những người sau đây có thẩm quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ:

Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS (VKS) các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp [21]. Theo BLTTHS năm 2015, thì đây là những người có thẩm quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp như: Ra lệnh khám xét, phê chuẩn lệnh khám xét, ra quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi, triệu tập người tham gia tố tụng để hỏi cung, lấy lời khai, đối chất… Như vậy, trong giai đoạn điều tra VAHS có 2 nhóm chủ thể là các chủ thể của CQĐT: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT và nhóm chủ thể của VKS: Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên. Ngoài ra còn có một số chủ thể khác như cán bộ giám định, trợ lý điều tra.

Người trực tiếp thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ là Điều tra viên,Kiểm sát viên (KSV), cán bộ giám định, người được mời tham gia khám nghiệm. Ngoài những người trên, những người trong các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra như những người trong cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy…cũng được quyền thực hiện một số biện pháp thu thập chứng cứ. Người tiếp nhận các đối tượng bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang truy nã. BLTTHS quy định người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã được giải đến Cơ quan Công an, VKS hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất, các cơ quan này phải lập biên bản. Biên bản do những cơ quan này lập mà có ghi nhận những thông tin ban đầu về tội phạm, thì chúng sẽ trở thành chứng cứ. Như vậy xét về góc độ chứng minh tội phạm, thì những người được luật pháp giao trách nhiệm lập biên bản bắt nêu trên là các chủ thể có quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ.

Cần phân biệt với chủ thể có trách nhiệm chứng minh và người có quyền xuất trình chứng cứ, chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong TTHS có quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ. Nhưng người có quyền và trách nhiệm thu thập chứng cứ có khi không phải là chủ thể chứng minh trong TTHS như những người được luật giao trách nhiệm lập biên bản trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang, bắt người truy nã. Khác với hai loại chủ thể trên, những người tham gia tố tụng khác như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…cũng được quyền cung cấp tài liệu, xuất trình chứng cứ nhưng không có trách nhiệm phải chứng minh tội phạm, cũng không có trách nhiệm thu thập chứng cứ.

Một trong những điểm mới của BLTHS năm 2015 nhằm đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong TTHS đó là tăng cường thẩm quyền về việc đưa ra chứng cứ để đảm bảo cho hoạt động gỡ tội của mình. Do đó, Điều 73 BLHTTHS năm 2015 quy định về quyền của người bào chữa là: Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Như vậy, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, người bào chữa có hoạt động thu thập các chứng cứ để phục vụ cho hoạt động gỡ tội, hoạt động bào chữa của mình trong VAHS. Tuy nhiên, hiện nay các cơ quan tư pháp trung ương vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành về trình tự, thủ tục, phương thức để người bào chữa có thể thu thập được chứng cứ trong giai đoạn điều tra VAHS.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự – Tố Tụng Hình Sự

2.1.2. Trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Để thu thập chứng cứ, các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một số biện pháp, phương tiện, nguyên tắc và phương pháp theo quy định của BLTTHS nhằm xác định, ghi nhận, tìm ra, thu giữ và bảo quản chứng cứ để giải quyết đúng đắn và chính xác đối với vụ án đó. Vì vậy, nếu xét về bản chất thì hoạt động thu thập chứng cứ bao gồm tổng hợp các công đoạn chính là ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ.

Thực tiễn chỉ ra rằng, mỗi vụ án đều có những biểu hiện khác nhau, tình tiết khác nhau và không vụ án nào giống vụ án nào, cụ thể khác nhau từ thủ đoạn, phương thức, cách thức lẫn biện pháp che giấu hành vi phạm tội bên cạnh việc khác nhau về không gian, thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội, hoàn cảnh phạm tội…Tuy hoàn toàn khác nhau như vậy, “nhưng tất cả các VAHS đã xảy ra đều có một điểm chung giống nhau cơ bản, đó là người phạm tội đều để lại dấu vết.

Các dấu vết đó chính là chứng cứ để những người tiến hành tố tụng dùng làm phương tiện chứng minh tội phạm và người phạm tội”. Do đó, việc làm tốt các công đoạn trong quá trình thu thập chứng cứ có vai trò quan trọng.

Ghi nhận chứng cứ là hoạt động mô tả, ghi lại chứng cứ theo những thủ tục và dưới những hình thức nhất định do pháp luật TTHS quy định để bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ, chẳng hạn như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, chụp ảnh, xem xét dấu vết trên thân thể, khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng…Theo quy định của Điều 88 BLTTHS năm 2015 thì: Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa [21].

Việc thu thập chứng cứ ở phạm vi này cần tiến hành hoạt động lập biên bản về quá trình thu thập. Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và 3 Điều 88 cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này.

Thu giữ chứng cứ là hoạt động được tiến hành sau khi đã phát hiện được chứng cứ và nguồn chứng cứ để phục vụ cho việc chứng minh tội phạm hoặc giải quyết những vấn đề khác liên quan đến vụ án sau này. Mục đích của hoạt động này để sử dụng chứng cứ vào việc chứng minh trong VAHS, đồng thời đây còn là một trong các biện pháp cần thiết để bảo quản chứng cứ nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử. Do đó, trong quá trình này, người tiến hành tố tụng thường sử dụng ba phương pháp thu giữ chứng cứ: Phương pháp thu lượm dấu vết, vật chứng, vật mang dấu vết; phương pháp sao, in dấu vết; phương pháp thu giữ dấu vết riêng vào chai, lọ mang đặc trưng riêng của khoa học điều tra hình sự.

Bảo quản chứng cứ là hoạt động áp dụng các biện pháp phù hợp để bảo vệ, giữ gìn tính nguyên vẹn của chứng cứ, không để lẫn lộn, mất mát, hư hỏng hoặc làm thay đổi các đặc điểm, thuộc tính, những thông tin có giá trị chứng minh của chứng cứ để bảo đảm giá trị chứng minh, phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn và khách quan vụ án. Công việc này phải được tiến hành ngay từ khi phát hiện, thu giữ chứng cứ ở hiện trường cho đến khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định xử lý.

Ngoài ra, để bảo đảm tính hợp pháp của dấu vết, vật chứng thì đối với mọi vật chứng, dấu vết đều phải đóng dấu, dán tem, niêm phong cẩn thận, ghi chú rõ ràng theo đúng các quy định của pháp luật với nội dung như sau:

  • Vật chứng cần được thu thập kịp thời, đầy đủ, được mô tả đúng thực trạng vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Trong trường hợp vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh và có thể ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng phải được niêm phong, bảo quản. Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Vật chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng. Việc niêm phong, bảo quản vật chứng thực hiện như sau:

  • Đối với vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc niêm phong, mở niêm phong phải được tiến hành theo quy định của pháp luật và phải lập biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án;
  • Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại ngân hàng hoặc các cơ quan chuyên trách khác;
  • Đối với vật chứng không thể đưa về cơ quan tiến hành tố tụng để bảo quản thì cơ quan tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản;
  • Đối với vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật này thì cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật này trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại kho bạc nhà nước để quản lý;

Đối với vật chứng đưa về cơ quan tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công an có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành án có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án.

Người có trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá hủy niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại vật chứng của vụ án, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trá ch nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 310 BLHS; trong trường hợp thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy, làm hư hỏng vật chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 300 BLHS; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Như vậy, thực chất của việc bảo quản chứng cứ là bảo vệ giá trị chứng minh của chứng cứ. Rộng hơn nữa, bảo quản chứng cứ còn nhằm bảo vệ “giá trị vật chất và giá trị kinh tế, văn hóa của nó, vì giá trị chứng minh, giá trị vật chất, giá trị văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau; nếu giá trị vật chất, giá trị kinh tế, văn hóa không được bảo vệ, thì giá trị chứng minh của chứng cứ cũng sẽ không còn ý nghĩa gì”.

Về thủ tục phải tuân theo khi tiến hành áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ đã được luật quy định cụ thể, phù hợp với đặc điểm của từng biện pháp. Từ những quy định của BLTTHS có thể rút ra các thủ tục chủ yếu được áp dụng hầu hết trong các biện pháp là:

Thủ tục giải thích quyền và nghĩa vụ cho đối tượng bị áp dụng: Thủ tục này được áp dụng trong các biện pháp hỏi cung; lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại; khi tiến hành đối chất, nhận dạng, khám người, khám nơi làm việc, khám chỗ ở, địa điểm.

Thủ tục chứng kiến: Theo quy định của BLTTHS năm 2003 trong một số hoạt động TTHS phải có sự chứng kiến của người láng giềng, của đại diện chính quyền cấp cơ sở, đại diện cơ quan, tổ chức. Thủ tục này nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được tiến hành đúng luật, khách quan, vô tư; bảo đảm giá trị chứng minh của các tài liệu chứng cứ thu thập được. Thành phần người chứng kiến trong các hoạt động tố tụng được quy định không giống nhau cụ thể:

Biện pháp khám người, khám xét dấu vết trên thân thể bị can, bị hại, nhân chứng khám nghiệm hiện trường, khám nghiện tử thi, thực nghiệm điều tra, nhận dạng thì người chứng kiến là bất kỳ ai và chỉ cần một người (riêng biện pháp khám người, khám xét dấu vết trên thân thể, thì phải là người cùng giới).

Biện pháp khám chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm đòi hỏi phải có người láng giềng, đại diện chính quyền địa phương (nơi làm việc thì đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc) chứng kiến. Trường hợp vắng chủ nhà thì phải có hai người chứng kiến.

Biện pháp thu giữ thư tín, điện tín bưu phẩm tại bưu điện thì phải có sự chứng kiến của đại diện cơ quan bưu điện.

  • Thủ tục thông báo cho VKS: được áp dụng trong trường hợp khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, theo quy định tại Điều 150, 151 BLTTHS thì trước khi tiến hành phải thông báo cho VKS cùng cấp để VKS cử KSV tham gia kiểm sát các hoạt động này, trong mọi trường hợp đều phải có KSV tham gia. Điều 144 BLTTHS quy định trường hợp thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện phải có sự phê chuẩn trước của VKS cùng cấp trước khi thi hành, trong trường hợp khẩn cấp thì không cần phê chuẩn của VKS, nhưng sau khi thu giữ phải thông báo ngay cho VKS cùng cấp.
  • Thủ tục lập biên bản: Điều 95 BLTTHS quy định khi tiến hành các hoạt động tố tụng, bắt buộc phải lập biên bản theo mẫu quy định thống nhất. Trong trường hợp tạm giữ đồ vật, tài liệu thì ngoài biên bản khám xét phải lập biên bản về việc tạm giữ đồ vật, tài liệu. Biên bản này được lập 4 bản một bản được giao cho chủ đồ vật, tài liệu; một bản đưa vào hồ sơ vụ án; một bản được gửi cho VKS cùng cấp và một bản giao cho cơ quan quản lý đồ vật, tài liệu bị tạm giữ.
  • Thủ tục ra văn bản áp dụng: Đối với một số biện pháp thu thập chứng cứ luật đòi hỏi thủ tục ra văn bản áp dụng đối với một số trường hợp như biện pháp khám xét: Khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm (Điều 141, Điều 142 và Điều 143 BLTTHS), thì khi khám xét phải có lệnh của người có thẩm quyền, khám xét trong thủ tục bình thường thì phải có sự phê chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi hành, trong trường hợp khẩn cấp thì không cần sự phê chuẩn của VKS, nhưng trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp. Đối với trường hợp trưng cầu giám định và trường hợp cần phải khai quật tử thi để khám nghiệm, thì cũng phải ra quyết định bằng văn bản trước khi thi hành. Các trường hợp khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi chưa chôn cất, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra pháp luật thực định không quy định phải có quyết định.

Ngoài các thủ tục trên còn phải tuân thủ những thủ tục khác như: Không được hỏi cung vào ban đêm (trừ khi không thể trì hoãn); thủ tục tách riêng từng người hỏi cung, lấy lời khai, thủ tục tham dự của người đại diện trong trường hợp người làm chứng dưới 16 tuổi; thủ tục tham gia tố tụng của người giám hộ trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên…

2.1.3. Quy định về các nguyên tắc thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Trong quá trình thu thập chứng cứ, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ các nguyên tắc thu thập như sau:

Tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều này có nghĩa, chứng cứ buộc phải được thu thập bằng các biện pháp và theo các trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định. Nếu tài liệu được thu thập bằng các biện pháp nghiệp vụ, dù có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhưng không phải là biện pháp thu thập do pháp luật TTHS quy định, thì không được thừa nhận là chứng cứ. Thực tiễn hiện nay ở nước ta cũng cho thấy, bằng các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng trinh sát của Cảnh sát nhân dân trong điều tra tội phạm, chúng ta đã thu thập được các tài liệu, tin tức liên quan đến tội phạm hoặc các tình tiết của vụ án được thu thập, song chỉ được sử dụng làm chứng cứ trong VAHS, nếu các tin tức, tài liệu đó đã được chuyển hóa bằng các biện pháp tố tụng công khai do BLTTHS quy định (như: hỏi cung bị can, khám xét người, chỗ ở, trưng cầu giám định…).

Việc tiến hành thu thập chứng cứ phải khách quan, toàn diện và đầy đủ. Nếu thu thập chứng cứ một cách tràn lan, không có định hướng sẽ dẫn tới các cơ quan tiến hành tố tụng mất nhiều thời gian công sức mà không đạt được mục đích chứng minh, hoặc ngược lại thu thập thiếu, không đầy đủ chứng cứ của vụ án thì cũng không có cơ sở để giải quyết vụ án. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định tại BLTTHS trong việc thu thập đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội.

Thẩm quyền thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tracó thể do CQĐT, VKS và người bào chữa thực hiện. Theo đó, các cơ quan này có thẩm quyền thu thập chứng cứ nhưng chỉ được thu thập từ các nguồn và bằng những phương pháp, cách thức do BLTTHS quy định. Nếu việc thu thập chứng cứ không đúng quy định của pháp luật thì chứng cứ sẽ không có hoặc mất giá trị chứng minh. Thậm chí, các chủ thể thực hiện hành vi thu thập chứng cứ trái pháp luật có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo tội danh tương ứng.

Tất cả các chứng cứ khi được phát hiện, thu giữ phải được ghi nhận vào văn bản tố tụng tương ứng, theo đúng quy định và thời hạn của pháp luật TTHS. Điều này phản ánh việc chứng cứ và nguồn của chúng khi được phát hiện, thu giữ phải được ghi nhận vào văn bản tố tụng tương ứng, theo đúng quy định và thời hạn của pháp luật TTHS. Lưu ý, đúng thời hạn là đúng theo thời hạn do pháp luật TTHS quy định.

Việc thu thập chứng cứ phải được tiến hành kịp thời theo các yêu cầu đặt ra và đúng pháp luật. Theo đó, khi thu thập chứng cứ phải bám sát vào những vấn đề phải chứng minh, phạm vi và giới hạn chứng minh trong VAHS, đồng thời cần quan tâm đến đặc điểm thực tế xảy ra của vụ án mà định hướng hoạt động thu thập chứng cứ làm rõ những đặc điểm đó.

Từ những nguyên tắc này, đòi hỏi phải tuân thủ các phương pháp thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết VAHS. Phương tiện của quá trình chứng minh VAHS là chứng cứ, do đó các phương pháp thu thập chứng cứ được quy định bởi chính đặc điểm của chứng cứ và được điều chỉnh bằng các quy định trong Điều 88 BLTTHS như sau: 1. Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.

2.1.4. Quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ là một trong những hoạt động đầu tiên trong chứng minh tội phạm. Với tư cách là một hoạt động tố tụng, thu thập chứng cứ cũng phải tuân thủ theo các quy định của Bộ luật TTHS. Theo đó, tại Điều 88 Bộ luật TTHS quy định: “1. Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”[21].

Căn cứ quy định trên và lý luận về những vấn đề cần phải chứng minh, nguồn của chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ đã được phân tích, làm rõ ở phần trên. Theo đó hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ chủ yếu tập trung vào các hoạt động sau:

Thu thập chứng cứ từ hoạt động lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can:

Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can là những người có khả năng biết rõ nhất các tình tiết của vụ án, họ có thể chỉ ra được nơi cất giấu phương tiện, công cụ phạm tội và những người đồng phạm, cũng như tường thuật lại nội dung vụ án. Do đó việc lấy lời khai các đối tượng này có ý quan trọng trong hoạt động thu thập chứng cứ trong vụ án chống người thi hành công vụ như tại Điều 131 – Bộ luật TTHS có quy định về hỏi cung bị can. Theo đó việc lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can phải được tiến hành một cách nhanh chóng và theo các quy định của pháp luật chẳng hạn: không để các đối tượng tiếp xúc với nhau; hạn chế hỏi cung vào ban đêm; không được bức cung, nhục hình…

Tuy nhiên trong thực tế lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can sẽ bị phân tán theo hai hướng đó là thừa nhận sự buộc tội hoặc bác bỏ sự buộc tội. Do đó trong quá trình thu thập chứng cứ Điều tra viên, Kiểm sát viên phải sử dụng toàn bộ các kiến thức, trình độ pháp luật và nghiệp vụ để đấu tranh với các đối tượng, nhằm thu được lời khai đúng đắn nhất, thể hiện vào biên bản lấy lời khai theo đúng luật định.

Thu thập chứng cứ từ lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụdo đặc tính phức tạp của loại tội phạm này, cũng như phần lớn các tội phạm sẽ quanh co chối tội vì vậy hoạt động chứng minh CQĐT rất xem trọng lời khai của người làm chứng. Chứng cứ được thu thập từ lời khai của người làm chứng có thể là thông tin về vụ án, cũng có thể là các thông tin khác có liên quan chẳng hạn như: nhân thân người phạm tội; các mối quan hệ xã hội của tội phạm…Do đó trong Bộ luật TTHS có quy định cơ quan THTT có quyền triệu tập, hoặc dẫn giải người làm chứng (nếu cơ quan THTT có đủ căn chứng minh người làm chứng cố tình không hợp tác) để thu thập chứng cứ liên quan đến vụ án. Hoạt động lấy lời khai người làm chứng phải tuân thủ theo các nội dung được quy định tại Điều 135 – Bộ luật TTHS, theo đó việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra hoặc nơi cư trú, nơi làm việc của người đó, không để các nhân chứng tiếp xúc với nhau, Điều tra viên phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho người làm chứng, người làm chứng dưới 16 tuổi phải có người giám hộ trong quá trình lấy lời khai…

Việc lấy lời khai người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng được tiến hành tương tự như lấy lời khai người làm chứng. Song trong hoạt động lấy lời khai người bị hại, đây là hoạt động nhằm bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của họ. Vì vậy trong quá trình lấy lời khai hầu hết sẽ nhận được sự hợp tác tích cực từ người bị hại, tuy nhiên trong lời khai của họ sẽ thường có những mâu thuẫn do quá trình tri giác về các tình tiết có liên quan đến vụ án không thuận lợi, chẳng hạn như tâm lý hoảng sợ, sợ lộ bí mất đời tư…cho nên khả năng khai báo gian dối của người bị hại là không thể loại trừ. Do đó trong quá trình lấy lời khai người bị hại, người THTT phải kiểm tra, xác minh làm rõ những vướng mắc, những điểm chưa hợp lý hướng đến mục tiêu thu thập được những thông tin đắt giá phục vụ cho hoạt động chứng minh tiếp theo.

Bên cạnh đó trong trường hợp cần thiết Điều tra viên có thể yêu cầu người làm chứng, người bị hại đối chất về những tình tiết mâu thuẫn trong quá trình lấy lời khai theo quy định Bộ luật TTHS. Nếu cần nhận dạng đối tượng, Điều tra viên sẽ vận dụng Bộ luật TTHS để yêu cầu người làm chứng, bị can và người bị hại thực hiện.

Thu thập chứng cứ từ khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản:

Khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản giúp cơ quan THTT có thể thu thập được những vật chứng quan trọng liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, chẳng hạn như: công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản có liên quan đến tội phạm…Hoạt động khám xét người, chỗ ở, chỗ làm việc phải có căn cứ chứng minh trong người, chỗ ở, chỗ làm việc có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án; việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã. Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Hoạt động khám người, khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm được tiến hành dựa trên quy định Bộ luật TTHS, theo đó việc khám xét phải có lệnh bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền (không cần có lệnh trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người đồ vật, tài liệu cần thu giữ). Việc khám xét phải đảm bảo các quyền cơ bản của cá nhân, tổ chức như: quy định về việc nam khám nam, nữ khám nữ; có người chứng kiến; bảo đảm hạn chế ảnh hưởng đến tài sản của người dân…Tất cả các hoạt động phải được ghi nhận vào biên bản, niêm phong theo đúng quy định. Cơ quan THTT và những cơ quan hữu quan có liên quan có trách nhiệm bảo quản chứng cứ đã thu được từ hoạt động khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản theo đúng quy định tại Điều 88 của Bộ luật TTHS.

Thu thập chứng cứ từ khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, giám định:

Khám nghiệm hiện trường trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 201 – Bộ luật TTHS. Hiện trường trong vụ án chống người thi hành công vụ có thể là hiện trường xảy ra vụ án cũng có thể là hiện trường nơi tội phạm phi tang chứng cứ. Việc khám nghiệm hiện trường do CQĐT tiến hành trước hoặc sau khi khởi tố VAHS, có người chứng kiến (có thể là bị can, người bị hại, người làm chứng) và phải có sự tham gia của các nhà chuyên môn, đặc biệt phải có sự giám sát của Kiểm sát viên. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 201 – Bộ luật TTHS, trong quá trình khám nghiệm Điều tra viên phải: “…tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án; ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám nghiệm hiện trường. Trong trường hợp không thể xem xét ngay được thì đồ vật và tài liệu thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong đưa về nơi tiến hành điều tra” [21].

Xem xét dấu vết trên thân thể được quy định tại Điều 203 – Bộ luật TTHS. Trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ việc xem xét dấu vết trên thân thể chính là hoạt động kiểm tra, phát hiện những dấu vết có liên quan đến vụ án từ đó đưa ra nhận định về tính chất vụ việc, vật gây thương tích, mối quan hệ giữa các dấu vết với tình tiết của vụ án. Việc xem xét dấu vết phải đảm bảo tuân thủ các quy định tố tụng, không được xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm hoặc sức khỏe của người bị xem xét. Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Thực nghiệm điều tra được quy định tại Điều 153 – Bộ luật TTHS, theo đó để kiểm tra những tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án, CQĐT có quyền thực nghiệm điều tra. Thực chất thực nghiệm điều tra là quá trình dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc mọi tình tiết khác của vụ án. Trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ thực nghiệm điều tra sẽ cung cấp cho cơ quan THTT những tình tiết quan trọng, hữu hiệu được sử dụng để chứng minh làm rõ sự thật khách quan, bác bỏ hay khẳng định hành vi cụ thể của một đối tượng nào đó có liên quan hay không liên quan đến VAHS đang xem xét. Trong quá trình thực nghiệm điều tra, CQĐT phải có kế hoạch cụ thể, các tình tiết dựng lại phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, mang tính xác thực gần nhất với vụ việc đã xảy ra chẳng hạn như: thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện… Hoạt động thực nghiệm cũng phải tính đến vấn đề tôn trọng các quyền cơ bản của con người.

Trưng cầu giám định và giám định lần lượt được quy định tại Điều 205, 215 – Bộ luật TTHS. Trưng cầu giám định trong hoạt động điều tra vụ án chống người thi hành công vụđược tiến hành khi cần thiết, bắt buộc tiến hành trong những trường hợp cần xác định những vấn đề được quy định tại Khoản 3, Điều 205 – Bộ luật TTHS. Thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụthông qua trưng cầu giám định của người THTT nhằm hướng đến việc tìm kiếm những thông tin làm sáng tỏ: Nguyên nhân chết người; tính chất thương tích; mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại; tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại; chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả…

Thu thập chứng cứ điện tử (nếu có)

Chứng cứ điện tử là những thông tin có thật, có ý nghĩa tới vụ án, được xác định từ nguồn chứng cứ lưu giữ dưới dạng tín hiệu điện tử trong máy tính hoặc trong các thiết bị có bộ nhớ kỹ thuật số có liên quan đến VAHS.

Khi tiến hành thu thập chứng cứ điện tử cần quán triệt thêm các vấn đề cụ thể sau đây:Thứ nhất, không làm thay đổi thông tin được lưu trong máy tính hoặc trong các thiết bị kỹ thuật số.Thứ hai, khi phải tiếp cận với thông tin gốc được lưu trữ trong máy tính hoặc trong các thiết bị kỹ thuật số thì người tiếp cận phải là những chuyên gia được đào tạo để thực hiện việc thu thập và phục hồi chứng cứ điện tử.Thứ ba, việc ghi lại dữ liệu (copy) phải được thực hiện đúng quy trình; phải sử dụng các thiết bị và phần mềm được thế giới công nhận và có thể kiểm chứng được. Phải bảo vệ được tính nguyên vẹn của dữ liệu điện tử lưu trong máy.Thứ tư, tính khách quan, tính nguyên trạng và tính kiểm chứng được của chứng cứ phải được chứng minh trước tòa. Phải chứng minh được quá trình khôi phục dữ liệu, tìm được chứng cứ; khi cần thiết có thể lặp lại quá trình đi tới kết quả tương tự như trình bày tại tòa.

Việc phục hồi chứng cứ điện tử trên máy tính và các thiết bị điện tử số chính là hoạt động khôi phục lại trạng thái làm việc của máy tính, thiết bị điện tử số khi đối tượng đang sử dụng thì bị thu giữ; là quá trình tìm kiếm các dữ liệu đã được lưu giữ trong quá trình sử dụng trên máy tính, bao gồm cả dữ liệu đã bị xóa khỏi máy tính… đó còn là quá trình khôi phục, phân tích, tìm kiếm, thu giữa những dữ liệu có liên quan đến vấn đề chứng minh tội phạm.

Để phục hồi các chứng cứ điện tử, đầu tiên cần phải thu giữ đầy đủ vật chứng là công cụ, phương tiện để phạm tội; phải bảo quản tốt những vật chứng thu được để phục vụ cho quá trình phục hồi. Công tác phục hồi chứng cứ điện tử trong các vụ án sử dụng công nghệ cao để phạm tội là vô cùng quan trọng, bởi những người thực hiện loại tội phạm này thường sử dụng chính công nghệ cao để xóa bỏ dấu vết tội phạm, để che giấu tội phạm. Để công tác này đạt được kết quả thì cần phải có những chuyên gia về công nghệ thông tin, viễn thông tham gia vào quá trình phục hồi. Và để những chứng cứ này có được giá trị chứng minh trong VAHS mà đối tượng phạm tội sử dụng công nghệ cao để phạm tội thì cần phải có những quy định chặt chẽ của pháp luật về quy trình thu giữ và phục hồi đối với loại chứng cứ này.

2.2. Đặc điểm tình hình có liên quan và thực trạng thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

2.2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ

Quảng Ninh là địa phương có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nói riêng và của cả nước nói chung, trong đó bao gồm cả phát triển ngành du lịch.

Quảng Ninh là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Tỉnh có địa hình đa dạng núi, rừng, bờ biển, cửa sông và hàng nghìn hòn đảo. Nhìn chung, tỉnh có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng cho phát triển du lịch. Tỉnh Quảng Ninh có dáng một hình chữ nhật lệch nằm chệch theo hướng đông bắc – tây nam. Phía tây tựa lưng vào núi trùng điệp, phía đông nghiêng xuống nửa phần đầu Vịnh Bắc bộ với bờ biển khúc khuỷu nhiều cửa sông. Quảng Ninh có toạ độ địa lý khoảng 106o26′ đến 108o31′ kinh độ đông và từ 20o40′ đến 21o40′ vĩ độ bắc. Bề ngang từ đông sang tây, nơi rộng nhất là 195 km. Bề dọc từ bắc xuống nam khoảng 102 km.

Tỉnh Quảng Ninh có diện tích khoảng 12.000 km2, bao gồm 6.000 km2 đất liền và 6.000 km2 mặt biển với hơn 2.000 hòn đảo lớn nhỏ, 80% diện tích đất của tỉnh là đồi núi, đường bở biển dài 250km. Có hai khu vực miền núi chính, một ở phía đông giáp với Trung Quốc và khu vực còn lại ở phía tây. Dân số tỉnh phần lớn tập trung ở khu vực miền núi và đồng bằng ven biển Dân số tỉnh Quảng Ninh có 22 thành phần dân tộc, trong đó có 06 dân tộc có hàng nghìn người trở lên, cư trú thành những cồng đồng và có ngôn ngữ, bản sắc dân tộc rõ nét, đó là dân tộc Kinh, Dao, Tày, Sán Dìu, Sán Chỉ, Hoa. Quảng Ninh có một vùng đất có nền văn hóa lâu đời. Văn hóa Hạ Long đã được ghi vào lịch sử như một mốc tiến hóa của người Việt.

Quảng Ninh là tỉnh có vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng – an ninh và đối ngoại, là tỉnh duy nhất có đường biên giới trên bộ và trên biển với Trung Quốc, là địa bàn trọng điểm trong vùng động lực kinh tế phía Bắc.Đi liền với những lợi thế, tiềm năng nổi trội, từ năm 2011 đến nay tỉnh cũng gặp phải những thách thức về công tác đảm bảo an ninh, trật tự. Trong đó, tình trạng tội phạm chống người thi hành công vụ vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt là chống lại lực lượng Công an khi thực thi nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự đã xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người thi hành công vụ, tài sản Nhà nước… gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn xã hội, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ANTT. Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời gian gần đây, tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ nói chung, chống lực lượng Công an khi thi hành nhiệm vụ nói riêng trên địa bàn cả nước có diễn biến hết sức phức tạp. Từ những vụ việc đơn lẻ, mang tính bột phát đến những vụ có tổ chức, với số đối tượng tham gia đông, hành vi mang tính liều lĩnh, manh động, coi thường pháp luật.

Theo thống kê từ năm 2014đến 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh xảy ra 39 vụ chống người THCV với 56 đối tượng tham gia (chiếm tỷ lệ 0,57% so với số vụ phạm pháp hình sự xảy ra cùng thời điểm: 39/6804), làm bị thương 58 cán bộ đang thi hành nhiệm vụ, hư hỏng 5 xe tuần tra (2 xe ôtô)… Các vụ chống người THCV xảy ra hầu hết ở các địa phương trong tỉnh (12/14 địa phương. Trừ Đầm Hà và Cô Tô), nhưng chủ yếu tập trung tại 3 địa bàn trọng điểm là TP Hạ Long.

Trong số 39 vụ chống lại lực lượng Công an thì có 16 vụ chống lại lực lượng CSGT (chiếm tỷ lệ 39,4%), 7 vụ chống lại Công an phường (25,76%), 3 vụ chống lại Công an xã (19,7%), 4 vụ chống lại CSTT, 4 vụ chống lại CSĐTTP về TTXH (tham gia trong tổ tuần tra, kiểm soát ban đêm) và 1 vụ chống lại CSĐTTP về ma túy (bắt đối tượng có lệnh truy nã).

Một vấn đề đáng quan tâm là trong khoảng thời gian 3 năm trở lại đây, số vụ chống người THCV diễn ra ngày càng nhiều, với số đối tượng tham gia đông. Hành chống đối cũng rất đa dạng, từ cản trở, chống đối, chửi bới, lăng mạ, không chấp hành yêu cầu… đến dùng tay không, dùng gạch đá, chai lọ…đánh lại người THCV; nghiêm trọng hơn là sử dụng dao, kiếm, súng tự tạo đe dọa hoặc trực tiếp tấn công lực lượng làm nhiệm vụ; sử dụng xe môtô, ôtô đâm thẳng vào lực lượng CSGT khi có tín hiệu dừng xe kiểm tra…Thực trạng trên đòi hởi chúng ta phải có biện pháp phòng ngừa chủ động, mặt khác cần nghiêm minh và cứng rắn hơn trong quá trình xử lý các đối tượng chống người THCV nói chung và chống lại lực lượng Công an nói riêng. Nghiêm trọng hơn là kỷ cương pháp luật bị coi thường, nhân dân mất niềm tin vào lực lượng Công an, lực lượng chịu trách nhiệm bảo đảm ANTT, bảo vệ sự bình yên cho nhân dân.

Qua nghiên cứu về tội chống người thi hành công vụ, có thể thấy những đặc điểm đặc thù, tìm ra nguyên nhân, động cơ, mục đích…của các đối tượng chống người THCV. Từ thực tế các vụ chống người THCV trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thời gian qua có thể phân loại các đối tượng chống người THCV thành 3 nhóm chủ yếu sau:

Nhóm 1: Đối tượng có hành vi vi phạm hành chính, khi bị lực lượng chức năng kiểm tra, xử lý thì tìm cách trốn tránh, chống đối hoặc đánh lại (phổ biến là đối tượng vi phạm an toàn giao thông, vận chuyển hàng lậu, hàng cấm, gây rối trật tự công cộng…).

Nhóm này là những người đã và đang có hành vi vi phạm pháp luật (hành chính hoặc hình sự), thường mang tính bột phát, không có tính toán từ trước về việc sẽ chống đối và chống đối như thế nào. Cũng chính vì mang tính bột phát nên hành của các đối tượng này rất khó nhận biết và phòng ngừa. Thực tế cho thấy, trong rất nhiều lực lượng đang THCV không thể ngờ được đối tượng lại có hành vi chống đối. Các vụ đâm thẳng vào lực lượng CSGT khi có tín hiệu dừng xe để kiểm tra là những ví dụ điển hình cho đối tượng thuộc nhóm này. Xin nêu 1 ví dụ điển hình khác mới xảy ra đầu năm 2008 tại Quảng Ninh: Hồi 16h15′ ngày 20/2/2018, Tổ công tác PC26 gồm 4 đ/c đang làm nhiệm vụ trên Quốc lộ 18 thuộc địa bàn giáp ranh giữa 2 phường Hà Khẩu và Hùng Thắng của TP Hạ Long, phát hiện 1 đôi nam nữ khoảng 18 – 25 tuổi đi trên 1 chiếc xe máy không đội MBH. Khi ra hiệu lệnh để kiểm tra, người thanh niên điều khiển xe không chấp hành mà quay đầu xe định bỏ chạy, tổ công tác đã kịp thời ngăn chặn được. Ngay lúc đó, khoảng 20 đối tượng thanh niên từ quán Internet gần đó ào ra, dùng gạch đá, gậy gộc bất ngờ tấn công CBCS trong tổ công tác để đánh tháo cho 2 đối tượng vi phạm nói trên làm 1 đ/c CSGT bị thương. Trong trường hợp này, không thể nói CBCS thiếu tinh thần cảnh giác và không đề phòng, vì không thể biết trước được đối tượng vi phạm còn một số đông bạn bè, người quen trong quán Internet ngay gần để kiểm tra, xử lý vi phạm như vậy.

Nhóm 2: Đối tượng phạm tội hoặc đối tượng có lệnh truy nã lẩn trốn bị phát hiện, bắt giữ chống đối lại lực lượng bảo vệ, lực lượng truy bắt (phổ biến là vào các khai trường mỏ trộm cắp than, khi bị phát hiện chống lại lực lượng bảo vệ).

Nhóm này là những người đã hoặc đang có hành vi phạm tội, do vậy luôn có tâm thế trốn tránh và sẵn sàng chống đối khi bị phát hiện, bắt giữ (luôn có ý thức chuẩn bị đối phó từ trước). Do vậy, chúng ta có thể xác định trước thái độ và hành chống đối của những đối tượng này để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn một cách chủ động.

Nhóm 3: Các đối tượng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc cưỡng chế giải phóng mặt bằng, thi hành án dân sự… chống đối lại lực lượng thi công và bảo vệ cưỡng chế.

Riêng với những đối tượng thuộc nhóm 3, động cơ, mục đích chống đối thường gắn với lợi ích cá nhân và gia đình; hoặc từ những bức xúc trước việc làm sai trái của cán bộ chính quyền liên quan đến chế độ, chính sách… Những người thuộc nhóm này đa số không tự mình quyết định việc chống đối mà thường theo tâm lý đám đông. Mặc dù có đặc điểm giống đối tượng thuộc nhóm 2 là cũng thường có chuẩn bị trước nhưng tính chất hành vi và thái độ chống đối của nhóm đối tượng này không có tính manh động, liều lĩnh và còn phụ thuộc vào nhiều cách giải quyết, xử lý của các lực lượng chức năng. Với nhóm này, nếu chúng ta có phương án, biện pháp giải quyết phù hợp thì sẽ ngăn chặn hoặc hạn chế được hậu quả do hành vi chống đối của họ gây ra.

2.2.2. Kết quả hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Từ năm 2014 – 2018 tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có xu hướng diễn biến phức tạp, trong đó các tội xâm phạm sở hữu chiếm hơn 50% tổng số vụ phạm pháp hình sự, tuy nhiên tội chống người thi hành công vụ có xu hướng giảm qua các năm về số lượng, tuy nhiên tính chất mức độ nguy hiểm và hậu quả do tội phạm này gây ra lại có xu hướng tăng. Để đánh giá đúng về số lượng, đặc điểm, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh một cách khách quan đòi hỏi người nghiên cứu phải căn cứ vào thực trạng loại tội phạm này.

Kết quả khởi tố và điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2014 – 2018 thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.1. Kết quả khởi tố vụ án và khởi tố bị can về tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Như vậy, qua bảng số liệu trên ta thấy, trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 Công an tỉnh Quảng Ninh đã khởi tố 39 VAHS với 56 bị can về tội chống người thi hành công vụ, tổng số vụ án và bị can về tội chống người thi hành công vụ chiếm 0.57% số vụ và 0.54 số bị can đã bị khởi tố hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Điều này cho thấy, số vụ và số bị can của tội chống người thi hành công vụ chiếm tỉ lệ tương đối nhỏ trong tổng số VAHS và số bị can đã bị khởi tố. Diễn biến chung trong giai đoạn 2014 đến 2018 cho thấy xu hướng của tội chống người thi hành công vụ là giảm trong đó năm 2014 là 12 vụ với 13 bị can, đến năm 2018 giảm xuống 7 vụ và 9 bị can. Điều này cho thấy với sự nỗ lực của các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Ninh, trong đó có Công an tỉnh Quảng Ninh, tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ đã giảm đáng kể. Điều này góp phần có hiệu quả vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh. Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Ví dụ 1: Hồi 16h30′ ngày 02/7/2014, trên đường tỉnh lộ 337, đoạn thuộc thôn Đồng Cao, xã Thống Nhất, huyện Hoành Bồ, Tổ công tác Đội Cảnh sát giao thông trật tự Công an huyện (gồm 04 đồng chí) đang làm nhiệm vụ, phát hiện xe môtô biển kiểm soát 14H4 – 5420, do Phạm Văn Tuyên (SN 1992), trú tại thôn Khe Khoai, xã Thống Nhất, huyện Hoành Bồ, điều khiển, phía sau chở Tạ Trọng Thanh (SN 1990), trú tại thôn Chân Đèo, xã Thống Nhất, huyện Hoành Bồ không đội mũ bảo hiểm. Đồng chí Đại úy Đinh Khắc Tuấn – Tổ phó Tổ công tác, ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra, khi Phạm Văn Tuyên cho dừng xe vào lề đường bên phải (xe không tắt máy) thì bất ngờ Tạ Trọng Thanh ngồi sau dướn người về trước, về số xe và tăng ga xe môtô phóng vọt lên đâm vào đồng chí Tuấn, làm đồng chí Tuấn ngã xuống đường, bị thương (gãy xương quai xanh), sau đó cả 2 đối tượng lái xe bỏ chạy. Công an huyện tiến hành điều tra làm rõ, vận động đối tượng Phạm Văn Tuyên ra đầu thú (Thanh bỏ trốn). Đến ngày 03/7/2014, đối tượng Thanh ra huyện đầu thú.

Ví dụ 2: Khoảng 20h10 ngày 7/7/2015, xe mô tô BKS 14A – 000.07 do đồng chí Nguyễn Thế Hải điều khiển chở đồng chí Nguyễn Quang Thắng và xe mô tô BKS 14A – 000.17 do đồng chí Nguyễn Công Tuấn điều khiển chở đồng chí Vũ Đức Khánh (đều thuộc phòng PC65) khi đi đến đoạn đường Hoàng Quốc Việt thuộc khu 1, phường Hùng Thắng, Hạ Long phát hiện 2 đối tượng đi 1 xe mô tô không đội mũ bảo hiểm, đối tượng ngồi sau đeo 1 túi đựng đàn ghi ta có biểu hiện nghi vấn. Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Các đồng chí đã ra tín hiệu yêu cầu 2 đối tượng trên dừng xe. Tuy nhiên 2 đối tượng không chấp hành, lái xe bỏ chạy và chửi lại tổ công tác. Khi tổ tuần tra truy đuổi được 30m đã chặn được 2 đối tượng tại lối rẽ sang đường giữa 2 chiều đường. Đối tượng ngồi sau nhảy ra khỏi xe bỏ chạy, đồng chí Hải giữ lại thì bị đối tượng điều khiển xe đạp vào lưng. Đối tượng ngồi sau chạy vào nhà cầm theo 1 tuýp sắt lao ra đánh đồng chí Tuấn 2 nhát vào lưng, vai bên trái và đuổi đánh đồng chí các đồng chí khác. Thấy vậy đồng chí Hải dùng súng bắn chỉ thiên 2 phát nhưng đối tượng không dừng lại, tiếp tục xông về phía tổ tuần tra và thách thức chửi bới. Tổ tuần tra đã tước và thu tuýp sắt của đối tượng. Sau đó tiếp tục chạy vào nhà cầm 2 thanh kiếm xông đến đánh, chém tổ tuần tra nhưng chưa gây thương tích gì. Thấy tình hình phức tạp, đồng chí Hải đã ra lệnh cho tổ tuần tra rút lui và báo cáo cấp trên.

Phòng Cảnh sát hình sự đã ghi lời khai và tiến hành cho các đồng chí Hải, Thắng, Tuấn, Khánh nhận dạng qua ảnh. Kết quả điều tra đối tượng ngồi sau là đối tượng Lê Quang Chung -1972, HKTT tổ 3B, khu 1, phường Hùng Thắng, Hạ Long. PC45 đã bắt tạm giam và khởi tố vụ án khởi tố đối tượng về hành vi chống người thi hành công vụ.(1)

Ví dụ 3: 8h ngày 16/02/2017, tại thôn Đồng Cao, xã Thống Nhất, Hoành Bồ, thực hiện Quyết định cưỡng chế thu hồi đất giải phóng mặt bằng đối với 2 hộ dân: Liêu Văn Dưỡng và Lưu Văn Ly thực hiện dự án cao tốc Hạ Long – Vân Đồn; sau khi đồng chí Chủ tịch UBND xã Thống Nhất công bố Quyết định cưỡng chế, có khoảng 50 người dân là người thân của gia đình ông Dưỡng đã có lời nói xúc phạm, lăng mạ, dùng chất bẩn, đất đá ném vào lực lượng thực hiện nhiệm vụ bảo đảm ANTT cuộc cưỡng chế, làm 1 đồng chí cán bộ Ban chỉ huy Quân sự huyện bị thương tích. Các cấp chính quyền và các đoàn thể đã tuyên truyền, vận động, yêu cầu người dân chấp hành nghiêm quy định song một số đối tượng vẫn có hành vi quá khích chống đối. Để bảo đảm ANTT quá trình cưỡng chế đã bắt, tạm giữ hình sự 5 đối tượng, gồm: Sáng, Hà, Mùi, Minh và Mừng (TN 17/02/2017). Ngày 01/3/2017, khởi tố tiếp Dưỡng. Ngày 02/3/2017, khởi tố tiếp Kim, Tư, Chung (TN 04/3/2017). Hiện tạm giam 4 đối tượng: Sáng, Mừng, Hà, Dưỡng); cấm đi khỏi nơi cư trú đối với 5 bị can còn lại. Tin ngày 29/3/2017, khởi tố thêm 5 bị can: Hồng, Thái, Đức, Phượng, Năm.

Ví dụ 4: 06h45’ ngày 21/9/2016, tại đoạn đường bao biển thuộc tổ 3, khu 6, phường Hồng Hải, ông Phạm Khắc Thứ (SN 1957), trú tại tổ 5, khu 8, phường Hồng Hải điều khiển xe ô tô BKS: 14N-5569 xảy ra va chạm với xe ô tô BKS: 14C-150.87 do Vũ Minh Trường (SN 1991), trú tại tổ 8, khu 4, phường Hà Lầm điều khiển; do 2 bên không thỏa thuận và hòa giải được nên đã nảy sinh mâu thuẫn, cãi nhau; Trường đã gọi điện cho Đỗ Thành Nam (SN 1985), trú tại Xuân Trường, Nam Định và Bùi Huy Tuấn (SN 1981), trú tại tổ 11, khu 1, phường Bạch Đằng, Hạ Long và 3 đối tượng khác đến giải quyết. Sau khi tiếp nhận tin báo có vụ việc trên, Công an phường Hồng Hải cử đồng chí Vũ Minh Đức, cán bộ Công an phường đến bảo vệ hiện trường, khi đến hiện trường, đồng chí Đức thấy hai bên có biểu hiện gây gổ, đánh nhau nên đã vào can ngăn thì bị nhóm đối tượng này có lời nói lăng mạ, đồng thời Nam giật số hiệu Công an nhân dân và Tuấn tát 1 nhát vào mặt đồng chí Đức. Công an thành phố Hạ Long đã bắt khẩn cấp, tạm giữ hình sự Nam, Tuấn (TN 22/9/2016).

Trên đây là các vụ việc điển hình mà công an các huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã khởi tố, chủ yếu số vụ xảy ra ở lĩnh vực đảm bảo an ninh trật tự trong lĩnh vực giao thông đường bộ, các đối tượng điều khiển phương tiện giao thông đã có hành vi đe dọa, chống trả, thậm chí tấn công người thi hành công vụ là các chiến sĩ cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ. Ngoài ra cũng có những vụ án trong lĩnh vực cưỡng chế giải phóng mặt bằng hoặc giải quyết xich mích, mâu thuẫn trong cuộc sống, người thi hành công vụ đã bị tấn công gây thương tích…

Trong hoạt động của CQĐT trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh khi điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ, hoạt động thu thập chứng cứ đã thể hiện ở những nội dung sau:

Để thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ,

CQĐT đã tiến hành thông qua các biện pháp chủ yếu sau:

Thu thập chứng cứ thông qua hoạt động khám nghiệm hiện trường

Qua nghiên cứu, khảo sát thực tiễn và tọa đàm trao đổi với các chuyên gia cho thấy, 39 vụ án chống người thi hành công vụ đều được tiến hành khám nghiệm hiện trường, kiểm tra hiện trường (chiếm tỷ lệ 100%), tất cả các loại hiện trường như nơi vụ án xảy ra, nơi phi tang, cất giấu công cụ, phương tiện… đều được khám nghiệm. Qua hoạt động khám nghiệm hiện trường CQĐT thu thập thông tin từ các dấu vết, vật chứng của vụ án, phối hợp với VKS, các lực lượng chức năng của cơ quan Công an tiến hành đánh giá các dấu vết, vật chứng tồn tại ở hiện trường, chụp ảnh, vẽ sơ đồ hiện trường, thu giữ, niêm phong vật chứng, viết biên bản khám nghiệm hiện trường.

Các ĐTV đã từng trực tiếp chủ trì khám nghiệm hiện trường các vụ án chống người thi hành công vụ cho thấy, công tác khám nghiệm hiện trường đã thu thập được các tài liệu, dấu vết, vật chứng…kết hợp với lời khai của người làm chứng, người bị hại hay người có liên quan đến vụ án và các thông tin do trinh sát thu thập được tại khu vực xung quanh hiện trường. ĐTV đã cùng với lực lượng kỹ thuật hình sự, chủ yếu là cán bộ khám nghiệm hiện trường đánh giá các chứng cứ thu thập được có nằm trong phạm vi hiện trường được khoanh vùng không; các dấu vết, vật chứng đó có liên quan đến vụ án đang được khám nghiệm hiện trường không; các thông tin, tài liệu, dấu vết, vật chứng thu được có mối quan hệ và phù hợp với nhau khi phản ánh về vụ án hay không…Việc đánh giá này có ý nghĩa trong việc xác định giả thuyết điều tra vụ án về thời gian, hiện trường chính, thủ phạm, động cơ, mục đích gây án… đồng thời, trong nhiều trường hợp việc thu thập các tài liệu, dấu vết, vật chứng thu được ở hiện trường là cơ sở để đánh giá, tiến hành các biện pháp truy bắt thủ phạm theo dấu vết nóng và tiến hành các biện pháp điều tra tiếp theo.

Tuy nhiên, trên thực tế công tác thu thập chứng cứ thông qua hoạt động khám nghiệm hiện trường còn những tồn tại như: Lực lượng ĐTV, kỹ thuật hình sự có mặt tại hiện trường chậm, có nhiều vụ án đã xảy ra quá lâu bị hại mới tố cáo, nên không thu thập được hết các thông tin cần thiết cho việc xác định thủ phạm khi đến hiện trường hầu như không còn dấu vết chỉ chủ yếu xác định vị trí dấu vết theo lời khai nhân chứng, bị hại; sự phối hợp giữa ĐTV, Kiểm sát viên, cán bộ khám nghiệm hiện trường còn chưa chặt chẽ, nhất là trong việc trao đổi thông tin nhanh các chứng cứ (chủ yếu là dấu vết, đồ vật, tài liệu…) thu được tại hiện trường có giá trị chứng minh nhanh để truy bắt thủ phạm theo dấu vết nóng…; nhiều vụ án gây thương tích việc khám nghiệm hiện trường còn tiến hành sơ sài, không mở rộng phạm vi khám nghiệm, nhất là những vụ hiện trường đánh nhau rộng, có nhiều vật chứng là công cụ gây án đồng dạng, nhiều loại dấu vết để lại hiện trường do vụ án có đồng phạm, hoặc nhiều người vào can ngăn… do đó thiếu các chứng cứ, làm cho công tác thu thập chứng cứ cũng hạn chế, do không tìm ra hay xác định được mối liên hệ giữa các chứng cứ với nhau; năng lực chủ trì khám nghiệm của một số ĐTV và năng khám nghiệm của một số cán bộ kỹ thuật hình sự chưa cao, nên dẫn đến việc phán đoán, thu thập nhanh các chứng cứ thu được ở hiện trường còn bị động, có nhiều vụ án thu giữ nhiều vật chứng không liên quan đến vụ án hoặc không có giá trị chứng minh… làm mất thời gian và tiến hành khám nghiệm lại, làm cho các dấu vết bị xóa hoặc thay đổi.

Thu thập chứng cứ thông qua hoạt động kiểm tra dấu vết trên thân thể bị hại, bị can.

Hoạt động kiểm tra dấu vết trên thân thể của bị hại là cán bộ, công chức, người thi hành công vụ, bị can chống người thi hành công vụ gắn liền với hoạt động khám nghiệm hiện trường, các dấu vết, tài liệu, đồ vật… thu thập được trong quá trình khám nghiệm hiện trường cùng với những dấu vết kiểm tra ghi nhận dấu vết trên cơ thể bị hại, bị can khi tổng hợp lại sẽ phản ánh về công cụ, phương tiện mà thủ phạm sử dụng dẫn đến thương tích cho nạn nhân, hay phản ánh về thủ phạm gây ra vụ án…

Từ kết quả kiểm tra dấu vết trên cơ thể bị hại, ĐTV đã cùng với cán bộ khám nghiệm hiện trường thu thập các thông tin phản ánh từ vết thương trên người bị hại có phù hợp với các dấu vết, đồ vật, tài liệu thu được qua khám nghiệm hiện trường hay không để từ đó xác định nguyên nhân, xác định các thương tích gây tổn thương bộ phận này, tổn thương ở mức độ nào, hình dạng, cấu tạo thương tích, xác định công cụ, phương tiện gây án qua hình dáng vết thương, đồng thời thu thập các đồ vật, dấu vết, các chất thu được tại hiện trường. Các dấu vết, tài liệu… thu được đó có được thu thập theo đúng quy định không, đã được niêm phong đúng quy định chưa, còn chất, dấu vết nào chưa được thu thập không…

Thu thập chứng cứ thông qua hoạt động lấy lời khai người thi hành công vụ, người làm chứng và hỏi cung bị can.

Hoạt động lấy lời khai người thi hành công vụ được đặc biệt chú ý và coi trọng trong điều tra tất cả các vụ án chống người thi hành công vụ. Đây là nguồn chứng cứ quan trọng không thể thiếu trong việc làm rõ sự thật của vụ án. Thực tiễn cho thấy, trong 39 vụ án chống người thi hành công vụ mà CQĐT tiến hành điều tra thì người bị hại là người thi hành công vụ và lấy được lời khai ban đầu, thu thập được thông tin về nạn nhân như tên, tuổi, địa chỉ, nghi ngờ ai là thủ phạm, có quan hệ với thủ phạm không, đặc điểm nhận dạng của thủ phạm. Ngoài giá trị là chứng cứ của vụ án thì lời khai của người bị hại đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện tội phạm, khởi tố vụ án. Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Trong 39 vụ án chống người thi hành công vụ xảy ra được nghiên cứu có 39 vụ có người làm chứng (chiếm tỷ lệ 100%). Đa số các vụ án chống người thi hành công vụ hoạt động lấy lời khai người làm chứng là nhằm củng cố thêm chứng cứ, làm rõ diễn biến, hành vi phạm tội của bị can. Bởi lẽ, chống người thi hành công vụ thường diễn ra ở nơi đông người, có nhiều người chứng kiến hành vi nên hoạt động lấy lời khai có nhiều thuận lợi. Người làm chứng trong vụ án chống người thi hành công vụ thường chứng kiến được toàn bộ diễn biến của vụ án, tuy nhiên nếu cần thiết có thể lấy lời khai của họ để ghi nhận được diễn biến ở một khâu, một hoạt động cụ thể trong quá trình diễn ra vụ án.

Do vậy, thông thường người làm chứng khai báo về thời gian, địa điểm xảy ra vụ án, đặc điểm nhận dạng của đối tượng, các thông tin mà họ biết về nạn nhân, hướng tẩu thoát của đối tượng, về công cụ, phương tiện đối tượng gây án, tẩu thoát… Và lời khai của người làm chứng thường khách quan, bởi vậy, trong quá trình điều tra vụ án cố ý gây thương tích, CQĐT luôn coi trọng công tác lấy lời khai người làm chứng. Đồng thời, tiến hành thu thập lời khai của người làm chứng qua việc so sánh, phân tích, đối chiếu với những thông tin, tài liệu khác đã thu thập được để xác định độ chính xác và giá trị chứng minh của lời khai người làm chứng. Trong một số vụ án cụ thể, người làm chứng còn có vai trò nhận dạng đối tượng, tang vật, tài liệu có liên quan đến vụ án.

Việc hỏi cung bị can thường khó khăn khi bị can khai báo gian dối, che giấu hành vi, mục đích phạm tội. ĐTV cần sử dụng thuần thục các phương pháp chiến thuật hỏi cung phù hợp theo từng tình huống với từng bị can cụ thể và những tài liệu chứng cứ ta có. Quá trình hỏi cung bị can cần áp dụng những thủ thuật giáo dục thuyết phục, cảm hóa để bị can thành khẩn khai báo, đồng thời cũng sử dụng linh hoạt các chứng cứ để vạch trần mâu thuẫn của những bị can khai báo gian dối.

Kết quả khảo sát cho thấy, bên cạnh những kết quả và ưu điểm, công tác hỏi cung bị can còn có những hạn chế: trước khi hỏi cung, cán bộ điều tra thường chưa nghiên cứu kỹ về nhân thân người phạm tội, việc hỏi cung thường dựa vào kinh nghiệm, chưa phù hợp với từng tình huống cụ thể, khi bị can đã khai báo là kết thúc vụ việc không chú ý tới việc khai thác mở rộng vụ án, nhất là không điều tra làm rõ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ một cách đầy đủ. Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

Trên các vụ việc cụ thể lời khai của 56 bị can, trong 39 vụ án chống người thi hành công vụ xảy ra trên địa bàn đều là những chứng cứ quan trọng trong việc xác định hành vi phạm tội, tội danh, mức độ nghiêm trọng của hành vi và là nguồn chứng cứ không thể thiếu trong chứng minh tội phạm.

Thu thập chứng cứ thông qua hoạt động trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản

Trong vụ án chống người thi hành công vụ, việc một số tượng đã gây thương tích cho người thi hành công vụ hoặc hủy hoại tài sản. Do đó, một nguồn chứng cứ quan trọng là cần phải trưng cầu giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với người thi hành công vụ, yêu cầu định giá tài sản đối với thiệt hại về tài sản.

Trong 39 vụ án đã khởi tố, thì có 26 vụ án có hoạt động trưng cầu giám định.

Việc giám định nhằm truy nguyên thủ phạm đã gây ra thương tích cho người thi hành công vụ, truy nguyên công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm, xác định tuổi và khả năng nhận thức, điều khiển hành vi để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Qua nghiên cứu, các quyết định trưng cầu giám định của CQĐT đều đúng thủ tục, các câu hỏi đưa ra phù hợp, các đối tượng truy nguyên và dùng để truy nguyên đa số đều bảo đảm số lượng và chất lượng, yêu cầu giám định phù hợp với lực lượng kỹ thuật hình sự. Bên cạnh đó, sau khi có kết luận giám định, CQĐT lại một lần nữa thu thập kết luận giám định có phù hợp với các chứng cứ đã thu thập được hay không, nếu nghi ngờ về tính khách quan, hoặc không phù hợp với chứng cứ khác thì tiến hành trưng cầu giám định lại, hoặc trưng cầu giám định bổ sung.

Đối với vụ án chống người thi hành công vụ, các vụ án có thiệt hại tài sản xảy ra thường ít hơn, tuy nhiên không phải là không có. Những vụ án này sẽ khó xác định, nhầm nhẫn giữa chống người thi hành công vụ có yếu tố gây thiệt hại về tài sản với Tội hủy hoại tài sản. Thực tiễn cho thấy, việc định giá tài sản trong nhóm tội này sẽ gặp khó khăn, vì chủ sở hữu tài sản có thể là cơ quan Nhà nước, là cơ quan, tổ chức, nên việc xác định người đại diện tố tụng sẽ khó khăn, kéo dài hoặc sai tố tụng, trong khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 lại chưa quy định chi tiết về địa vị pháp lý của người này.

Thu thập chứng cứ thông qua hoạt động khám xét

Thực tiễn hoạt động điều tra các vụ án hình sự nói chung và vụ án chống người thi hành công vụ cho thấy, hoạt động khám xét có ý nghĩa rất to lớn trong việc thu thập chứng cứ nhằm làm rõ những tình tiết của vụ án. Hoạt động khám xét được tiến hành đối với người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật…Việc khám xét được tiến hành khi có căn cứ nhận định rằng trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.

Qua khảo sát thực tiễn, khi hoạt động phạm tội chống người thi hành công vụ, quá trình thực hiện hành vi phạm tội có thể diễn ra ở nhiều địa điểm khác nhau, nhiều khâu từ việc nghiên cứu quy luật sinh hoạt, đi lại của nạn nhân, chuẩn bị công cụ phương tiện gây án, thực hiện hành vi phạm tội, che dấu tội phạm, phi tang công cụ phương tiện, xóa dấu vết,…Vì vậy, việc xác định hiện trường chính nơi xảy ra hành vi chống người thi hành công vụ và các dấu vết để lại hiện trường là quan trọng. Chính vì vậy, ngoài việc phát hiện hiện trường chính của vụ án và tiến hành khám nghiệm hiện trường, thì CQĐT phải tiến hành khám xét các địa điểm cần thiết để thu giữ các dấu vết, đồ vật, tài liệu, vật chứng liên quan đến vụ án, đồng thời tiến hành thu thập, đánh giá, sử, dụng các đồ vật, tài liệu đó… Luận văn: Tổng quan về người chống thi hàng công vụ

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Thực trạng chống thi hành công vụ tại Quảng Ninh

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x