Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Hiện nay, thực tế xã hội ngày càng chuyển động theo hướng tiến bộ kéo theo những tác động của nền kinh tế tự do, vật chất, với những mặt mặt chưa được vốn có đã làm ảnh hưởng tới nhiều hoạt động của cuộc sống. Nền kinh tế thị trường phát triển, xu hướng hội nhập kinh tế thế giới kéo theo sự du nhập của các nền văn minh mới, luồng tư tưởng tiến bộ mới, phong cách sống mới đã và đang là điều kiện làm gia tăng các loại tội phạm. Tình hình tội phạm trên địa bàn cả nước ngày càng có xu hướng gia tăng về số lượng, phức tạp và tinh vi hơn về thủ đoạn và hình thức. Bên cạnh đó, cùng với thực trạng trên thì luật pháp một công cụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con nguwoif luôn bám sát tình trạng tội phạm và có những quy định, những sửa đổi phù hợp nhằm đạt được hiệu quả phòng chống, ngăn ngừa và trừng trị thích đáng đối với các loại tội phạm. Hỗ trợ và đưa pháp luật đi vào đời sống một cách nhanh chóng và công bằng nhất là đội ngũ những người thực thi pháp luật hay còn gọi là người thi hành công vụ, nhưng tại một thời điểm nào đó, chính những “người thi hành công vụ” cũng là đối tượng hướng đến của tội phạm. Pháp luật bị vi phạm, người thực thi pháp luật bị xâm hại và đó cũng chính là lúc sự răn đe, ngăn ngừa, phòng chống, sự nghiêm trị từ những quy định của pháp luật cần được đề cao. Tội chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 330 của BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, là một trong những chế tài hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thi hành công vụ cũng như răn đe và trừng phạt những hành vi chống người thi hành công vụ. Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [19]. Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [16], Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” [21]. Điều đó có nghĩa chừng nào chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội vẫn được coi là người chưa có tội. Như vậy, hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong TTHS là hoạt động mang tính chất quyết định, xác định một người có tội hay không có tội và là tội gì. Đây là nội dung cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự trong quá trình giải quyết vụ án và là một trong những biện pháp đưa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Trên cơ sở xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, cơ quan có thẩm quyền (Tòa án) sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội đó. Vì thế, hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ được xem là tiền đề, điều kiện cho việc điều tra, truy tố, xét xử, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong trường hợp hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ không chính xác, khách quan, sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp lý khác là oan, sai, kéo dài thời gian giải quyết vụ án…Luật tố tụng hình sự quy định việc thu thập chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ. Nhưng trong thực tiễn không ít những vụ án hình sự có rất nhiều quan điểm trái ngược nhau trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ, có những vụ án qua nhiều cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm). Song mỗi một bản án lại đánh giá khác nhau. Có tình trạng trên chính là sự khác nhau trong nhận thức, trong thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ trong vụ án.
Quảng Ninh là tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc của Việt Nam với địa bàn rộng lớn, địa hình đa dạng và đặc biệt có rất nhiều ưu thế để phát triển các ngành kinh tế từ khai khoáng, khai thác đánh bắt hải sản, cảng biển, du lịch cho đến xuất nhập khẩu. Tỉnh Quảng Ninh có địa bàn trải dài và tiếp giáp với quốc gia láng giềng là Trung Quốc do đó tình hình tội phạm nói chung trong đó có tội chống người thi hành công vụ ở Quảng Ninh là tương đối phức tạp. Những năm gần đây, tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ (THCV) nói chung, chống lại lực lượng chức năng đang thi hành nhiệm vụ nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh tuy chưa thực sự bức xúc nhưng đã và đang diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Từ những vụ việc đơn lẻ, mang tính bột phát đến những vụ có tổ chức, với số đối tượng tham gia đông, hành vi mang tính liều lĩnh, manh động, coi thường pháp luật.
Theo thống kê từ năm 2014 đến năm 2018, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh xảy ra 39 vụ chống người THCV với 56 đối tượng tham gia (chiếm tỷ lệ 0.57% so với số vụ phạm pháp hình sự xảy ra cùng thời điểm: 56/6.804), làm bị thương 58 cán bộ đang thi hành nhiệm vụ, hư hỏng 5 xe tuần tra (2 xe ôtô)…CQĐT công an tỉnh Quảng Ninh đã tích cực chủ động tiến hành khởi tố điều tra đối với các vụ án chống người thi hành công vụ, đảm bảo mọi vụ việc được tiến hành điều tra nhanh chóng nhằm đưa ra xét xử trước Tòa án. Trong quá trình điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ trên địa bàn Quảng Ninh, hoạt động thu thập chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội đã được làm triệt để, nhiều nội dung được chứng minh đảm bảo yêu cầu điều tra, tránh tình trạng oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tiễn cho thấy, hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh còn bộc lộ những hạn chế như: không kiểm tra đầy đủ các loại chứng cứ, không đánh giá đúng và xác định chính xác mối liên hệ giữa các chứng cứ, chưa tạo sự đồng bộ giữa thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ…Những hạn chế trên dẫn đến một số vụ án vẫn còn kéo dài thời hạn giải quyết, các vụ chống người thi hành công vụ xảy ra chưa thu thập được đầy đủ chứng cứ nên còn bỏ lọt những đối tượng khác, đặc biệt trong các vụ án có nhiều đối tượng cùng chống người thi hành công vụ…
Do vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ, cũng như thực trạng hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, từ đó đề xuất những giải pháp để nâng cao chất lượng, kết quả hoạt động này góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chống người thi hành công vụ là yêu cấp thiết được đặt ra. Chính vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài “Thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự – Tố Tụng Hình Sự
2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Thời gian qua đã có một số đề tài và một số công trình khoa học công bố liên quan đến đề tài như:
- Đỗ Văn Đương (2000), “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra VAHS ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ.
- Nguyễn Thanh Tùng (2004), “Hoạt động thu thập đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hà Nội, thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả”, Luận văn Thạc sĩ.
- Hoàng Trung Thực (2005), “Hoạt động thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng trong điều tra các VAHS theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an thành phố Thanh Hóa – Thực trạng và giải pháp”,
- Huỳnh Tấn Hải (2014), “Hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ.
- Vương Văn Bép, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong Luật TTHS Việt Nam. Luận án tiến sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2013.
Bên cạnh đó, còn có một số công trình khoa học, luận văn, luận án nghiên cứu về các vấn đề có liên quan như: Giáo trình Luật TTHS Việt Nam (Chương VI, mục 6), PGS, TS.Võ Khánh Vinh chủ biên (Trường Đại học Huế, 2002); tài liệu tập huấn chuyên sâu về Bộ luật TTHS năm 2003 của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Bộ Công an (Hà Nội, 2004); một số vấn đề về chứng minh trong TTHS, của tác giả Trần Quang Tiệp (Tạp chí Kiểm sát số 9, 2003)…
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về tội chống người thi hành công vụ trong luật hình sự và điều tra đối với tội phạm này như:
Khóa luận tốt nghiệp: Tình hình tội chống người thi hành công vụ ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc – Đại học Luật Hà Nội năm 2011;
Luận văn thạc sỹ: “Tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn Thành phố Hà Nội” Hà Thương Huyền, Học viện Khoa học xã hội năm 2014;
Luận văn thạc sỹ: “Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” Lê Đức Sơn, Học viện khoa học xã hội năm 2016;
Các công trình khoa học, luận văn, luận án và tài liệu nêu trên chủ yếu đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận quá trình chứng minh trong điều tra VAHS. Hiện nay, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp cụ thể về hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Như vậy, đề tài: “Thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là một đề tài mới, đây là đề tài không trùng lặp với các đề tài đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, tìm ra ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại để từ đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ như: Khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương pháp thu thập chứng cứ…;
Đánh giá thực tiễn thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, xác định những ưu điểm và nhược điểm cũng như những nguyên nhân của quá trình đó;
Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi không gian trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, trong khoảng thời gian từ năm 2014 – 2018.
Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS về thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ thuộc chuyên ngành: Luật hình sự và TTHS.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con đường nhận thức nói chung và khả năng nhận thức chân lý trong TTHS nói riêng. Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ nội dung đề tài bao gồm: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp điều tra, phương pháp tọa đàm trao đổi, phương pháp thống kê, lịch sử, logíc…Những luận điểm khoa học trong luận văn của tác giả được nghiên cứu và phát triển trên các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý ở nước ta.
6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa về khoa học cũng như thực tiễn.
Về khoa học: Luận văn góp tiếng nói khiêm tốn vào lý luận về thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ ở Việt Nam hiện nay.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể được tham khảo trong hoạt động lập pháp cũng như thực tiễn hoạt động điều tra vụ án chống người thi hành công vụ Việt Nam.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về tố tụng hình sự, điều tra tội phạm.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chứng cứ và thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực trạng hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ VÀ THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
1.1. Một số vấn đề lý luận về chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
1.1.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng hình sự
Để giải quyết VAHS, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng CQĐT, VKS và Tòa án khi giải quyết VAHS cần xác minh những sự việc có liên quan đến tội phạm đang được tiến hành xem xét, trong đó cần phải khẳng định được tội phạm đã xảy ra, xác định được người cụ thể đã thực hiện tội phạm và họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện, tất cả các sự kiện và tình tiết của vụ án phải phù hợp với hiện thực khách quan. Để làm được điều đó, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có thể dựa vào chứng cứ. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để chứng minh trong TTHS.
Hiện nay trong khoa học Luật TTHS Việt Nam có một số quan điểm khác nhau về chứng cứ: Theo tác giả Đỗ Văn Đương thì: Chứng cứ là những thông tin xác thực về những gì có thật liên quan đến hành vi phạm tội, được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà những người và cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án [10, tr.44].
Giáo trình Luật TTHS, trường Đại học Kiểm sát cho rằng: Chứng cứ là những sự vật, hiện tượng, những dấu vết được CQĐT, VKS, Tòa án thu thập được trong quá trình điều tra, xét xử theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, để chứng minh có hay không có hành vi nguy hiểm cho xã hội, lỗi của người thực hiện hành vi ấy và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vụ án [27, tr.56].
Còn tác giả Trần Quang Tiệp cho rằng: Chứng cứ là những thông tin có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định mà CQĐT, VKS, Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án [23, tr.32].
Tác giả không hoàn toàn đồng ý với quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai bởi lẽ: quan điểm thứ nhất mặc dù hợp lý nhưng lại chưa nêu ra chủ thể – các cơ quan tiến hành thực hiện; quan điểm thứ hai lại quá chi tiết nhưng thiếu giai đoạn truy tố của cơ quan VKS thực hiện việc thu thập chứng cứ. Còn quan điểm thứ ba về cơ bản là hợp lý nhất vì nó bao quát cả các cơ quan tiến hành có trách nhiệm thực hiện việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ gắn liền với Luật TTHS Việt Nam, đồng thời chỉ rõ những thuộc tính về nội dung và các đặc điểm về hình thức của chứng cứ để làm cơ sở cho việc chứng minh tội phạm và người phạm tội.
TTHS của Nhà nước ta lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở của chứng cứ. Lý luận nhận thức khẳng định rằng: “Nhận thức là sự phản ánh biện chứng tích cực, trong thế giới khách quan thì không có gì con người không nhận thức được, chỉ có những điều chưa nhận thức được nhưng dần dần cũng sẽ nhận thức được”. Chính vì vậy, trong VAHS, dù người phạm tội có dùng mọi thủ đoạn tinh vi đến đâu để nhằm mục đích che dấu hành vi của mình thì tội phạm cũng được phản ánh lại bằng những dấu vết của nó, và trước sau dấu vết đó cũng bị phát hiện. Những dấu vết đó được phản ánh qua các thông tin, tài liệu phản ánh sự kiện phạm tội, phản ánh các yếu tố khách quan, chủ quan của tội phạm và các yếu tố liên quan đến người phạm tội. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để chứng minh trong TTHS.
Với vai trò quan trọng như vậy trong hoạt động tố tụng, Bộ luật TTHS đã đưa ra khái niệm về chứng cứ như sau: Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án [21].
Theo đó, dựa vào chứng cứ, sự thật khách quan mới được làm sáng tỏ, đồng thời loại bỏ những gì không có thật.
Chứng cứ là những thông tin có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, được xác định bằng các vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo), các kết luận giám định, biên bản về hoạt động điều tra và xét xử, các tài liệu, đồ vật khác.
Như vậy, chứng cứ trong vụ án chống người thi hành công vụ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án chống người thi hành công vụ.
Chứng cứ vụ án phải đảm bảo được thu thập một cách kịp thời, khách quan chẳng hạn việc xem xét hiện trường phải thể hiện được hiện trường còn nguyên vẹn hay không nguyên vẹn, việc khám xét, khám nghiệm không được bỏ sót dấu vết, đồ vật quan trọng liên quan đến vụ án, việc lấy dấu vết phải sử dụng các phương tiện kỹ thuật đảm bảo không bị biến dạng, phân huỷ…và các chứng cứ này phải được thể hiện trên biên bản do người có thẩm quyền đứng ra thiết lập. Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu, đồ vật lời khai do các tổ chức, cá nhân cung cấp và phải thể hiện tài liệu xác định việc giao nhận, phản ánh; đồng thời phải chủ động tiến hành xác minh, điều tra, thu thập để làm rõ vụ án. Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Chứng cứ là những sự vật, hiện tượng có thật và thống nhất không thể tách rời, vì vậy xem xét từng thuộc tính của chứng cứ phải trong mối quan hệ với các thuộc tính khác và trong mối quan hệ tổng thể.
Thứ nhất, tính khách quan
Đây là thuộc tính quan trọng hàng đầu của chứng cứ. Chứng cứ là những gì có thật, có nghĩa rằng chứng cứ là những thông tin có thật từ tài liệu, vật chứng tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người và những chứng cứ đó liên quan trực tiếp đến các tình tiết của vụ án đang được chứng minh. Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng chỉ phát hiện, thu thập, nghiên cứu chứng cứ chứ không tạo ra chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Tại Điều 86 của BLTTHS, tính khách quan của chứng cứ còn được gọi là tính xác thực của chứng cứ.
Trong quy định tại khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2015 có quy định một trong các nguồn chứng cứ là lời khai của người tham gia tố tụng [21]. Theo một số quan điểm cho rằng việc lấy chứng cứ là lời khai của người tham gia tố tụng dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng bởi những yếu tố chủ quan, ý chí của người khai báo mà không thể phản ánh một cách khách quan hoàn toàn những thông tin về tội phạm. Chính vì vậy, những thông tin này không đảm bảo thuộc tính khách quan của chứng cứ. Tuy vậy, về bản chất, việc cung cấp thông tin là khách quan và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, vì vậy các cơ quan này đồng thời cũng phải có trách nhiệm xác minh, đánh giá để xác định thông tin đó có chính xác hay không, so sánh thông tin này với thông tin thu được từ các nguồn khác. Mọi thông tin, sự thật thu thập được dù tồn tại trên thực tế nhưng bị xuyên tạc, bóp méo hay bị làm giả theo ý chí chủ quan thì không còn mang tính khách quan. Và những tài liệu đó cũng không thể là chứng cứ của vụ án [6, tr.74].
Thứ hai, tính liên quan.
“Tính liên quan của chứng cứ được thể hiện ở mối liên hệ khách quan của cá thông tin, tài liệu với các tình tiết của vụ án cần được xác định. Mối quan hệ này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp” [10, tr.83]. Mối quan hệ trực tiếp ở đây được hiểu là việc chứng cứ được dùng làm căn cứ để giải quyết thực chất của vụ án, đó là những căn cứ quan trọng và chủ yếu để xác định hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi của người phạm tội, các tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với việc quyết định hình phạt…Mối quan hệ gián tiếp là trong trường hợp thông tin, tài liệu đó không thể làm căn cứ để giải quyết thực chất vụ án nhưng lại đóng góp một phần nhất định vào việc chứng minh tội phạm. Chẳng hạn lời khai của người làm chứng rằng vào thời điểm tội phạm xảy ra đã chứng kiến sự có mặt của người bị tạm giữ. Như vậy, dù việc nhìn thấy sự có mặt của người bị tạm giữ không có ý nghĩa trong việc quyết định liệu rằng người bị tạm giữ có phải là người phạm tội hay không nhưng lại đóng vai trò quan trọng với CQĐT trong việc lập phương án điều tra làm sáng tỏ sự việc. Trong hoạt động tố tụng, CQĐT cũng như VKS, Tòa án phải xem xét về tính liên quan của chứng cứ ở cả hai mối quan hệ này để xác định một thông tin, đồ vật hay tài liệu có được coi là chứng cứ hay không [10, tr.85].
Thứ ba, tính hợp pháp.
Đó là sự phù hợp với các quy định của pháp luật TTHS về chứng cứ. Tính hợp pháp của chứng cứ được thể hiện qua quá trình cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo trình tự của pháp luật quy định. Nó được thể hiện ở các mặt sau:
Một là, chứng cứ được xác định bằng nguồn nhất định theo quy định của pháp luật. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì nguồn chứng cứ bao gồm các nhóm sau: Vật chứng; lời khai, lời trình bày; dữ liệu điện tử; kết luận giám định, định giá tài sản; biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; các tài liệu, đồ vật khác.
Hai là, các loại chứng cứ phải được thu thập theo một trình tự, thủ tục thống nhất chính xác do BLTTHS quy định. Tùy thuộc vào tính chất đặc điểm của chứng cứ mà BLTTHS quy định trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo được tính khách quan và giá trị chứng minh của chứng cứ.
Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử có không ít các trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ, đồ vật, tài liệu không đúng thủ tục rồi sau đó mới tiến hành hợp pháp hóa các tài liệu đó rồi đưa vào hồ sơ vụ án hoặc thu thập lời khai bằng cách đe dọa, đánh đập, mớm cung…[6, tr.89]. Điều này dẫn đến các thông tin thu thập được bị thiếu tính hợp pháp, không có giá trị chứng minh trong TTHS và đôi khi dẫn đến các trường hợp án oan, xác định sai tội phạm, người phạm tội.
Có thể thấy thuộc tính khách quan của chứng cứ, tính liên quan của chứng cứ và tính hợp pháp của chứng cứ là các thuộc tính quan trọng, giữa chúng nó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và cũng độc lập với nhau trong việc thể hiện các khía cạnh của chứng cứ. Khi xem xét bất cứ các vật chứng, nguồn tài liệu gì để sử dụng làm chứng cứ cho vụ án thì cũng cần phải xem xét đầy đủ ba tính chất này, nếu thiếu đi bất kỳ thuộc tính nào thì thông tin được thu thập không phải là chứng cứ.
Như vậy, chứng cứ trong các vụ án chống người thi hành công vụ là:
1.1.2. Khái niệm điều tra vụ án chống người thi hành công vụ Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Điều tra vụ án chống người thi hành công vụ
Khi có tội phạm chống người thi hành công vụ cũng như tội phạm hình sự xảy ra, các cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ phải tiến hành quá trình TTHS gồm: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án để giải quyết vụ án. Trong đó, hoạt động điều tra vụ án là một giai đoạn không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng. Có thể nêu khái niệm về điều tra vụ án chống người thi hành công vụ như sau:“Điều tra vụ án chống người thi hành công vụ là hoạt động điều tra của CQĐT và những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến hành theo trình tự và thủ tục TTHS, nhằm chứng minh sự thật khách quan của vụ án chống người thi hành công vụ theo yêu cầu của pháp luật”.
Như vậy có thể thấy, hoạt động điều tra loại án chống người thi hành công vụ là một hoạt động độc lập của quá trình TTHS, phục vụ cho việc thực hiện mục đích chung của quá trình TTHS đó là: “Phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người phạm tội”(Điều 1 – Bộ luật TTHS).
Là một giai đoạn độc lập của quá trình TTHS, điều tra vụ án chống người thi hành công vụ được tiến hành theo trình tự TTHS. Trong quá trình điều tra các vụ án chống người thi hành công vụcác CQĐT chỉ được áp dụng những biện pháp, những phương tiện kỹ thuật theo quy định của pháp luật, không trái với những quy định của pháp luật. Kết quả tiến hành điều tra vụ án chống người thi hành công vụđược phản ánh trong các văn bản tố tụng và có giá trị pháp lý.
Như vậy, điều tra vụ án chống người thi hành công vụ nói riêng hay điều tra VAHS nói chung là một dạng hoạt động nhận thức đặc biệt, bởi vì hoạt động điều tra có đặc điểm pháp lý. Đặc điểm pháp lý của hoạt động điều tra vụ án chống người thi hành công vụ thể hiện ở chỗ, đối tượng nhận thức của hoạt động điều tra là vụ án chống người thi hành công vụ đã xảy ra, những biện pháp và phương tiện được áp dụng trong hoạt động điều tra phải phù hợp với pháp luật, không trái với các quy định của pháp luật và kết quả điều tra vụ án chống người thi hành công vụcó giá trị pháp lý.
Khi tiến hành điều tra vụ án chống người thi hành công vụ, CQĐT chứng minh được sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ theo yêu cầu của pháp luật.
Chứng minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ theo yêu cầu của pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng đối với cuộc đấu tranh chống tội phạm. Bởi vì, chỉ sau khi chứng minh sự thật của vụ án mới có đủ căn cứ để khẳng định một người nào đó có tội hay không có tội đối với tội phạm đã xảy ra và quyết định có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó hay không. Như vậy, chứng minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ không những là mục đích cuối cùng của điều tra vụ án chống người thi hành công vụ mà còn là yêu cầu của pháp luật đối với giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ.
Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) tiến hành điều tra nhằm mục đích làm sáng tỏ sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ chỉ có thể bằng cách chứng minh. Sở dĩ như vậy là vì: Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Một vụ án chống người thi hành công vụ hay một VAHS bất kỳ là một sự kiện vật chất và đều xảy ra trong hiện thực khách quan. Theo lý luận của phép biện chứng duy vật, trong mọi trường hợp chống người thi hành công vụ xảy ra đều phản ánh trong hiện thực mà kết quả phản ánh là những thay đổi trong hiện thực do vụ án gây ra. Những thay đổi trong hiện thực do vụ án chống người thi hành công vụgây ra chính là những dấu vết vật chất, dấu vết tâm sinh lý, được thu thập theo trình tự TTHS sẽ trở thành những chứng cứ để chứng minh sự thật của vụ án, xác định tội phạm và người phạm tội.
Chứng minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ hoàn toàn không thể tiến hành những biện pháp quan sát trực tiếp, bởi vì vụ án chống người thi hành công vụ đó đã xảy ra trong quá khứ so với thời điểm tiến hành hoạt động điều tra.
Vụ án chống người thi hành công vụ là một sự kiện thực tế, do đó để chứng minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụchỉ có thể là những tài liệu thực tế đó là những chứng cứ pháp lý.
Như vậy, mục đích của hoạt động điều tra vụ án chống người thi hành công vụ là chứng minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ đã xảy ra và chứng minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ hoàn toàn có thể bằng cách tiến hành hoạt động điều tra.
Đặc điểm điều tra các vụ án về chống người thi hành công vụ.
Theo lý luận về điều tra tội phạm thì điều tra các VAHS là hoạt động mà CQĐT và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS thực hiện các hoạt động hợp pháp để thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội phục vụ cho việc truy tố, xét xử. Trong quá trình điều tra, CQĐT chỉ được áp dụng các biện pháp, phương tiện theo quy định của pháp luật để thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm. Như vậy, để hoạt động điều tra này có hiệu quả thì các cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện đúng quy định, biện pháp điều tra theo TTHS, đồng thời, kết hợp và sử dụng có hiệu quả các hoạt động nghiệp vụ trinh sát hỗ trợ cho quá trình điều tra.
Từ sự phân tích trên có thể thấy công tác điều tra vụ án chống người thi hành công vụ có một số đặc điểm của công tác điều tra tội phạm nói chung. Bên cạnh đó, công tác này cũng có một số đặc điểm riêng biệt như sau:
Hoạt động điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ là công việc hết sức khó khăn, phức tạp, thường thực hiện theo chuyên án đỏi hỏi sự linh hoạt và bảo đảm bí mật tuyệt đối.
Tóm lại, hoạt động điều tra vụ án chống người thi hành công vụ là hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, được tổ chức tiến hành dưới các hình thức nhất định tương ứng với các tình huống xảy ra.
Chủ thể của hoạt động điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ là các lực lượng được giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động điều tra các vụ án về chống người thi hành công vụ theo quy định của pháp luật, gồm: Cảnh sát điều tra tội phạm trật tự xã hội, và một số cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.
Thêm vào đó việc tổ chức hoạt động điều tra các vụ án về chống người thi hành công vụ đòi hỏi chủ thể phải sử dụng tổng hợp, đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện nghiệp vụ, thu thập tài liệu chuyển hóa thành chứng cứ nhằm làm rõ sự thật về vụ án.
1.1.3. Vai trò của hoạt động thu thập chứng cứ trong quá trình chứng minh trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Chứng cứ chính là phương tiện chứng minh VAHS. Việc chứng minh trong VAHS nói chung và vụ án chống người thi hành công vụ nói riêng không thể thực hiện nếu không có chứng cứ. Và để thực hiện tốt quá trình chứng minh, khâu thu thập chứng cứ đóng vai trò quan trọng nhất. Tiếp đó quá trình chứng minh sẽ tiếp tục trải qua các giai đoạn: kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ.
Theo lý luận về tố tụng hình sự thì thu thập chứng cứ là một trong các hoạt động đầu tiên có tính chất quan trọng của quá trình chứng minh trong VAHS. Thu thập chứng cứ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn bộ quá trình chứng minh VAHS. Hoạt động này có mục đích là để tái tạo lại những tình tiết khách quan của vụ án đã xảy ra trước đó đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập được đầy đủ những chứng cứ về vụ việc phạm tội đó, bởi vì các chứng cứ phản ánh về hoạt động của tội phạm được hình thành, tồn tại là tất yếu khách quan, có tính quy luật, mang đặc tính phản ánh chân lý khách quan về vụ án. Hoạt động của tội phạm là một quá trình vật chất nên dù dưới hình thức này hay hình thức khác cũng đều được phản ánh lại ở môi trường xung quanh dưới dạng những dấu vết nhất định. Đồng thời, sự thay đổi ở môi trường xung quanh do tội phạm gây ra tất yếu sẽ hình thành thông tin về tội phạm[3, tr.85]. Chính vì vậy, kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Số lượng, chất lượng các chứng cứ thu thập được sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc ngược lại gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh đối với vụ án. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng thường quan tâm đặc biệt đến hoạt động này.
Thu thập chứng cứ là việc chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bào chữa áp dụng các phương tiện, biện pháp và phương pháp theo quy định của BLTTHS để xác định nguồn chứng cứ, tìm ra, thu giữ, bảo quản những chứng cứ nhằm giải quyết chính xác đối với vụ án. Xét về bản chất, hoạt động thu thập chứng cứ bao gồm tổng hợp các hoạt động, các hành vi phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ.
Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng, tuy nhiên không thể thay thế các giai đoạn khác, vì trong thực tiễn việc phát hiện, thu giữ tài liệu, chứng cứ trong VAHS là công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan, khách quan khác nhau, bởi vì người phạm tội luôn luôn tìm mọi cách che giấu hành vi phạm tội, có thể tạo hiện trường giả, tạo ra những chứng cứ giả để nhằm đánh lạc hướng việc điều tra, phát hiện, thu thập chứng cứ. Bởi vậy, trong các VAHS, chứng cứ cần và đủ trong việc chứng minh, xác định sự thật của vụ án không phải lúc nào cũng đầy đủ. Trong một vụ án có thể vừa thiếu lại vừa thừa chứng cứ, có thể thu thập các loại thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án có nghĩa là không có giá trị chứng minh, nhưng lại bỏ sót những thông tin, tài liệu có giá trị chứng minh, có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án [38, tr.37]. Chính vì vậy, mọi chứng cứ đã thu thập được chỉ có thể trở thành cơ sở cho các quyết định, kết luận của CQĐT, VKS và Tòa án về vụ án hay các tình tiết cụ thể của nó sau khi được kiểm tra một cách chu đáo và thận trọng.
Sau hoạt động thu thập chứng cứ, quá trình chứng minh sẽ trải qua 3 giai đoạn tiếp theo, gồm:
- Kiểm tra chứng cứ: Kiểm tra chứng cứ là hoạt động của ĐTV, KSV, Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành nhằm xác định một cách thận trọng, toàn diện, khách quan tính chính xác của những thông tin thực tế và tính đáng tin cậy của những nguồn chứng cứ đã được thu thập để xác lập một cách đúng đắn mọi tình tiết của VAHS.
- Đánh giá chứng cứ:Việc phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ về số lượng, chất lượng có sự khác nhau dẫn tới việc đánh giá những tài liệu, chứng cứ cũng có sự khác nhau. Tuy vậy, việc đánh giá tài liệu chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng (giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử) có mối quan hệ với nhau và có cùng một mục đích. Việc đánh giá ở giai đoạn trước là tiền đề, điều kiện của giai đoạn sau. Đánh giá chứng cứ là quá trình nhận thức logíc về chứng cứ và sự phù hợp của các chứng cứ trong toàn bộ hệ thống chứng cứ.
- Sử dụng chứng cứ:Trong quá trình chứng minh VAHS, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải sử dụng chứng cứ để ra các quyết định tố tụng, CQĐT sử dụng chứng cứ khi có đủ chứng cứ xác định một người đã thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, thông qua quá trình chứng minh nếu xác định rõ bị can và vụ án thì CQĐT làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố. Trong giai đoạn kiểm sát điều tra, quyết định truy tố, duy trì công tố tại phiên tòa, Kiểm sat viên phải dựa trên cơ sở sử dụng đầy đủ đúng đắn các chứng cứ. Tại giai đoạn xét xử, mọi quyết định, kết luận cuối cùng của Tòa án cũng hoàn toàn dựa trên cơ sở việc sử dụng chứng cứ.
1.2. Một số vấn đề lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ
Chứng minh trong vụ án chống người thi hành công vụ là hoạt động đặc thù đối với một loại tội phạm cụ thể, đồng thời là phạm trù bao hàm rất nhiều hoạt động có nội dung liên quan đến khoa học pháp lý tố tụng. Theo lý luận về luật tố tụng hình sự thì trong đó hoạt động chứng minh bao gồm việc sử dụng chứng cứ làm phương tiện của việc chứng minh nhằm xác định các tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án, gồm cả toàn bộ quá trình chứng minh vụ án hình sự (thu tập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ), xác định đối tượng chứng minh, phạm vi chứng minh, giới hạn chứng minh và nghĩa vụ chứng minh đối với vụ án. Trong các vụ án chống người thi hành công vụ cụ thể, chúng ta cần phải nhận thức đúng đắn tất cả các yếu tố về các vấn đề nêu trên, tránh nhầm lẫn giữa các phạm trù khách quan trong chứng minh và sử dụng chứng cứ làm phương tiện chứng minh một cách hiệu quả.
Quá trình chứng minh trong một vụ án bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau như: Hoạt động điều tra, hoạt động truy tố và hoạt động xét xử. Mỗi hoạt động đó đều hàm chứa các hành vi tố tụng khác nhau. Cụ thể đối với giai đoạn điều tra: Hoạt động điều tra với tính chất là một giai đoạn tố tụng do CQĐT tiến hành, được bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc thời điểm làm rõ nội dung vụ án, đối tượng gây án, khởi tố bị can và chuyển VKS. Hoạt động bao gồm các hành vi tố tụng đặc trưng như: Bắt tạm giam bị can, khám xét, hỏi cung bị can, ghi lời khai người làm chứng, người bị hại, tiến hành đối chất, nhận dạng…nhằm làm rõ đối tượng chứng minh trong giai đoạn điều tra…Tất cả các hành vi tố tụng cụ thể đó nhằm đến một mục đích cuối cùng và cao nhất đó là chứng minh chân lý khách quan của VAHS. Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Quá trình điều tra, truy tố và xét xử chính là toàn bộ quá trình chứng minh trong vụ án chống người thi hành công vụ và chứng minh trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ là giai đoạn đầu tiên của quá trình chứng minh, nó bắt đầu từ khi khởi tố vụ án, kết thúc thời điểm làm rõ nội dung vụ án, đối tượng gây án và khởi tố bị can. Giai đoạn này tập trung vào các hoạt động tố tụng do CQĐT tiến hành và đặc trưng với các hoạt động: Thu tập tài liệu và dùng làm chứng cứ pháp lý để xác định người thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác về thời gian, địa điểm và hành vi phạm tội, lấy lời khai người tố giác tội phạm, những người có liên quan, lấy lời khai người làm chứng, người bị bắt, biên bản khám nghiệm hiện trường, trưng cầu giám định, nhận dạng, đối chất, các lệnh bắt, khám xét, thu giữ bảo quản tang, tài vật…Ở giai đoạn này có nhiều tình huống, tính chất, đặc điểm khác nhau, chính vì vậy nhiệm vụ chính của hoạt động trong giai đoạn điều tra là thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm xác định rõ: Phạm vi chứng minh, đối tượng chứng minh, giới hạn chứng minh và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình truy tố, xét xử.
Như vậy, chứng minh là một quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án, là một quá trình nhận thức cái chưa rõ ràng, đi từ chưa rõ đến rõ ràng, một quá trình tuân thủ chặt chẽ theo các quy luật của phép duy vật biện chứng Mác Lê Nin. Quá trình này là một hoạt động nhận thức chân lý khách quan của người Điều tra viên, một quá trình phản ánh biện chứng các sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất khách quan vào trong ý thức con người, trên cơ sở thực tiễn.
Do đó chứng minh trong vụ án là quá trình nhận thức về vụ án được các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chân lý khách quan của vụ án. Điều này nghĩa là hoạt động xác định sự phù hợp đầy đủ khach quan, chính xác của sự kiện tội phạm và tất cả các tình tiết khác có liên quan đến vụ án để làm rõ mức độ trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện hành vi phạm tội, hoặc khẳng định ngược lại là tội phạm đã không được thực hiện trên thực tiễn cuộc sống khách quan của con người còn sống trong thế giới vật chất này, điều này khác so với người có nhận thức duy lý, duy tâm và tâm thần học tư pháp, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự không có lỗi. Việc nhận thức chân lý khách quan của vụ án ma túy là một quá trình hết sức phức tạp được tạo bởi các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ do các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện phù hợp với các qui định của BLTTHS Việt Nam; quá trình này được thừa nhận là một quá trình nhận thức. Vì vậy quá trình chứng minh vụ án chống người thi hành công vụ cũng phải tuân thủ những qui luật chung của quá trình nhận thức hiện thực khách quan.
Trong hoạt động chứng minh đối với VAHS nói chung và chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ nói riêng, hoạt động thu thập chứng cứ là hoạt động bước đầu để tiến hành hoạt động chứng minh VAHS.
Thu thập chứng cứ là hoạt động đầu tiên có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình chứng minh tội phạm, cũng như trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ. Thu thập chứng cứ mà pháp luật TTHS quy định được hiểu là thu thập từ nguồn của chứng cứ hay thu thập ngay chính chứng cứ. Theo đó “Thu thập chứng cứ trong VAHS là quá trình phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ do Điều tra viên và những người theo luật định tiến hành bằng các phương pháp, biện pháp và phương tiện phù hợp với pháp luật, không trái với pháp luật” Như vậy nội dung của hoạt động thu thập chứng cứ bao gồm: Phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ. Trong đó:
Phát hiện chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụlà quá trình tìm tòi, làm rõ được các thông tin phản ánh về vụ phạm tội và người đã thực hiện hành vi phạm tội được chứa đựng trong các nguồn thực tế bằng các hành vi, phương tiện phù hợp với pháp luật. Trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ, để phát hiện chứng cứ cơ quan THTT phải tiến hành một số công tác như: khám nghiệm hiện trường thu giữ đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án; phát hiện và lấy lời khai người làm chứng về những tình tiết của vụ án…
Ghi nhận chứng cứ là hoạt động mô tả, sao chép những đặc tính và dấu hiệu của các đối tượng mang thông tin chứng minh đã phát hiện và đưa vào các nguồn chứng cứ theo quy định để sử dụng nhiều lần trong quá trình chứng minh và đảm bảo tích lũy chúng cho đến lúc làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án. Trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ hoạt động ghi nhận chứng cứ được thể hiện thông qua một số mặt công tác cụ thể như: Lập biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng; vẽ sơ đồ hiện trường…
Thu giữ chứng cứ cũng là một biện pháp quan trọng để thu thập chứng cứ. Thu giữ chứng cứ trong vụ án chống người thi hành công vụchính là việc tách đối tượng nguyên mẫu (dấu vết, đồ vật) mang thông tin chứng cứ ra khỏi môi trường xung quanh và bảo quản chúng theo quy định của pháp luật, chẳng hặn như hoạt động sao in dấu vết và đúc khuôn dấu vết…
Quá trình phát hiện, ghi nhận và thu giữ chứng cứ phải gắn liền với hoạt động bảo quản chứng cứ. Bảo quản chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụlà giữ gìn chứng cứ đã phát hiện, ghi nhận và thu giữ được bằng các phương pháp khoa học và theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ giá trị chứng minh để sử dụng chứng cứ trong quá trình chứng minh sự thật vụ án. Vì vậy các tài liệu, biên bản hoạt động đều phải đưa vào hồ sơ vụ án, vật chứng thu giữ được trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụphải niêm phong, đóng gói đúng quy định của pháp luật.
Từ khái niệm thu thập chứng cứ nêu trên, chúng ta có thể thấy đặc điểm của thu thập chứng cứ trong các vụ án chống người thi hành công vụ như sau:
Hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ chủ yếu thể hiện trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, trong đó các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bào chữa, áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để thu thập chứng cứnhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ;
Mỗi tài liệu được coi là chứng cứ chỉ có giá trị chứng minh khi đảm bảo được tính hợp pháp của nó, tức là các cơ quan tiến hành tố tụng khi thu thập chứng cứ đều phải theo một trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Ở giai đoạn điều tra, trên cơ sở Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì các hoạt động của điều tra viên phải do pháp luật TTHS, Luật tổ chức điều tra hình sự quy định và điều chỉnh về trình tự thu thập chứng cứ ở giai đoạn đó, thì chứng cứ mới có giá trị chứng minh. bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình điều tra, mà chủ thể tiến hành tố tụng áp dụng các phương pháp thu thập chứng cứ không do BLTTHS quy định thì những thông tin, những tài liệu, sự kiện đó không được coi là chứng cứ để sử dụng vào việc chứng minh trong vụ án ma túy. Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Chứng cứ là phương tiện duy nhất để các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng trong quá trình chứng minh trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ, tuy nhiên hoạt động thu thập chứng cứ ở mỗi giai đoạn đều có đặc điểm riêng khác nhau, khi nghiên cứu về quá trình chứng minh trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ thì cần phải làm rõ quá trình chứng minh của giai đoạn điều tra là vấn đề hết sức cần thiết để giúp cho chúng ta hiểu rõ được quá trình chứng minh của từng giai đoạn, từ đó đề ra những biện pháp và kế hoạch cụ thể để thu thập chứng cứ một cách phù hợp và hiệu quả.
Mỗi giai đoạn của quá trình chứng minh đều hết sức quan trọng và không thể thiếu được trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ, vì vậy tôi cho rằng việc nghiên cứu về giai đoạn thu thập chứng cứ để chứng minh là các giai đoạn có ý nghĩa cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Bởi lẽ đó, tôi thấy cần phải nghiên cứu và làm rõ đặc điểm từng giai đoạn của quá trình chứng minh trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ.
Hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra là quá trình chứng minh bắt đầu từ khi vụ án chống người thi hành công vụ được khởi tố và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền có bản kết luận điều tra. Việc này thể hiện sự đánh giá, kết luận mang tính pháp lý đầu tiên về sự thật khách quan của vụ án. Giai đoạn này là giai đoạn khởi đầu của quá trình chứng minh làm tiền đề cho các giai đoạn tiếp theo.
Hoạt động thu thập chứng cứ ở vụ án chống người thi hành công vụ ở trong giai đoạn điều tra thực tế diễn ra không chỉ sau khi có quyết định khởi tố VAHS mà hoạt động này có thể bắt đầu từ khi nhận được tin báo về vụ án chống người thi hành công vụ, vì vậy hoạt động chứng minh vụ án chống người thi hành công vụ có thể được tiến hành trước khi khởi tố vụ án. Giai đoạn này là giai đoạn tiền khởi tố. Cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể ra quyết định khởi tố vụ án chống người thi hành công vụ khi có căn cứ xác định: “Có dấu hiệu của tội phạm về ma túy”. Trong thực tế, tội phạm ma túy diễn ra rất phức tạp và muôn hình muôn vẻ, có những sự việc đơn giản có thể kết luận ngay là có “dấu hiệu của vụ án chống người thi hành công vụ” mà không cần phải qua xác minh hay điều tra sơ bộ nhưng có những sự việc phải thông qua quá trình xác minh, kiểm tra và đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải sử dụng đến các chiến thuật, biện pháp nghiệp vụ mới có thể kết luận được là có hay không có “dấu hiệu của vụ án chống người thi hành công vụ”. Chính vì vậy, trước khi ra quyết định khởi tố vụ án, cơ quan có thẩm quyền đã tiến hành một số biện pháp có tính chất tố tụng nhằm thu thập chứng cứ, tài liệu để có thể tổng hợp đánh giá, kết luận về sự việc sau đó mới có quyết định khởi tố vụ án và phân công Điều tra viên, CQĐT muốn sử dụng các chứng cứ ở giai đoạn tiền khởi tố thì đòi hỏi phải chuyển hóa chứng cứ. Đây là đặc điểm khác hẳn với giai đoạn truy tố và xét xử.
Chủ thể của quá trình thu thập chứng cứ ở giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ bao gồm người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, người bào chữangười được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong các cơ quan: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định của BLTTHS.
Sau khi có quyết định khởi tố vụ án chống người thi hành công vụ, hoạt động trước tiên để chứng minh vụ án chống người thi hành công vụ là thu thập chứng cứ. Để thu thập được chứng cứ có vai trò quan trọng, CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra cần căn cứ vào qui định của BLTTHS để tiến hành.
Tuy nhiên, điều này hơi khác một chút so với hoạt động kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ để chứng minh trong giai đoạn truy tố và xét xử, hoạt động đánh giá, sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về tội chống người thi hành công vụ chỉ mang tính sơ bộ mà thôi, chưa mang tính chính thức đâu mà và cũng chưa đủ để đưa ra kết luận cuối cùng về bản chất vụ án vì nó được thực hiện trước khi xét xử và nhằm mục đích phục vụ cho giai đoạn xét xử. Chỉ trong trường hợp CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra thì việc đánh giá chứng cứ mới có tính quyết định.
1.2.2. Các nguyên tắc của hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Để thu thập chứng cứ nhằm chứng minh hành vi phạm tội, chủ thể đánh giá chứng cứ cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
1.2.2.1. Nguyên tắc khách quan, toàn diện và đầy đủ
Các chủ thể tố tụng khi tiến hành đánh giá chứng cứ trước hết phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Tiêu chuẩn đầu tiên để thu thập chứng cứ là thực tế khách quan. Trong trường hợp có nhiều chứng cứ thu được những thông tin không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau thì phải căn cứ vào thực tế khách quan để thu thập chứng cứ mà không định trước giá trị của bất kỳ chứng cứ nào.
Như vậy, theo chúng tôi mỗi chứng cứ cần phải được xem xét riêng biệt và đem so sánh tương quan với các loại chứng cứ khác, đặt nó trong mối liên hệ với khách quan với các chứng cứ khác, phát hiện kịp thời lỗ hổng của hệ thống chứng cứ này trong vụ án đang điều tra, truy tố, xét xử. Khi các chứng cứ không tạo thành hệ thống khách quan đến cùng đi đến một kết luận không tương thích về tình tiết cần phải chứng minh trong VAHS chống người thi hành công vụ thì cần xem xét trong hệ thống đó, chứng cứ nào kết luận theo hướng ngược lại, nguồn của chứng cứ này, như vậy, điều đặc biệt là tính khách quan của chứng cứ này có ý nghĩa quan trọng để ta chấp nhận sử dụng chứng cứ đó hay không.
Chủ thể thu thập chứng cứ không thể tùy tiện loại bỏ một chứng cứ nào đó trong hệ thống chứng cứ đã thu thập được mà phải đánh giá khách quan, toàn diện tất cả các chứng cứ của vụ án. Mọi chứng cứ đã thu thập, mọi tình tiết được xác định bằng các chứng cứ đều phải được xem xét đến. Trong đó, có những tình tiết buộc tội, những tình tiết gỡ tội, những lời khai, những lý lẽ của các bên tham gia tranh luận… đều phải được xem xét.
Cần phải đưa ra các giả thuyết về tính đúng đắn, sai lầm của mỗi chứng cứ để từ đó đánh giá một cách tổng quát và toàn diện nhằm chứng minh một tình tiết hay nhiều tình tiết liên quan trong vụ án.
1.2.2.2. Nguyên tắc thu thập chứng cứ trong mối quan hệ tổng thể các vấn đề của vụ án
Trước hết các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi tiến hành thu thập chứng cứ khách quan phải đặt chứng cứ đó trong mối quan hệ với tổng thể các yếu tố của vụ án hình sự đang được xử lý. Bởi, các loại chứng cứ trong cùng một vụ án hình sự sẽ luôn có mối quan hệ gắn bó, keo sơn với nhau trong việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự. Chỉ thu thập được một vài chứng cứ rời rạc, thiếu mối liên hệ với nhau, không tạo thành hệ thống thì không thể đi đến kết luận chính xác được.
Các chứng cứ đã thu thập được phải cho phép xác định các sự kiện trong VAHS theo một trật tự nhất định về không gian và thời gian phù hợp với hiện thực khách quan. Tuy nhiên, nếu có một chứng cứ xác định một sự kiện nào đó tồn tại một cách khách quan, đủ chi phối toàn bộ quá trình bao gồm nhiều vấn đề khác nhau thì không cần phải chứng minh thêm vấn đề khác.
1.2.2.3. Nguyên tắc giải thích sự nghi ngờ theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Nguyên tắc này có nghĩa là nếu các chứng cứ về vụ án còn đang tranh cãi và mâu thuẫn, nếu sự kiện này hay sự kiện khác có thể được giải thích theo những hướng khác nhau về lý do xuất hiện và diễn biến của nó, nếu như chứng cứ này hoặc chứng cứ khác còn có sự nghi ngờ thì phải chấp nhận việc quyết định theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Điều này cũng có nghĩa là sự buộc tội phải được và chỉ được dựa vào các sự kiện không có sự nghi ngờ, rằng những gì có sự nghi ngờ, không xác thực cần phải được loại trừ ra khỏi cơ sở để buộc tội, rằng kết luận về tính có lỗi của bị can, bị cáo có thể được rút ra chỉ khi tính có lỗi được chứng minh mà không có sự nghi ngờ nào.
Tuy nhiên, không nên nhận thức và áp dụng nguyên tắc này một cách giản đơn rằng cứ có sự nghi ngờ là lập tức giải thích theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Thực tiễn cho thấy rằng, trong nhiều trường hợp khi điều tra và xét xử VAHS, những người tiến hành tố tụng thường có sự nghi ngờ về tính chính xác của các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được. Nếu có sự nghi ngờ như vậy thì những người tiến hành tố tụng phải áp dụng mọi biện pháp theo quy định của pháp luật để thu thập và xác định thêm các chứng cứ khác, loại bỏ sự nghi ngờ đối với các chứng cứ hiện có, sự nghi ngờ về các sự kiện do chứng cứ hiện có cung cấp.
Nguyên tắc giải thích sự nghi ngờ theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo phải là trong trường hợp điều nghi ngờ này không thể làm rõ được nữa vì không còn cơ sở xác minh, không thể áo dụng biện pháp xác minh được nữa, không còn thời hạn mà luật cho phép…chứ không phải cứ xuất hiện nghi ngờ là ngay lập tức áp dụng nguyên tắc này.
1.2.3. Những vấn đề chứng minh trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ
Về bản chất, hoạt động chứng minh VAHS là hoạt động của quá trình nhận thức, xây dựng, tái hiện cụ thể hành vi phạm tội đã xảy ra trong quá khứ bằng việc tiến hành các hoạt động điều tra nhằm thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trên cơ sở những quy định của pháp luật để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án như nó đã xảy ra. Để đạt được mục đích trên, các hoạt động điều tra phải nhất thiết được tiến hành dựa trên cơ sở khoa học và phương pháp nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Mỗi vụ phạm tội là một hiện tượng trong thế giới khách quan, được phản ánh ra ngoài thế giới khách quan thông qua các dạng vật chất nhất định. Vì vậy, khi xảy ra bao giờ nó cũng hình thành nên những thông tin theo những quy luật nhất định, các quy luật đó đã chi phối hoạt động điều tra và đây là cơ sở khoa học quan trọng nhất đối với quá trình thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong chứng minh VAHS nói chung và vụ án chống người thi hành công vụ nói riêng. Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ phải được tiến hành theo các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, hay nói cách khác, hoạt động đó phải được điều chỉnh bằng pháp luật.
Tại Điều 88 Bộ luật TTHS quy định “Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án….”; Điều 108 Bộ luật TTHS quy định “Mỗi chứng cứ phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định các chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết VAHS” [21]. Như vậy, những quy phạm pháp luật được thể hiện trong Điều 88, Điều 89 và Điều 108 Bộ luật TTHS là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án nói chung và trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ nói riêng.
Các quy định của pháp luật về hoạt động này bao gồm: Các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh mục đích và đối tượng chứng minh trong VAHS; các quy phạm xác định khái niệm và phân loại chứng cứ, các loại nguồn chứng cứ; các quy phạm quy định giá trị chứng minh của chứng cứ; các quy phạm quy định các biện pháp, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp này nhằm thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ.
Các quy phạm pháp luật nói trên chính là cơ sở pháp lý của hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ trong điều tra VAHS. Ngoài việc quy định về những vấn đề có tính nguyên tắc về trình tự thủ tục và phương pháp tiến hành, khoa học luật TTHS còn quy định một cách sâu sắc những chỉ dẫn cơ bản về phương pháp.
Trong vụ án hình sự, đối tượng chứng minh nói chung, trong vụ án chống người thi hành công vụ nói riêng được xác định là sự việc phạm tội, người thực hiện tội phạm và những tình tiết khác có liên quan đến vụ án. Những vấn đề đó cần được các cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ để xác định bản chất của vụ án. Vì vậy, đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đớ là các vấn đề:có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Những nội dung trên cần phải được làm sáng tỏ trong quá trình chứng minh. Tuy vậy, những nội dung đó không phải đều được chứng minh trong các vụ án mà tuỳ trường hợp, do tính chất của vụ án mà nội dung chứng minh ở từng vụ án khác nhau. Chẳng hạn, đối với hành vi huỷ hoại tài sản thì trong quá trình chứng minh phải làm rõ mức độ thiệt hại, nhưng trường hợp người phạm tội mới có hành vi huỷ hoại chưa gây hậu quả đã bị phát hiện và bắt giữ thì không cần phải làm rõ nội dung, mức độ gây thiệt hại.
Đối tượng chứng minh là mục tiêu mà cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ phải làm sáng tỏ trong quá trình giải quyết vụ án. Hệ thống những vấn đề chứng minh có mối quan hệ lẫn nhau tạo nên đối tượng nhận thức trong từng vụ án với những hoàn cảnh cụ thể. Trên cơ sở đó cơ quan điều tra xác định phạm vi của đối tượng chứng minh của vụ án một cách đúng đắn, giúp cho việc định hướng điều tra thu thập chứng cứ, tránh được việc điều tra tràn lan hoặc bỏ sót.
Chứng minh là việc sử dụng các chứng cứ để làm sáng tỏ bản chất và các tình tiết của vụ án. Việc thu thập chứng cứ dùng làm căn cứ chứng minh là một quá trình phản ánh nhận thức của con người từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất. Là nhận thức chân lý về vụ án nên quá trình chứng minh phải tuân theo những quy luật của nhận thức khách quan từ trực quan đến tư duy trừu tượng, từ việc thu thập, kiểm tra chứng cứ đến việc đánh giá tổng hợp các chứng cứ đã thu thập nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án. Phương pháp được sử dụng trong quá trình chứng minh là phương pháp biện chứng đặt sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ tổng thể và luôn vận động biến đổi, là các phương pháp của logíc hình thức như: qui nạp, diễn dịch, giả định …Quá trình chứng minh gồm những bước: phát hiện chứng cứ, thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Quá trình này đã xem xét toàn bộ các chứng cứ đã thu thập được nhằm xác định đã có đủ cơ sở để chứng minh tội phạm hay chưa. Trên cơ sở đánh giá mối quan hệ giữa các chứng cứ và đối chiếu với thực tế khách quan xem có phù hợp hay không để đưa ra các kết luận về vụ án.
1.2.4. Biện pháp, thẩm quyền thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Thu thập chứng cứ là việc ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng làm cho chứng cứ có đầy đủ giá trị chứng minh và hiệu quả sử dụng.
Biện pháp thu thập chứng cứ là những cách thức, phương pháp, thủ tục khi tiến hành thu thập các thông tin liên quan đến vụ án được qui định trong Luật tố tụng hình sự. Theo các qui định của BLTTHS 2015, thì có các nhóm biện pháp thu thập chứng cứ: Khởi tố bị can và hỏi cung bị can; Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đối chất, nhận dạng; Khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu; Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra; Giám định và định giá tài sản; Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt: ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử (chỉ áp dụng đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền, các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng).Những tài liệu không được phản ánh ở những nguồn và thu thập bằng những biện pháp trên thì không được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm. Thuộc tính này phân biệt chứng cứ với các tài liệu có chứa đựng thông tin về tội phạm được thu thập bằng các biện pháp trinh sát, nhiệp vụ của cơ quan công an hoặc các cơ quan nhà nước khác.
Thẩm quyền thu thập chứng cứ thuộc về: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTHS; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
Khi thu thập chứng cứ, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có thái độ khách quan, toàn diện, thu thập hết các loại chứng cứ từ các nguồn khác nhau và đúng thủ tục tố tụng. Để tránh việc thu thập một cách tràn lan, đồng thời không bỏ sót chứng cứ thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải dựa vào những vấn đề cần phải chứng minh của vụ án coi đó là mục tiêu của việc thu thập chứng cứ. Thu thập chứng cứ phải được tiến hành bằng những biện pháp của Luật tố tụng hình sự và do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện mới đảm bảo cho chứng cứ có giá trị chứng minh.
1.2.5. Mối quan hệ giữa đánh giá chứng cứ với thu thập, kiểm tra, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ là các giai đoạn của quá trình chứng minh, chính vì thế chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giai đoạn này là tiền đề, là cơ sở hoạt động cho giai đoạn kia và ngược lại.
Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên của quá trình chứng minh, là bước đầu tiên để thu thập các luồng thông tin mang tính nhiều chiều, đó có thể là chứng cứ trực tiếp, gián tiếp hoặc cũng không phải là chứng cứ (do không đảm bảo một thuộc tính nào đó của chứng cứ)… Khi đó phải có bước đánh giá chứng cứ để xác định xem có thỏa mãn điều kiện của một chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hay không và chứng cứ đó liệu đã chứng minh, làm sáng tỏ tất cả các tình tiết của vụ án và giải quyết được thực chất của vụ án hay chưa. Như vậy, nếu không có giai đoạn thu thập chứng cứ thì không có cơ sở dữ liệu để đánh giá chứng cứ và ngược lại nếu không có giai đoạn đánh giá chứng cứ thì giai đoạn thu thập chứng cứ không có ý nghĩa đối với quá trình chứng minh tội phạm.
Kiểm tra chứng cứ là hoạt động nhằm xác định một cách thận trọng, toàn diện, khách quan tính chính xác của những thông tin thực tế và tính đáng tin cậy của những nguồn chứng cứ đã được thu thập để xác lập một cách đúng đắn mọi tình tiết của VAHS, vì vậy kiểm tra chứng cứ là giai đoạn đóng vai trò tiền đề cho giai đoạn đánh giá chứng cứ. Một tài liệu, đồ vật trước khi đưa vào đánh giá xem có thỏa mãn các điều kiện của chứng cứ không, có giá trị chứng minh, làm sáng tỏ các tất cả các tình tiết của vụ án hay không thì phải được kiểm tra xem các thông tin từ tài liệu đó có thật trong thực tế không, có chính xác không, được thu thập từ nguồn đáng tin cậy không. Nếu tài liệu đồ vật đó được thu thập từ nguồn không đáng tin cậy hoặc không chính xác trong thực tế thì không cần trải qua bước đánh giá chứng cứ nữa. Các tài liệu, đồ vật đó không thể coi là chứng cứ chứng minh VAHS.
Trong quá trình chứng minh VAHS, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải sử dụng chứng cứ để ra các quyết định tố tụng. Nếu không có giai đoạn đánh giá chứng cứ hoặc đánh giá chứng cứ không đúng thì Cơ quan tiến hành tố tụng không thể có một hệ thống chứng cứ đúng đắn, khách quan, hợp pháp, đầy đủ để sử dụng khi ra các quyết định tố tụng. Nghĩa là, các cơ quan tiến hành tố tụng muốn sử dụng chứng cứ đúng thì phải đánh giá chứng cứ đúng. Vì vậy, đánh giá chứng cứ là cơ sở dữ liệu để sử dụng chứng cứ.
Tiểu kết chương 1
Thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ là một trong những hoạt động điều tra do CQĐT tiến hành (VKS có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ khi xét thấy cần thiết), nhằm mục đích chứng minh tội phạm, sự thật vụ án, phục vụ cho công tác truy tố và xét xử. Xuất phát từ vị trí quan trọng của hoạt động này, pháp luật TTHS Việt Nam không chỉ quy định nguyên tắc, mục đích của việc thu thập chứng cứ, mà còn chỉ ra con đường để đạt được sự thật vụ án trong từng giai đoạn tố tụng.
Trong chương 1 của luận văn, những vấn đề lý luận có liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ như: Khái niệm giai đoạn điều tra và những vấn đề cần phải chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ; khái niệm thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ; mục đích, vai trò và ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ; quy định về thu thập chứng cứ đã được phân tích làm rõ trên các phương diện khoa học và pháp luật. Qua đó tạo ra cơ sở lý luận khách quan phục vụ cho quá trình nghiên cứu làm rõ những nội dung quan trọng trong chương 2 và chương 3 của luận văn. Luận văn: Chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY