Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Hoạt động hợp nhất, sáp nhập (M&A) công ty chứng khoán tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam, tổng quan về thị trường chứng khoán và khái quát hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán tại Việt Nam

2.1.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Trải qua gần 30 năm đổi mới và phát triển, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam được thể hiện qua sự tăng trưởng của GDP, đặc biệt có sự tăng trưởng mạnh từ những năm 2003 đến 2007 với tốc độ trên 7%. Đời sống người dân ngày càng được nâng cao, trong đó nông dân ở những vùng sâu vùng xa được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, kinh tế Việt Nam đã bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu chưa được giải quyết, suy thoái trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu (Eurozone) cùng với khủng hoảng tín dụng và tình trạng thất nghiệp gia tăng. Tăng trưởng của các nền kinh tế đầu tàu suy giảm kéo theo sự sụt giảm của các nền kinh tế khác.

Nền kinh tế Việt Nam, do phải đối mặt với những khó khăn thách thức lớn kể trên, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân chỉ đạt trên 5%, lạm phát tiếp tục tăng; mặt bằng lãi suất cao; tỷ giá biến động bất thường. Trong năm 2015, thị trường toàn cầu có nhiều biến động mạnh, đặc biệt là dầu thô giảm giá liên tục và giảm ở mức sâu trong những tháng qua. Bên cạnh đó, sự bất ổn của thị trường tài chính toàn cầu với việc giảm giá đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc – nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, khiến phần lớn các quốc gia châu Á phải đối mặt với áp lực phá giá tiền tệ để bảo đảm năng lực cạnh tranh tại các thị trường xuất khẩu. Ngoài ra, thị trường tiền tệ và chứng khoán tại các nền kinh tế mới nổi cũng chịu nhiều áp lực do các dòng vốn đầu tư giảm đáng kể.

Trước diễn biến phức tạp của kinh tế toàn cầu, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp, chính sách nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, duy trì mức tăng trưởng hợp lý. Theo đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2015 giảm 0,21% so với tháng trước, chủ yếu do tác động của giá xăng và giá gas được điều chỉnh giảm. Trong khi đó, nếu so với tháng 12/2014, chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2015 tăng 0,4%, là mức tăng thấp nhất trong 10 năm gần đây. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm nay tăng 0,74% so với bình quân cùng kỳ năm 2014. Trong khi đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2015 ước tính tăng 6,50% so với cùng kỳ năm 2014.

Nhìn chung, tuy gặp nhiều khó khăn và trải qua nhiều thăng trăm lịch sử, những thành công trong công tác cải cách nền kinh tế nước nhà đã phần nào được thế giới biết đến và công nhận, tiêu biểu là sự kiện gia nhập vào WTO, qua đó tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam khi xâm nhập kinh tế quốc tế.

Sự phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã làm xuất hiện nhiều loại thị trường trong nền kinh tế và sự xuất hiện của thị trường tài chính nói chung cũng như thị trường chứng khoán nói riêng là một bước ngoặc đáng nghi nhận. Kể từ khi ra đời đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và những biến động bất ngờ trên thị trường đã gây tác động rất lớn đến các nhà đầu tư và cả doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải hoạt động trong môi trường minh bạch hơn, cạnh tranh gay gắt hơn. Do đó, sự phát triển của thị trường chứng khoán đến một giai đoạn nhất định sẽ dẫn đến sự hình thành một thị trường mới, với nhiều hình thức khác nhau, trong đó có thị trường M&A, là hệ quả tất yếu của sự phát triển thị trường chứng khoán.

Thị trường chứng khoán đã tác động và dẫn đến việc hình thành mầm móng sơ khai của thị trường M&A tại các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng. Sự ra đời và phát triển của hoạt động M&A sẽ tác động mạnh mẽ đến quá trình tái cấu trúc, tạo cơ hội phát triển tốt hơn cho cả doanh nghiệp và cả nền kinh tế theo định hướng của từng lĩnh vực, ngành cụ thể cũng như định hướng chung của Nhà nước.

Bảng 2.1: Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2015

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

2.1.2. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam trong 15 năm hoạt động và phát triển Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ năm 2000 với việc vận hành của Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) vào ngày 20/7/2000 (tiền thân là Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM). Công ty Cơ điện lạnh (REE) và Công ty Viễn thông cáp Sài Gòn (SAM) là 2 công ty có cổ phiếu niêm yết đầu tiên trên thị trường và chính thức giao dịch vào ngày 28/07/2000. Kết thúc năm 2000, có đến 7 CTCK bắt đầu hoạt động trên thị trường, nhưng số cổ phiếu niêm yết trên HOSE chỉ là 5 công ty với việc có thêm 3 công ty niêm yết thêm là Công ty Chế biến hàng Xuất khẩu Long An (LAF), Công ty Giấy Hải Phòng (HAP) và Công ty Transimex Saigon (TMS). Đến hết năm 2014, số lượng các doanh nghiệp niêm yết (DNNY) là 305 doanh nghiệp với 33 triệu cổ phiếu niêm yết (CPNY).

Biểu đồ 2.1: Số lượng DNNY và CPNY trên HOSE qua các năm

Qua 15 năm hoạt động và phát triển, TTCK Việt Nam đã đạt được những thành quả đáng kể trong việc gia tăng quy mô vốn hóa và thanh khoản thị trường, đưa TTCK trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp. Tính đến hết năm 2014, tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là hơn 330 nghìn tỷ đồng, vốn hóa toàn thị trường là hơn 985 nghìn tỷ đồng, tương đương 25% GDP của năm 2014. Nếu như giai đoạn từ năm 2000 đến 2005, giá trị vốn hóa chỉ đạt hơn 7 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2005, thì từ năm 2006, quy mô thị trường đã có xu hướng tăng trưởng khá đều và tích cực, dù có những thăng trăm và biến động mạnh trong giai đoạn 2008 – 2011.

Biểu đồ 2.2: Giá trị niêm yết và giá trị vốn hóa qua các năm

Bên cạnh sự biến động cũng như sự tăng trưởng về quy mô thị trường, chỉ số chứng khoán Việt Nam (VNIndex) trong 15 năm qua cũng có nhiều biến động đáng ghi nhớ. Sau khi TTCK đi vào hoạt động trong 2 năm đầu 2000 – 2001, chỉ số VNIndex tăng cực mạnh, từ 100 điểm lên hơn 550 điểm, để rồi sau đó chỉ số VNIndex bắt đầu thời kỳ suy giảm kéo dài trong khoảng 4-5 năm. Kể từ thời điểm 2006, thị trường chứng khoán đã có nhiều dấu hiệu khởi sắc và bắt đầu sôi động hơn, nhất là thời điểm Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Trong thời kỳ 2006 – 2007, số lượng doanh nghiệp niêm yết gia tăng ồ ạt, cùng với đó là chỉ số VNIndex tăng mạnh và chạm mốc 1.170 điểm trong phiên giao dịch ngày 27/02/2007. Kết thúc phiên giao dịch ngày 27/02/2017, VNIndex đã ghi nhận mốc 1.167,36 điểm và đây là mức tăng cao kỷ lục của VNIndex kể từ khi TTCK Việt Nam bắt đầu đi vào hoạt động cho đến nay.

Kể từ mức tăng điểm kỷ lục, TTCK bắt đầu bước vào giai đoạn khó khăn và ảm đạm trong giai đoạn 2008 – 2011, do chịu ảnh hưởng chung của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mà khơi nguồn là từ nước Mỹ, nền kinh tế số 1 thế giới. Hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp niêm yết gặp nhiều khó khăn, dòng vốn đầu tư nước ngoài hạn chế vào Việt Nam, nhà đầu tư thua lỗ, theo đó mà tình hình kinh doanh của các CTCK cũng bị ảnh hưởng, nhiều công ty ghi nhận những mức lỗ kỷ lục và lỗ lũy kế kéo dài. Sự suy giảm của thị trường đã đẩy VNIndex đã giảm sâu liên tục, rồi chạm đáy 235,5 điểm vào phiên giao dịch ngày 24/02/2009 và đây là mức giảm sâu kỷ lục trong 10 năm trở lại đây.

Biểu đồ 2.3: Chỉ số VNIndex qua các năm

Đến nay, thị trường chứng khoán đã tương đối ổn định hơn trong 3 – 4 năm qua, nhưng cũng không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Giá trị vốn hóa hóa có sự tăng trưởng đều qua các năm 2012 – 2014 cũng như sự biến động của chỉ số VNInedex không lớn, phần nào cho chúng ta thấy sự ổn định hơn của thị trường chứng khoán qua 15 năm hoạt động và phát triển, với sự vận hành của Sở GDCK TP.HCM (HOSE) và Sở GDCK Hà Nội (HNX). Hiện nay, HOSE đã là thành viên chính thức của Hiệp hội các Sở GDCK Châu Á và Châu Đại Dương (AOSEF) vào năm 2008 và cũng là thành viên chính thức của Hiệp hội các Sở GDCK thế giới (WFE) vào năm 2013.

2.1.3. Khái quát hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán Việt Nam Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

2.1.3.1. Hệ thống các công ty chứng khoán ở Việt Nam

Hiện nay, số lượng các công ty chứng khoán hoạt động vẫn còn nhiều so với quy mô của thị trường, với 83 công ty còn hoạt động, bao gồm cả công ty đang thuộc diện kiểm soát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN).

Trong 15 năm hoạt động và phát triển của thị trường chứng khoán, sự gia tăng của các CTCK chủ yếu được thể hiện qua 3 thời điểm. Từ khi TTCK đi vào hoạt động đến năm 2005, số lượng CTCK không nhiều, với 13 công ty vào cuối năm 2005. Thời điểm 2006 – 2008, số lượng các CTCK đã tăng cực mạnh từ 13 công ty đầu năm 2006, tăng lên đến hơn 90 công ty vào cuối năm 2008. Năm 2006 – 2007 là thời điểm thị trường chứng khoán cực thịnh và bùng nổ tại Việt Nam, với chỉ số VNIndex tăng đến mức 1.170 điểm vào đầu năm 2007, do đó xu thế thành lập và kinh doanh hoạt động chứng khoán tăng mạnh và trở nên tất yếu.

Kể từ thời điểm đó đến nay, số lượng công ty chứng khoán tăng thêm không nhiều, có thời điểm, trong năm tăng đến 105 công ty chứng khoán. Tuy nhiên, sau thời gian thăng trầm và sự suy giảm của thị trường, đã có nhiều công ty chứng khoán phải tạm dừng hoạt động hoặc giải thể. Ngoài ra, qua công tác tái cấu trúc công ty chứng khoán của UBCKNN, số lượng công ty chứng khoán hiện nay đã giảm xuống còn 83 công ty chứng khoán đang hoạt động, trong đó có 81 công ty là công ty chứng khoán thành viên của HOSE.

Bên cạnh tăng trưởng về số lượng các CTCK, “biểu đồ 2.5” cho thấy tỷ lệ (%) tăng trưởng của các CTCK trong 15 năm qua. Đáng đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng năm 2007 so với 2006 là cực mạnh, lên đến hơn 195%, từ 21 CTCK năm 2006 tăng lên 62 CTCK vào năm 2007, bởi đây là thời điểm mà chỉ số VNIndex tăng trên mức 1.170 điểm, như đã trình bày ở trên. Từ năm 2008 đến nay, tỷ lệ tăng trưởng hầu như không đáng kể và có xu hướng giảm do quá trình tái cơ cấu các CTCK theo hướng giải thể, đóng cửa và thực hiện M&A

Biểu đồ 2.4: Số lượng các CTCK qua các năm

Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ tăng trưởng các CTCK qua các năm

Bên cạnh tăng trưởng về số lượng các CTCK, “biểu đồ 2.5” cho thấy tỷ lệ (%) tăng trưởng của các CTCK trong 15 năm qua. Đáng đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng năm 2007 so với 2006 là cực mạnh, lên đến hơn 195%, từ 21 CTCK năm 2006 tăng lên 62 CTCK vào năm 2007, bởi đây là thời điểm mà chỉ số VNIndex tăng trên mức 1.170 điểm, như đã trình bày ở trên. Từ năm 2008 đến nay, tỷ lệ tăng trưởng hầu như không đáng kể và có xu hướng giảm do quá trình tái cơ cấu các CTCK theo hướng giải thể, đóng cửa và thực hiện M&A.

2.1.3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

Giai đoạn thăng trầm và khó khăn của thị trường cho thấy lợi nhuận của các CTCK niêm yết có nhiều biến động, đáng chú ý là những năm 2008 – 2011, tổng lợi nhuận các CTCK biến động thất thường và có xu hướng biến động theo chiều hướng giảm trong 3 năm từ 2009 đến 2011, thâm chí lợi nhuận của các CTCK bị âm trong năm 2011. Bắt đầu từ năm 2012 đến nay, nhờ sự cải thiện của thị trường, lợi nhuận các CTCK đã có mức tăng trưởng dương và tăng trưởng đều qua các năm.

Biểu đồ 2.6: Lợi nhuận các CTCK Niêm yết 2008 – 2014

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2006 – 2007, chỉ số VN-Index có thời điểm vượt mốc 1.170 điểm. Nhưng từ thời điểm 2008 – 2009, cùng với sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu, TTCK Việt Nam đã bị ảnh hưởng nặng nề, dẫn đến sự khó khăn của nhiều công ty chứng khoán. Nhiều công ty thua lỗ nặng bị cơ quan quản lý đưa vào diện kiểm soát hoặc kiểm soát đặc biệt do không đảm bảo các chỉ tiêu an toàn tài chính.

Trong giai đoạn thị trường phát triển nóng, hoạt động tự doanh cũng như hỗ trợ vốn cho các nhà đầu tư quá lớn để đầu tư chứng khoán đã để lại hậu quả khá nặng nề cho nhiều công ty chứng khoán. Trong khi đó vấn đề trích lập dự phòng cho các khoản phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá các khoản đầu tư, đặc biệt là dự phòng giảm giá của cổ phiếu OTC chưa được chú trọng cũng ảnh hưởng nhiều đến kết quả kinh doanh của các công ty.

Trong thời gian qua, với tình hình khó khăn chung của nền kinh tế cũng như việc cơ quan quản lý ban hành nhiều chính sách thắt chặt và kiểm soát thị trường chứng khoán, nhiều công ty chứng khoán có kết quả kinh doanh không mấy khả quan, tuy có lời nhưng lại có xu hướng giảm. Điển hình là trong quý 3/2015, doanh thu và lợi nhuận một số CTCK giảm đáng kể. Tổng doanh thu của khoảng 20 công ty chứng khoán lớn đạt hơn 5.367,9 tỷ đồng, giảm 8,8% so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế 9 tháng đạt hơn 1.786,3 tỷ đồng, giảm 23,6% so với 9 tháng đầu năm 2014. Một số công ty có thị phần lớn vẫn có kết quả kinh doanh khá ổn định, như Công ty Chứng khoán Sài Gòn (lãi 767 tỷ, tăng 13%), Công ty Chứng khoán Bản Việt lãi 189 tỷ, tăng 86%, Công ty Chứng khoán BIDV lãi 90 tỷ, tăng 65%, v.v….

Với việc ban hành Thông tư 226/2010/TT-BTC ngày 31/12/2010 của Bộ Tài chính quy định về chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý, tình hình tài chính của các công ty chứng khoán phần nào được cải thiện và minh bạch hơn dưới sự giám sát chặt chẽ của UBCKNN. Theo đó, nhiều công ty có tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro nhỏ hơn 120% đã bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt như: CTCP Chứng khoán Cao su, CTCP Chứng khoán Vina, CTCP Chứng khoán Đà Nẵng, CTCP Chứng khoán Mê Kông, v.v…. Công tác quản lý và giám sát của cơ quan chức năng được tăng cường, phần nào đảm bảo được niềm tin và quyền lợi cho nhà đầu tư, tạo sự bền vững cho thị trường cũng như hoạt động hiệu quả và an toàn của các công ty chứng khoán.

Thông tư 226/2010/TT-BTC ngày 31/12/2010 của Bộ Tài chính quy định về nhóm chỉ tiêu an toàn tài chính như sau:

Nhóm 1- nhóm bình thường: bao gồm các công ty có tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro trên 150% và có lãi hoặc lỗ lũy kế dưới 30% vốn điều lệ.

  • Nhóm 2 – nhóm kiểm soát: bao gồm các công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro trên 120% đến dưới 150%, lỗ lũy kế từ 30% đến 50% vốn điều lệ.
  • Nhóm 3 – nhóm kiểm soát đặc biệt: bao gồm các công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 120% và có lỗ lũy kế từ trên 50% vốn điều lệ.

2.1.3.3. Quản trị điều hành Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

Từ thời điểm suy giảm của TTCK cùng với năng lực quản trị yếu kém của các công ty chứng khoán đã buộc các công ty nhỏ không đủ công nghệ, tài chính, nhân lực phải nhường lại sân chơi cho những công ty mạnh hơn. Khả năng quản trị điều hành tốt hay kém chủ yếu xuất phát từ khâu kiểm soát rủi ro, thực hiện các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, cũng như tránh xung đột lợi ích với khách hàng.

Kiểm soát rủi ro

Đây là vấn đề đáng lo ngại nhất của các công ty chứng khoán Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng. Lạm dụng đòn bẩy tài chính, cung cấp tín dụng cho nhà đầu tư mua chứng khoán vượt quá ngưỡng kiểm soát rủi ro đã trở thành vấn nạn của thị trường, công tác quản trị rủi ro hầu như chưa được chú trọng. Khi thị trường bất ổn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà đầu tư đang sử dụng đòn bẩy tài chính, do đo, điều này sẽ làm gia tăng rủi ro cho hoạt động của công ty.

Thực hiện các quy tắc đạo đức nghề nghiệp

Trong công tác quản trị của công ty chứng khoán, quy tắc đạo đức nghề nghiệp còn lỏng lẻo đã gây nên nhiều sai phạm trong việc hành nghề chứng khoán. Điều này đã tạo ra nhiều rủi ro cho khách hàng và công ty chứng khoán trong quá trình giao dịch. Việc chưa tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp của nhân viên công ty chứng khoán vẫn còn phổ biến trên thị trường và bị khách hàng khiếu nại về việc lạm dụng tài khoản. Ngoài ra, có không ít trường hợp dư luận dị nghị về công ty chứng khoán thổi phồng tình hình lợi nhuận và kinh doanh để thu hút khách hàng.

Tránh xung đột lợi ích với khách hàng

Đối với tài sản khách hàng, một số công ty chứng khoán chưa thực hiện việc tách biệt được tài sản của mình với tài sản của các khách hàng cũng như chưa thực hiện đúng các nguyên tắc ưu tiên trong thực hiện lệnh của khách hàng. Mặc dù quy định được UBCKNN ban hành từ năm 2007, nhưng không nhiều công ty thực hiện quy định này. Vì thế đã xảy ra tình trạng công ty chứng khoán lạm dụng tiền của nhà đầu tư này để cho nhà đầu tư khác vay mua chứng khoán đã dẫn đến việc khiếu nại của khách hàng như các trường hợp trên.

Tăng cường năng lực quản trị công ty là một trong những việc cần thiết của công ty chứng khoán nhằm tăng khả năng cạnh tranh, tạo môi trường lành mạnh trong hoạt động kinh doanh, duy trì và mở rộng cơ sở khách hàng trong những giai đoạn khó khăn. Theo các cam kết WTO, đến tháng 1/2012, Chính phủ Việt Nam chính thức mở cửa thị trường chứng khoán cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Tự do cạnh tranh với các đối tác nước ngoài có nhiều tiềm lực tài chính, công nghệ hiện đại và có khả năng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là một thách thức lớn đối với các công ty chứng khoán trong nước hiện nay. Điều này đã tạo nhiều áp lực cho công tác quản trị đối với lãnh đạo các CTCK.

2.1.3.4. Sản phẩm dịch vụ và thị phần kinh doanh Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

Thời kỳ tăng trưởng mạnh của TTCK những năm 2006 – 2007 cũng như giai đoạn ổn định trở lại từ năm 2012 sau những thăng trầm, nhiều công ty chứng khoán đã mạnh tay cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ cho khách hàng đầu tư thông qua nghiệp vụ môi giới như: ứng trước tiền bán, giao dịch ký quỹ, cầm cố chứng khoán, các dịch vụ hỗ trợ tài chính khác. Đây là những sản phẩm mà hầu hết các CTCK đều cung cấp cho khách hàng kể từ khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động.

Đến năm 2011, sản phẩm giao dịch ký quỹ chính thức được phép cung cấp cho khách hàng theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK ngày 30/08/2011 của UBCKNN và được sửa đổi bổ sung theo Quyết định số 90/QĐ-UBCK ngày 08/01/2013. Kể từ đó đến nay, sản phẩm dịch dịch vụ các CTCK hầu như không có sự thay đổi về tính chất của các dịch vụ, mà chỉ là sự thay đổi về hình thức hay cách gọi tên của những sản phẩm dịch vụ mà các CTCK cung cấp. Đồng thời, để có thể cung cấp được dịch vụ cho khách hàng, các CTCK còn tùy thuộc vào năng lực tài chính của mình, nhất là đối với các dịch vụ có liên quan đến việc hỗ trợ tài chính cho khách hàng.

Với sự cạnh tranh ngày càng lớn trên thị trường, nhiều công ty đã đẩy mạnh việc cho vay đầu tư chứng khoán với tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao, từ 100% tới 300%, cũng như sẵn sàng cung cấp các dịch vụ cho vay khác như cho vay ứng trước ngay sau khi có kết quả khớp lệnh, repo cổ phiếu chưa niêm yết, hợp tác với các ngân hàng thương mại để cung cấp dịch vụ cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán. Khi thị trường có biến động lớn và công tác kiểm soát rủi ro thiếu cẩn trọng đã tạo ra nhiều kẻ hở và rủi ro cho các công ty chứng khoán.

Từ những sản phẩm dịch vụ cung cấp, nhiều công ty chứng khoán lớn và có uy tín đã chiếm lợi thế trong việc cạnh tranh thị phần, bởi nghiệp vụ môi giới là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho công ty. Tuy nhiên, nhiều công ty nhỏ cũng đã rơi vào trạng thái khó khăn, thậm chí doanh thu môi giới không đủ để trả phí lưu ký và duy trì cho bộ máy công ty hoạt động. Trong bối cảnh kinh doanh gặp nhiều khó khăn, một số công ty đã quyết định rút hết nghiệp vụ môi giới của mình, thậm chí có công ty rút cả nghiệp vụ tự doanh và lưu ký chứng khoán như CTCP Chứng khoán Gia Anh vào năm 2009. Sau đó, toàn bộ các tài khoản giao dịch của khách hàng được chuyển giao sang CTCK An Phát quản lý. Đồng thời, Sở GDCK Hà Nội (HNX) cũng đã ban hành quyết định chấm dứt tư cách thành viên của CTCK Gia Anh vì không đáp ứng đủ điều kiện hoạt động. CTCK Gia Anh cũng là tiền thân của CTCK Hamico sau này.

Cuối năm 2011, CTCK Đông Dương (DDSC) có thông báo gửi khách hàng về việc tạm ngưng nghiệp vụ môi giới với lý do thiếu vốn nên không thể duy trì các hoạt động kinh doanh và tài khoản khách hàng được chuyển qua CTCK Kim Eng. Một số công ty khác cũng đã bị Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD) thu hồi giấy chứng nhận hoạt động lưu ký và ngừng hoạt động giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán từ năm 2012. Tình hình kinh doanh của các công ty càng gặp nhiều khó khăn bởi các khoản thu chưa bù đắp được chi, trong khi một khoản lỗ do tự doanh và cho vay cầm cố vẫn còn tồn đọng. Do đó, niềm tin của các nhà đầu tư đối với thị trường và CTCK ngày càng suy giảm nghiêm trọng.

Nhìn chung, thị phần kinh doanh mà chủ yếu là thị phần môi giới của các CTCK hầu hết tập trung vào Top 10 những CTCK có thị phần mạnh, chiếm hơn 50% thị phần chung của toàn thị trường. Từ năm 2008 – 2012, thị phần của Top 10 luôn duy trì ở mức trong khoảng từ 50% đến 57%. Đặc biệt, giai đoạn từ năm 2013 cho đến nay, tỷ lệ thị phần của Top 10 chiếm hơn 62%, như trong Quý 3/2015, tỷ lệ này đã tăng cao, chiếm hơn 65,3% thị phần của toàn thị trường.

Biểu đồ 2.7: Top 10 thị phần các CTCK 2008 – Quý 3/2015

Với thị phần môi giới của Top 10 luôn chiếm tỷ lệ cao đã cho thấy sự thống trị của các CTCK lớn và hầu như các CTCK còn lại, đặc biệt là các CTCK vừa và nhỏ không đủ khả năng để cạnh tranh thị phần, qua đó phần nào ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh cũng như khả năng phát triển lâu dài. Thời gian 3 năm trở lại đây, Top 3 công ty chứng khoán luôn dẫn đầu thị phần môi giới là CTCK Sài Gòn (SSI),

CTCK TP. Hồ Chí Minh (HSC) và CTCK Bản Việt (VCSC). Trong đó, thay phiên nhau 2 vị trí dẫn đầu là CTCK SSI và HSC. Nếu nhìn xa hơn, từ năm 2011, hai vị trí dẫn đầu luôn được duy trì và thay đổi bởi 2 CTCK được xem là mạnh nhất thị trường tính đến thời điểm hiện tại (SSI và HSC).

Biểu đồ 2.8: Top 10 thị phần các CTCK năm 2013 – Quý 3/2015 với 3 CTCK dẫn đầu thị trường

2.1.3.5. Mạng lưới hoạt động Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

Khi thị trường phát triển nóng, nhu cầu của nhà đầu tư lớn, thì việc mở rộng thêm các phòng giao dịch và các đại lý nhận lệnh càng được đẩy mạnh hơn. Tuy nhiên, vào thời điểm khó khăn, thị trường bước vào giai đoạn suy thoái, nhiều phòng giao dịch của các công ty đã phải đóng cửa, các đại lý nhận lệnh gần như biến mất hoàn toàn. Một phần là do các phòng giao dịch và đại lý không còn việc để làm, phần khác là cũng có một số rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của các đại lý nhận lệnh, nên các công ty chứng khoán cũng đã chủ động cơ cấu lại các đại lý nhận lệnh theo hướng chuyển đổi thành các phòng giao dịch hoặc chấm dứt hoạt động. Tính đến nay, số lượng các chi nhánh và phòng giao dịch mà CTCK đã đóng cửa là 28 chi nhánh và 41 phòng giao dịch. Trong khi đó, số lượng chi nhánh và phòng giao dịch các CTCK hiện nay là hơn 110 chi nhánh, 37 phòng giao dịch và 4 văn phòng đại diện.

Trong thời kỳ thị trường chứng khoán không thuận lợi, để duy trì hoạt động, hàng loạt CTCK lớn phải thu hẹp hoạt động, đóng cửa bớt phòng giao dịch như CTCK Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCBS) đã đóng cửa Phòng giao dịch Nguyễn Huệ tại TP.HCM, đóng cửa Phòng giao dịch Cầu Giấy tại Hà Nội; CTCK Sài Gòn (SSI) cũng đã chấm dứt hoạt động của Chi nhánh tại Quảng Ninh và đóng cửa Phòng giao dịch 3/2 trực thuộc Chi nhánh TP.HCM. Hiện nay, mạng lưới hoạt động của SSI có 6 chi nhánh, 2 phòng giao dịch trực thuộc và 1 công ty trực thuộc (Công ty TNHH Quản lý Quỹ SSI) tại Hà Nội, Hải Phòng, Vũng Tàu, Nha Trang. Trong khi đó, mạng lưới của VCBS hiện nay có 3 Chi nhánh, 4 văn phòng đại diện và 3 phòng giao dịch, trên khắp 3 miền của đất nước.

Trước những khó khăn có thể dự báo trước, việc nhiều công ty chứng khoán tiếp tục co hẹp hoạt động cũng là điều dễ hiểu để tiết giảm chi phí và duy trì bộ máy hoạt động trong thời kỳ suy thoái. Tuy nhiên, trong thời điểm khó khăn như vậy, một số công ty chứng khoán khác cũng công bố thành lập chi nhánh mới, như CTCK Phú Hưng thành lập chi nhánh tại Cần Thơ, CTCK Bảo Việt cũng thành lập phòng giao dịch Mỹ Đình tại Hà Nội.

2.2. Sự cần thiết của hoạt động M&A các công ty chứng khoán Việt Nam Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

Trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam suy giảm mạnh, có thời điểm hơn 50% các CTCK có kết quả kinh doanh thua lỗ, kể cả các công ty đang niêm yết trên các Sở Giao dịch Chứng khoán, nhiều công ty đã có kế hoạch thực hiện tái cấu trúc thông qua hình thức M&A. Điều này đã trở nên nên cấp thiết và là sự lựa chọn tối ưu, phù hợp với Đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán theo Quyết định số 1826/QĐ-TTg ngày 06/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ và Đề án tái cấu trúc các Công ty chứng khoán theo Quyết định số 62/QĐ-BTC ngày 10/01/2012 của Bộ Tài chính.

Hiện nay, số lượng các công ty chứng khoán đã giảm xuống còn 83 công ty nhưng vẫn được xem là quá nhiều so với quy mô và nhu cầu của TTCK Việt Nam trong thời gian qua cũng như những giai đoạn sắp tới. Điều này có thể nhận thấy trong những giai đoạn khó khăn vừa qua, nếu so sánh với một số TTCK khác trong khu vực. Tổng số tài khoản cá nhân trên TTCK Việt Nam chỉ ở mức khoảng 0,7% dân số hiện tại, trong khi đó Trung Quốc có khoảng trên 100 triệu tài khoản, tương đương với khoảng 8% dân số, nhưng số lượng CTCK cũng chỉ bằng Việt Nam. TTCK Thái Lan với quy mô khoảng 100 tỷ USD, nhưng chỉ có gần 40 CTCK, tương tự thì Singapore chỉ có khoảng 25 CTCK, Malaysia có hơn 30 CTCK….Số lượng lớn CTCK Việt Nam nhỏ lẻ đang hoạt động cho thấy sự phát triển thiếu chuyên nghiệp và chưa có định hướng dài hạn về quy mô hoạt động cũng như năng lực tài chính, điều này đã dẫn đến những khó khăn trong hoạt động kinh doanh của các CTCK. Do đó, có thể nhận thấy sự cần thiết của hoạt động M&A được biểu hiện qua một số mặt sau đây:

2.2.1. Do doạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài của nhiều công ty chứng khoán Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

2.2.1.1. Giai đoạn 2008 – 2011

Những bất cập và khó khăn của thị trường chứng khoán Việt Nam kể từ khi đi vào hoạt động năm 2000 cũng như ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đã bộc lộ rõ nét hơn qua kết quả kinh doanh của các công ty chứng khoán và sự sụt giảm của thị trường. Nếu như năm 2008, tổng lỗ của các CTCK là khoảng 1.000 tỷ đồng, thì đến năm 2011 tổng mức lỗ tính chung là khoảng 2.000 tỷ đồng, trong đó khối các công ty chứng khoán đang niêm yết là lỗ hơn 1.408 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của phần lớn các CTCK đều âm. Một số Công ty có lãi thì mức lãi cũng giảm đến 60%-90%.

Biểu đồ 2.9: Doanh thu các CTCK niêm yết năm 2008 – 2011

Biểu đồ 2.10: Lợi nhuận các CTCK niêm yết năm 2008 – 2011

Trong giai đoạn 2008 – 2011 được xem là thời kỳ khó khăn của các công ty chứng khoán. Hầu hết những công ty lỗ lớn đều có tỷ trọng hoạt động tự doanh cao, phải trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán nhiều, với 3 công ty đã thua lỗ 2 năm liên tiếp 2010-2011 là CTCK Bảo Việt (BVS), CTCK Hải Phòng (HPC), CTCK Sao Việt (SVS) và 9 công ty thua lỗ 3 năm liên tiếp từ 2008 – 2010. Trong khi đó, kết thúc năm 2010 có 24 công ty chứng khoán đã báo lỗ với tổng mức lỗ là 574 tỷ đồng. Một số công ty có lợi nhuận nhưng vẫn chưa thể bù đắp được khoản lỗ nặng nề từ năm 2008.

Bảng 2.2: Các công ty thua lỗ 3 năm liên tiếp từ 2008 – 2010

Biểu đồ 2.11:Tỷ trọng lỗ của các CTCK thua lỗ 3 năm liên tiếp từ 2008 – 2010

Bảng 2.3: Các công ty chứng khoán báo lỗ năm 2010

Lỗ lũy kế tăng và kéo dài sẽ dẫn đến vốn chủ sở hữu giảm dần và bị âm. Trước tình hình khó khăn trên, làn sóng M&A cũng dần bắt đầu xuất hiện qua hình thức tham gia góp vốn mua cổ phần, hợp tác chiến lược của các đối tác tiềm năng có tiềm lực tài chính như: CTCK Gia Quyền (EPS) được CTCK KIS của Hàn Quốc góp 49%, tăng vốn điều lệ từ 135 tỷ lên 236,6 tỷ đồng và đổi tên thành CTCK KIS Việt Nam; CTCK Miền Nam được Ngân hàng Phương Nam góp vốn và đổi tên thành CTCK Phương Nam, chiếm hơn 70% vốn điều lệ; CTCK Standard được Ngân hàng Maritime Bank góp vốn và đổi tên thành CTCK Maritime Bank, v.v…

2.2.1.2. Giai đoạn từ 2012 – 2014

Từ năm 2012 đến năm 2014 và cho đến nay, tình hình kinh doanh của các CTCK ít nhiều có cải thiện nhưng cũng chưa có nhiều dấu hiệu khả quan. Đặc biệt, trong 9 tháng đầu năm 2015, hoạt động kinh doanh của khoảng 20 công ty chứng khoán lớn cũng giảm sút khá nhiều so với cùng kỳ năm 2014. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2015, tổng doanh thu của các CTCK này đạt hơn 5.367,9 tỷ đồng, giảm 8,8% so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế đạt hơn 1.786,3 tỷ đồng, giảm 23,6% so với 9 tháng đầu năm 2014.

Trong khi đó, tổng doanh thu Quý III/2015 của nhóm công ty dẫn đầu trên cũng giảm đáng kể, với mức giảm 13% so với cùng kỳ năm 2014, đạt hơn 1.829,5 tỷ đồng. Tổng lợi nhuận sau thuế Quý III/2015 cũng có mức giảm sâu hơn, giảm 42% so với cung kỳ năm 2014 và chỉ đạt hơn 460 tỷ đồng.Trong số những công ty dẫn đầu thị trường, thì chỉ có 6 CTCK tăng trưởng lợi nhuận dương trong 9 tháng năm 2015.

Biểu đồ 2.12: Doanh thu, lợi nhuận của 20 CTCK dẫn đầu thị trường 9T/2015

Biểu đồ 2.13: Doanh thu, lợi nhuận của 20 CTCK dẫn đầu thị trường Quý 3/2015

2.2.2. Góp phần tăng cường ổn định và an toàn tài chính cho các công ty chứng khoán Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

Kết quả kinh doanh của các CTCK trong thời kỳ khó khăn, khủng hoảng cho thấy chi phí hoạt động kinh doanh, chi phí quản lý đã tăng mạnh, trong khi hầu hết doanh thu lại suy giảm nghiêm trọng, không đủ để bù đắp chi phí. Các chỉ tiêu an toàn tài chính của công ty đạt ở mức thấp, không đáp ứng theo các quy định hiện hành. Một số công ty chưa có đủ mức vốn điều lệ tối thiểu 300 tỷ đồng, chiếm khoảng 60% nên chưa thể cung cấp đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành vàtư vấn đầu tư chứng khoán.

Nhiều CTCK đã lạm dụng vốn nhàn rỗi của khách hàng trong việc cung cấp đòn bẩy tài chính một cách thái quá, đến khi thị trường xuống dốc, các nhà đầu tư này bị thâm hụt vốn đầu tư, hoặc không có khả năng bù đắp, dẫn đến hoạt động của các công ty chứng khoán gặp nhiều rủi ro, mất thanh khoản tạm thời, điển hình như trường hợp của CTCK SME. Trong những năm gần đây, hệ số nợ trung bình của các CTCK được duy trì dưới mức 0,65. Khi Thông tư 226/2010/TT-BTC có hiệu lực từ tháng 4/2011 thì trong năm đầu tiên, có đến 12 CTCK có tỷ lệ vốn khả dụng dưới 180%. Trong số đó, có 5 CTCK có tỷ lệ này ở dưới mức dưới 120% – mức có thể bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt. Đến năm 2013, số lượng CTCK có tỷ lệ vốn khả dụng dưới 180% là 7 công ty, trong đó CTCK Artex (ART) với tỷ lệ an toàn vốn khả dụng chỉ có 48%, dưới mức quy định 120%, đã rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.

Bảng 2.4: Tỷ lệ an toàn tài chính của một số CTCK

Để cải thiện tình hình khó khăn trên, việc từng bước đẩy mạnh hoạt động M&A đã được một số công ty chứng khoán quan tâm hơn, như CTCK Sen Vàng có kế hoạch sáp nhập với CTCK APEC, CTCK Quốc tế Việt Nam (VIS) hợp nhất với CTCK Đại Tây Dương (OSC), CTCK Phương Đông (ORS) cũng lên kế hoạch sáp nhập với một công ty chứng khoán khác. Các công ty chứng khoán khi tiến hành M&A sẽ góp phần hỗ trợ tích cực lẫn nhau qua các lợi thế mà mỗi bên có được. Mạng lưới hoạt động, hay lợi thế từ những mối quan hệ của những cổ đông lớn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh khi các công ty tiến hành M&A. Bên cạnh đó, một số công ty với tình hình kinh doanh đang có chiều hướng cải thiện đáng kể, cũng sẽ góp phần không nhỏ trong quá trình phát triển sau này. Nhờ vậy, thì hình ảnh và thương hiệu của công ty sau M&A sẽ dần có vị trí trên thị trường, cải thiện tình hình kinh doanh và nâng dần mức vốn điều lệ cũng như tỷ lệ vốn khả dụng, đảm bảo an toàn tài chính.

2.2.3.  Do áp lực từ cạnh tranh và mạng lưới bị thu hẹp

Tình hình nhân sự cũng như mạng lưới hoạt động là một trong những nhân tố chủ chốt trong mọi hoạt động của các CTCK. Trong thời kỳ phát triển nóng của thị trường, tốc độ gia tăng nhân sự trong các CTCK cũng đã gia tăng đáng kể. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực chưa được đảm bảo, đã xảy ra nhiều trường hợp phạm của nhân viên đối với tài sản nhà đầu tư như: tự ý dùng tài sản của khách hàng để cầm cố, thế chấp vay tiền, tự ý rút tiền, chuyển chứng khoán từ tài khoản này sang tài khoản khác.

Mạng lưới hoạt động ngày càng thu hẹp do tình hình kinh doanh không hiệu quả, tài khoản giao dịch của nhà đầu tư có sự tăng trưởng về số lượng, nhưng tỷ lệ tăng trưởng có xu hướng chậm lại. Nếu như năm 2011, tỷ lệ số lượng tài khoản gia tăng so với năm 2010 là 11%, thì năm 2012 và 2013 tỷ lệ gia tăng lần lượt là 8% và 4%. Trong khi đó, tỷ lệ này của năm 2014 so với 2013 là 6%. Điều này cho thấy, mặc dù thị trường có dấu hiệu khởi sắc hơn trong năm 2013, 2014 nhưng sự quan tâm của nhà đầu tư đối với thị trường vẫn còn hạn chế cũng như niềm tin vào thị trường chưa thật sự cao.

Biểu đồ 2.14: Số lượng tài khoản của nhà đầu tư

2.2.4. Xuất phát từ chủ trương tái cơ cấu của nhà nước Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

Bộ Tài chính đã có chủ trương phê duyệt đề án tái cấu trúc các CTCK cũng như Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án tái cấu trúc thị trường chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm nhằm từng bước nâng cao vai trò, vị trí của thị trường chứng khoán và bảo hiểm; phấn đấu tới năm 2020 đưa thị trường này trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Theo đó, quan điểm chỉ đạo trong đề án tái cấu trúc là tuân thủ theo quy định của pháp luật, dựa trên cơ sở tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, phát triển, mở rộng thị trường có tổ chức nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư và tăng tính minh bạch cho thị trường.

Tái cấu trúc thị trường chứng khoán cần phải theo nguyên tắc thị trường trên cơ sở các CTCK tự nguyện, tự chịu trách nhiệm, cơ quan quản lý nhà nước chỉ thực hiện vai trò quản lý, giám sát trong quá trình tái cơ cấu. Hiện nay, các CTCK đang vượt quá nhu cầu phát triển của thị trường và cần phải điều chỉnh để hoạt động tốt hơn. Vấn đề tái cấu trúc TTCK và các CTCK, trong đó có đẩy mạnh hoạt động M&A là một trong những nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu và cần thiết của cơ quan quản lý. Việc củng cố lại nội lực các CTCK, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhằm phát triển ổn định, bền vững cũng là nhu cầu cần thiết, khi mà trong những năm khủng hoảng vừa qua, đa số các CTCK đã bị tổn thương khá nặng nề do chưa chú trọng vào công việc xây dựng nguồn lực, đối phó với khủng hoảng. Hợp nhất, sáp nhập các CTCK sẽ từng bước lành mạnh hóa tình hình tài chính, cơ cấu lại hoạt động kinh doanh, qua đó góp phần làm giảm số lượng CTCK. Điều này cũng sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý tăng cường kiểm tra, giám sát tốt hơn khi số lượng các CTCK giảm đáng kể. Luận văn: Tổng quan về bối cảnh KT tại Cty chứng khoán

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Thực trạng hoạt động M&A các Cty chứng khoán

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x