Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổng quan chung về Cty CP Chứng khoán Dầu khí hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty CP Chứng khoán Dầu khí dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1 Giới thiệu về Công ty CP Chứng khoán Dầu khí- PSI
2.1.1 Qúa trình hình thành và phát triển.
Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí (PSI) được thành lập vào ngày 19/12/2006 với cổ đông sáng lập lớn nhất là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam. Trải qua quá trình phát triển, PSI hiện có hơn 200 cán bộ làm việc tại hội sở chính tại Hà Nội và các Chi nhánh tại Thành Phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nghệ An, Thanh Hóa… và mạng lưới các Phòng Giao Dịch của Công ty ở các Tỉnh/Thành Phố. Quá trình thành lập và phát triển của Công ty được đánh dấu bằng các điểm mốc:
- 19/12/2006 UBCKNN cấp giấy phép thành lập và hoạt động với vốn điều lệ 150 tỷ đồng
- 07/02/2007 Chính thức khai trương hoạt động tại Hà Nội
- 06/03/2007 Được công nhận là thành viên của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
- 23/03/2007 Được công nhận là thành viên của Sở GDCK TP. Hồ Chí Minh
- 25/01/2010 Tăng vốn điều lệ lên 397,25 tỷ đồng
- 11/06/2010 Tăng vốn điều lệ lên 485 tỷ đồng
- 21/07/2010 Cổ phiếu của PSI chính thức được giao dịch trên Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội
- 27/10/2010 Tăng vốn điều lệ lên 509,250 tỷ đồng
- 18/02/2011 Tăng vốn điều lệ lên 598,413 tỷ đồng
Sơ đồ 2.1- Mô hình tổ chức bộ máy-PSI
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kỹ Thuật
2.1.2 Ngành nghề kinh doanh. Luận văn: Tổng quan chung về Cty CP Chứng khoán Dầu khí
Môi giới chứng khoán
Làm trung gian, đại diện, đại lý cho khách hàng, thực hiện các lệnh hợp pháp của khách hàng trong giao dịch chứng khoán để thu phí dịch vụ: PSI hỗ trợ nhà đầu tư dễ dàng mở tài khoản giao dịch chứng khoán với thủ tục nhanh gọn, thuận tiện cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước. Tài khoản của nhà đầu tư được quản lý bởi đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, với hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, bảo mật và an toàn.
Tư vấn tài chính doanh nghiệp
Dịch vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp được xác định là nền tảng hoạt động của PSI. Công ty cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp cho các tổ chức trong và ngoài nước, bao gồm: tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp, tư vấn tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp, dịch vụ sáp nhập và chuyển nhượng doanh nghiệp (M&A), tư vấn niêm yết chứng khoán, tư vấn phát hành chứng khoán.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán
PSI cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành cho khách hàng doanh nghiệp, bao gồm mua lại một phần hay toàn bộ chứng khoán phát hành mới, mua lại toàn bộ số chứng khoán chưa phân phối hết của tổ chức phát hành. Bên cạnh đó, PSI cũng cung cấp dịch vụ hỗ trợ phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Tư vấn đầu tư chứng khoán
PSI cung cấp miễn phí các báo cáo tài chính và tư vấn về tình hình hoạt động của các công ty niêm yết, dự báo xu hướng biến động giá cổ phiếu giúp nhà đầu tư lựa chọn danh mục đầu tư hiệu quả. Công ty cũng cung cấp dịch vụ phân tích chuyên sâu các cổ phiếu đang niêm yết, các cổ phiếu OTC, định giá cổ phiếu theo yêu cầu của nhà đầu tư.
Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là công ty kinh doanh chứng khoán bằng chính nguồn vốn của mình với mục đích là thu lợi nhuận cho chính mình.Đây là nghiệp vụ rất phức tạp và khó khăn. Nó có thể mang lại lợi nhuận rất cao cho công ty nhưng nó cũng có thể mang lại không ít rủi ro.
2.1.3 Môi trường hoạt động môi giới của Công ty chứng khoán Luận văn: Tổng quan chung về Cty CP Chứng khoán Dầu khí
Thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCKVN) chính thức đi vào hoạt động vào năm 2000 với việc vận hành sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) TP.HCM vào ngày 20/7/2000 và SGDCK Hà Nội vào ngày 8/3/2005 (trước đó các SGDCK hoạt động với mô hình là các Trung tâm Giao dịch chứng khoán và tổ chức dưới hình thức đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước). Đến nay, sau gần 10 năm đi vào hoạt động và phát triển dựa trên các mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển TTCKVN đến năm 20 10 và Chiến lược phát triển thị trường vốn đến 2010 và tầm nhìn 2020 và đã tạo ra được môi trường hoạt động hiệu quả;
Dưới đây là diễn biến của chỉ số VN-Index qua mỗi năm kể từ phiên giao dịch đầu tiên trong quá trình 10 năm phát triển của TTCK.
Biểu đồ 2.1 Chỉ số VN-Index qua các năm từ 2000 đến 2010
Những thành tựu đạt được sau 10 năm hoạt động đã tạo ra được một môi trường hoạt động kinh doanh chứng khoán năng động, hiệu quả; cụ thể là:
- Về khung pháp lý, thể chế chính sách: Kể từ khi Luật Chứng khoán được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007, đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao, đồng bộ và thống nhất cho hoạt động của TTCK, từng bước loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột với các văn bản pháp luật khác có liên quan (về cơ bản thống nhất với Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư); phù hợp hơn với luật pháp, thông lệ quốc tế, tạo nền tảng cho TTCKVN khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực; tăng cường tính công khai minh bạch cho thị trường và nâng cao khả năng quản lý giám sát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước.
- Về quy mô và hàng hóa (nguồn cung) của thị trường: Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ từ 2000-2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% GDP vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% vào năm 2007. Trước biến động của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số giá chứng khoán đã sụt giảm liên tục trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%, xuống còn 18%. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ từ quý II/2009, chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến cuối năm 2009 đã đạt 37,71% GDP, năm 2010 đã đạt 24% GDP.
- Về niêm yết và giao dịch chứng khoán: Năm 2000, với 02 công ty niêm yết khi đưa TTGDCK TP.HCM vào hoạt động, TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan hiếm, chỉ số VN Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày 25/6/2001. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính tại thời điểm ngày 31/12/2009 ước đạt 620,551 ngàn tỷ đồng tương đương với gần 38% GDP cả năm 2009. Luận văn: Tổng quan chung về Cty CP Chứng khoán Dầu khí
- Về hệ thống cơ sở nhà đầu tư (cầu đầu tư): Số lượng các nhà đầu tư tham gia TTCK ngày càng đông đảo. Số lượng nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, trong nước và nước ngoài đã gia tăng đáng kể. Từ khoảng gần 3000 tài khoản nhà đầu tư tham gia khi mới mở cửa thị trường vào năm 2000, tính đến nay đã có trên 90.000 tài khoản giao dịch, trong đó số nhà đầu tư tổ chức trong nước là 2.662, số nhà đầu tư cá nhân trong nước là 807.558, số nhà đầu tư nước ngoài là hơn 13.000 nhà đầu tư.
- Về hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán: Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán phát triển nhanh về quy mô và năng lực nghiệp vụ, với hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch trải khắp các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước, góp phần giúp công chúng đầu tư tiếp cận dễ dàng hơn với TTCK. Khi thị trường bắt đầu đi vào hoạt động, toàn thị trường mới chỉ có 7 công ty chứng khoán và cho đến tận năm 2004 vẫn chưa có một công ty quản lý quỹ nào. Sau 10 năm hoạt động, tính đến thời điểm hiện tại, đã có 105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ đang hoạt động tại Việt Nam. Số thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) là 122 thành viên, trong đó, có 8 ngân hàng lưu ký và 12 tổ chức mở tài khoản trực tiếp.
- Về tổ chức thị trường: Mặc dù việc tái cấu trúc lại thị trường bước đầu được thực hiện để khắc phục sự thiếu đồng bộ và tạo sự phân định của thị trường, nhưng đây vẫn là hạn chế lớn nhất của TTCK Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Về cơ cấu tổ chức, việc tách các SGDCK và TTLKCK trở thành pháp nhân độc lập khỏi UBCKNN đã đạt được kết quả nhất định trong việc tách bạch chức năng quản lý nhà nước trong hoạt động chứng khoán và chức năng tổ chức vận hành TTCK.
Về hoạt động quản lý, giám sát thị trường: Trong giai đoạn 2000-2010, công tác quản lý Nhà nước và điều hành TTCK được thực hiện tương đối linh hoạt, bảo đảm TTCK vận hành an toàn và phát triển ổn định, không để xảy ra đổ vỡ, xáo trộn lớn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, từng bước nâng cao năng lực giám sát và cưỡng chế thực thi quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Hoạt động quản lý và giám sát TTCK với trọng tâm lấy việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư là nòng cốt; các chính sách quản lý TTCK đã thể hiện mục tiêu tăng cường tính công khai, minh bạch, từng bước áp dụng các thông lệ về quản trị công ty tốt, các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán quốc tế và khuyến cáo của Tổ chức quốc tế các UBCK (IOSCO).
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được thì trong 10 năm qua thị trường chứng khoán hoạt động còn bộc nhiều khiếm khuyến; cụ thể là:
- Luật Chứng khoán vẫn còn hẹp về phạm vi điều chỉnh, mới chỉ bao hàm những nội dung cơ bản và chưa bao quát mọi hoạt động trên TTCK theo thông lệ quốc tế; một số quy định của văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán còn chồng chéo, chưa thống nhất với các văn bản pháp luật khác; việc ban hành các quy định pháp lý nhìn chung đều có độ trễ so với mục tiêu đề ra, đồng thời, nhiều quy định tại Luật Chứng khoán chưa được hướng dẫn thực hiện,…
- Hoạt động phát hành của các công ty đại chúng vẫn còn mang tính tự phát, không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy động vốn trên TTCK để đầu tư trở lại vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên bong bóng thị trường và rủi ro mất vốn khi thị trường sụt giảm.
- Hàng hóa niêm yết trên TTCK chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư và phòng ngừa rủi ro của nhà đầu tư (chưa có các sản phẩm phái sinh, các sản phẩm đầu tư tập thể). Các dịch vụ tiện ích cho nhà đầu tư trên thị trường còn nghèo nàn (chưa có nghiệp vụ bán khống, vay ký quỹ, bán trước ngày hoàn thất giao dịch), tính minh bạch của thị trường chưa đáp ứng nhu cầu của công chúng đầu tư.
- Hệ thống nhà đầu tư chưa đa dạng, cấu trúc cầu đầu tư hiện tại chưa bảo đảm sự tăng trưởng một cách bền vững. Hệ thống nhà đầu tư tổ chức chưa phát triển làm hạn chế sự phát triển của TTCK mà đặc biệt là thị trường TPCP.
- Số lượng các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ cho TTCK tăng quá nhanh, nhưng với năng lực về vốn và chuyên môn còn hạn chế, tiềm ẩn rủi ro hệ thống và chưa tương xứng với hiệu quả hoạt động chung của thị trường.
- Công tác quản lý, điều hành TTCK trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại và hạn chế nhất định như: công tác ban hành các văn bản pháp luật, các chính sách điều hành thị trường chưa linh hoạt, còn bị động và chậm so với yêu cầu thực tiễn phát triển của TTCK; công tác quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi còn nhiều bất cập.
2.1.4 Những thuận lợi khó khăn của hoạt động môi giới tại công ty CP chứng khoán Dầu khí
2.1.4.1 Những thuận lợi Luận văn: Tổng quan chung về Cty CP Chứng khoán Dầu khí
Cũng như các công ty chứng khoán khác, PSI ra đời nhằm mục đích hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận và góp phần phát triển thị trường chứng khoán còn non trẻ tại Việt Nam. Được thành lập sau 25 công ty chứng khoán khác, quá trình phát triển hoạt động kinh doanh của PSI có những thuận lợi quan trọng sau:
- PSI luôn nhận được sự ủng hộ toàn diện của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, được Tập đoàn tin tưởng giao phó thực hiện các nhiệm vụ tư vấn cho các doanh nghiệp trong ngành Dầu khí trong công tác sắp xếp và đổi mới cổ phần hoá doanh nghiệp.
- Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu cũng như tính thanh khoản của thị trường ngày càng tăng. Về tổ chức thị trường đã đảm bảo phát triển theo chiều sâu cũng như đảm bảo về hệ thống công nghệ và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khác nhau của thị trường.
Nguồn nhân lực của PSI:
Hiện tại Công ty có hơn 200 cán bộ Công nhân viên, trong đó có khoảng 80 nhân viên môi giới. Ban Tổng Giám đốc cùng các Giám đốc Ban, các cán bộ phận quản lý và chuyên viên của PSI có kinh nghiệm làm việc lâu năm tại các tổ chức tín dụng, tài chính, chứng khoán có uy tín cả trong và ngoài nước như BVSC, SSI, HSC, VNDirect, Morgan Standley.
Với các kiến thức cơ bản và chuyên sâu về chứng khoán và thị trường chứng khoán có được từ các khóa đào tạo tại các trường đại học hàng đầu Việt Nam và các trường đại học danh tiếng ở nhiều nước như Mỹ, Anh, Úc, Singapore…đội ngũ cán bộ của PSI có thể mang đến cho khách hàng các dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp và hiệu quả nhất. Luận văn: Tổng quan chung về Cty CP Chứng khoán Dầu khí
Cơ sở vật chất kỹ thuật dành cho hoạt động môi giới:
Sàn giao dịch: Sàn giao dịch là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch chủ yếu của các CTCK. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển sàn giao dịch, PSI đã bố trí sàn giao dịch ở những vị trí trung tâm TP Hà Nội như sàn giao dịch tại 18 Lý Thường Kiệt, 18 Láng Hạ và 22 Ngô Quyền. Các sàn giao dịch đều rất khang trang, với diện tích tương đối rộng rãi, đảm bảo có chỗ đỗ xe cho nhà đầu tư.
Hệ thống mạng lưới: Đối với PSI, hệ thống mạng lưới truy cập của công ty cũng rất rộng lớn, rải trên nhiều tỉnh thành cả nước. Không chỉ dừng lại ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, công ty còn có chi nhánh ở Đà Nẵng, Vũng Tàu, Nghệ An, Hải Phòng, Thanh Hóa. Bên cạnh 3 phòng giao dịch chính ở Hà Nội, PSI không ngừng mở rộng các phòng giao dịch liên kết với PVFC trên mạng lưới các tỉnh trên toàn quốc.
Hệ thống công nghệ thông tin: PSI đã triển khai hệ thống giao dịch chứng khoán hiện đại nhất Việt nam hiện nay với phiên bản mới nhất của Tập Đoàn TongYang, Hàn Quốc. Tại PSI, hệ thống giao dịch chứng khoán này đã hoạt động ổn định từ ngày 30/9/2009 và được các khách hành đánh giá rất cao; cụ thể là:
Hệ thống Back-office (BOS) có khả năng xử lý toàn bộ quy trình giao dịch cho 100.000 lệnh của khách hàng trong một ngày.
Hệ thống SmartInvest cung cấp cho nhà đầu tư một kênh đặt lệnh ưu việt nhất Việt nam hiện nay. Hệ thống tạo một kết nối theo thời gian thực giữa máy tính của nhà đầu tư và hệ thống máy chủ của PSI giúp thông tin giao dịch chứng khoán giữa nhà đầu tư và PSI được chuyển tải nhanh nhất.
Hệ thống SmartTrade tuy không có được tốc độ cao như hệ thống SmartInvest nhưng lại giúp người dùng vẫn tận dụng được các tiện ích của giao dịch trực tuyến ở bất kỳ đâu có máy tính kết nối internet mà không cần cài đặt phần mềm riêng như tại SmartInvest.
Hệ thống giao dịch SmartInvest và hệ thống giao dịch SmartTrade cung cấp hàng trăm màn hình công cụ phục vụ hoạt động giao dịch của nhà đầu tư.
2.1.4.2 Những khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên đây, trong mười năm qua PSI cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức trong quá trình hình thành và phát triển, cụ thể là:
Từ năm 2000 đến nay, kinh tế thế giới luôn trải qua nhiều biến động. Bắt đầu từ sự phá sản của WorldCom năm 2003, Mardoff với vụ lừa đảo lịch sử 65 tỷ USD năm 2005, và lớn nhất là khủng hoảng tín dụng Mỹ năm 2007, kéo theo sự sụp đổ của đế chế Lehman Brothers, cùng khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009.
Bước sang năm 2010, tuy ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế đã tạm lắng nhưng vẫn còn tiểm ẩn nhiều biến động, điển hình là khủng hoảng nợ công của Hi Lạp, các nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Ý và Bồ Đào Nha cũng đang đứng trước nguy cơ tương tự và bong bóng tài sản ở Trung Quốc.
Môi trường hoạt động của TTCK thiếu đồng bộ chưa hoàn chỉnh, Luật Chứng khoán vẫn còn hẹp về phạm vi điều chỉnh, công tác quản lý, điều hành TTCK trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại và hạn chế, hàng hóa niêm yết trên TTCK chưa đa dạng, chất lượng chưa cao…
PSI chịu sự cạnh tranh khốc liệt về môi giới, dịch vụ giữa các công ty chứng khoán trên phạm vi cả nước, đặc biệt là với các công ty hoạt động hoàn toàn với mô hình cổ đông thể nhân. Luận văn: Tổng quan chung về Cty CP Chứng khoán Dầu khí
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI