Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty CP Chứng khoán Dầu khí dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Do sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về tích vốn trong xã hội tăng lên và trở nên đa dạng, phong phú; người thì cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu tư, người thì có vốn nhàn rỗi muốn cho vay để sinh lời. Đầu tiên, họ tìm gặp nhau trực tiếp trên cơ sở quen biết, tuy nhiên sau đó, khi cung cầu vốn không ngừng tăng lên thì hình thức vay, cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ quen biết không đáp ứng được. Chính vì vậy cần phải có một thị trường cho cung và cầu gặp nhau, đáp ứng các nhu cầu tài chính của nhau – đó là thị trường tài chính. Thông qua thị trường tài chính, nhiều khoản vốn nhàn rỗi được huy động vào tiêu dùng, đầu tư, tạo đòn bảy cho phát triển kinh tế. Để huy động được vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và doanh nghiệp còn huy động vốn thông qua hình thức phát hành chứng khoán. Khi một bộ phận các chứng khoán có giá trị nhất định được phát hành, thì xuất hiện nhu cầu mua, bán chứng khoán; và đây chính là sự ra đời của Thị trường chứng khoán với tư cách là một bộ phận của Thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi chứng khoán các loại. Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Với tư cách là một trong các phương thức khơi thông dòng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thị trường chứng khoán có vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế. TTCK thúc đẩy việc tích lũy và tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa, cải cách kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán ra nước ngoài, điều tiết hoạt động của thị trường, khống chế sự co giãn cung cầu tiền tệ, khống chế quy mô đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và giá trị đồng tiền….
Cũng nằm trong bối cảnh chung của thị trường chứng khoán thế giới, trong thời gian qua, TTCK Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, được xem là thị trường chứng khoán hấp dẫn nhất khu vực Đông Nam Á . Sau hơn 10 hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước khẳng định được tầm quan trọng của mình trong tiến trình phát triển đất nước. Trong khoảng thời gian ngắn như vậy nhưng giá trị vốn hóa (tổng giá trị cổ phiếu đang niêm yết vào ngày 08/07/2011) của thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt khoảng 632.000 tỉ VND tương đương 31.6 tỉ USD tương đương khoảng 32.8% GDP của quốc gia năm 2010. Đặc trưng của thị trường là hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Vì thế, các giao dịch trên thị trường bắt buộc phải được thực hiện qua các công ty chứng khoán và trực tiếp là nhân viên môi giới. Môi giới chứng khoán (MGCK) là người đại diện, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, có thể là tổ chức, Công ty hay cá nhân, thông qua việc tư vấn, thực hiện các giao dịch chứng khoán. Vì vậy, công việc của người MGCK bao gồm thu thập và thẩm định thông tin về thị trường cổ phiếu trong hoặc ngoài nước, chứng khoán và trái phiếu chính phủ; trên cơ sở đó đưa ra lời khuyên thích hợp cho khách hàng.
MGCK là một hoạt động không chỉ mang lại phần thu nhập quan trọng cho CTCK, mà còn là điều kiện để CTCK phát triển quan hệ với khách hàng. Môi giới chứng khoán là một trong những nghiệp vụ cơ bản và quan trọng bậc nhất của một công ty chứng khoán. nó góp phần không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và công ty chứng khoán nói riêng. Môi giới chứng khoán đem lại lợi ích không chỉ cho khách hàng, cho nhà môi giới, cho công ty chứng khoán mà nó còn đem lại lợi ích cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động được hơn 10 năm, cho đến nay, các công ty chứng khoán đều được thực hiện nghiệp vụ này và đã thu được những kết quả nhất định; tuy nhiên còn nhiều tồn tại và hạn chế cần được khắc phục. Thực trạng này bắt nguồn không chỉ từ bản thân các công ty chứng khoán mà còn do sự hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như những bất cập trong các văn bản pháp quy. Để thu hút được đông đảo các nhà đầu tư trong và ngoài nước và trở thành dịch vụ có uy tín và chất lượng, hoạt động môi giới sẽ cần thay đổi và phát triển hơn nữa.
Công ty CP chứng khoán Dầu khí – PSI là một trong những CTCK mới tham gia thị trường, được thành lập vào tháng 12 năm 2006, chưa có nhiều danh tiếng và số lượng tài khoản giao dịch tại công ty cũng chưa nhiều, tính đến ngày 31/12/2010 tổng số tài khoản được mở tại công ty là 16.521 tài khoản và đến hết 30/10/2011 là19.258 tài khoản, nhưng thực tế tài khoản hoạt động (active ) chỉ chiếm 6% đến 10% tài khoản được mở, vì thế hoạt động môi giới môi giới chứng khoán lại càng cần thiết phải nâng cao chất lượng dịch vụ, trong điều kiện các CTCK đang cạnh tranh gay gắt để thu hút khách hàng.
Xuất phát từ thực tiễn trên, sau một thời gian nghiên cứu hoạt động môi giới môi giới chứng khoán tại công ty CP chứng khoán Dầu khí, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty CP Chứng khoán Dầu khí ” làm đề tài nghiên cứu của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kỹ Thuật
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Nghiên cứu một cách có hệ thống những luận cứ khoa học về thị trường chứng khoán và hoạt động môi giới chứng khoán nói chung, về tổ chức hoạt động môi giới chứng khoán tại một số công ty chứng khoán và Công ty CP Chứng khoán Dầu khí nói riêng.
Nghiên cứu và đánh giá thực trạng tổ chức hoạt động môi giới chứng khoán tại một số công ty chứng khoán và Công ty CP Chứng khoán Dầu khí, các vấn đề đặt ra, những thành tựu và những hạn chế.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng tổ chức hoạt động môi giới chứng khoán tại một số công ty chứng khoán và Công ty CP Chứng khoán Dầu khí, tác giả đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty CP Chứng khoán Dầu khí và đưa ra các giải pháp hoàn thiện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Với mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu các quy định về thị trường chứng khoán và nghiệp vụ môi giới chứng khoán liên quan đến hoạt động môi giới chứng khoán tại các công ty chứng khoán và Công ty cổ phần chứng khoán Dầu khí bao gồm: Luật chứng khoán, các quy định dưới Luật về chứng khoán và hoạt động môi giới chứng khoán tại Việt Nam.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hệ thống hóa hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về chứng khoán và môi giới chứng khoán tại Việt Nam.
Đánh giá đúng thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán tại các công ty chứng khoán và Công ty cổ phần chứng khoán Dầu khí. Chỉ ra những ưu điểm và những hạn chế cần hoàn thiện trong hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty cổ phần chứng khoán Dầu khí.
Đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty cổ phần chứng khoán Dầu khí.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán và hoạt động môi giới chứng khoán
Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty chứng khoán Dầu khí
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty chứng khoán Dầu khí
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái quát về thị trường tài chính Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Thị trường tài chính là nơi nguồn tài chính được chuyển từ nơi dư thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Căn cứ vào bản chất, chức năng cũng như phương thức hoạt động, thị trường tài chính có thể phân chia thành ba loại chủ yếu, bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ là thị trường trao đổi vốn ngắn hạn như các khoản vay liên ngân hàng hoặc mua bán các chứng khoán ngắn hạn như tín phiếu kho bạc chứng chỉ tiền gửi. Thời gian đáo hạn của các chứng khoán trên thị trường tiền tệ thường dưới một năm. Thị trường mua bán tín phiếu kho bạc thường được tổ chức thành thị trường tập trung, và Ngân hàng Trung ương lấy tín phiếu kho bạc làm công cụ thị trường mở điều hành chính sách tiền tệ. Hầu hết các nước đang phát triển đã áp dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở để bổ sung cho công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp. Thị trường chứng chỉ tiền gửi là thị trường phi tập trung, mua bán chứng chỉ tiền gửi giữa các ngân hàng thương mại.
Thị trường hối đoái là nơi giao dịch mua bán các đồng tiền chuyển đổi. Các đồng tiền mạnh, có tính chuyển đổi cao được giao dịch nhiều nhất là Đôla Mỹ, Yên Nhật Bản, Euro, Mác Đức. Thị trường hối đoái là thị trường phi tập trung. Ba thị trường hối đoái lớn nhất thế giới là London, Tokyo, New York. Thị trường hối đoái có quy mô giao dịch trong một ngày trên một nghìn tỷ đôla, ví dụ năm 1998 doanh số trung bình hàng ngày của thị trường ngoại hối là 1600 tỷ USD. Vì vậy, thị trường này tác động rất lớn đến tình hình kinh tế của các nước đang phát triển. Việc đầu cơ trên thị trường hối đoái, ví dụ đầu cơ đồng Baht đã dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường tài chính Thái Lan. Ngày nay, chưa có một cơ quan quốc tế nào đứng ra làm nhiệm vụ giám sát thị trường này. IMF muốn đứng ra làm chức năng Ngân hàng Trung ương toàn cầu, nhưng lực bất tòng tâm, và không được các nước công nghiệp Tư bản ủng hộ. Các nước công nghiệp tư bản chỉ chú trọng trước hết đến những vấn đề tiền tệ, kinh tế trong nước, nên không phối hợp đúng mức để kiểm soát thị trường.
Thị trường vốn (Capital market) là thị trường huy động vốn dài hạn, chủ yếu thông qua phát hành chứng khoán. Vì vậy, thị trường vốn thường đồng nghĩa với thị trường chứng khoán (Securities market). Thị trường chứng khoán được coi là thị trường huy động vốn trực tiếp, không qua trung gian; khác với hoạt động ngân hàng là hoạt động cung cấp vốn gián tiếp, từ người tiết kiệm sang các nhà doanh nghiệp, thông qua tổ chức trung gian là ngân hàng. Ngân hàng cung cấp vốn chủ yếu là ngắn hạn cho các doanh nghiệp, còn vốn dài hạn thông thường phải huy động qua thị trường chứng khoán. Đối với các công ty có triển vọng phát triển nhanh, vì có sản phẩm mới, có công nghệ cao và có sức cạnh tranh trên thị trường chứng khoán là nơi cung cấp vốn dài hạn hiệu quả nhất, các doanh nghiệp này muốn phát triển phải dựa vào thị trường chứng khoán.
1.2. Lý luận chung về thị trường chứng khoán. Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
1.2.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán (securities market) là nơi trao đổi, mua bán các loại chứng khoán dài hạn, bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các loại chứng khoán khác.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn, hoạt động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp, do vậy thị trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát hành và trao đổi.
Thị trường chứng khoán là thị trường trên đó giao dịch các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ phái sinh… bao gồm cả chứng khoán niêm yết công khai trên sàn giao dịch chứng khoán và chứng khoán giao dịch không công khai.
Hàng hoá chủ yếu trên các sàn giao dịch chứng khoán lớn thường là cổ phiếu, còn trái phiếu và các công cụ phái sinh khác hay được mua bán trên thị trường OTC hơn. Qui mô của thị trường trái phiếu toàn cầu được ước tính vào khoảng 45.000 tỷ USD, còn quy mô của thị trường cổ phiếu vào khoảng phân nửa con số đó. Qui mô của thị trường các chứng khoán phái sinh vào khoảng 300.000 tỷ USD, tuy nhiên người ta không so sánh trực tiếp nó với 2 thị trường trên vì đó chỉ là giá trị danh nghĩa của chúng, trong khi các con số nói trước đó là giá trị thực của cổ phiếu trái phiếu.
Những người tham gia vào thị trường chứng khoán vô cùng đa dạng, nhưng tựu trung lại có thể chia ra làm 2 loại chính: nhà đầu tư cá nhân và các tổ chức đầu tư, trong đó các tổ chức chiếm đa số tính theo khối lượng giao dịch. Giao dịch của các nhà đầu tư này thường không được thực hiện một cách trực tiếp mà thông qua những người môi giới chứng khoán chuyên nghiệp.
Các sàn giao dịch chứng khoán có thể là những sàn giao dịch thực, nơi các giao dịch được thực hiện theo phương thức đấu giá mở bằng lời, NYSE là ví dụ điển hình của một sàn giao dịch loại này. Các sàn giao dịch chứng khoán cũng có thể là những sàn giao dịch ảo, dưới dạng một mạng máy tính lớn, trong đó các giao dịch hoàn toàn được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử, NASDAQ là sàn giao dịch ảo lớn nhất thế giới.
Phương thức giao dịch chủ yếu của thị trường chứng khoán là phương thức đấu giá, những người tham gia sẽ tiến hành đặt lệnh, trong đó nêu rõ mức giá mong muốn của mình. Phương thức này giúp đảm bảo tính công bằng cao nhất cho mọi đối tượng tham gia. Khi giá chào mua phù hợp với giá chào bán thì giao dịch sẽ được thực hiện, hay nói cách khác là được “khớp lệnh”.
Mục đích của sàn giao dịch chứng khoán là tạo thuận lợi cho việc giao dịch các loại chứng khoán giữa người mua với người bán, qua đó tạo lập nên một thị trường cho thứ hàng hoá đặc biệt này.
Căn cứ vào phương thức giao dịch, TTCK có hai loại:
Thị trường giao dịch ngay (Thị trường thời điểm): Thị trường giao dịch mua bán theo giá của ngày hôm đó; việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra sau đó vài ngày (tùy theo mỗi thị trường chứng khoán quy định riêng số ngày);
Thị trường tương lai: Thị trường mua bán chứng khoán theo những hợp đồng mà giá cả được thỏa thuận ngay trong ngày giao dịch; việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn ở tương lai (1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm,…).
Căn cứ vào tính chất chứng khoán giao dịch, TTCK có ba loại: Thị trường cổ phiếu; thị trường trái phiếu và Thị trường chứng khoán phái sinh (bao gồm thị trường hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn,… )
Đây là thị trường cấp cao mua bán chuyển giao các công cụ tài chính cấp cao; Do đó thị trường này chỉ xuất hiện ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển ở trình độ cao.
1.2.2. Cơ cấu Thị trường Chứng khoán: Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, TTCK có hai loại:
Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
1.2.3. Các nguyên tắc hoạt động của TTCK:
Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá.
Nguyên tắc công bằng: Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan.
Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
Nguyên tắc tập trung: Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
1.2.4. Các thành phần tham gia TTCK: Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Nhà phát hành: Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK dưới hình thức phát hành các chứng khoán.
Nhà đầu tư: Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại:
Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích kiếm lời.
Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường.
Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán: Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh.
Các tổ chức có liên quan đến TTCK:
- Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với TTCK ở Việt nam.
- Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các quy định của luật pháp và UBCKNN.
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành.
1.2.5. Chức năng của thị trường chứng khoán.
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô:
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
1.3. Lý luận chung về môi giới chứng khoán
1.3.1. Khái niệm môi giới chứng khoán Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
MGCK là một hoạt động kinh doanh của CTCK trong đó công ty chứng khoán đại diện cho cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hay thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của giao dịch đó.
MGCK là một hoạt động trung gian và sinh lời từ hưởng phí giao dịch. Trong đó, nhân viên môi giới đóng vai trò quan trọng. Họ là người đại diện thực hiện lệnh mua, bán cho khách hàng với “mọi nỗ lực” nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng và ngược lại họ sẽ được hưởng tiền hoa hồng hay phí giao dịch.
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian chuyên kinh doanh chứng khoán, là đơn vị có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch toán độc lập. Với tư cách là một thực thể hoạt động trên TTCK, công ty chứng khoán có thể thực hiện một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ: môi giới, tự doanh, tư vấn, quản lý danh mục đầu tư , bảo lãnh phát hành. Trong đó hoạt động môi giới là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của công ty chứng khoán, thực hiện nguyên tắc trung gian trên TTCK.
Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán phải mở tài khoản giao dịch chứng khoán và tiền cho từng khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và công ty.
1.3.2. Phân loại môi giới chứng khoán Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Tùy theo qui định của mỗi nước, cách thức hoạt động của từng Sở giao dịch chứng khoán mà người ta có thể phân chia thành nhiều loại nhà môi giới khác nhau như sau :
Môi giới dịch vụ (Full Service Broker) :
Là loại môi giới có thể cung cấp đầy đủ dịch vụ như mua bán chứng khoán, giữ hộ cổ phiếu, thu cổ tức, cho khách hàng vay tiền, cho vay cổ phiếu để bán trước, mua sau và nhất là có thể cung cấp tài liệu, cho ý kiến cố vấn trong việc đầu tư .
Môi giới chiết khấu (Discount Broker):
Là loại môi giới chỉ cung cấp một số dịch vụ như mua bán hộ chứng khoán. Đối với môi giới loại này thì khoản phí và hoa hồng nhẹ hơn môi giới toàn dịch vụ vì không có tư vấn, nghiên cứu thị trường.
Môi giới ủy nhiệm hay môi giới thừa hành
Đây là những nhân viên của một công ty chứng khoán thành viên của một Sở giao dịch, làm việc hưởng lương của một công ty chứng khoán và được bố trí để thực hiện các lệnh mua bán cho các công ty chứng khoán hay cho khách hàng của công ty trên sàn giao dịch. Vì thế họ có tên chung là môi giới trên sàn (Floor Broker). Các lệnh mua bán được chuyển đến cho các nhà môi giới thừa hành này có thể tư văn phòng công ty, cũng có thể từ các môi giới đại diện (Registered Representative).
Môi giới độc lập hay môi giới 2 đô la:
Môi giới độc lập (Independent Broker) chính là các môi giới làm việc cho chính họ và hưởng hoa hồng hay thù lao theo dịch vụ. Họ là một thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại Sở giao dịch (sàn giao dịch) giống như các công ty chứng khoán thành viên.
Họ chuyên thực thi các lệnh cho các công ty thành viên khác của Sở giao dịch. Sở dĩ có điều này là tại các Sở giao dịch nhộn nhịp, lượng lệnh phải giải quyết cho khách hàng của các công ty chứng khoán đôi khi rất nhiều, các nhân viên môi giới của các công ty này không thể làm xuể hoặc vì một lý do nào đó vắng mặt. Lúc đó các công ty chứng khoán sẽ hợp đồng với các nhà môi giới độc lập để thực hiện lệnh cho khách hàng của mình và trả cho người môi giới này một khoản tiền nhất định.
Ban đầu các nhà môi giới độc lập được trả 2 đô la cho một lô tròn chứng khoán (100 cổ phần) nên người ta quen gọi là “môi giới 2 đô la”.
Môi giới độc lập cũng được gọi là môi giới trên sàn (floor broker), họ đóng vai trò không khác gì một môi giới thừa hành, chỉ khác là họ có tư cách độc lập – tức họ không đại diện cho bất kỳ một công ty chứng khoán nào cả.
Nhà môi giới chuyên môn:
Các Sở giao dịch chứng khoán thường qui định mỗi loại chứng khoán chỉ được phép giao dịch tại một điểm nhất định gọi là quầy giao dịch (Post), các quầy này được bố trí liên tiếp quanh sàn giao dịch (floor). Trong quầy giao dịch có một số nhà môi giới được gọi là nhà môi giới chuyên môn hay chuyên gia. Các chuyên gia này chỉ giao dịch một số loại chứng khoán nhất định. Nhà môi giới chuyên môn thực hiện 2 chức năng chủ yếu là thực hiện các lệnh giao dịch và lệnh thị trường.
Tại VN các công ty chứng khoán đều đăng ký thực hiện nghiệp vụ này và là nghiệp vụ quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay. Qua hơn 10 năm hoạt động, TTCK VN đã có những bước phát triển tuy không tạo được những bước đột phá nhưng là sự phát triển vững chắc đều đặn, trong đó hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán đã từng bước song hành với hoạt động giao dịch trên thị trường.
Để thu hút người đầu tư, các công ty chứng khoán đã đầu tư khá tốt cơ sở vật chất cho hoạt động môi giới như xây dựng hệ thống sàn giao dịch rộng rãi với đầy đủ các thiết bị công bố thông tin như bảng giao dịch điện tử, bảng công bố thông tin, xây dựng website để giúp người đầu tư tiếp cận thông tin mọi lúc mọi nơi.
Ngoài ra, các công ty chứng khoán đã thực hiện một số chính sách nhằm thu hút người đầu tư đến với công ty, như cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư miễn phí, đa dạng các hình thức nhận lệnh giao dịch (qua điện thoại, fax ..), áp dụng chính sách thu phí linh hoạt theo hướng khuyến khích giao dịch (giảm phí môi giới cho khách hàng có giá trị giao dịch lớn theo từng lệnh hoặc theo cộng dồn định kỳ theo khoảng thời gian ), kết hợp với các ngân hàng thương mại cung cấp thêm một số dịch vụ phụ trợ cho khách hàng (cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán). Nhờ đó, số lượng người đầu tư đến mở tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán và giá trị giao dịch chứng khoán trong thời gian qua đã không ngừng tăng lên.
Có thể nói, đây là nghiệp vụ được các công ty chứng khoán thực hiện tốt nhất trong giai đoạn đầu khi thị trường đi vào hoạt động, các công ty chứng khoán đã thể hiện được vai trò trung gian trên TTCK, kết nối giữa người đầu tư có vốn với các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển.
1.3.3. Vai trò của hoạt động Môi giới Chứng khoán Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Bên cạnh hoạt động tự doanh thì môi giới là mảng thứ hai mang lại thu nhập chính cho các CTCK. Chính vì thế hoạt động này đóng góp một vai trò vô cùng to lớn đối với mỗi CTCK nói riêng cũng như toàn thị trường nói chung. Vai trò đó được thể hiện qua các khía cạnh sau:
1.3.3.1. Giảm chi phí giao dịch
Thị trường chứng khoán với tư cách là một thị trường của những sản phẩm và dịch vụ bậc cao, để thẩm định chất lượng và giá cả của hàng hóa, người ta cần một khoản chi phí khổng lồ để phục vụ cho việc thu thập, xử lý thông tin, đào tạo kỹ năng phân tích và tiến hành quy trình giao dịch trên một hệ thống thị trường đấu giá, tập trung. Những chi phí đó chỉ có các CTCK hoạt động chuyên nghiệp trên quy mô lớn mới có khả năng trang trải do được hưởng lợi ích kinh tế nhờ quy mô lớn.
Mặt khác, sự hiện diện của của một tổ chức chuyên nghiệp làm cầu nối cho các bên mua, bán gặp nhau sẽ làm giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo và giám sát thực thi hợp đồng. Vì thế, hoạt động môi giới chứng khoán không chỉ giúp tiết kiệm chi phí giao dịch cá thể mà còn cả trên tổng thể thị trường, nhờ đó nâng cao tính thanh khoản cho toàn bộ hệ thống.
1.3.3.2. Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường
Khi thực hiện vai trò trung gian giữa người bán và người mua, hoạt động MGCK sẽ nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản hồi lại với người cung ứng hàng hóa và dịch vụ. Khi đó, hoạt động môi giới chính là một trong những nguồn cung cấp những tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng.
Kết quả của quá trình đó, xét trong dài hạn, là cải thiện được tính đa dạng của sản phẩm-dịch vụ, nhờ đó đa dạng hóa cơ cấu khách hàng, thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư tăng trưởng.
1.3.3.3. Góp phần hình thành nền văn hóa đầu tư. Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Hoạt động của người môi giới chứng khoán khi thâm nhập sâu vào cộng đồng các doanh nghiệp và người đầu tư sẽ là một yếu tố quan trọng hình thành nên văn hóa đầu tư. Khi các nhân viên môi giới tiếp cận và mang theo những sản phẩm tài chính phù hợp với yêu cầu của khách hàng, hoạt động này lâu dần sẽ hình thành nên thói quen đầu tư vào tài sản tài chính.
1.3.3.4. Tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh
Để thành công trong nghề MGCK, các CTCK và từng nhân viên môi giới phải thu hút được khách hàng tìm đến, giữ chân khách hàng, và tăng cường khối tài sản mà khách hàng ủy thác cho họ quản lý. Điều này tạo ra sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán và từng nhân viê môi giới chứng khoán với nhau. Chính vì vậy góp phần không nhỏ làm tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ.
1.4. Hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới chứng khoán
1.4.1. Quan điểm về hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới chứng khoán:
Để đánh giá được hiệu quả của nghiệp vụ môi giới chứng khoán, người ta thường căn cứ vào những kết quả mà nó đem lại. Đối với công ty chứng khoán, hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới chứng khoán được thể hiện qua chỉ tiêu sau:
- Số lượng tài khoản khách hàng mở để giao dịch và tỷ trọng của nó so với toàn bộ thị trường mà công ty đang hoạt động.
- Thị phần giao dịch chứng khoán, doanh số giao dịch chứng khoán mà các nhân viên môi giới của công ty tạo ra.
- Doanh thu môi giới.
- Khả năng thu hút khách hàng, thể hiện thông qua sự tăng trưởng số lượng tài khoản giao dịch của khách hàng mở tại công ty.
- Khả năng cắt giảm chi phí cho nghiệp vụ môi giới, chi phí trích lập dự phòng rủi ro liên quan đến môi giới nhằm đem lại lợi nhuận cao hơn cho công ty.
- Đối với nhà đầu tư thì hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới của một CTCK thể hiện thông qua những lợi ích mà nhà đầu tư được hưởng khi sử dụng dịch vụ môi giới của công ty như:
- Quy trình nghiệp vụ được hướng dẫn kỹ càng chu đáo đến từng nhà đầu tư.
- Khách hàng nhận được thông tin một cách kịp thời, đầy đủ, chân thực và chính xác để đảm bảo việc đầu tư giảm thiểu rủi ro.
- Chi phí hợp lý, linh hoạt cho từng trường hợp giao dịch, đầu tư đặc biệt.
1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Nghiệp vụ môi giới có ý nghĩa trong quá trình thúc đẩy hiệu quả và sự phát triển của CTCK nói riêng, TTCK nói chung. Qua kinh nghiệm kiểm sát thực tế của các nước, có thể nhận thấy, các nhân tố ảnh hưởng đến sự hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới tại CTCK bao gồm các nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
Các nhân tố khách quan
Sự phát triển và thực trạng của nền kinh tế TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính quốc gia hay nói rộng ra nó là một bộ phận của nền kinh tế. Vì vậy sự phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của TTCK. Sự ổn định và tăng trưởng kinh tế là cơ sở cho mọi sự phát triển của một quốc gia, là tiền đề, là điều kiện quan trọng để phát triển của các CTCK trên TTCK nói chung và sự nghiệp môi giới chứng khoán nói riêng. TTCK là sản phẩm của kinh tế thị trường. Thị trường này chỉ phát triển khi nền kinh tế của một quốc gia đạt đến một trình độ nhất định.
Sự ổn định và tăng trưởng kinh tế sẽ tạo nhiều việc làm mới, giảm tình trạng thất nghiệp, từ đó tăng thu nhập cho dân cư. Do thu nhập tăng lên, nhu cầu tiêu dùng và các khoản tiết kiệm ở khu vực tư nhân cũng tăng trưởng tương ứng. Điều này sẽ làm tăng nhu cầu đầu tư từ phía dân chúng và kích thích doanh nghiệp phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
Sự ổn định và tăng trưởng kinh tế làm giảm rủi ro và tăng hiệu quả hoạt động đầu tư. Điều này sẽ làm tăng tính hấp dẫn của thị trường trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, nhu cầu đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư và các doanh nghiệp trong nước cũng tăng theo. Đây sẽ là tiền đề cho sự phát triển các hoạt động của công ty chứng khoán, trong đó có nghiệp vụ môi giới.
Sự phát triển của TTCK
TTCK là môi trường hoạt động của các CTCK. Sự phát triển của TTCK ở đây là sự phát triển ở cả cung và cầu chứng khoán, các thành viên tham gia thị trường và các hoạt động khác.
Thị trường tài chính phát triển ở trình độ cao là tiền đề để môi giới chứng khoán có thể đảm nhận tốt các chức năng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính. ở các thị trường phát triển, sẵn có các chứng khoán có chất lượng tốt, tính thanh khoản cao, đa dạng về chủng loại và lớn về số lượng. Bên cạnh đó, các công cụ phái sinh được tạo lập nhằm cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu cho các nhà đầu tư.
Thị trường càng phát triển, số lượng nhà đầu tư, các tổ chức phát hành càng lớn sẽ tạo điều kiền phát triển các nghiệp vụ của CTCK, trong đó có môi giới. Hơn nữa, với sự phát triển của hệ thống kiểm toán kế toán, hệ thống công bố thông tin, hệ thống lưu ký, hệ thống thông báo định kỳ gốp phần làm tăng độ tin cậy của thị trường chứng khoán, cung cấp các thông tin cần thiết và tin cậy, giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng, sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Một khối lượng thông tin nghiên cứu khổng lồ từ bộ phận nghiên cứu của CTCK được nhà môi giới sử dụng để cung cấp cho khách hàng của mình theo những yêu cầu cụ thể. Và nhà môi giới cũng có đủ tri thức để trở thành nhà tư vấn riêng của khách hàng.
Môi trường pháp lý
Các văn bản pháp luật có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của CTCK. Một hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ và đồng bộ sẽ tạo điều kiện bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường, trong đó có CTCK và nhà môi giới. Một hệ thống văn bản pháp luật có tính chất khuyến khích về tổ chức và hoạt động của công ty sẽ góp phần tạo lập, ổn định hoạt động của nó. Đồng thời, viêc kiểm soát hoạt động của công ty sẽ làm tăng lòng tin của công chúng đầu tư. Ngược lại, sự phức tạp, chồng chéo, thiếu toàn diện của hệ thống pháp luật sẽ cản trở sự phát triển của CTCK và theo đó, nghiệp vụ môi giới cũng không thể phát triển.
Cải tiến hệ thống giao dịch tại TTDG chứng khoán:
Tiến tới phương thức khớp lệnh liên tục, hiện đại hoá hệ thống giao dịch, hệ thống thanh toán bù trừ sẽ hạn chế tối đa những sai sót trong giao dịch, rút ngắn thời gian thanh toán. Biện pháp này cũng chống lại hoạt động đầu cơ, làm giá, củng cố lòng tin cho các nhà đầu tư vào một thị trường công bằng và hiệu quả.
Các biện pháp này cũng phải được thực hiện đồng bộ với các biện pháp phát triển TTCK nói chung như hoàn thiện khung pháp lý, tăng cung cầu chứng khoán… thì mới có thể tạo ra những bước đột phá trên TTCK, trong đó việc hoàn thiện hoạt động môi giới chứng khoán đóng góp một vai trò quan trọng.
Thu thập kiến thức và thói quen đầu tư của công chúng.
Cũng giống như các thị trường khác, TTCK cũng vận động theo quy luật cung cầu. Để chuyển tiết kiệm thành đầu tư (cung – cầu), một yếu tố rât quan trọng là thu nhập, kiến thức của công chúng – những nhà đầu tư tiềm năng. một thị trường mà thu nhập cũng như kiến thức về các sản phẩm, dịch vụ tài chính của công chúng là cao thì hoạt động đầu tư sẽ sôi động hơn và nghiệp vụ môi giới cũg có điều kiện phát triển hơn. ở một thị trường mà công chúng có xu hướng đầu tư thì nghiệp vụ môi giới sẽ có hiệu quả hơn là một thị trường mà các khoản tiết kiệm của công chúng đổ vào ngân hàng. Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Các nhân tố chủ quan
Nhân tố con người
Nhân sự là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của CTCK nói chung và nghiệp vụ môi giới chứng khoán nói riêng. Những người môi giới thành công đem lại cho công ty của họ những khoản doanh thu đáng kể và theo đó, họ được gọi là những nhà kinh doanh hàng đầu. Thành công của người môi giới cũng là thành công của CTCK, nếu họ chiếm được lòng tin của khách hàng, thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình, được khách hàng gửi gắm ngày càng nhiều tài sản để quản lý. Một khi đã chiếm được lòng tin của khách hàng, người môi giới có thể tin rằng ngay cả khi những khuyến nghị của họ không đem lại kết quả như mong muốn thì không vì thế mà họ mất đi khách hàng. Điều quan trọng là khách hàng nhận thức được một cách nhất quán rằng sự hiện diện của người môi giới chứng khoán là nhằm phục vụ tối đa lợi ích của họ.
Để đạt được hiệu quả cao và nâng cao chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán, hiện nay các CTCK và nhà môi giới chứng khoán luôn phải cạnh tranh để thu hút khách hàng và cung cấp các dịch vụ cho khách hàng tiềm năng. Muốn vậy, nhà môi giới chứng khoán phải không ngừng trau dồi kiến thức nhằm nắm vững và sử dụng thuần thục các kỹ năng từ cơ bản đến chuyên nghiệp.
Vì vậy, CTCK muốn giành thắng lợi trong cạnh tranh thì công việc trước tiên và cần thiết là không ngừng đào tạo đội ngũ nhân viên môi giới trở thành nhà môi giới chuyên nghiệp, có kỹ năng, có đạo đức nghề nghiệp nhằm phát huy sức mạnh nghề nghiệp để chiếm được lòng tin của khách hàng từ đó nâng cao uy tín của công ty góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
Cơ sở vật chất và trình độ công nghệ
Cơ sở vật chất có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động của các CTCK. Là trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng, các CTCK phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, để đảm bảo việc tiếp nhận và thực hiện các yêu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác. Vì TTCK luôn nhạy cảm với sự biến động của nền kinh tế xã hội trong nước và quốc tế cho nên nếu CTCK không có đủ trang thiết bị cần thiết để thu thập và xử lý thông tin thì không bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Các nhân viên môi giới sẽ không có đủ các thông tin cần thiết để thực hiện tư vấn và cung cấp những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất cho khách hàng.
Hiện nay cơ sở vật chất chủ yếu của CTCK là sàn giao dịch, hệ thống mạng lưới và hệ thống thông tin. Các hệ thống này mặc dù phục vụ cho tất cả các hoạt động của công ty nhưng thực ra nó phục vụ cho hoạt động môi giới là chính.
Mô hình tổ chức của CTCK
Mô hình tổ chức của CTCK ảnh hưởng tới tính chất chuyên môn hóa của nghiệp vụ môi giới từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới. Nếu bộ phận môi giới được tổ chức thành một phòng chức năng riêng biệt sẽ được nghiên cứu phát triển một cách chuyên sâu và có tính thực tiễn. Tại những CTCK mà ở đó nghiệp vụ môi giới và các nghiệp vụ khác được quản lý tập trung tại một phòng chức năng (thường gọi là phòng kinh doanh), hiệu quả của hoạt động môi giới không cao do việc đầu tư tập trung cho một nghiệp vụ là rất khó.
Các dịch vụ hỗ trợ hoạt động môi giới chứng khoán.
Hoạt động tư vấn hiệu quả sẽ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động môi giới vì nó cho nhà đầu tư thấy được tính lợi ích và hiệu quả của việc đầu tư vào chứng khoán. Việc tăng số lượng tài khoản của các nhà đầu tư cũng như việc ra lệnh mua bán thường xuyên sẽ làm phát triển cả về chất lẫn lượng của môi giới chứng khoán. Muốn vậy, công tác đào tạo nâng cao năng lực cho nhân viên tác nghiệp là rất cần thiết.
Ngoài ra có thể phát triển thêm các dịch vụ hỗ trợ khác như hình thức ứng trước tiền bán chứng khoán, cho vay cầm cố chứng khoán, cho vay bảo chứng, cho vay thế chấp bất động sản, sản phẩm phái sinh … mà thực chất là hoạt động tín dụng, các công ty chứng khoán có thể kết hợp chặt chẽ với các ngân hàng trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ này theo hướng nhanh gọn về thủ tục, chặt chẽ về pháp lý, gọn nhẹ và nhanh chóng cho nhà đầu tư sẽ khiến cho nhà đầu tư kịp thời quay nhanh vòng vốn của mình, góp phần tăng cao doanh số giao dịch.
Kiểm soát nội bộ
Nguyên tắc bảo mật thông tin của các CTCK là một yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh của công ty. Vì vậy công tác kiểm soát nội bộ rất cần thiết. Tất nhiên không phải chỉ có thông tin mới cần kiểm soát, ngay từ các quy trình nghiệp vụ, các thủ tục tiến hành nghiệp vụ của các công ty cần phải kiểm soát chặt chẽ, để đảm bảo không vi phạm pháp luật và nâng cao chất lượng hoạt động của các nghiệp vụ. Để lộ thông tin hay vi phạm pháp luật đều dẫn đến kết quả là công ty sẽ thât bại trong kinh doanh.
Quản trị rủi ro
Bên cạnh việc phát triển doanh thu và tăng trưởng thị phần thì một vấn đề rất quan trọng để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của hoạt động môi giới chứng khoán ở công ty chứng khoán đó là quản trị rủi ro, phát hiện những nguy cơ tiềm ẩn của doanh nghiệp, từ đó mới đảm bảo được hiệu quả của hoạt động môi giới. Vì vậy, vấn đề quản trị rủi ro luôn được các công ty chứng khoán đặt lên hàng đầu.
Nói tóm lại, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Do vậy CTCK và nhân viên môi giới phải không ngừng nâng cao khả năng tổ chức và vận hành kỹ năng nghiệp vụ thì mới có được lòng tin nơi khách hàng và thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư đến mở tài khoản và thực hiện giao dịch tại công ty.
1.5. Quy trình hoạt động môi giới của Công ty Chứng khoán Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
1.5.1. Quy trình đóng/mở tài khoản cho khách hàng
Mở tài khoản cho khách hàng: để thực hiện giao dịch mua, bán chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán phải làm thủ tục mở tài khoản giao dịch cho từng khách hàng trên cơ sở Giấy đề nghị mở tài khoản của khách hàng và hợp đồng ký với khách hàng theo đúng nội dung quy định và không được chứa đựng những thoả thuận sau:
- Thoả thuận nhằm trốn tránh nghĩa vụ pháp lý công ty chứng khoán;
- Thoả thuận hạn chế phạm vi bồi thường của công ty chứng khoán mà không có lý do chính đáng hoặc chuyển rủi ro từ công ty chứng khoán sang khách hàng;
- Thoả thuận buộc khách hàng thực hiện nghĩa vụ bồi thường một cách không công bằng;
- Các thoả thuận gây bất lợi một cách không công bằng cho khách hàng.
Công ty chứng khoán có nghĩa vụ giải thích nội dung hợp đồng mở tài khoản giao dịch và các thủ tục có liên quan khi thực hiện giao dịch chứng khoán cho khách hàng, tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng chịu đựng rủi ro và kỳ vọng lợi nhuận thu được của khách hàng.
Khách hàng muốn giao dịch thông qua CTCK được yêu cầu mở tài khoản tại công ty đó. Công ty hướng dẫn thủ tục mở tài khoản, điền thông tin vào “giấy mở tài khoản” bao gồm các thông tin theo luật quy định và thông tin công ty yêu cầu thêm. Bộ phận quản lý tài khoản khách hàng của công ty phải kiểm tra tính chính xác của thông tin, đồng thời trong quá trình hoạt động của tài khoản, những thay đổi trong thông tin cũng cần được cập nhật.
Sau khi mở tài khoản, CTCK sẽ cung cấp cho khách hàng một mã số tài khoản và mã truy cập vào tài khoản để kiểm tra sau mỗi lần giao dịch.
Đóng Tài khoản: Khi khách hàng muốn đóng tài khoản giao dịch chứng khoán tại CTCK thì chủ tài khoản phải trực tiếp đến làm thủ tục đóng tài khoản (lưu ý: Người được ủy quyền không được thực hiện đóng tài khoản giao dịch chứng khoán). Nhân viên giao dịch kiểm tra tình trạng TK, đảm bảo khách hàng không còn nghĩa vụ nợ với CTCK và không còn quyền phát sinh tại thời điểm tất toán.
1.5.2. Quy trình giao dịch lệnh Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
Bước 1: Nhận lệnh từ khách hàng
Công ty chứng khoán chỉ được nhận lệnh của khách hàng khi phiếu lệnh được điền chính xác và đầy đủ các thông tin. Phiếu lệnh giao dịch phải được người môi giới của công ty chứng khoán ghi nhận số thứ tự và thời gian (ngày, giờ, phút) nhận lệnh tại thời điểm nhận lệnh. Công ty chứng khoán phải thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác lệnh giao dịch của khách hàng. Công ty chứng khoán phải lưu trữ các phiếu lệnh của khách hàng theo quy định của pháp luật.
Mọi lệnh giao dịch chứng khoán niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán phải được truyền qua trụ sở chính hoặc chi nhánh công ty chứng khoán trước khi nhập lệnh vào hệ thống giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán.
Công ty chứng khoán chỉ được nhận lệnh của khách hàng có đủ tiền và chứng khoán theo quy định của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và phải có các biện pháp cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán của khách hàng khi lệnh giao dịch được thực hiện.
Trường hợp khách hàng mở tài khoản lưu ký tại thành viên lưu ký không phải là thành viên giao dịch, thành viên giao dịch và thành viên lưu ký phải ký hợp đồng thoả thuận trách nhiệm đảm bảo nguyên tắc thành viên giao dịch chịu trách nhiệm thực hiện lệnh giao dịch, thành viên lưu ký chịu trách nhiệm kiểm tra tỷ lệ ký quỹ chứng khoán của khách hàng và đảm bảo thanh toán cho khách hàng theo quy định pháp luật.
Công ty chứng khoán phải công bố về mức phí giao dịch chứng khoán trước khi khách hàng thực hiện giao dịch.
Trường hợp nhận lệnh giao dịch của khách hàng qua internet, qua điện thoại, qua fax, công ty chứng khoán phải tuân thủ:
- Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn, đảm bảo có ghi nhận thời điểm nhận lệnh;
- Đối với lệnh nhận qua điện thoại, fax, công ty chứng khoán phải đảm bảo nguyên tắc: xác nhận lại với khách hàng trước khi nhập lệnh vào hệ thống giao dịch, lưu giữ bằng chứng chứng minh về việc đặt lệnh của khách hàng;
- Có biện pháp khắc phục thích hợp khi không nhập được lệnh của khách hàng vào hệ thống giao dịch do lỗi của công ty.
Bước 2: Xác nhận kết quả giao dịch
Sau khi nhận được kết quả chuyển đến từ SGDCK, nhà môi giới tại sàn sẽ báo về cho phòng giao dịch của CTCK với nội dung chính: số hiệu nhà môi giới tại sàn, số hiệu lệnh, đã mua/bán, mã chứng khoán, số lượng, giá, thời gian. Nhân viên môi giới xác nhận lại lệnh của khách hàng với các lệnh đã khớp.
Bước 3: Thanh toán và hoàn tất giao dịch
Ngày thanh toán được thực hiện theo T+3 ngày, nghĩa là sau 3 ngày mới tiến hành thanh toán. Giao dịch hoàn tất khi nhà môi giới thanh toán với khách hàng và chuyển giao chứng khoán cho khách hàng. Luận văn: Nâng cao hoạt động chứng khoán tại Cty Dầu khí
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Tổng quan chung về Cty CP Chứng khoán Dầu khí