Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty CP Chứng khoán Dầu khí dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.2 Thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán

2.2.1 Quy trình hoạt động môi giới của công ty Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

2.2.1.1 Quy trình đóng/mở tài khoản cho khách hàng

Mục đích:

Quy trình đóng mở Tài khoản do Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí soạn thảo nhằm mục đích quy định những chuẩn mực về đối tượng và trình tự triển khai nghiệp vụ đóng mở tài khoản để hoạt động này được thực hiện một cách đồng bộ, chặt chẽ, tuân thủ đúng chuẩn mực và trình tự theo quy định pháp luật và đảm bảo tính hiệu quả trong giao dịch, đồng thời giảm thiểu các sai sót trong khi thực hiện nghiệp vụ.

Đối tượng và phạm vị áp dụng.

Quy trình này áp dụng đối với nghiệp vụ mở, đóng, ủy quyền tài khoản giao dịch chứng khoán, thay đổi thồng tin tài khoản tại Công ty.

Xác định công việc và trách nhiệm, quyền hạn của các nhân viên thuộc bộ phận giao dịch chứng khoán, bộ phận nghiệp vụ và các phòng Ban có liên quan đến nghiệp vụ mở, đóng, ủy quyền tài khoản giao dịch chứng khoán, thay đổi thông tin tài khoản tại PSI.

Nội dung quy trình đóng/mở tài khoản cho khách hàng.

Theo thông tư số 74/TT-BTC do Bộ Tài Chính ban hành ngày 01/06/2011, mỗi nhà đầu tư được mở một tài khoản giao dịch chứng khoán tại các công ty chứng khoán khác nhau ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 7 mục 2, trong hồ sơ mở tài khoản tại PSI phải ghi rõ số lượng tài khoản đã mở và mã số tài khoản tại các công ty chứng khoán trước đó. Trường hợp nhà đầu tư đã có tài khoản giao dịch tại các Công ty chứng khoán khác, sau khi mở tài khoản tại PSI nhà đầu tư phải thông báo bằng văn bản về việc mở thêm tài khoản tại PSI cho các Công ty chứng khoán mở trước đó và phải báo cáo nghĩa vụ cổ đông lớn trên tổng số chứng khoán tại các tài khoản và công bố thông tin theo quy định của pháp luật.

Khi khách hàng muốn đóng tài khoản giao dịch chứng khoán tại PSI thì chủ tài khoản phải trực tiếp đến làm thủ tục đóng tài khoản (lưu ý: Người được ủy quyền không được thực hiện đóng tài khoản giao dịch chứng khoán)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kỹ Thuật

2.2.1.2 Quy trình giao dịch lệnh Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

a, Mục đích:

  • Quy trình được soạn thảo nhằm mục đích đưa ra những chuẩn mực về đối tượng và trình tự triển khai nghiệp vụ nhận lệnh giao dịch chứng khoán niêm yết của Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí để hoạt động này được triển khai một cách đồng bộ, chặt chẽ và đảm bảo tính hiệu quả.
  • Xác định người thực hiện công việc và trách nhiệm của người thực hiện công việc.
  • Giúp quá trình giao dịch diễn ra thống nhất, khoa học, phòng ngừa hạn chế rủi ro và không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ.

b, Đối tượng và phạm vị áp dụng:

Phạm vi áp dụng: Quy trình nhận lệnh Giao dịch chứng khoán niêm yết của Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí quy định về trình tự, cách thức thực hiện giao dịch với khách hàng; xác định công việc và trách nhiệm, quyền hạn của các cán bộ thuộc Bộ phận Giao dịch chứng khoán và các phòng Ban có liên quan đến tác nghiệp nhận lệnh – Duyệt lệnh – Chuyển lệnh giao dịch chứng khoán tại công ty. Quy trình được áp dụng tại các Chi nhánh, phòng Giao dịch của Công ty.

Đối tượng áp dụng: Xác định công việc và trách nhiệm, quyền hạn của các nhân viên thuộc bộ phận giao dịch chứng khoán, bộ phận Nghiệp vụ và các phòng Ban có liên quan đến nghiệp vụ nhận lệnh trực tiếp tại PSI.

c, Quy trình nhận lệnh giao dịch chứng khoán:

Đặt lệnh trực tuyến qua phần mềm SmartTrade và SmartInvest.

  • Khách hàng sử dụng tên đăng nhập và mật khẩu do PSI cung cấp khi ký hợp đồng giao dịch trực tuyến để truy cập vào hệ thống giao dịch trực tuyến
  • Nếu tên đăng nhập và mật khẩu chính xác, khách hàng sử dụng mã số trên thẻ OTP để thực hiện giao dịch.
  • Khách hàng thực hiện nhập lệnh mua, bán, hủy sửa chứng khoán. Nếu tài khoản của khách hàng đủ số dư và hợp lệ, phần mềm tự động chấp nhận lệnh của khách hàng. Nếu tài khoản của khách hàng không đủ số dư để thực hiện lệnh hoặc lệnh của khách hàng không hợp lệ, phần mềm sẽ xuất hiện cảnh báo.
  • Lệnh khách hàng nhập thành công sẽ được chuyển trực tiếp vào hệ thống của PSI và gửi lên Sở giao dịch

(Lưu đồ và quy trình thực hiện theo hướng dẫn tại Phụ lục 01)

  • Trường hợp nhân viên môi giới PSI đặt lệnh cho khách hàng qua phần mềm giao dịch trực tuyến (Smart Invest & Smart Trade):
  • Nhân viên môi giới nhận lệnh trực tiếp từ khách hàng: lưu đồ và quy trình thực hiện theo hướng dẫn tại Phụ lục 03- Nhận lệnh giao dịch chứng khoán tại sàn
  • Nhân viên môi giới nhận lệnh từ khách hàng quan điện thoại: lưu đồ và quy trình thực hiện theo hướng dẫn tại Phụ lục 02- Nhận lệnh giao dịch chứng khoán qua điện thoại

Đặt lệnh qua điện thoại:

  • Các lệnh của khách hàng sẽ gọi vào hệ thống điện thoại ghi âm và được chuyển đến các chuyên viên môi giới PSI quản lý tài khoản của khách hàng để nhập vào hệ thống giao dịch.
  • Nhân viên nhận lệnh qua điện thoại cần xác nhận cụ thể Số tài khoản, Số điện thoại dùng đặt lệnh, mật khẩu giao dịch qua điện thoại, tên chủ tài khoản, tên người ủy quyền (nếu là người ủy quyền đặt lênh).Sau khi kiểm tra và so khớp đúng với dữ liệu lưu trong hệ thống thì thực hiện đặt lệnh cho khách hàng
  • Nhân viên nhận lệnh qua điện thoại có nghĩa vụ từ chối lệnh của khách hàng nếu thấy thông tin cung cấp của khách hàng không đảm bảo tính hợp pháp và hợp lệ theo các quy định nêu trên và hướng dẫn cho khách hàng tới Phòng Giao dịch của PSI để đăng ký hoặc thay đổi lại phần xác nhận thông tin khi sử dụng dịch vụ đặt lệnh qua điện thoại.
  • Trường hợp các thông tin do khách hàng cung cấp không khớp với thông tin hiện đang lưu giữ trong hệ thống thì nhân viên đề nghị khách hàng xác nhận lại hoặc đề nghị khách hàng dùng phương thức đặt lệnh khác thay thế (đặt lệnh trực tiếp tại quầy giao dịch, qua phần mềm giao dịch Smart Invest hoặc SmartTrade).
  • Nhân viên nhận lệnh qua điện thoại ghi nhận trực tiếp, chính xác thông tin đặt lệnh theo yêu cầu của khách hàng vào hệ thống

Đặt lệnh trực tiếp tại quầy:

  • Các phiếu lệnh của khách hàng được các chuyên viên môi giới PSI quản lý tài khoản thực hiện.
  • Khách hàng hoặc người được ủy quyền đến PSI đặt lệnh tại quầy giao dịch và thực hiện các công việc sau:
  • Xuất trình chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu (bản gốc);
  • Viết phiếu lệnh mua/ lệnh bán/lệnh hủy/lệnh sửa chứng khoán theo các mẫu của công ty.
  • Nhân viên giao dịch kiểm tra các thông tin ghi trên phiếu lệnh của khách hàng, đảm bảo các thông tin chính xác: Người đặt lệnh phải là chủ tài khoản hoặc người được chủ tài khoản ủy quyền hợp lệ, số chứng minh thư nhân dân, số tài khoản, ngày tháng năm đặt lệnh, chữ ký khớp với chữ ký đã đăng ký;
  • Nhân viên giao dịch có nghĩa vụ từ chối lệnh của khách hàng nếu thấy phiếu lệnh của khách hàng không đảm bảo tính hợp pháp và hợp lệ theo các quy định nêu trên và hướng dẫn cho khách hàng lập lại phiếu lệnh nếu đủ điều kiện giao dịch. Hoặc nhân viên giao dịch in phiếu lệnh từ hệ thống phần mềm giao dịch và yêu cầu khách hàng ký tên xác nhận thông tin trên phiếu lệnh.
  • Nhập lệnh vào hệ thống P-BOS : nhân viên giao dịch nhập chính xác lệnh vào hệ thống và ký xác nhận vào phần nhân viên nhập lệnh trên phiếu lệnh. Cuối ngày, nhân viên giao dịch in sổ lệnh theo Phòng Giao dịch, kiểm tra, đối chiếu, sắp xếp phiếu lệnh và chuyển phụ trách/trưởng phòng giao dịch ký xác nhận trên sổ lệnh để đưa hồ sơ vào lưu trữ
  • Chính thức đưa phần mềm giao dịch chứng khoán vào hoạt động từ ngày 30/09/2009, đó là phần mềm giao dịch chứng khoán hiện đại nhất Việt nam hiện nay với phiên bản mới nhất của Tập Đoàn TongYang, Hàn Quốc. Từ đó đã mang lại nhiều tiện ích cho nhà đầu tư khi mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại công ty. Cụ thể nhà đầu tư có thể đặt lệnh trực tuyến qua phần mềm SmartTrade và SmartInvest, qua điện thoại hoặc đặt lệnh tại quầy. Đặc biệt nhà đầu tư có thể đặt lệnh mua bán chứng khoán tại bất cứ địa điểm nào trên toàn quốc, miễn là ở đó có thể vào được mạng internet.
  • Dưới đây là tỷ trọng giá trị giao dịch lệnh qua các kênh khác nhau trong năm 2010;

Biểu đồ 2.2 Tỷ trọng giá trị giao dịch qua các kênh

Quy trình đối với giao dịch khớp lệnh thỏa thuận.

Nhân viên giao dịch sẽ nhập lệnh thoả thuận thông thường của khách hàng thông qua màn hình thỏa thuận. Lệnh thỏa thuận được thực hiện khi PSI đã xác định được đối tác của mình :

  • Trường hợp bên Mua và bên Bán trong giao dịch thỏa thuận đều mở tài khoản tại PSI (là trường hợp giữa 2 nhà đầu tư cùng mở tài khoản tại PSI; hoặc giữa nhà đầu tư và PSI): nhân viên giao dịch vào màn hình thỏa thuận cùng thành viên, nhập các thông tin về Số tài khoản người bán, Mã chứng khoán, Số lượng, Giá và Số tài khoản của người mua.
  • Trường hợp bên Mua và bên Bán trong giao dịch thỏa thuận thuộc hai thành viên (là trường hợp giữa 2 khách hàng thuộc 2 công ty chứng khoán thành viên khác nhau; giữa 2 công ty chứng khoán thành viên hoặc giữa khách hàng và công ty chứng khoán thành viên khác): nhân viên giao dịch vào màn hình thỏa thuận khác thành viên :
  • Nếu khách hàng của PSI là bên Bán thì nhân viên giao dịch sẽ nhập các thông tin của Bên bán như: Số tài khoản, Mã chứng khoán, Số lượng, Giá, mã thành viên bên mua và mã đại diện mua.
  • Nếu khách hàng của PSI là bên Mua thì nhân viên giao dịch sẽ vào màn hình thỏa thuận khác thành viên và tìm kiếm lệnh bán mà thành viên bên Bán đẩy sang PSI. Nhân viên giao dịch kiểm tra các thông tin đẩy sang PSI và thông tin trên phiếu lệnh. Nhân viên giao dịch sẽ xác nhận lệnh mua.

Giao dịch lệnh khi mất sự cố kết nối với Sở giao dịch Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

  • Đầu ngày ban CNTT có trách nhiệm kiểm tra đường truyền kết nối với 2 Sở giao dịch và thông báo tới phòng QLHTGD về tình trạng đường truyền.
  • Trường hợp kết nối trực tiếp với hệ thống giao dịch của các Sở (Direct Access)
  • Hàng ngày, hệ thống tự động kết nối qua đường truyền với các Sàn giao dịch Hồ Chí Minh; Hà Nội và Upcom và nhận các thông tin từ Sở giao dịch. Khi khách hàng đặt lệnh từ các kênh (lệnh tai quầy, qua điện thoại, phần mềm Smart Invest hay Smart Trade) sẽ được gửi thẳng lên sàn mà không cần thông qua Đại diện sàn
  • Trường hợp mất kết nối với hệ thống giao dịch Sở: Chuyển lệnh qua Đại diện sàn (DC term)
  • Trong trường hợp bị mất kết nối trực tiếp đến hai Sở giao dịch, sau khi nhận được thông báo lỗi kết nối từ ban CNTT, Phòng QLHTGD sẽ thông báo với phòng QL MG & LK và Chi nhánh HCM để cử cán bộ đại diện sàn dự phòng vào 02 Sở giao dịch:
  • Đối với Sở giao dịch Hồ Chí Minh sẽ do Chi nhánh HCM chịu trách nhiệm điều động cán bộ đại diện sàn dự phòng.
  • Đối với Sở giao dịch Hà Nội sẽ do phòng QLMG & LK – Ban QLNV chịu trách nhiệm điều động cán bộ đại diện sàn dự phòng.
  • Cán bộ đọc lệnh vào cho đại diện sàn sẽ do phòng QLHTGD – Ban QLNV chịu trách nhiệm điều động cử cán bộ đọc lệnh cho các đại diện sàn tại 02 Sở giao dịch.
  • Phòng QLHTGD (trường hợp mất kết nối đường truyền với HNX) và Chi nhánh Hồ Chí Minh (trường hợp mất kết nối đường truyền với HOSE) làm công văn gửi lên SGDCK để thông báo về việc mất kết nối và đăng ký danh sách đại diện sàn sẽ vào SGD để nhập lệnh.
  • Đồng thời, phòng QLHTGD thông báo đến các chi nhánh về sự cố mất kết nối và yêu cầu các phòng giao dịch tại chi nhánh nhập lệnh bình thường vào hệ thống P-BOS.

Cán bộ đọc lệnh thực hiện đọc lần lượt các lệnh theo thứ tự sắp xếp trên P-BOS qua điện thoại có ghi âm cho đại diện sàn. Nhân viên đọc lệnh phải có trách nhiệm đọc lệnh theo đúng thứ tự lệnh được nhập trên hệ thống. Nhân viên đọc lệnh và đại diện sàn của PSI tại sở giao dịch chứng khoán có trách nhiệm đối chiếu, xác nhận với nhau thông tin lệnh đặt bằng cách nghe và đọc lại các thông tin đối với mỗi lệnh giao dịch.

  • Đại diện sàn nhập lệnh vào hệ thống máy tính của Sở giao dịch chứng khoán.
  • Nguyên tắc nhập lệnh:
  • Lệnh nhận trước được nhập vào hệ thống trước;
  • Đảm bảo tính chính xác tuyệt đối các thông tin được nhập vào hệ thống.
  • Đại diện sàn không được phép nhận lệnh trực tiếp từ các phòng giao dịch hoặc chi nhánh, mà chỉ được nhận lệnh từ nhân viên đọc lệnh của phòng QLHTGD. Trường hợp ngoại lệ theo phê duyệt của Phó Tổng Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc thì đại diện sàn sẽ nhập lệnh thẳng vào Sở Giao dịch (không nhập qua hệ thống P-BOS) từ cán bộ được chỉ định đọc lệnh riêng.

(Lưu đồ và quy trình thực hiện theo hướng dẫn tại Phụ lục 04)

Cập nhật kết quả khớp lệnh vào hệ thống phần mềm và thực hiện hạch toán ngày T.

Kết quả khớp lệnh được các Sở giao dịch liên tục truyền về hệ thống phần mềm giao dịch chứng khoán của PSI qua cổng GateWay. Cổng Gateway sẽ tự động cập nhật vào phần mềm giao dịch của PSI.

Trường hợp mất kết nối thông sàn, thì việc truyền lệnh giao dịch phải qua Đại diện sàn (DC term) nên dữ liệu truyền từ Sở về sẽ do phần mềm Chuyển đổi dữ liệu (Download PC) chuyển vào phần mềm. Việc truyền tải và nhận kết quả lệnh này áp dụng cho cả sàn giao dịch Hồ Chí Minh, Hà Nội và Upcom.

Kết quả khớp lệnh được cập nhật trên cơ sở sổ lệnh giao dịch từ các Sở giao dịch chứng khoán. Việc cập nhật kết quả khớp lệnh được thực hiện ngay trong phiên giao dịch.

Ngày T: Căn cứ vào Báo cáo giao dịch, thực hiện: Hạch toán giảm tiền trên tài khoản khách hàng, chuyển tổng số tiền các khách hàng mua chứng khoán trong ngày (gồm cả gốc và phí) cho PSI trước 15 h ngày T và đến ngày T+3: Căn cứ vào Báo cáo giao dịch ngày T do PSI gửi và báo có số tiền khách hàng bán ngày T3, hạch toán tiền bán cho từng khách hàng.

Trường hợp có sai lệnh, hệ thống sẽ đẩy những lệnh sai vào màn hình “Tạm xử lý”. Nhân viên tại phòng QLHTGD- Ban QLNV phải dám sát màn hình này, tìm nguyên nhân và xử lý theo quy trình sửa lỗi giao dịch.

Lưu trữ hồ sơ; báo cáo và thông báo kết quả giao dịch.

Sau khi xác nhận kết quả giao dịch, phần mềm sẽ tự động xử lý số liệu đã xác nhận để lập báo cáo và thông báo kết quả giao dịch đồng thời chuyển số liệu đó sang phần thanh toán bù trừ tiền và chứng khoán. Việc thanh toán này thực hiện theo quy trình thanh toán bù trừ tiền và chứng khoán.

Lập thông báo kết quả giao dịch gửi cho khách hàng. Thông báo kết quả giao dịch được in từ phần mềm. Trường hợp khách hàng có nhu cầu nhận thông báo kết quả qua tin nhắn SMS, bộ phận IT có trách nhiệm thực hiện.

Cuối ngày, sau khi lấy kết quả giao dịch từ cổng điện tử của HNX và HSX , phòng QLHTGD- Ban QLNV sẽ đối chiếu kết quả với BOS, nếu kết quả từ BOS với HNX và HSX khớp nhau, phòng sẽ lưu kết quả (cả bản cứng và bản mềm).

Phòng QLHTGD lưu báo cáo giao dịch đa phương của 2 Sở GD HNX & HSX (bản cứng). Đồng thời lưu sổ lệnh toàn hệ thống bằng bản mềm. Cuối năm Phòng QLHTGD sẽ phối hợp với Ban CNTT lưu trữ toàn bộ giao dịch lệnh cả năm bằng bản mềm.

2.2.2 Kết quả hoạt động MGCK tại Công ty CP Chứng khoán Dầu khí Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

Hoạt động môi giới là bộ mặt của mỗi công ty chứng khoán. Đây là hoạt động mà nhân lực chiếm tỉ trọng lớn nhất trong các hoạt động của công ty chứng khoán. Cũng như hầu hết các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay, công ty CP chứng khoán Dầu khí đã thực hiện nghiệp vụ môi giới ngay từ buổi đầu đi vào hoạt động, xác định những hướng đi và kế hoạch cụ thể để nâng cao tiện ích cho người đầu tư, chào hàng sản phẩm mới và hấp dẫn nhằm mở rộng cở sở khách hàng của Công ty. Trải qua gần 5 năm hoạt động, được sự quan tâm chỉ đạo của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, sự ủng hộ của toàn thể ban lãnh đạo công ty cũng như cán bộ công nhân viên, PSI đã từng bước vượt qua những khó khăn ban đầu, hoạt động kinh doanh của công ty dần đi vào ổn định. Tuy mới hoạt động được gần 5 năm nhưng nghiệp vụ môi giới luôn tỏ ra là một nghiệp vụ hấp dẫn mang lại hiệu quả cao đối với công ty.

Hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty có thể được đánh giá qua nhiều tiêu thức khác nhau, tuy nhiên có thể nhìn nhận qua các chỉ tiêu chính là: số lượng tài khoản giao dịch của khách hàng mở tại công ty; khối lượng và giá trị giao dịch, doanh thu môi giới (phí môi giới), doanh thu dịch vụ tài chính.

2.2.2.1 Số lượng tài khoản mở

Qua gần 5 năm hoạt động, số lượng khách hàng đến mở tài khoản giao dịch tại công ty không ngừng tăng lên, năm sau tăng hơn năm trước. Công ty không chỉ thu hút thêm khách hàng mà còn ngày càng thu hút thêm nhiều khách hàng mới, tạo niềm tin đối với nhà đầu tư và nâng cao uy tín, vị thế của công ty trên thị trường. Tính đến thời điểm 31/12/2010, tổng số tài khoản giao dịch tại PSI đạt 16.521 tài khoản trong đó có 27 tài khoản tổ chức. Tổng số tài khoản mở mới trong năm đạt 7.284 tài khoản bằng 125% kế hoạch 2010 và cao gấp gần 2 lần so với năm 2009. Có thể đánh giá vấn đề này qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.1 Số lượng tài khoản mở tại PSI qua các năm

Biểu đồ 2.3 Số lượng tài khoản mở tại của PSI qua các tháng trong năm 2010

Nhìn vào bảng 2.3 cho thấy, trong 4 năm hoạt động, số tài khoản của khách hàng mở tại công ty không ngừng tăng thêm. Tuy năm đầu tiên đi vào hoạt động (2007) số lượng tài khoản mở tại công ty mới chỉ là 4570 tài khoản, nhưng trong 3 năm con số này đã tăng vọt: năm 2008 là 2.205 tài khoản, tăng 48%; năm 2009 là 1809 tài khoản, tăng 27%. Đến năm 2010 số lượng tài khoản tăng vọt lên 7937 tài khoản, tăng 92%. Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

Kết quả trong năm 2010, PSI từng bước khẳng định vị thế của mình và cạnh tranh bình đẳng với các CTCK đã có tên tuổi trên thị trường lâu nay. Cụ thể, thị phần môi giới của PSI đã có một bước nhảy vọt. Chỉ trong 3 tháng kinh doanh đầu năm 2010, thị phần môi giới tại sàn HOSE đã tăng gần 4 lần và chính thức ghi danh vào top 11 CTCK có thị phần hàng đầu tại HOSE. Ngày 18/03/2010, PSI đã chính thức đón nhận tài khoản giao dịch chứng khoán thứ 10.000, tạo đà thuận lợi cho PSI trên định hướng mục tiêu đứng vào top 10-15 CTCK có thị phần môi giới hàng đầu tại Việt Nam trong năm 2010 và đạt xấp xỉ 2,16% thị phần tài khoản của toàn thị trường. Tuy nhiên con số này còn hạn chế vì so với một số CTCK khác như CTCK Sài Gòn (SSI) chiếm khoảng 12%. CTCK Bảo Việt chiếm khoảng 22,77%, CTCK Thăng Long chiếm khoảng 10,57%… Ta có thể có cái nhìn tổng quát về thị trường năm 2010 về số lượng tài khoản mở và thị phần tại một số CTCK lớn sau:

Bảng 2.2 Số lượng tài khoản mở và thị phần môi giới tại một số CTCK:

Biểu đồ 2.4 Số lượng tài khoản mở năm 2010 của một số công ty chứng khoán

Biểu đồ 2.5 Thị phần MGCK năm 2010 của một số công ty chứng khoán

Qua bảng trên cho thấy, thị phần của PSI (2,16%) là tương đối nhỏ so với thị phần của các công ty chứng khoán khác trên toàn thị trường, và chưa tương xứng với quy mô hoạt động và số vốn điều lệ cũng như danh tiến của công ty. Tuy nhiên, hoạt động môi giới của công ty vẫn được đánh giá là có hiệu quả vì công ty đã đạt được chỉ tiêu thực tế cao hơn rất nhiều so với dự kiến. Trong điều kiện mức độ tăng trưởng số lượng tài khoản năm 2010 trên toàn thị trường là 120%/năm (so với năm 2009) thì tốc độ tăng trưởng số lượng tài khoản của PSI là 192%/năm, đó là tỷ lệ tăng trưởng tương đối khá so với toàn thị trường. Đây là kết quả rất đáng khích lệ. Có được kết quả trên là nhờ công ty đã có hướng đầu tư đúng đắn vào nghiệp vụ môi giới: ký kết được một số hợp đồng dịch vụ lưu ký, tư vấn và môi giới cho một số nhà đầu tư lớn, tiếp tục cung cấp các dịch vụ mới hỗ trợ cho nhà đầu tư chứng khoán như dịch vụ chuyển nhượng quyền nhận cổ tức, dịch vụ xác nhận số dư chứng khoán trên tài khoản của khách hàng miễn phí và triển khai dịch vụ đặt lệnh từ xa qua fax và điện thoại. Qua đó, tạo điều kiện cho nhà đầu tư đặt lệnh nhanh chóng, thuận tiện, chính xác và tiết kiệm. Vì vậy, trong điều kiện thị trường đang có nhiều khó khăn như hiện nay, một số CTCK không tránh khỏi những tổn thất nhất định thì hoạt động môi giới của công ty vẫn được đánh giá là hiệu quả.

Nhìn chung, qua các số liệu trên cho thấy khách hàng đến với PSI ngày càng nhiều. Với việc đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của TTCK cũng như nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp, hình ảnh của công ty đã được nhiều nhà đầu tư biết đến. Bên cạnh đó, dịch vụ tư vấn đầu tư cũng thực sự có hiệu quả đã góp phần thu hút được nhiều khách hàng đến với công ty. Điều quan trọng hơn cả là tất cả các nghiệp vụ mà công ty thực hiện đều liên quan trực tiếp đến khách hàng và đã được khách hàng tin tưởng, hài lòng; uy tín của công ty nhanh chóng được nâng cao. Nhờ đó mà công ty vừa giữ chân được khách hàng cũ, vừa thu hút thêm được khách hàng mới, nâng cao vị thế của công ty trên thị trường.

2.2.2.2 Khối lượng và giá trị giao dịch

Ngay từ khi được thành lập , số lượng khách hàng đến mở tài khoản tại công ty không ngừng tăng lên cũng góp phần làm tăng giá trị doanh số giao dịch tại công ty. Có thể tổng quát về tình hình doanh số chứng khoán và môi giới của PSI qua bảng sau:

Bảng 2.3 Khối lượng và giá trị giao dịch của PSI qua các năm

Biểu đồ 2.6 Khối lượng và giá trị giao của PSI qua các tháng trong năm 2010

Bảng 2.3 và biểu đồ 2.6 cho thấy giá trị giao dịch chứng khoán qua PSI không ngừng tăng qua các năm: trong đó năm 2007 giá trị giao dịch đạt 2.899,23 tỷ đồng, năm 2008 là 4.641,79 tỷ đồng, tăng hơn 160% so với năm 2007, năm 2010 là 16.128,10 tỷ đồng tăng 371% so với năm 2009. Có được kết quả này là do công ty đã sử dụng hàng loạt các biện pháp thu hút khách hàng cùng với hiệu quả thực tế hoạt động đã dần tạo lập được uy tín đối với khách hàng, củng cố niềm tin trong lòng công chúng đầu tư nên đã có thêm nhiều khách hàng tới mở tài khoản và giao dịch tại công ty, đưa doanh số môi giới của công ty lên hơn 16000 tỷ đồng trong năm 2010. Đóng góp vào kết quả này cũng là nhờ sự gia tăng về số lượng tài khoản giao dịch của các tổ chức mở tại công ty: năm 2010 có 27 tổ chức mở tài khoản tại PSI. Sự tham gia giao dịch này của các nhà đầu tư có tổ chức với doanh số giao dịch lớn đã làm cho giá trị giao dịch và thị phần môi giới của PSI cũng tăng lên đáng kể, mà nguyên nhân đóng góp đáng kể là việc đưa phần mềm mới của Tong Yang- Hàn Quốc vào hoạt động.

2.2.2.3  Doanh thu môi giới Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

Tuy không phải là nguồn thu lớn nhất của công ty nhưng được sự quan tâm chỉ đạo của ban lãnh đạo công ty nên hoạt động môi giới đã có nhiều chuyển biến sau gần 5 năm hoạt động. Ta có thể đánh giá hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán của PSI qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.4 Doanh thu môi giới chứng khoán của PSI qua các năm

Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy: doanh thu hoạt động môi giới năm 2007 chỉ đạt 6,19 tỷ đồng. Bước sang năm 2008 doanh thu môi giới đạt 7,25 tỷ đồng tăng 117% so với năm 2007. Năm 2009 doanh thu môi giới đạt 10,29 tỷ đồng tăng 141% so với năm 2008. Đặc biệt năm 2010 doanh thu môi giới đạt 28, 24 tỷ đồng tăng 276% so với năm 2009 và tăng 456% so với năm 2007. Nguyên nhân là do PSI luôn chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường hỗ trợ thông tin và tư vấn cho nhà đầu tư. Đồng thời PSI cung cấp các dịch vụ truy vấn thông tin tài khoản, thông báo kết quả giao dịch qua tin nhắn, tra cứu thông tin qua hệ thống tổng đài hiện đại và thuận tiện, cũng như sử dụng phần mềm giao dịch chứng khoán hiện đại tại việt nam hiện nay… Đồng thời PSI còn cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tiện ích cho nhà đầu tư như cho vay cầm cố, hợp tác đầu tư chứng khoán niêm yết, ứng trước tiền bán… Và mức phí PSI được coi là mức phí khá hấp dẫn đối với nhà đầu tư và là mức phí thấp so với mức phí của các CTCK khác. Sau đây là bảng phí giao dịch của PSI.

Bảng 2.5 Mức phí giao dịch của PSI.

Với biểu phí môi giới hấp dẫn như trên, PSI đã thực sự thu hút được khách hàng đến giao dịch tại công ty. Hình thức giảm phí môi giới cũng đã diễn ra ở một số CTCK khác để thu hút khách hàng như VCBS, ABS, SSI… Nhưng việc đua nhau giảm phí môi giới có thể sẽ dẫn đến việc không đủ để trang trải chi phí hàng tháng của các CTCK. Thiết nghĩ trong tình trạng cạnh tranh hiện nay, việc giảm chi phí môi giới phải đi liền với việc cắt giảm các chi phí không cần thiết, chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ, cung cấp các dịch vụ mới, tiện ích mới nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của công chúng đầu tư; đẩy mạnh công tác tư vấn, tiếp thị, marketing nhằm tiếp tục củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư .

Ta hãy so sánh doanh thu môi giới của PSI với một số CTCK khác trên thị trường qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.6 Doanh thu môi giới năm 2010 của một số CTCK trên thị trường

Biểu đồ 2.9 Doanh thu môi giới của các công ty chứng khoán năm 2010 ĐỒ THỊ DOANH THU: Tỷ đồng

Biểu đồ cũng cho thấy là tốc độ tăng trưởng doanh thu môi giới của PSI là rất nhanh và chiếm được thị phần khá cao so với các năm trước đây. Năm 2010 doanh thu môi giới tăng 276% so với năm 2009, tăng 456% so với năm 2007. Tuy nhiên kết quả này vẫn còn là khiêm tốn so với mức vốn điều lệ của công ty cũng như so với doanh thu môi giới của các công ty chứng khoán khác như: SSI, BVSC, BSC….

Hoạt động môi giới của PSI đã có nhiều chuyển biến mạnh trọng những năm qua. Tuy nhiên, so với các nghiệp vụ khác thì nghiệp vụ môi giới chứng khoán chưa phải là nghiệp vụ mạnh nhất của công ty. Ta có thể thấy được điều đó qua bảng sau:

Bảng 2.7 Cơ cấu doanh thu từ hoạt động kinh doanh chứng khoán của PSI

Biểu đồ 2.10 Cơ cấu doanh thu của PSI qua các năm

Bảng trên cho thấy doanh thu môi giới chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu từ hoạt động kinh doanh chứng khoán của PSI: năm 2007 là 6,194 tỷ đồng, chiếm 12%; năm 2008 là 7,256 tỷ đồng, chiếm 8%, năm 2009 là 10,229 tỷ đồng, chiếm 7%; năm 2010 là 28,247 tỷ đồng chiếm 11% tổng doanh thu. Tuy tỷ lệ doanh thu môi giới trong cơ cấu doanh thu qua các năm không tăng, nhưng mức tăng tuyệt đối và tỷ lệ đã tăng lên qua từng năm. So sánh năm 2010 với năm 2007 doanh thu môi giới tăng là 22,053 tỷ đồng tương đương 456%. Nghiệp vụ đem lại nguồn doanh thu lớn nhất cho công ty là tự doanh chứng khoán. Tuy nhiên đã có sự chuyển dịch cơ cấu doanh thu; hoạt động môi giới có xu hướng tăng lên và ngày càng trở nên quan trọng trong hoạt động của công ty. Thông thường doanh thu từ hoạt động môi giới là nguồn thu lớn nhất của một CTCK khi thị trường chứng khoản phát triển ổn định.

Vì vậy trong thời gian tới công ty cần phải tiếp tục chú trọng phát triển mảng hoạt động môi giới chứng khoán theo đúng xu thế phát triển của TTCK Việt Nam.

2.3 Đánh giá hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty cổ phần Chứng khoán Dầu khí PSI

2.3.1 Những kết quả đạt được Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

Nằm trong đề án xây dựng Tập đoàn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, để đảm bảo chủ động, linh hoạt trong công tác đổi mới, phát triển doanh nghiệp của Tập đoàn và các đơn vị thành viên Tập đoàn, Công ty CP Chứng khoán Dầu khí ra đời và được UBCKNN chính thức cấp giấy phép ngày 19/12/2006. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam có mô hình công ty chứng khoán hoạt động chuyên ngành, nằm trong một tập đoàn kinh tế nhà nước. Quy mô thị trường, tính thanh khoản… chưa có nhiều cải thiện trong khi có khoảng 105 công ty chứng khoán cạnh tranh khốc liệt dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong bối cảnh như vậy, các kết quả mà Chứng khoán Dầu khí đạt được trong gần 5 năm qua thật đáng khích lệ đặc biệt là hoạt động môi chứng khoán.

Thứ nhất: Trong 5 năm qua, số lượng tài khoản mà công ty mở cho

khách hàng không ngừng tăng lên từ 4570 tài khoản năm 2007 lên đến 16.521 tài khoản năm 2010 và hết 31/12/2011 tổng số tài khoản được mở tại công ty là 19.317 tài khoản. Không những giữ được các khách hàng cũ, khách hàng truyền thống, công ty còn thu hút thêm nhiều khách hàng mới, từ lúc chỉ có khách hàng cá nhân nay có thêm nhiều khách hàng tổ chức, không ngừng nâng cao vị thế và uy tín của công ty trên thị trường.

Thứ hai: Giá trị giao dịch môi giới tăng không ngừng qua các năm. Thị phần của công ty trên thị trường không ngừng được mở rộng.

Thứ ba: Đã xây dựng được hệ thống, mạng lưới tại các trung tâm kinh tế thông qua 8 chi nhánh: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Hải Phòng, Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định. Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

Thứ tư: Với mục tiêu trở thành công ty chứng khoán hàng đầu Việt Nam vào năm 2012, công ty đã không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nghiên cứu và đưa ra các sản phẩm mới, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tiện ích như dịch vụ ứng trước tiền bán chứng khoán (kết hợp với Oceanbank), dịch vụ chuyển nhượng quyền nhận cổ tức, dịch vụ xác nhận số dư chứng khoán trên tài khoản của khách hàng, dịch vụ đặt lệnh từ xa, dịch vụ cầm cố chứng khoán với hạn mức tín dụng luân chuyển, dịch vụ nhận kết quả khớp lệnh bằng tin nhắn SMS, dịch vụ chuyển tiền trực tiếp trên phần mềm Smart Invest…Những dịch vụ này đã đem lại nhiều tiện ích và hiệu quả cho khách hàng, thể hiện thông qua số lượng khách hàng đến với công ty ngày càng tăng và thị phần của công ty ngày càng mở rộng.

Thứ năm: Công ty tổ chức thực hiện nghiệp vụ môi giới một cách nhanh chóng, chính xác với độ an toàn cao, thông qua đội ngũ môi giới chuyên nghiệp, năng động từ đó tạo niềm tin cho khách hàng để họ tích cực hơn trong việc tham gia giao dịch chứng khoán trên thị trường. Vì vậy, số lượng khách hàng đến mở tài khoản tại công ty luôn đạt chỉ tiêu thực tế cao hơn kế hoạch dự kiến.

Như vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng nghiệp vụ môi giới chứng khoán của PSI đang ngày càng hoạt động có hiệu quả và đang từng bước được hoàn thiện. Có được những kết quả trên là do những yếu tố sau:

Thứ nhất: Công ty đã qua nghiên cứu, xây dựng và ban hành được quy trình nghiệp vụ môi giới riêng của công ty. Đồng thời từ tháng 9/2009 công ty cũng đã đưa sử dụng phần mềm giao dịch chứng khoán Tong Yang- Hàn Quốc, đây là một trong những phần mềm hiện đại nhất hiện nay. Việc này giúp cho quy trình giao dịch môi giới chứng khoán được nhanh chóng đơn giản, chính xác và giảm bớt những thủ tục hành chính gây phiền hà cho nhà đầu tư.

Thứ hai: Đội ngũ nhân viên môi giới của công ty qua hơn 4 năm tập dượt đã thực sự trưởng thành cả về kiến thức chuyên môn cũng như trình độ nghiệp vụ. Công ty đã đào tạo được đội ngũ môi giới lành nghề, hội tụ đầy đủ các chuẩn mực đạo đức và sử dụng thành thạo các kỹ năng của một nhà môi giới chứng khoán, trở thành các nhà môi giới chứng khoán chuyên nghiệp, năng động, nhiệt tình, có đạo đức nghề nghiệp và có trách nhiệm với khách hàng.

Thứ ba: hoạt động phân tích của Công ty đã gây được nhiều tiếng vang lớn. Công ty đã thường xuyên đưa ra các báo cáo phân tích kinh tế vĩ mô, phân tích chiến lược và phân tích về ngành Dầu khí có chất lượng chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Bên cạnh các báo cáo phân tích là các bản tin chứng khoán hàng ngày, hàng tuần, các báo cáo phân tích chuyên sâu về các doanh nghiệp trong và ngoài lĩnh vực dầu khí với chất lượng và độ tin cậy cao, qua đó cung cấp đầy đủ thông tin tin cậy cho khách hàng trước khi ra quyết định đầu tư.

Ngoài ra sau gần 5 năm hoạt động công ty còn đạt được những thành tựu sau đây:

  • Vốn chủ sở hữu của Công ty tăng hơn 4 lần (từ 150 tỷ lên hơn 600 tỷ), doanh thu tăng hơn 4 lần (từ 53 tỷ lên 258 tỷ), lợi nhuận tăng từ 126 triệu đồng năm 2007 lên 85 tỷ đồng năm 2010 (gấp 674 lần). Công ty chính thức niêm yết trên HNX từ ngày 21/7/2010.
  • Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trên nền tảng phần mềm hiện đại, đáp ứng các yêu cầu về giao dịch trực tuyến, quản lý cổ đông của khách hàng. Chứng khoán Dầu khí là một trong số ít các công ty chứng khoán trên thị trường có Trung tâm hỗ trợ khách hàng (Contact Center) nhằm hỗ trợ tối đa các yêu cầu và giải đáp kịp thời các thắc mắc của khách hàng trên toàn quốc.
  • Xây dựng được về cơ bản hệ thống các báo cáo phân tích chuyên sâu và thường xuyên cập nhật về các doanh nghiệp Dầu khí đang niêm yết và chuẩn bị niêm yết, các báo cáo kinh tế vĩ mô, báo cáo tổng hợp, phân tích tình hình thị trường theo năm, quý, tháng, tuần, ngày, thường xuyên tổ chức hội thảo cho các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài, tạo điều kiện để quan hệ giữa các nhà đầu tư và các doanh nghiệp trong ngành ngày càng thân thiện, hợp tác. Đặc biệt công ty đang triển khai dự án PVN Index cho Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam;
  • Đã lựa chọn cổ đông chiến lược nước ngoài là Nikko Cordial của Nhật Bản đáp ứng chiến lược phát triển của Công ty.
  • Khẳng định vị thế của Chứng khoán Dầu khí trong lĩnh vực tư vấn tài chính doanh nghiệp trên TTCKVN. Bên cạnh thị trường truyền thống trong Tập đoàn và tích cực tham gia các đợt phát hành trái phiếu của Tập đoàn, Chứng khoán Dầu khí sẽ mở rộng hoạt động ra các tập đoàn khác. Đồng thời là cầu nối giữa các doanh nghiệp Dầu khí, các doanh nghiệp VN với thị trường tài chính, các tổ chức tài chính, nhà đầu tư nước ngoài.
  • PSI đã được nhận được 02 giải bình chọn Công ty tư vấn M&A tiêu biểu và Công ty có Thương vụ phát hành riêng lẻ tiêu biểu tại diễn đàn M&A Việt Nam lần thứ ba do Báo Đầu tư và Công ty AVM Vietnam phối hợp tổ chức ngày 9/6/2011 tại TP. HCM. Trong số 105 công ty chứng khoán tại Việt Nam chỉ có 4 công ty được vinh dự trao tặng giải thưởng này
  • Xây dựng quy chế kiểm soát rủi ro, thực hiện phân cấp, phân quyền, quản lý đến từng chi nhánh, từng user và bóc tách tài khoản theo từng Phòng giao dịch. Đã xây dựng được hệ thống Mobile Trading.

2.3.2 Những tồn tại và nguyên nhân: Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

Bước đầu việc triển khai dịch vụ MGCK tại Công ty Chứng khoán Dầu khí đã đạt được những kết quả nhật định, song bên cạnh đó còn có nhiều tồn tại và hạn chế cần được xác định rõ nguyên nhân để tìm ra các biện pháp khắc phục.

2.3.2.1 Những tồn tại

Một là: Doanh thu mảng môi giới có tăng trưởng qua các năm, từ 6,194 tỷ đồng năm 2007, doanh thu môi giới đã tăng dần qua các năm 2008 là 7,256 tỷ đồng, năm 2009 là 10,229 tỷ đồng và năm 2010 là 28,247 tỷ đồng. Tuy nhiên còn rất khiêm tốn so với thị trường; Cụ thể doanh thu môi giới năm 2010 của PSI là 28.247,40 tỷ đồng, trong khi đó của SSI là 176.043,71 tỷ đồng, của BVSC là 64.730,37 tỷ đồng, của VDS 36.168,36; Nếu so sánh tỷ lệ doanh thu của mảng môi giới trên 1 đồng vốn điều lệ thì tỷ lệ này của PSI chiếm tỷ lệ thấp nhất trong các công ty chứng khoán; cụ thể 1 đồng vốn điều lệ của PSI góp phând tạo ra 47,24 đồng doanh thu; trong khi đó của VDS là 103,63 đồng, của BSC là 214,33 đồng; của BVSC là 89, 65 đồng, của SSI là 50,14 đồng; ta có thể tham khảo bảng tính theo số liệu của Bảng 2.8 dưới đây:

Bảng 2.8 So sánh tỷ lệ doanh thu trên vốn điều lệ của các công ty chứng khoán

Hai là: Lợi nhuận hoạt động mảng môi giới thu được là không cao; Cụ thể chỉ tiêu này trong các năm như sau:

Bảng 2.9 Lợi nhuận hoạt động môi giới Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

Qua bảng trên cho ta thấy mảng môi giới chỉ thu được lợi nhuận trong 2 năm 2007 và 2008 còn các năm gần đây mảng môi giới của PSI đều bị lỗ, riêng năm 2011 số lỗ lên tới 1,239 tỷ đồng.

Ba là, Số lượng tài khoản mở tại công ty có tăng lên qua các năm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ so với thị trường; Cụ thể tại Bảng 2.2 ta thấy trong năm 2010 số lượng tài khoản mở được của PSI là 16.521 tài khoản, trong khí đó BVSC là 40.000 tài khoản, hơn PSI 2,4 lần VDS là 45.225 tài khoản, hơn PSI 2,8 lần; SSI là 54.000 tài khoản, hơn PSI 3,3 lần… . Bên cạnh những tài khoản mở thêm thì vẫn có lượng lớn tài khoản bị đóng; cụ thể như sau:

Bảng 2.10- Số lượng tài khoản mở, tài khoản đóng qua các năm

Ngoài ra, trong số những tài khoản mở tại PSI thì thực tế có rất nhiều tài khoản không giao dịch, chiếm tới 91% đến 94%. Cụ thể tỷ lệ tài khoản active bình quân năm 2007 là 8%, năm 2008 là 7,5%, năm 2009 là 6%, năm 2010 là 7% và tỷ lệ tài khoản active trong các tháng năm 2011 như sau:

Bảng 2.11-Số lượng tài khoản active các tháng trong năm 2011 như sau:

Do số lượng tài khoản active thấp (mặc dù số lượng tài khoản mở mới đều tăng trưởng qua các năm) nên doanh thu mảng môi giới mang lại còn hạn chế và chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu doanh thu của công ty; cụ thể năm 2007 12%, năm 2008 là 8%, năm 2009 là 7% và năm 2010 là 11%. Đồng thời xét trên phương diện doanh thu trên 1 tài khoản active thì chỉ tiêu này của công ty có sự tăng giảm không đều qua các năm, riêng năm 2011 giảm xuống còn 9,07 đồng/1 TK so với năm 2010 là 23,74 đồng/1TK; chi tiết như sau:

Bảng 2.12-Khả năng tạo doanh thu từ một tài khoản qua các năm của công ty

Số lượng nhà đầu tư có giá trị giao dịch lớn tại Công ty chưa nhiều, chủ yếu chỉ là các khách hàng nhỏ lẻ giá trị giao dịch dưới 1 tỷ đồng, chưa thực hiện tốt công tác phát triển khách hàng VIP, khách hàng tổ chức, đặc biệt là khách hàng nước ngoài (đến hết năm 2009 chưa có khách hàng tổ chức nước ngoài), những đối tượng luôn duy trì một quy mô giao dịch tương đối ổn định và có giá trị lớn; theo số liệu của hai sở giao dịch chứng khoán thì giá trị giao dịch bình quân một phiên của nhà đầu tư nước ngoài trong năm 2011 là 159 tỷ đồng, trong đó bình quân 145 tỷ đồng/phiên trên HOSE và 13,6 tỷ đồng/phiên trên HNX chiếm 1,14% giá trị giao dịch trên toàn thị trường. Dưới đây là số nhà đầu tư mở tài khoản tại công ty qua các năm:

Bảng 2.13- Số lượng nhà đầu tư trong nước và nước ngoài qua các năm

Bốn là, Do mới đi vào hoạt động, thị phần môi giới của công ty vẫn còn thấp so với các công ty khác. Giá trị chứng khoán giao dịch cũng còn khiêm tốn. Mặc dù có xu hướng tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ bé so với lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư cũng như trị giá vốn của doanh nghiệp. Đây cũng chính là lý do khiến doanh thu từ hoạt động môi giới chưa cao so với toàn thị trường và chiếm tỷ trọng thấp trong tổng doanh thu của công ty. Theo bảng 2.2 trong năm 2010 thị phần môi giới của PSI chỉ chiếm 2,16%; Tuy nhiên con số này còn hạn chế vì so với một số CTCK khác như CTCK Sài Gòn (SSI) chiếm khoảng 12%. CTCK Bảo Việt chiếm khoảng 22,77%, CTCK Thăng Long chiếm khoảng 10,57%…

Năm là, Dịch vụ môi giới của công ty còn thiếu chuyên nghiệp và mang tính chất thụ động. Hiện tại, hoạt động môi giới của Công ty mới chỉ dừng lại ở mức độ thay mặt khách hàng thực hiện lệnh giao dịch ( nhận lệnh và nhập lệnh vào hệ thống), chính vì vậy mà hàm lượng tư vấn rất thấp trong khi đây mới là phần quan trọng nhất của nghiệp vụ này. Có thể nói nghiệp vụ môi giới của Công ty mới dừng ở mức độ môi giới giao dịch, tức là nhân viên môi giới chỉ làm nhiệm vụ nhập lệnh cho khách hàng nếu khớp lệnh thành công thì thu phí, chưa quan tâm đến suy nghĩ, tâm lý của nhà đầu tư. Hơn nữa các dịch vụ hỗ trợ còn ít, không mang tính đặc trưng, chủ yếu vẫn là các dịch vụ đáp ứng yêu cầu thiết yếu của khách hàng: nhập lệnh, ứng trước tiền bán, cho vay cầm cố chứng khoán niêm yết, repo chứng khoán chưa niêm yết, làm trung gian chuyển nhượng…. Đây đều là những dịch vụ mà bất cứ công ty chứng khoán nào cũng thực hiện được.

Dịch vụ tư vấn được Công ty triển khai ngay từ đầu nhưng đến nay vẫn chưa đạt được bước tiến nào đáng kể. Với dịch vụ cầm cố chứng khoán, khách hàng chỉ được phép vay 50% thị giá của phiên giao dịch gần nhất nhưng không quá 50.000 đồng/ 1 cổ phiếu; do đó ngay cả những cổ phiếu có thị giá lớn như FPT, SZL, GMD… cũng chỉ được vay 50.000 đồng/ 1 cổ phiếu; hơn nữa khách hàng chỉ được cầm cố những chứng khoán có tên trong danh mục chứng khoán cầm cố theo quy định riêng của công ty.

Sáu là, Cơ chế tiền lương mặc dù đã được cải thiện nhưng còn chưa có tính cạnh tranh so với các CTCK khác trên thị trường. Mức lương trung bình của nhân viên môi giới là 6 triệu đồng, chưa có thù lao theo doanh số đem lại cho Công ty. Chế độ thù lao như vậy là cao so với mặt bằng chung của xã hội song với mức lương này khó tạo động lực làm việc và cống hiến hết mình vì Công ty, không khuyến khích nhân viên môi giới mở rộng tăng cường khai thác khách hàng cho Công ty cũng như thu hút nhiều nhân sự giỏi về làm việc tại Công ty.

2.3.3.2 Nguyên nhân thực trạng trên Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện:

Các văn bản quy phạm pháp luật về TTCK hiện nay chủ yếu điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành, kinh doanh và quản lý nhà nước về chứng khoán mà thiếu những văn bản trực tiếp điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán và quy định cụ thể về đạo đức nghề nghiệp của nhân viên môi giới, vì vậy mà hoạt động môi giới chưa thực sự đươc điều chỉnh để trở nên chuyên nghiệp và hoàn chỉnh hơn.

Bên cạnh đó mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã khó thu hút nhà đầu tư nước ngoài lại còn thêm rất nhiều bất cập như thủ tục cấp mã số kinh doanh phức tạp, đòi hỏi nhà đầu tư nước ngoài phải làm lý lịch xác nhận tại địa phương, tái xác nhận tại lãnh sự quán, đại sứ quan Việt Nam tại nước ngoài. Chính điều này đã ảnh hưởng đến tâm lý và gây khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam.

Chính sách thắt chặt tiền tệ vẫn sẽ tiếp tục được củng cố, luồng vốn đưa vào TTCK vẫn có chiều hướng bị thu hẹp. NĐTNN có thiên hướng thoái vốn dần khỏi TTCK Việt Nam. Chi phí vốn vẫn ở mức quá cao trong khi TTCK vẫn ảm đạm sẽ không thu hút được dòng tiền đầu tư – đầu cơ tham gia thị trường.

Mặt bằng lãi suất cho vay cao (hơn 21%/năm), khiến cho các nhà đầu tư giảm tỷ lệ sử dụng đòn bẩy, làm ảnh hưởng đến hiệu quả dịch vụ tài chính của Chi nhánh.

Thứ hai, TTCK Việt Nam còn non trẻ và chưa hoàn thiện:

Hàng hoá trên thị trường còn sơ sài cả về chủng loại và số lượng, mặc dù số lượng công ty niêm yết đã tăng lên khá nhanh trong thời gian vừa qua, nhưng tính đến cuối năm 2009 số cổ phiếu giao dịch là khoảng hơn 400 mã, còn lại là một số mã trái phiếu. Giao dịch gần như chỉ tiến hành với cổ phiếu còn trái phiếu rất ít có giao dịch.

Thứ ba là do PSI mới tham gia vào thị trường chưa lâu.

Sự phát triển của các CTCK trước đó như CTCK Bảo Việt, CTCK Sài Gòn, CTCK Thăng Long… là một nhân tố cạnh tranh khá lớn đối với PSI cả về thị phần khách hàng, về nguồn vốn kinh doanh, về công nghệ, về dịch vụ, về mức phí giao dịch … Do đó ảnh hưởng không nhỏ đến mạng lưới khách hàng, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu lợi nhuận và hiệu quả của hoạt động của PSI nói chung và hoạt động môi giới nói riêng.

Các công ty Chứng khoán trên địa bàn áp dụng các sản phẩm đa dạng hơn, như: sản phẩm cho vay chứng khoán để bán (Công ty CK VNDirrect, SBS), khuyến mại giảm phí giao dịch cho khách hàng (Công ty CK Nông nghiệp), chậm nộp tiền T+2 &4 (Chứng khoán Thăng Long- HP) T+3 (Công ty CK Đà Nẵng), v..v..Nhiều công ty tăng cường phát triển đội ngũ môi giới để hút khách hàng (Công ty CK KimEng), có chính sách ưu đãi cho nhân viên: Nhân viên Môi giới được hưởng cả lương cứng và lương mềm, với mức lương cao.

Thứ tư là phong cách kinh doanh của nhà đầu tư

Phần lớn các nhà đầu tư đầu tư theo thông tin, theo tâm lý “bầy đàn” và theo tâm lý “thử” bởi vậy bất kỳ một sự điều chỉnh nào của thị trường sẽ tác động theo số đông những nhà đầu tư này, mà thị trường của ta chủ yếu là các nhà đầu tư nhỏ lẻ nên điều đó tác động không nhỏ đến xu hướng thị trường. Do đó đây là một hạn chế không nhỏ cho sự phát triển mạng lưới khách hàng, chất lượng khách hàng, hiệu quả hoạt động của các CTCK nói chung và của PSI nói riêng.

Nguyên nhân chủ quan

Về nhân sự: Chất lượng nhân sự của hoạt động môi giới chưa cao.Do thị trường sụt giảm, hoạt động của đội ngũ môi giới PTKH thu hẹp lại nghiêm trọng. Đa số các MG không đạt được chỉ tiêu về doanh số, do vậy không có thu nhập hàng tháng. Các MG & PTKH đã chuyển hướng công tác, đại đa số không tập trung vào chứng khoán hoặc xin nghỉ. Do đó, cũng ảnh hưởng lớn đến doanh thu môi giới của công ty.

Về chính sách: Hệ thống máy chủ PSI chạy khóa khá sớm so với các công ty chứng khoán khác (thường là từ 15h15 đến 15h30) nên gây khó khăn cho khách hàng trong việc nộp tiền khi thực hiện việc bảo lãnh trong ngày (Như các CTCK khác thì có thể cho phép nộp tiền trước 16h30).

Công ty thực hiện chính sách tăng cường hoạt động kiểm soát rủi ro trong các dịch vụ tài chính (ngừng giải ngân bảo chứng, ngừng bảo lãnh ngày T…), thu hẹp danh mục và hạn mức giải ngân; do đó đã ảnh hưởng lớn hoạt động cho giải ngân HTĐT và mua bán chứng khoán chưa niêm yết. Về các dịch vụ cơ bản PSI đã đáp ứng được nhu cầu của đa số khách hàng. Tuy nhiên, các dịch vụ gia tăng như thanh toán ngày T+ chưa cạnh tranh được với đơn vị khác.

Đội ngũ môi giới chứng khoán của PSI phải đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ một lúc: đọc lệnh, nhập lệnh, tiếp xúc khách hàng … nên tính chuyên môn chưa cao.

Công ty chưa có tiêu chí rõ nét trong việc tạo lập một chính sách khách hàng cho riêng mình, cho việc phân đoạn thị trường và lựa chọn khách hàng, đối tượng của môi giới còn hạn hẹp. Mạng lưới tiếp thị xây dựng cơ sở khách hàng vì thế chưa được coi trọng đúng mức và chưa được tách biệt ra như một nhiệm vụ độc lập

Thực tế rất nhiều công ty chứng khoán đã thành lập một mạng lưới cộng tác viên môi giới chứng khoán, chuyên tìm kiếm khách hàng, còn PSI chưa có. Vì thế xảy ra hiện tượng khó khăn trong công tác phát triển mạng lưới và quan trọng hơn là không xác định được khách hàng tiềm năng, dẫn tới mất những khách hàng tiềm năng cho các CTCK khác.

PSI chưa có sự liên kết giữa các phòng ban và các bộ phận nghiệp vụ. Sự gắn kết giữa sản phẩm của phòng phân tích đầu tư với phòng môi giới và phòng tư vấn tài chính chưa cao, do đó chưa phát huy được tốt vai trò, chức năng của các phòng trong hoạt động của Công ty. Chưa có sự liên kết quy trình giữa phòng môi giới như bộ phận cho vay cầm cố với bộ phận kế toán, quá trình thu lại tiền bán ứng trước của khách hàng với quá trình giao dịch chứng khoán… do đó tiềm ẩn nhiều rủi ro trong các dịch vụ đi kèm của Công ty.

Mặc dù đã được quan tâm phát triển ngay từ đầu nhưng cơ sở vật chất cho hoạt động môi giới chứng khoán của công ty vẫn còn nhiều thiếu thốn. Cơ sở vật chất của công ty mà chủ yếu là phục vụ cho hoạt động môi giới, giao dịch với khách hàng tuy đã đáp ứng được những yêu cầu cơ bản song mới chỉ theo kịp với xu thế chung của thị trường, chưa thực sự tạo được những hình ảnh nổi bật, riêng có của công ty. Hệ thống công bố thông tin của Công ty còn chậm và sơ sài, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là thong tin trên báo cáo thường niên của công ty. Luận văn: Thực trạng môi giới chứng khoáng tại Cty Dầu khí PSI

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY 

===>>> Luận văn: Giải pháp nâng cao môi giới chứng khoáng của Cty PSI

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x