Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Cơ sở pháp lý và những yếu tố ảnh hưởng tới xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại tỉnh Cao Bằng
2.1.1. Các yếu tố kinh tế-xã hội ảnh hưởng tới xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại tỉnh Cao Bằng
Vị trí địa lý
Cao Bằng là một tỉnh biên giới ở cực Bắc của đất nước, nằm trong vùng Miền núi và Trung du Bắc bộ; Tổng diện tích đất tự nhiên tỉnh Cao Bằng là: 6.724,62 km2, chiếm 2,12% diện tích cả nước, được giới hạn trong tọa độ địa lý từ 22021’21” đến 23007’12” vĩ độ Bắc và từ 105016’15” đến 106050’25” kinh độ Đông.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
- Phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Quảng Tây của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa với đường biên giới dài trên 333 km;
- Phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Lạng Sơn;
- Phía Tây giáp tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang.
Tỉnh lị là thành phố Cao Bằng cách thủ đô Hà Nội 286 km theo đường Quốc lộ 3. Cao Bằng là một tỉnh có vị trí địa lý cách xa các trung tâm kinh tế lớn của miền Bắc và cả nước. Trước thời điểm tháng 3 năm 2020 tỉnh Cao Bằng có 13 đơn vị hành chính cấp huyện (12 huyện và 01 thành phố) với 199 xã phường thị trấn trong đó có 46 xã, thị trấn biên giới) [57]. Thực hiện việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã tỉnh Cao Bằng theo Nghị quyết số 864/NQ-UBTVQH14 ngày 10/1/2020 và Nghị quyết số 897/NQ-UBTVQH14 ngày 11/02/2020 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã thuộc tỉnh Cao Bằng, sau ngày 01/3/2020 tỉnh Cao Bằng có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 9 huyện và 01 thành phố; 161 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 139 xã, 8 phường và 14 thị trấn [39]. Với điều kiện tự nhiên chủ yếu là đồi núi, giao thông không thuận tiện (tỉnh chỉ có duy nhất giao thông đường bộ và bị ảnh hưởng bởi địa hình chia cắt).
Đặc điểm khí hậu, thời tiết
Do nằm sát chí tuyến Bắc trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu nên khí hậu của tỉnh Cao Bằng mang tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong năm có 2 mùa rõ rệt: mùa nóng mưa nhiều từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa lạnh mưa ít từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng từ 19,80C đến 21,60C, mùa hè có nhiệt độ trung bình dao động trong khoảng từ 250C đến 280C, mùa đông có nhiệt độ trung bình dao động trong khoảng từ 140C đến 180C.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật
Đặc điểm kinh tế – xã hội
Kinh tế của tỉnh trong những năm gần đây đã có những bước tăng trưởng khá nhưng chưa thật sự bền vững; là địa phương chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nhưng hiệu quả sản xuất nông nghiệp còn thấp; ngành công nghiệp phát triển chậm; tiềm năng về thương mại, du lịch, kinh tế cửa khẩu chưa được khai thác, phát huy hết lợi thế (năm 2019: tổng thu ngân sách đạt 2.208 tỷ đồng, tổng chi ngân sách là 9.206,632 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người năm 2018: 1.856.000 đồng) [11, tr.13]. Tỉnh có có 08/13 huyện nghèo theo Quyết định số 275/QĐ-TTg ngày 07/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách các huyện nghèo và huyện thoát nghèo giai đoạn 2018-2020; trong đó có 116/199 xã đặc biệt khó khăn, 98 xóm đặc biệt khó khăn theo Chương trình 135 [36]. Vì là tỉnh điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn do đó khi xây dựng văn bản QPPL cần tập trung xây dựng những thể chế khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, tạo những cơ chế tăng nguồn thu cho ngân sách tỉnh, và khi ban hành những chính sách xã hội mặc dù rất được khuyến khích nhưng cần đặc biệt chú ý đến nguồn lực tài chính thực hiện để tránh tình trạng văn bản ban hành ra không khả thi.
Tính đến tháng 4 năm 2019, dân số Cao Bằng trên 530.341 người. Đặc điểm đặc trưng là dân số trẻ, tốc độ tăng tự nhiên khá nhanh. Cơ cấu dân số có thể được thể hiện qua một số chỉ số sau đây: tỷ lệ nam – nữ là 50,09% và 49,91%; số dân thành thị gần 23% dân số, số dân nông thôn hơn 77% dân số toàn tỉnh. Dân cư phân bố không đều. Mật độ dân số đông nhất ở thành phố Cao Bằng (630 người/km2). Ở các huyện phía Đông, nơi có điều kiện giao thông thuận lợi, mật độ dân số cũng tương đối cao so với mức trung bình của tỉnh (xấp xỉ 100 người /km2). Các huyện địa hình ít thuận lợi cho cư trú, giao thông khó khăn, mật độ dân cư thưa thớt (xấp xỉ 50 người/km2). Dân cư nông thôn chiếm đa số, đời sống còn khó khăn đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.
Dân số tỉnh Cao Bằng với đa số là người dân tộc thiểu số (chiếm khoảng trên 95%) với nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm đa số (khoảng gần 41% dân số cả tỉnh); tiếp theo có người Nùng (31,7%), Dao (10,1%), Mông (10,1%), Kinh (5,6%), Sán Chay (1,4 %), Lô Lô (0,5%)…Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Ngoài ra còn một số dân tộc có số dân hơn 50 người như Mường, Thái, Hoa, Sán Dìu.
Văn hóa – xã hội có mặt còn hạn chế, chất lượng giáo dục còn thấp, chưa đồng đều, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo chỉ chiếm 20,3% [11, tr.11]; công tác xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội đã được chú trọng nhưng tỷ lệ giảm nghèo chưa bền vững; điều kiện về y tế chưa đáp ứng nhu cầu, môi trường nước và sinh thái có nguy cơ bị ảnh hưởng lớn… Với tình hình văn hóa xã hội nói trên, đặc biệt là trình độ dân trí không đồng đều giữa thành thị và vùng sâu vùng xa, đòi hỏi văn bản QPPL được ban hành phải phù hợp với đối tượng áp dụng, ngoài phù hợp với văn bản trung ương còn phải phù hợp với phong tục tập quán của nhân dân các dân tộc tại địa phương, khuyến khích những chính sách an sinh xã hội, chính sách phát triển nguồn lực con người như nâng cao chất lượng giáo dục.
Trong phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020 của tỉnh đã nêu ra: “Tiếp tục thực hiện nội dung, mục tiêu cải cách hành chính theo Nghị quyết 30c/NQ-CP và các văn bản liên quan đến cải cách hành chính của Bộ, ngành Trung ương. Trong đó tập trung thực hiện một số nội dung, mục tiêu chính, cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương và bảo đảm bám sát mục tiêu của giai đoạn II – Chương trình tổng thể cải cách hành chính. Đối với công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế thì nâng cao công tác xây dựng văn bản QPPL, chú trọng khâu tổ chức lấy ý kiến của các ngành liên quan, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, đồng bộ, cụ thể và khả thi của văn bản là công việc trọng tâm”.
Do vậy, vấn đề đặt ra trong công tác quản lý là cần phải tạo ra cơ chế, tạo ra sự thay đổi và phát triển bằng việc thiết lập môi trường lành mạnh trong phát triển kinh tế và quản lý xã hội. Cần có thể chế tốt trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, thông qua việc sử dụng pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Khái quát về công chức làm công tác pháp luật, pháp chế tại tỉnh Cao Bằng
Ở cấp tỉnh, thực hiện Luật Ban hành văn bản QPPL, các cơ quan có liên quan trong xây dựng pháp luật như Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội, Văn phòng HĐND tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh đều bố trí cán bộ làm công tác pháp luật; riêng Sở Tư pháp đã bố trí 06 công chức (thuộc Phòng Nghiệp vụ làm công tác xây dựng, kiểm ra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL và công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Đối với các cơ quan chuyên môn khác thuộc UBND tỉnh, do Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị bố trí, sắp xếp theo vị trí việc làm để tham mưu thực hiện công tác xây dựng, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL theo quy định.
Bảng 2.1. Thống kê công chức làm công tác pháp luật, pháp chế tại tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2016 – 2020
- cấp huyện, hiện nay, tổng số cán bộ, công chức của 10 phòng Tư pháp là 36 biên chế; tổng số công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã là 309 biên chế/161 xã, phường, thị trấn.
Tuy nhiên về trình độ chuyên ngành luật chưa cao, tỷ lệ trình độ trung cấp pháp lý chiến tỷ lệ cao chiếm 34%, không có tiến sĩ, tỷ lệ thạc sĩ chỉ chiếm 1,2%.
Những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế- xã hội đến công tác xây dựng văn bản QPPL của tỉnh Cao Bằng
Thuận lợi: Có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, quyết liệt của cấp ủy, chính quyền tỉnh trong công tác xây dựng và ban hành văn bản QPPL. Công tác xây dựng văn bản QPPL luôn xác định các lĩnh vực, nội dung trọng tâm, cần tập trung ưu tiên xây dựng. Các văn bản pháp luật quy định, hướng dẫn về xây dựng văn bản QPPL được ban hành tương đối đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, cụ thể, tạo thuận lợi trong quá trình áp dụng thực hiện.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Khó khăn:
Cao Bằng là tỉnh miền núi, biên giới, giao thông đi lại khó khăn, đời sống kinh tế-văn hoá của nhân dân ở khu vực miền núi, biên giới còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí của cán bộ và nhân dân ở địa phương còn hạn chế. So với mặt bằng chung của cả nước thì sự phát triển về kinh tế của tỉnh, trình độ dân trí của người dân trong tỉnh thấp hơn, nên đôi khi xây dựng văn bản của địa phương gặp khó khăn trong cân bằng giữa việc quy định phù hợp với văn bản cấp trên (được xây dựng căn cứ vào mặt bằng chung cho cả nước) và việc phù hợp với thực tế địa phương.
Nguồn ngân sách địa phương còn hạn hẹp, do đó, kinh phí cho công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Sự nhận thức, quan tâm của lãnh đạo một số sở, ngành, địa phương chưa đầy đủ, chưa chú trọng. Trình độ, năng lực chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ của một số công chức trong công tác xây dựng pháp luật còn nhiều hạn chế, không đồng đều giữa các cấp, không đồng đều giữa công chức của phường, xã, thị trấn thuộc đô thị với các xã nông thôn đặc biệt là các xã vùng sâu vùng xa.
2.1.2. Cơ sở pháp lý xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Hiện nay việc ban hành văn bản QPPL của CQĐP thực hiện theo quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành của các cơ quan nhà nước ở trung ương bao gồm:
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015; Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
Để việc thực hiện trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản QPPL được thực hiện theo Luật Ban hành văn bản QPPL. Theo đó, thực hiện Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004, Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015, UBND tỉnh đã ban hành các văn bản QPPL, Sở Tư pháp ban hành văn bản hướng dẫn để cụ thể hóa, quy định chi tiết, tạo thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện tại địa phương, cụ thể gồm:
Quyết định số 19/2013/QĐ-UBND ngày 26/11/2013 của UBND tỉnh ban hành Quy định trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng;
Quyết định 02/2017/QĐ-UBND ngày 23/01/2017 của UBND tỉnh ban hành Quy định trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng;
Công văn số 150/STP-XDKTVB ngày 02/3/2017 của Sở Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện Quyết định số 02/2017/QĐ-UBND.
Để đảm bảo kinh phí cho công tác xây dựng và hoàn thiện văn bản QPPL, HĐND tỉnh Cao Bằng ban hành Nghị quyết số 09/2018/NQ-HĐND ngày 12/7/2018 Quy định định mức phân bổ kinh phí bảo đảm cho công tác xây dựng và hoàn thiện văn bản QPPL trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Việc tỉnh Cao Bằng ban hành các văn bản hướng dẫn để cụ thể hóa, quy định chi tiết nêu trên tạo cơ sở pháp lý cho công tác văn bản QPPL và hoạt động ban hành văn bản QPPL của các cấp chính quyền, giúp việc xây dựng văn bản QPPL của tỉnh dần đi vào nề nếp, đáp ứng các yêu cầu quản lý của địa phương và thực tiễn cuộc sống.
Tuy nhiên xét về nội dung, trước đây nội dung Quyết định số 19/2013/QĐ-UBND chủ yếu quy định lại các quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp đã được quy định tại Luật 2004 và Luật 2008. Hiện nay nội dung của Quyết định 02/2017/QĐ-UBND cũng là quy định lại trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp đã được quy định tại Luật 2015. Tiếp đó do yêu cầu các cơ quan, công chức thực hiện công tác xây dựng văn bản cần có một một văn bản cụ thể hướng dẫn chi tiết trình tự xây dựng văn bản QPPL để thực hiện đúng Luật 2015, Sở Tư pháp ban hành thêm hướng dẫn thực hiện Quyết định Quyết định 02/2017/QĐ-UBND. Việc văn bản QPPL của UBND tỉnh quy định lại các nội dung đã được Luật quy định là không đúng với khoản 2 Điều 8 Luật 2015: văn bản QPPL không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản QPPL khác. Tuy nhiên việc ban hành là cần thiết để giúp người thực hiện không phải “giở đi giở lại các điều của Luật, chọn lọc lấy quy định về trình tự, thủ tục xây dựng văn bản QPPL của một cơ quan ban hành mà mình quan tâm”, điều này cho thấy rõ nhất về tính thiếu chủ động của công chức thực hiện công tác xây dựng pháp luật trong nghiên cứu và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình.
2.2. Kết quả trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2016-2019 Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Nhìn chung công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL được quan tâm chỉ đạo thực hiện trên cơ sở gắn với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, văn bản QPPL của các cấp CQĐP tại Cao Bằng ngày càng được quan tâm và có những bước phát triển mới, tiến bộ hơn rất nhiều. Văn bản quy phạm do HĐND và UBND các cấp trong tỉnh Cao Bằng ban hành trong thời gian qua chất lượng ngày càng được nâng cao.
Những văn bản QPPL do các cấp chính quyền của tỉnh Cao Bằng ban hành góp phần tạo nên một hệ thống văn bản QPPL khá ổn định, điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những văn bản này, cùng với các quy định của pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở Trung ương ban hành đã góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, bảo vệ và phát huy các quyền tự do, dân chủ của công dân.
Công tác xây dựng văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp được quan tâm chú trọng, đi vào nề nếp, trong đó nội dung các văn bản QPPL tập trung vào việc: hoàn thiện thể chế về phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư xây dựng cơ bản, kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ; phân công, phân cấp cho cơ sở; cải cách thủ tục hành chính; bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và triển khai thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội [37, tr.3, tr.4].
Đánh giá một cách toàn diện, văn bản QPPL của các cấp chính quyền tại Cao Bằng trong thời gian qua đã đạt được một số thành tựu sau:Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Một là: Công tác xây dựng văn bản QPPL luôn được tỉnh chú trọng, quan tâm, chỉ đạo, nhờ đó các văn bản QPPL của HĐND và UBND các cấp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã được ban hành kịp thời để thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, các Luật, văn bản QPPL của cơ quan Nhà nước cấp trên để thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mình phù hợp với tình hình, đặc điểm và yêu cầu chính trị của địa phương.
Bên cạnh việc ban hành những văn bản QPPL cụ thể hóa văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, HĐND, UBND tỉnh ban hành những văn bản QPPL quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình trong lĩnh vực chưa được văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên quy định hoặc quy định chưa cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước của tỉnh.
Bảng 2.2. Thống kê tình hình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng
Số lượng văn bản QPPL của HĐND tỉnh ban hành tương đối đồng đều giữa các năm, đang có xu hướng giảm nhẹ qua các năm, số lượng văn bản ở cấp huyện cấp xã đã giảm hẳn so với giai đoạn thực hiện Luật 2004 do thực hiện quy định của Luật 2015 (HĐND, UBND cấp huyện cấp xã chỉ ban hành văn bản QPPL khi được luật giao), việc này đã hạn chế được tình trạng sao chép lại văn bản cấp trên của HĐND và UBND cấp huyện và cấp xã. Điều này chứng tỏ bên cạnh nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật, coi văn bản QPPL là công cụ quan trọng không thể thiếu trong quản lý, điều hành xã hội, các ngành, các cấp của tỉnh Cao Bằng đã nhận thức đúng với tinh thần mới về hạn chế xây dựng, ban hành văn bản QPPL của CQĐP theo Luật 2015.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Hai là: Việc tuân thủ trình tự, thủ tục xây dựng văn bản QPPL cấp tỉnh được đảm bảo, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng văn bản QPPL được ban hành
Hoạt động ban hành văn bản QPPL luôn được các lãnh đạo tỉnh quan tâm, ngày càng chú trọng hơn, việc xây dựng văn bản QPPL của HĐND, UNBD tỉnh được thực hiện quy củ và đi vào nề nếp. Trình tự, thủ tục xây dựng văn bản QPPL đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật hiện hành. Nghị quyết của HĐND tỉnh đa số được giao cho UBND tỉnh chủ trì soạn thảo, tiến hành đúng các bước theo quy định của Luật. Việc dự thảo văn bản QPPL được thực hiện trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội ở địa phương liên quan đến dự thảo; nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và thông tin, tư liệu có liên quan đến dự thảo. Việc lấy ý kiến vào dự thảo văn bản QPPL cũng được cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện một cách nghiêm túc, đúng pháp luật.
Tình trạng văn bản ban hành không đúng thẩm quyền, có nội dung trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, chồng chéo hoặc mâu thuẫn với văn bản QPPL khác do chủ thể cùng cấp ban hành hoặc có nội dung không phù hợp với tình hình thực tế của địa phương ngày càng giảm và được chú ý khắc phục.
Qua kết quả của công tác kiểm tra theo thẩm quyền cho thấy số lượng văn bản QPPL trái pháp luật của các cấp CQĐP trên địa bàn tỉnh có xu hướng ngày càng giảm, từ năm 2016 đến 2019 không có trường hợp văn bản QPPL cấp tỉnh nào được ban hành có sai phạm về trình tự thủ tục ban hành.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Ba là: Lập đề nghị xây dựng nghị quyết bắt buộc yêu cầu đánh giá về nguồn lực thực hiện và lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách trong một số trường hợp với quy trình chặt chẽ, đã phát huy tác dụng góp phần hạn chế tình trạng nghị quyết của HĐND cấp tỉnh ban hành thiếu khả thi, không thể thực hiện trong thực tế do thiếu nguồn lực.
Luật 2015 đã thay đổi cơ bản quy trình đề nghị xây dựng văn bản QPPP, đó là không quy định bắt buộc xây dựng kế hoạch xây dựng, ban hành văn bản QPPL hàng năm mà quy định yêu cầu đối với đề nghị xây dựng văn bản QPPL để tăng tính chủ động của cơ quan tham mưu, tăng tính kịp thời trong đề nghị xây dựng. Nếu như trước đây thực hiện Luật 2004, công tác xây dựng và ban hành văn bản QPPL của chính quyền tỉnh được thực hiện theo kế hoạch hàng năm đề ra. Kế hoạch được xây dựng dựa trên cơ sở để đảm bảo thực hiện luật, pháp lệnh, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và chương trình phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, yêu cầu quản lý ở địa phương và từ yêu cầu hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL của CQĐP. Qua đó, quy trình đề nghị xây dựng văn bản QPPL của Luật 2004 được thực hiện ở địa phương giúp việc quản lý ban hành văn bản QPPL bằng kế hoạch, giúp đảm bảo tiến độ xây dựng văn bản và bảo đảm cho hoạt động này phù hợp với yêu cầu quản lý ở địa phương; đồng thời khắc phục được tình trạng tùy tiện trong việc ban hành văn bản QPPL trước đó từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả của văn bản QPPL. Tuy nhiên chưa “can thiệp” được đến tính khả thi của văn bản được đề nghị xây dựng. Luật 2015 đã khắc phục hạn chế trên. Trong xây dựng nghị quyết của HĐND tỉnh – thường quy định về chính sách, biện pháp để giải quyết các vấn đề tại địa phương, Luật 2015 quy định đề nghị xây dựng nghị quyết bắt buộc yêu cầu đánh giá về nguồn lực thực hiện và lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách trong trường hợp xây dựng nghị quyết của HĐND tỉnh quy định tại Khoản 2, 3, 4 Điều 27 Luật 2015 với quy trình chặt chẽ.
Chính quyền cấp tỉnh của Cao Bằng đã thực hiện nghiêm túc quy định trên giúp hạn chế tình trạng nghị quyết của HĐND cấp tỉnh ban hành thiếu khả thi, không thể thực hiện trong thực tế do thiếu nguồn lực thực hiện như trước đây. Khi mới thực hiện quy trình mới không tránh khỏi những lúng túng, e ngại nhưng sau một thời gian thực hiện quy trình này đã được thực hiện đi vào nề nếp và phát huy tác dụng. Quy trình đánh giá tác động chính sách cũng giúp cho người soạn thảo có một khung định hướng cơ bản để tính toán, xem xét toàn diện hơn dự kiến những chính sách sẽ đặt ra từ đó ban hành được những chính sách có tính khả thi, có hiệu quả trong thực tiễn.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Bốn là: Lấy ý kiến được cơ quan chủ trì soạn thảo chú trọng
Việc tổ chức lấy ý kiến dự thảo nghị quyết của HĐND và quyết định của UBND cấp tỉnh được cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện đúng quy định, các dự thảo đều được đăng tải công khai trên mục “lấy ý kiến dự thảo văn bản” của Cổng thông tin điện tử của tỉnh (https://www.caobang.gov.vn/) để lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm. Việc tổ chức lấy ý kiến dự thảo văn bản của HĐND, UBND cấp huyện tuy không bắt buộc nhưng luôn được thường xuyên tổ chức, qua kết quả khảo sát có 50% người được hỏi cho rằng dự thảo văn bản QPPL của cấp huyện thường xuyên tổ chức lấy ý kiến và 50% người được hỏi cho rằng dự thảo văn bản QPPL của cấp huyện ít được tổ chức lấy ý kiến. Tổ chức lấy ý kiến góp ý dự thảo văn bản QPPL được chú trọng, thực hiện đúng quy định đã góp phần nâng cao chất lượng văn bản được ban hành.
Năm là: Hoạt động thẩm định của cơ quan tư pháp và thẩm tra của các Ban HĐND ngày càng được quan tâm
Công tác thẩm định văn bản QPPL của HĐND, UBND đã được các cấp, các ngành chú trọng hơn và từng bước đi vào nề nếp, tạo bước đột phá trong xây dựng pháp luật ở tỉnh. Việc xây dựng văn bản QPPL ở cấp tỉnh đã tuân thủ nghiêm quy định của Luật năm 2015 trong việc gửi thẩm định dự thảo văn bản QPPL, theo đó, 100% nghị quyết của HĐND do UBND trình và quyết định của UBND được ban hành đều được Sở Tư pháp thẩm định. Nội dung thẩm định đã bám sát quy định của Luật năm 2015.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Chất lượng thẩm định văn bản của Sở Tư pháp ngày càng được nâng cao; nội dung thẩm định xác đáng, có lập luận vững chắc, làm cơ sở để cơ quan chủ trì lập đề nghị, soạn thảo văn bản nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý. Từ năm 2016 đến năm 2019, Sở Tư pháp đã tiếp nhận và thẩm định 03 đề nghị xây dựng nghị quyết của HĐND tỉnh và 275 dự thảo văn bản QPPL, gồm 99 nghị quyết của HĐND tỉnh, 175 quyết định và 01 chỉ thị của UBND tỉnh [37, tr.4]. Các văn bản qua thẩm định cơ bản đảm bảo đúng thẩm quyền ban hành, nội dung các văn bản đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, có tác động thúc đẩy kinh tế – xã hội địa phương. Từ năm 2016 đến hết năm 2019, trong số những văn bản đã thẩm định, Sở Tư pháp đã đề nghị UBND tỉnh không ban hành 02 dự thảo văn bản QPPL và đều được UBND tỉnh chấp nhận. So với giai đoạn trước, giai đoạn 2016-2019 Hội đồng thẩm định được thành lập nhiều hơn để thẩm định những dự thảo văn bản phức tạp hoặc dự thảo do Sở Tư pháp soạn thảo để có thể huy động được nhiều nguồn nhân lực có chất lượng vào khâu thẩm định, đảm bảo tính khách quan, đa chiều trong thẩm định.
Công tác thẩm tra dự thảo nghị quyết của HĐND được các Ban của HĐND thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của Luật 2015. Chất lượng báo cáo thẩm tra ngày càng được nâng cao, kết quả thẩm tra của các Ban thuộc HĐND đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nghị quyết của HĐND. Báo cáo thẩm tra của các Ban đã cung cấp một cách tương đối có hệ thống các thông tin về những vấn đề cơ bản như: yêu cầu, căn cứ ban hành nghị quyết, sự phù hợp của nghị quyết với các văn bản pháp luật của Nhà nước và tình hình thực tế của địa phương, những ý kiến còn khác nhau, tạo cơ sở cho đại biểu HĐND xem xét, đánh giá toàn diện về dự thảo nghị quyết.
Những chuyển biến tích cực và hiệu quả đạt được trong công tác xây dựng văn bản QPPL của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng thời gian qua có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan. Các văn bản do địa phương ban hành cùng với hệ thống các văn bản QPPL của các cơ quan nhà nước ở Trung ương đã trở thành công cụ đắc lực, hữu hiệu cho sự nghiệp xây dựng, phát triển tỉnh Cao Bằng đang tiếp tục con đường đổi mới, phát triển.
2.3. Những hạn chế trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2016-2019 Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Trong thời gian vừa qua, công tác xây dựng văn bản QPPL của các cấp CQĐP tỉnh Cao Bằng đã đạt được nhiều kết quả. Các văn bản QPPL được ban hành đã bao quát một phạm vi rộng lớn các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, trong đó nội dung các văn bản QPPL tập trung vào việc: hoàn thiện thể chế về phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư xây dựng cơ bản, kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ; phân công, phân cấp cho cơ sở; cải cách thủ tục hành chính; bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và triển khai thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội. Quy trình xây dựng đã đi vào nề nếp, được thực hiện đúng luật và dân chủ hơn. Chất lượng các văn bản được nâng cao góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng văn bản QPPL của tỉnh Cao Bằng vẫn còn một số hạn chế sau:
Một là: Nội dung của văn bản QPPL vẫn còn phổ biến tình trạng quy định lại các quy định tại các văn bản QPPL của trung ương
Nhiều ý kiến cho rằng văn bản QPPL của địa phương có nội dung chủ yếu là sao chép lại các quy định tại các văn bản QPPL của trung ương [17,tr.107]. Trên thực tế tỉnh Cao Bằng cũng vậy, phải nói là đa số các văn bản pháp luật của địa phương có nội dung hướng dẫn lại các quy định của trung ương. Mặc dù Luật 2015 quy định văn bản QPPL không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản QPPL khác (Khoản 2 Điều 8), tuy nhiên tại tỉnh Cao Bằng việc văn bản QPPL cụ thể hóa – hướng dẫn văn bản của cấp trên được thực hiện theo hướng:Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Thứ nhất, chọn lọc những quy phạm trong văn bản của trung ương phù hợp điều chỉnh vấn đề địa phương để làm cơ sở pháp lý điều chỉnh vấn đề kinh tế xã hội của địa phương. Kết quả của hình thức này là toàn bộ nội dung của văn bản địa phương sao chép lại các quy định tại các văn bản của cơ quan nhà nước ở trung ương. Những văn bản này thường ra đời trong trường hợp khi một lĩnh vực đã được cơ quan nhà nước ở trung ương quy định khá đầy đủ tuy nhiên lại nằm rải rác ở nhiều văn bản, làm phát sinh nhu cầu của người thực hiện chỉ cần 1 văn bản tổng thể điều chỉnh vấn đề của địa phương cần giải quyết.
Thứ hai, quy định chi tiết nội dung được giao trong văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên nhưng trong văn bản chứa cả nội dung đã được quy định tại văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, mục đích của người soạn thảo trong trường hợp này thường muốn quy định đầy đủ các nội dung liên quan đến nội dung được giao quy định chi tiết để khi thực hiện không cần sử dụng tới nhiều văn bản. Kết quả của hình thức này là văn bản chứa nội dung được giao quy định chi tiết và nội dung sao chép lại.
Quy định của Luật 2015 chỉ cho phép HĐND, UBND cấp huyện và cấp xã ban hành văn bản QPPL khi được luật giao đã hạn chế được tình trạng quy định lại nội dung của văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên ở 02 cấp này, nhưng tình trạng này vẫn phổ biến ở cấp tỉnh, dường như pháp luật lại cho phép địa phương cụ thể hóa – hướng dẫn văn bản của cấp trên một cách “vô giới hạn”, miễn là không trái với văn bản cấp trên [17,tr.107], đã làm cho việc làm thừa khi quy định lại nội dung của văn bản cấp trên trở thành thiếu nếu như không thực hiện. Ở cấp tỉnh, văn bản do HĐND và UBND ban hành đa số quy định lại những nội dung đã được quy định ở văn bản cơ quan nhà nước ở cấp trên như vậy làm nặng nề thêm hệ thống các văn bản pháp quy ở nước ta – vốn dĩ đã đồ sộ, rườm rà [17,tr.109] Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Hai là: Việc thực hiện lập đề nghị xây dựng văn bản QPPL đôi khi còn hình thức
Việc thực hiện đề nghị xây dựng văn bản QPPL ở cấp tỉnh đã được thực hiện đầy đủ và đi vào nề nếp, tuy nhiên việc thực hiện đôi khi còn hình thức. Việc đề nghị đôi khi chậm làm ảnh hưởng tới tính kịp thời trong xây dựng văn bản QPPL.
Việc thực hiện một số bước trong trình tự, thủ tục lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách đối với nghị quyết của HĐND tỉnh còn nhiều hạn chế. Theo quy định của Luật 2015, trước khi soạn thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 27 cần phải lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách. Trong quá trình thực hiện quy định này cho thấy phạm các loại văn bản QPPL cần phải lập đề nghị theo quy trình chính sách quy định tại Luật năm 2015 là quá rộng. Nhiều văn bản là nghị quyết của HĐND cấp tỉnh chỉ quy định về biện pháp tổ chức thi hành văn bản của cấp trên, không quy định chính sách mới nhưng vẫn phải lập đề nghị xây dựng văn bản theo quy trình chính sách, làm hạn chế khả năng phản ứng của CQĐP đối với những vấn đề cấp bách của xã hội. Điều đáng nói, quy định này có thể đã “đẩy” cơ quan soạn thảo vào tình trạng đối phó vì phải thực hiện quy định. Bởi, trong giai đoạn dự thảo đề nghị xây dựng chính sách nên việc đánh giá tác động của các chính sách dự kiến ban hành nhiều khi còn sơ sài, nhất là chưa làm nổi bật được những chi phí mà xã hội phải thực hiện so với lợi ích quản lý mà Nhà nước thu về của mỗi phương án chính sách.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Trong giai đoạn 2016-2019 UBND tỉnh có đề nghị xây dựng 03 nghị quyết có chính sách đặc thù của địa phương là: (1) nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ phát triển nghề luật sư trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, (2) nghị quyết quy định một số chính sách thu hút, đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao đến công tác tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Cao Bằng và (3) nghị quyết ban hành chính sách hỗ trợ đối với người hoạt động ở cấp xã và xóm, tổ dân phố dôi dư do sắp xếp trên địa bàn tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2019-2020. Tuy nhiên chất lượng đánh giá các chính trong 3 đề nghị không đồng đều, một trong 3 đề nghị không đánh giá được hiệu quả của chính sách, nên qua xem xét đề nghị Thường trực HĐND không nhất trí cho xây dựng.
Ba là: Trong công tác soạn thảo dự thảo văn bản QPPL
Việc soạn thảo đã có những chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Một số cơ quan đơn vị còn lúng túng trong việc phân biệt văn bản QPPL và văn bản hành chính thông thường [48, tr.19], một số cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo văn bản chưa đầu tư thỏa đáng về thời gian để nghiên cứu, soạn thảo nên chất lượng dự thảo văn bản chưa cao, việc soạn thảo vẫn mắc phải những lỗi cơ bản như lỗi về căn cứ pháp lý, lỗi về nội dung.
Cơ quan soạn thảo đôi khi chưa chủ động, tuân thủ đúng quy định về thời gian xây dựng văn bản QPPL như: gửi văn bản góp ý với thời gian ghi trong văn bản gấp (có khi cơ quan được lấy ý kiến chỉ có 1, 2 ngày nghiên cứu), hồ sơ thẩm định quá gấp, thậm chí sát ngày UBND họp cơ quan chủ trì soạn thảo mới gửi hồ sơ thẩm định với số lượng lớn gây quá tải cho cơ quan chủ trì thẩm định.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Bốn là: Về góp ý đối với dự thảo văn bản QPPL
Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của mình cũng như còn hạn chế về năng lực tham gia xây dựng pháp luật, giám sát, phản biện xã hội. Chất lượng ý kiến đóng góp chưa cao, vẫn tồn tại tình trạng cơ quan, tổ chức được xin ý kiến nhưng không có ý kiến góp ý hoặc có văn bản trả lời nhưng nhất trí hoàn toàn với nội dung được xin ý kiến. Ý kiến góp ý thường gửi đến cơ quan soạn thảo muộn so với yêu cầu. Hầu hết các đề nghị, dự thảo đăng tải trên Cổng thông tin điện tử tỉnh đều không nhận được ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Sự tham gia phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, các tổ chức đoàn thể và của nhân dân đối với công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL còn hạn chế, chưa thu hút được sự tham gia của đông đảo nhân dân.
Chưa có phương thức riêng khi lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp, cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức lấy ý kiến đối với toàn bộ dự án, dự thảo văn bản theo 1 hình thức chung cho mọi đối tượng được xin ý kiến.
Mặc dù Luật năm 2015 quy định trách nhiệm của cơ quan chủ trì lấy ý kiến trong việc tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý và đăng tải công khai nội dung tiếp thu giải trình nhưng các cơ quan hầu hết chỉ tiếp thu, giải trình trong hồ sơ trình, hồ sơ gửi thẩm định, thẩm tra mà không đăng tải công khai nội dung này để cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý biết.
Năm là: Về công tác thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản QPPL
Chất lượng thẩm định tuy được nâng cao nhưng chất lượng các báo cáo thẩm định chưa đồng đều, một số báo cáo thẩm định chất lượng chưa cao, hầu hết mới tập trung đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, chưa chú trọng đánh giá về mức độ thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng trong đề nghị, dự thảo văn bản QPPL, tính hợp lý, tính khả thi và nguồn lực bảo đảm thi hành văn bản sau khi được ban hành, sự cần thiết, tính hợp lý và chi phí tuân thủ thủ tục hành chính (TTHC) và việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới. Nội dung của một số báo cáo thẩm định còn sơ sài, xuôi chiều, chưa thực sự mang tính phản biện đối với đề nghị xây dựng và dự thảo văn bản QPPL.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Tiến độ thực hiện thẩm định nhiều khi chậm, ảnh hưởng đến việc tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản của cơ quan chủ trì soạn thảo.
- cấp huyện vai trò của cơ quan tư pháp trong việc thẩm định văn bản QPPL là rất mờ nhạt, vẫn còn tình trạng một số văn bản QPPL được ban hành mà không qua giai đoạn thẩm định, các văn bản QPPL của các cấp này thường được giao cho cơ quan chuyên môn hoặc một chuyên viên soạn thảo và Chủ tịch ký ban hành chứ không qua thẩm định của cơ quan Tư pháp.
Chất lượng thẩm tra chưa đồng đều, thời gian dành cho mỗi phiên họp ngắn nên chưa đủ để thảo luận sâu các vấn đề lớn và xem xét kỹ các điều, khoản cụ thể trong dự án, dự thảo văn bản. Một số báo cáo thẩm tra có tính phản biện chưa cao, chưa toàn diện, thường chỉ tập trung vào sự cần thiết ban hành, các nội dung chính, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và sự phù hợp của chính sách trong đề nghị, dự thảo với chủ trương, đường lối của Đảng.
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng
Xác định đúng, đầy đủ nguyên nhân của những tồn tại trong xây dựng văn bản QPPL của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng, đánh giá được những yếu tố ảnh hưởng tới công tác xây dựng văn bản QPPL là việc vô cùng quan trọng, để từ đó làm căn cứ đưa ra những giải pháp đồng bộ và hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng văn bản QPPL. Qua thực tiễn nghiên cứu có thể xác định các nguyên nhân của những hạn chế trong xây dụng văn bản QPPL của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng như sau:
2.4.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương – căn cứ ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa phương còn có những hạn chế, bất cập Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Pháp luật là cái có sau thực tiễn xã hội, pháp luật được nhà nước đặt ra để quản lý xã hội. Trong khi đất nước chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế thị trường nên nảy sinh rất nhiều vấn đề mới phức tạp, khó dự báo được. Việc quản lý kinh tế xã hội trong điều kiện hiện đại thì lại luôn đặt ra yêu cầu phải tuân theo những quy định của pháp luật. Chính điều đó là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng làm luật “nay làm mai sửa”, việc văn bản của cơ quan nhà nước ở trung ương thường xuyên thay đổi làm cho văn bản của CQĐP cũng thiếu ổn định.
Tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết diễn ra ở hầu hết các bộ, cơ quan ngang bộ được giao chủ trì soạn thảo và chưa có giải pháp khắc phục triệt để. Năm 2016 có 21 văn bản (15 nghị định, 06 thông tư) quy định chi tiết 04 luật đã ở tình trạng chậm ban hành. Năm 2017 có 47 văn bản (31 nghị định, 04 quyết định, 06 thông tư, 06 thông tư liên tịch) quy định chi tiết 10 luật ở tình trạng chậm ban hành. 6 tháng đầu năm 2018 số văn bản nợ ban hành là 11 văn bản (04 nghị định, 01 quyết định, 04 thông tư, 02 thông tư liên tịch) quy định chi tiết 09 luật [4, tr.28]. Việc ban hành một số văn bản của Bộ, ngành Trung ương hướng dẫn thi hành luật, nghị định, thông tư chưa kịp thời gây khó khăn cho quá trình xây dựng, cụ thể hóa của các cơ quan nhà nước ở địa phương.
Thể chế trong một số lĩnh vực chưa thống nhất, đồng bộ, còn mâu thuẫn, chồng chéo[37, tr.12], gây khó khăn, tạo ra tranh cãi, khó thống nhất trong quá trình xây dựng văn bản QPPL của CQĐP.
2.4.2. Một số quy định về trình tự, thủ tục xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương chưa phù hợp Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Trong đề nghị xây dựng văn bản QPPL Luật 2015 và Nghị định 34 quy định đề nghị xây dựng văn bản QPPL của HĐND, UBND tỉnh trong mọi trường hợp là chưa hợp lý, cụ thể trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền đề nghị xây dựng văn bản QPPL quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, vì trường hợp này vấn đề xây dựng văn bản QPPL đã được cơ quan cấp trên giao xuống.
Luật 2015 yêu cầu chặt chẽ và tương đối phức tạp về trình tự, thủ tục lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách gồm: xây dựng chính sách, đánh giá tác động của chính sách trong giai đoạn lập đề nghị, lấy ý kiến về đề nghị, thẩm định đề nghị… do vậy đòi hỏi cơ quan lập đề nghị phải dành nhiều thời gian để thực hiện. Tuy nhiên, đối với việc ban hành một số loại nghị quyết của HĐND cấp tỉnh thì việc áp dụng quy trình lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách là chưa hợp lý, nhiều khi không bảo đảm tính kịp thời trong xây dựng, ban hành văn bản QPPL. Vấn đề này đã được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật năm 2020 khắc phục khi thay vì quy định các loại nghị quyết tại các khoản 2, 3, 4 Điều 27 của Luật phải lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách như trước đây, hiện nay Luật chỉ quy định nghị quyết tại khoản 4 Điều 27 (nghị quyết của HĐND tỉnh ban hành quy định biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương) mới phải tiến hành lập đề nghị xây dựng theo quy trình chính sách. Hy vọng rằng khi Luật sửa đổi, bổ sung có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 quy định này sẽ khắc phục hạn chế về thời gian trong lập đề nghị xây dựng nghị quyết như hiện nay.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Các nội dung về báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong Nghị định số 34/2016/NĐ-CP mang tính nguyên tắc, quy định chung, chưa cụ thể nên khi thực hiện gặp nhiều lúng túng như: xác định phương pháp đánh giá tác động chính sách; phương pháp, công cụ thu thập số liệu, thông tin phục vụ đánh giá tác động; so sánh giữa chi phí, lợi ích, đặc biệt so sánh tác động tích cực, tác động tiêu cực khi không thể định lượng được… Do chưa cụ thể nên chất lượng đánh giá tác động chính sách phụ thuộc nhiều vào năng lực người thực hiện.
Trong lấy ý kiến dự thảo văn bản QPPL
Luật năm 2015 bước đầu quy định trách nhiệm của cơ quan chủ trì lấy kiến và cơ quan, tổ chức tham gia góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản QPPL, dự thảo văn bản QPPL (Điều 7 của Luật) nhưng chưa quy định cơ chế giám sát việc tổ chức lấy ý kiến, tham gia góp ý kiến và trách nhiệm giải trình, phản hồi của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quy trình này.
Trong thẩm định dự thảo văn bản QPPL
Đối với quy định nội dung thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh, Luật năm 2015 không quy định việc thẩm định sự cần thiết ban hành, sự phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và mức độ thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng là chưa phù hợp, thực tế này đã được nhìn nhận và được Luật sửa đổi, bổ sung năm 2020 khắc phục. Thời hạn thẩm định chưa được tính theo ngày làm việc là chưa hợp lý.
2.4.3. Nguồn lực trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực trong công tác xây dựng văn bản QPPL của tỉnh chưa đồng đều, đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật còn thiếu, trình độ năng lực của một số cán bộ làm công tác pháp luật còn hạn chế. Thực hiện Luật 2015 việc ban hành văn bản QPPL chủ yếu thực hiện ở cấp tỉnh nhưng qua số liệu thống kê (Bảng 2.1) số lượng công chức làm công tác pháp luật, pháp chế ở cấp tỉnh có chiều hướng giảm, trình độ sau đại học ít và tăng chậm (không có tiến sĩ, trình độ thạc sĩ là 5 người năm 2019 chiếm 1,16%).
Đánh giá tác động đối với từng chính sách trong văn bản QPPL là một công tác khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải có phải có trình độ chuyên môn và kỹ năng, đồng thời, quan trọng hơn là phải đánh giá khách quan thì việc đánh giá tác động chính sách mới thể hiện được đúng ý nghĩa và tầm quan trọng trong quá trình xây dựng văn bản QPPL. Do đó chất lượng đánh giá tác động chính sách phụ thuộc rất lớn và năng lực người lập đề nghị, nếu người lập đề nghị có trình độ chuyên môn sâu, trách nhiệm cao thì kết quả đánh giá rất có ích trong việc hoạch định chính sách, giúp văn bản sau khi được ban hành có tính khả thi cao, tạo hiệu quả tốt khi thực thi. Trường hợp người lập đề nghị thiếu trình độ chuyên môn hay thiếu trách nhiệm thì tính hình thức trong đánh giá tác động chính sách là điều khó tránh khỏi.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Lãnh đạo một số sở, ngành, lãnh đạo một số huyện, xã chưa thực sự quan tâm, tập trung chỉ đạo công tác xây dựng văn bản QPPL. Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính trong xây dựng pháp luật có lúc còn chưa nghiêm.
Đa số các sở, ngành không có phòng pháp chế hoặc không có cán bộ chuyên trách làm công tác văn bản nên việc xây dựng văn bản chủ yếu giao cho phòng chuyên môn thực hiện. Đối với đội ngũ công chức của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, mặc dù hầu hết có trình độ từ đại học trở lên; tuy nhiên chủ yếu là các chuyên ngành khác, không phải chuyên ngành luật. Số lượng được đào tạo chuyên ngành luật chỉ khoảng 15% ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh [4, tr.5]. Trong khi đó, Luật năm 2015 đặt ra yêu cầu cao hơn về việc bảo đảm trình tự, thủ tục và chất lượng soạn thảo văn bản. Hơn nữa, còn có thực trạng là người được phân công thực hiện công tác pháp chế chưa thực hiện hết trách nhiệm hoặc có tâm lý buông xuôi.
Bảng 2.3. Thống kê tổ chức, người làm công tác pháp chế tại các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng năm 2019
Nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác thẩm định của một số cán bộ, công chức làm công tác thẩm định của cơ quan tư pháp chưa đầy đủ dẫn đến chưa đầu tư thời gian, công sức thỏa đáng cho công tác này. Bên cạnh đó, tâm lý nể nang, ngại động chạm trong thẩm định vẫn còn tồn tại làm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định và làm giảm vai trò của các cơ quan tư pháp trong quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Chưa thực sự chú trọng đến việc huy động, thu hút các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý tham gia các cuộc họp thẩm định.
Đa số thành viên các Ban của HĐND hoạt động kiêm nhiệm nên ít có điều kiện nghiên cứu, nhất là tổ chức khảo sát thực tế để lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo Nghị quyết nên chất lượng thẩm tra đôi khi còn hạn chế.
Chưa thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng, chưa có chương trình phát triển nguồn nhân lực trong công tác xây dựng văn bản QPPL, chính sách đối với người làm công tác xây dựng văn bản QPPL chưa khuyến kích được họ trao dồi và phát triển.
Kinh phí cho xây dựng
Việc đảm bản kinh phí cho công tác xây dựng văn bản QPPL đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, cụ thể bằng việc ban hành Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28 tháng 12 năm 2016 của Bộ Tài chính quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản QPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật, căn cứ vào đó HĐND tỉnh Cao Bằng đã ban hành Nghị quyết số 09/2018/NQ-HĐND ngày 12/7/2018 Quy định định mức phân bổ kinh phí bảo đảm cho công tác xây dựng và hoàn thiện văn bản QPPL trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Nhưng do ngân sách địa phương còn hạn hẹp nên việc bố trí kinh phí cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thực sự được đảm bảo [37, tr.12], chưa thực hiện đồng bộ với tất cả các cơ quan, chủ yếu chỉ phân bổ cho những cơ quan có nhiệm vụ thường xuyên về xây dựng pháp luật như cơ quan tư pháp, các ban của HĐND.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
Kinh phí, nguồn lực cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của địa phương còn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chưa có cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ làm công tác xây dựng văn bản QPPL [37, tr.11].
Tiểu kết chương 2
Qua thực trạng công tác xây dựng văn bản QPPL của các cấp chính quyền tỉnh Cao Bằng cho thấy, với sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, sự vào cuộc của các cấp chính quyền, công tác xây dựng văn bản QPPL trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả nhất định. Sau hơn 03 năm thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 với nhiều quy định mới, giờ đây công tác xây dựng, ban hành văn bản đã đi vào nề nếp. Nhiều văn bản QPPL đã được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và quản lý nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp tại địa phương. Các bộ, ngành, địa phương đã nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của pháp luật, tập trung hơn nguồn lực và thời gian chuẩn bị, nhờ đó chất lượng văn bản QPPL đã được nâng lên, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn tồn tại những khó khăn, hạn chế nhất định. Do đó các cơ quan cần tăng cường trách nhiệm của mình và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL để khắc phục những hạn chế, từ đó nâng cao chất lượng văn bản QPPL được ban hành, giúp cho việc sử dụng pháp luật là công cụ hữu hiệu trong quản lý nhà nước, thúc đẩy kinh tế – xã hội địa phương phát triển.Luận văn: Thực trạng xây dựng chính quyền tỉnh Cao Bằng
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Giải pháp xây dựng pháp luật chính quyền địa phương