Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng về văn bản công chứng tại Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.2. Quy định về cơ chế, thủ tục bảo đảm thực thi quy định về giá trị thi hành của văn bản công chứng
Như đã phân tích ở phần 2.1.2 mặc dù Luật Công chứng đã quy định về hiệu lực thi hành của văn bản công chứng, nhưng giá trị này của văn bản công chứng vẫn chưa được coi trọng và phát huy hiệu quả trên thực tế, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do pháp luật hiện nay chưa có quy định pháp luật về cơ chế đảm bảo thi hành văn bản công chứng một cách đồng bộ, hiệu quả.
Để thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, thậm chí là quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hay phán quyết của Trọng tài thương mại, thì Nhà nước đều phải hình thành nên một cơ chế với đầy đủ các quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục và giao cho một cơ quan, tổ chức để tổ chức thực hiện. Ở Việt Nam, nhiệm vụ này được giao cho các cơ quan thi hành án dân sự và hiện nay các quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại… được quy định tập trung trong Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trong đạo Luật này chưa hề có quy định nào về thi hành văn bản công chứng, hay nói cách khác, chưa có cơ chế bảo đảm thi hành đối với loại văn bản này. Luận văn: Thực trạng về văn bản công chứng tại Việt Nam
Mặt khác, trong một vài trường hợp mặc dù cách thức để thi hành văn bản công chứng đã được các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan quy định nhưng những quy định đó chưa đủ rõ ràng, cụ thể hoặc thiếu tính khả thi.
Để làm rõ nhận định vừa nêu, xin dẫn chiếu đến một vài quy định có liên quan đến giá trị thi hành của văn bản công chứng trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm, loại hình văn bản công chứng hiện đang chiếm một số lượng không nhỏ.
Hiện nay, theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật Dân sự 2015 thì trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ thì tài sản bảo đảm được xử lý theo phương thức do các bên đã thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Nhưng vấn đề ở đây là để xác định được chính xác khi nào bên có nghĩa vụ đã vi phạm nghĩa vụ đến mức phải xử lý tài sản bảo đảm luôn gặp rất nhiều trở ngại nếu như không nhận được sự đồng thuận, hợp tác của các bên bảo đảm. Chính vì vậy, từng trường hợp cụ thể dẫn đến việc phải xử lý tài sản bảo đảm cũng như phương thức xác định thường được các bên thỏa thuận, thống nhất ngay trong nội dung của hợp đồng thế chấp, tín dụng cũng như một số giấy tờ, tài liệu khác có liên quan. Như vậy, khi công chứng giao dịch bảo đảm, công chứng viên không chỉ tuân thủ nội dung Bộ luật dân sự 2015, luật công chứng 2014, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/07/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012… mà còn phải tìm hiểu kỹ nội dung rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác nhưng làm như thế nào để xác định chính xác, rõ ràng bên có nghĩa vụ đã vi phạm đến mức phải xử lý tài sản bảo đảm lại là một việc vô cùng phức tạp trên thực tế.
Để làm rõ hơn vấn đề trên trước tiên phải nói đến một số quy định có liên quan trong pháp luật tố tụng dân sự. Trước tiên, khi nói tới “những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh” theo Điểm c khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 khẳng định:
Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính.
Như vậy, từ quy định trên có thể thấy sự thỏa thuận của các bên về những tình huống phải xử lý cũng như phương thức xử lý tài sản bảo đảm mặc nhiên là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh và căn cứ vào Điều 5 Luật công chứng 2014, thì các tình huống dẫn đến việc phải xử lý và phương thức tài sản bảo đảm được ghi nhận trong hợp đồng thế chấp đã công chứng đương nhiên được pháp luật công nhận và bảo hộ.
Tuy nhiên, giấy tờ, tài liệu chứng minh đã tới lúc phải xử lý tài sản bảo đảm thì lại không có được giá trị pháp lý cao như vậy. Ví dụ bên cho vay hay còn có thể gọi là bên nhận bảo đảm đã giao đủ số tiền vay cho bên vay lại chỉ do chính các bên tham gia giao kết biện pháp bảo đảm thực hiện. Và tất nhiên, tình tiết, sự kiện được ghi nhận trong các loại giấy tờ. tài liệu kiểu này không được coi là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh do vậy tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp rất lớn.
Ngoài ra, điểm khiến cho các giấy tờ, tài liệu kể trên có giá trị pháp lý không cao xuất phát từ việc các bên tạo lập những loại giấy tờ này có quyền, lợi ích mâu thuẫn với nhau. Ví dụ bên nhận bảo đảm khẳng định đã gửi thông báo đòi nợ cho bên bảo đảm nhưng bên bảo đảm lại cam đoan là chưa nhận được… Chính vì vậy, để xác định đã tới thời điểm phải xử lý tài sản bảo đảm nhằm thực hiện nghĩa vụ thì bên nhận bảo đảm vẫn cần phải được sự chấp nhận của bên bảo đảm “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh” khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trên thực tế cho thấy hầu hết các trường hợp bên nhận bảo đảm tự mình ấn định thời điểm phải xử lý tài sản bảo đảm mà chưa được sự đồng ý của bên nhận bảo đảm thường dẫn đến kiện tụng, khiếu nại hết sức phức tạp. Chính điều này dẫn đến hầu hết các điều khoản xử lý tài sản bảo đảm trong hợp đồng bảo đảm rất khó có thể thực hiện.
Nếu như trước đây cách thức xử lý tài sản bảo đảm được quy định rải rác thì đến Bộ luật dân sự 2015 các nhà làm luật đã đưa phương thức chung để xử lý tài sản bảo đảm (hay còn gọi là tài sản cầm cố và thế chấp). Điều 303 Bộ luật dân sự 2015 liệt kê các “phương thức xử lý tài sản cầm cố và thế chấp” bao gồm:
Bán đấu giá tài sản; b) Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản; c) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; d) Phương thức khác [47].
Như vậy nhìn một cách tổng thể, ngoài các phương thức xử lý tài sản đã được pháp luật đề cập tới như bán tài sản bảo đảm, nhận chính tài sản bảo đảm… các bên tham gia giao kết giao dịch bảo đảm còn được phép tự do thỏa thuận các phương thức xử lý tài sản bảo đảm khác như cho bên thứ ba thuê tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm trực tiếp khai thác công dụng của tài sản bảo đảm… Riêng phương thức bán tài sản bảo đảm cũng có nhiều biến thể khác nhau như bên nhận bảo đảm trực tiếp bán hoặc ủy quyền cho bên thứ ba bán tài sản bảo đảm, hoặc bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm cùng phối hợp để bán tài sản bảo đảm hoặc ký hợp đồng với tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp để bán tài sản bảo đảm… Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là dù xử lý theo bất kỳ phương thức nào thì trước hết bên nhận bảo đảm phải chứng minh được bên có nghĩa vụ đã “không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”, đồng thời một điều kiện nữa cũng không kém phần quan trọng đó là bên nhận bảo đảm phải nắm giữ trên thực tế “quyền chiếm hữu” tài sản bảo đảm. Rõ ràng đây là những vấn đề hoàn toàn không đơn giản, bởi lẽ:
Trong trường hợp thế chấp tài sản là bất động sản như đất đai, nhà ở. Trong khi đó, khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về “Tội xâm phạm chỗ ở của người khác” nêu rõ: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác; Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ; Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ; Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác [48].
Căn cứ quy định trên, hành vi thu giữ tài sản là nhà ở hoàn toàn có thể phạm pháp luật hình sự nếu bên nhận bảo đảm không thể chứng minh được việc thu giữ tài sản tuân thủ mọi quy định của pháp luật hiện hành. Bên cạnh đó, mặc dù Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã danh hẳn một điều (Điều 63) quy định để quy định khá chi tiết, cụ thể về “Thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý”, theo đó, trong quá trình tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, nêu bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì người xử lý tài sản bảo đảm có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Quy định là như vậy nhưng trên thực tế, vai trò của chính quyền địa phương trong việc thu giữ tài sản bảo đảm cũng chỉ dừng lại ở mức độ rất khiêm tốn, mờ nhạt.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2.3 Một số quy định pháp luật có liên quan tác động tới giá trị pháp lý của văn bản công chứng Luận văn: Thực trạng về văn bản công chứng tại Việt Nam
2.3.1. Về tiêu chuẩn công chứng viên
Công chứng viên là chủ thể duy nhất tiến hành hoạt động công chứng – chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. Hơn nữa, hoạt động công chứng là một ngành nghề có tính đặc thù riêng. Vì vậy, công chứng viên phải đảm bảo những tiêu chuẩn nhất định là qui định quan trọng và cần thiết. Để nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên, Luật công chứng năm 2014 bổ sung quy định mới về tiêu chuẩn công chứng viên phải tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 9 của Luật hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật này và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Quy định này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hành nghề của đội ngũ công chứng viên.
Việc quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn và điều kiện bổ nhiệm công chứng viên như vậy cũng xuất phát từ đặc điểm của công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn nghề nghiệp của công chứng viên. Nghề công chứng là một nghề đòi hỏi phải có những kỹ năng mang tính nghề nghiệp chuyên sâu, phải có khả năng làm việc độc lập cao, sản phẩm của công chứng viên là những văn bản có giá trị chứng cứ không phải chứng minh và có giá trị thi hành, nên để đảm bảo giá trị cho một văn bản công chứng thì việc đặt ra một hệ thống quy chuẩn đào tạo trang bị kỹ năng hành nghề công chứng, như kỹ năng áp dụng pháp luật, xử lý tình huống, xác định đối tượng, chủ thể của hợp đồng, giao dịch, kỹ năng xác định, phân biệt giấy tờ, con dấu, chữ ký là thật hay giả…, và đạo đức hành nghề đối với công chứng viên là vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo cho hoạt động hành nghề công chứng đạt chất lượng.
2.3.2. Về trình tự, thủ tục công chứng Luận văn: Thực trạng về văn bản công chứng tại Việt Nam
Văn bản công chứng là sự chứng nhận sự hợp pháp của ý chí, nó có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành. Do ý nghĩa, giá trị pháp lý đó mà văn bản công chứng phải tuân thủ nghiêm ngặt những qui định về trình tự, thủ tục công chứng.
Thứ nhất, về Lời chứng của công chứng viên Điều 45 của Luật Công chứng đã quy định công chứng viên khi thực hiện công chứng phải ghi rõ “thời điểm, địa điểm công chứng, họ, tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng”, “người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự”, “mục đích, nội dung của hợp đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội”, “chữ ký hoặc dấu điểm chỉ trong hợp đồng, giao dịch đúng là chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của người tham gia hợp đồng, giao dịch”… Quy định như vậy là phù hợp, thể hiện đúng bản chất của công chứng nội dung, đồng thời qua đó xác định cụ thể trách nhiệm của công chứng viên đối với việc công chứng.
Thứ hai, một số điểm mới với mục đích đáp ứng yêu cầu đơn giản hoá thủ tục công chứng tạo điều kiện thuận lợi cho người yêu cầu công chứng những vẫn đảm bảo sự chính xác trong việc xác minh người yêu cầu công chứng, sự việc được yêu cầu công chứng và giá trị pháp lý của văn bản sau khi được công chứng, cụ thể như sau:
- Người yêu cầu công chứng chỉ phải xuất trình bản chính của các giấy tờ để công chứng viên đối chiếu trước khi ghi lời chứng và ký vào hợp đồng, giao dịch mà không cần xuất trình bản chính ngay khi nộp hồ sơ yêu cầu công chứng.
- Việc công chứng viên đọc cho người yêu cầu công chứng nghe dự thảo hợp đồng, giao dịch chỉ được thực hiện nếu có đề nghị của người yêu cầu công chứng để đảm bảo người yêu cầu công chứng hiểu rõ, đầy đủ và chính xác về nội dung hợp đồng, giao dịch.
Những điểm sửa đổi, bổ sung nêu trên tuy không lớn, song sẽ góp phần không nhỏ vào việc giải quyết những khó khăn, vướng mắc của các công chứng viên trong quá trình hành nghề công chứng mà họ đã gặp phải trong thời gian qua.
Thứ ba, về thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp bất động Luật công chứng năm 2014 đã sửa đổi quy định này theo hướng việc công chứng hợp đồng thế chấp bất động sản tiếp theo do công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng hợp đồng thế chấp lần đầu thực hiện, trường hợp tổ chức hành nghề công chứng đó chấm dứt hoạt động, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc giải thể thì công chứng viên thuộc tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hợp đồng thế chấp công chứng hợp đồng đó.
Thứ tư, về thủ tục Công chứng hợp đồng ủy quyền đây là một điểm mới Luật công chứng năm 2014 quy định về trình tự, thủ tục khi công chứng hợp đồng ủy quyền, theo đó, khi công chứng các hợp đồng ủy quyền, công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra kỹ hồ sơ, giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của các bên và hậu quả pháp lý của việc ủy quyền đó cho các bên tham gia. Trong trường hợp bên ủy quyền và bên được ủy quyền không thể cùng đến một tổ chức hành nghề công chứng thì bên ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú công chứng hợp đồng ủy quyền; bên được ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú công chứng tiếp vào bản gốc hợp đồng ủy quyền này, hoàn tất thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền.
2.3.3. Về cơ sở dữ liệu công chứng và lưu trữ hồ sơ công chứng Luận văn: Thực trạng về văn bản công chứng tại Việt Nam
Trên thực tế có thể thấy việc khiếu kiện, tranh chấp về các hợp đồng, giao dịch đã được công chứng có thể phát sinh bất kỳ lúc nào cùng với việc văn bản công chứng còn là căn cứ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự của người yêu cầu công chứng đối với các tài sản, lợi ích của mình, nên nếu vào thời điểm xảy ra tranh chấp mà văn bản công chứng hoặc các giấy tờ trong hồ sơ công chứng đã bị hủy đi theo quy định của pháp luật thì sẽ không còn chứng cứ để chứng minh hợp đồng, giao dịch đó có phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội không, công chứng viên chứng nhận hợp đồng, giao dịch có lỗi hay không có lỗi với thiệt hại xảy ra cho các bên tham giao giao kết hợp đồng hay không. Chính vì thế, việc xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng và lưu giữ hồ sơ công chứng là vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo giá trị chứng cứ và giá trị thi hành của văn bản công chứng.
Về cơ sở dữ liệu công chứng, nhằm kết nối thông tin công chứng, đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao dịch, tránh các rủi ro trong hoạt động công chứng, Luật công chứng năm 2014 quy định rõ về cơ sở dữ liệu công chứng bao gồm các thông tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin về biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch đã được công chứng, Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng của địa phương và ban hành quy chế khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu công chứng, trách nhiệm của Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng và các bộ, ngành có liên quan chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng và quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu công chứng tại các địa phương.
Đối với lưu trữ hồ sơ công chứng, Luật công chứng năm 2014 quy định thời hạn lưu trữ ít nhất là 20 năm đối với cả bản chính văn bản công chứng và các giấy tờ khác trong hồ sơ công chứng (Luật công chứng năm 2006 quy định thời hạn lưu trữ đối với các giấy tờ khác trong hồ sơ công chứng là 05 năm). Đồng thời, để đảm bảo tính bảo mật của hoạt động công chứng, Luật quy định nguyên tắc kê biên, khám xét trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, việc lưu trữ hồ sơ công chứng trong trường hợp tổ chức hành nghề công chứng không còn tồn tại…
2.3.4. Về thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng và hiệu lực của hợp đồng, giao dịch
Trong các quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng và hiệu lực của hợp đồng, giao dịch còn có sự chồng chéo, mẫu thuẫn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Công chứng 2014, thì “văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và có đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng”. Tuy nhiên, theo quy định của khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013 thì “Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”. Còn tại khoản 1 Điều 12 Luật Nhà ở 2014 lại quy định “Trường hợp mua bán nhà ở” “thì thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là kể từ thời điểm bên mua, bên thuê mua đã thanh toán đủ tiền mua, tiền thuê mua và đã nhận bàn giao nhà ở, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Sự không thống nhất này trong thực tiễn đã phát sinh nhiều vướng mắc, đẩy khó khăn cho người dân trong việc thực hiện các thủ tục hành chính có liên quan và cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp, khiếu kiện trên thực tế. Luận văn: Thực trạng về văn bản công chứng tại Việt Nam
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Giải pháp hoàn thiện văn bản công chứng tại VN