Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về ứng dụng công nghệ tài chính (Fintech) đối với thị trường chứng khoán và khuyến nghị chính sách cho thị trường Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.2 Bài học kinh nghiệm ứng dụng Fintech tại Thị trường chứng khoán Việt Nam
Trong mục này, từ những quốc gia trên thế giới bao gồm : Mỹ , Nhật bản , Hàn Quốc , Trung Quốc và Thái Lan , tác giả sẽ đi sâu phân tích bài học kinh nghiệm ứng dụng Fintech đã và đang phát triển tại thị trường chứng khoán Việt Nam dựa trên : Về tổ chức , khung pháp lý và chính sách .
2.2.1 Tổng quan thị trường Fintech tại Việt Nam
“Lĩnh vực Fintech của Việt Nam trong những năm qua đã có những bước tiến đáng chú ý nhờ áp dụng mạnh mẽ các giao thức kỹ thuật số trong kinh doanh, sự bùng nổ của ngành thương mại điện tử và quyết tâm thúc đẩy thanh toán kỹ thuật số từ phía Chính phủ (Fintech News Singapore, 2020). Số lượng công ty Fintech tại Việt Nam đã tăng gấp 4 lần trong 6 năm qua, từ 39 công ty năm 2015 lên tới hơn 150 công ty vào năm 2021 (Đỗ Quang Trị, 2021). Các công ty Fintech hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm trung gian thanh toán và ví điện tử, cho vay ngang hàng, công nghệ chuỗi khối, tiền kỹ thuật số và kiều hối… Về giá trị giao dịch, thị trường Fintech Việt Nam cũng cho thấy mức tăng ấn tượng, từ 4,4 tỷ USD năm 2017 lên tới 12,9 tỷ USD năm 2021 (Iris, 2021). Theo đó, các nhà đầu tư tiếp tục lạc quan về tiềm năng phát triển Fintech tại Việt Nam khi rót thêm hàng chục triệu USD vào các công ty khởi nghiệp trong nước. Năm 2021, Việt Nam đứng thứ ba trong ASEAN về nguồn vốn tài trợ cho Fintech với 375 triệu USD, chiếm 11% tổng vốn đầu tư của 6 nền kinh tế hàng đầu khu vực (UOB và cộng sự, 2021). Sự lạc quan ngày càng trở nên rõ nét khi Việt Nam đang trải qua thời kỳ bùng nổ về thanh toán số và hoạt động thương mại điện tử trong bối cảnh diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19. Theo Báo cáo Fintech Việt Nam của Fintech News Singapore (2021), trong quý 4 năm 2021, thanh toán điện tử tăng 75% với tổng giá trị giao dịch tăng 124% so với cùng kỳ năm 2020. Các công ty Fintech tham gia thị trường này ghi nhận mức tăng trưởng cao chưa từng có, với giá trị thanh toán trên ví MoMo đã tăng gần gấp đôi sau 1 năm, kể từ tháng 01/2020. Tần suất giao dịch thương mại điện tử cũng tăng đáng kể trong thời gian qua với tổng lượt truy cập các ứng dụng mua sắm đem lại doanh thu 14,5 tỷ USD trong quý 4 năm 2021 (tăng 34% so với quý trước). Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam
Theo bảng xếp hạng trung tâm Fintech toàn cầu năm 2021, điểm Fintech của Việt Nam xếp hạng 70 thế giới, trong đó thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội xếp lần lượt thứ 28 và 33 trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đây là thành quả đáng khích lệ với một thị trường Fintech non trẻ như Việt Nam, cho thấy Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc trong khoảng thời gian gần đây. (Bảng 2.1, Bảng 2.2)”
Bảng 2.1: Xếp hạng quốc gia về phát triển Fintech năm 2021
Bảng 2.2: Xếp hạng thành phố tại châu Á – Thái Bình Dương về phát triển Fintech năm 2021
“Về cấu phần đóng góp của các dịch vụ, dịch vụ thanh toán và cho vay ngang hàng đang là hai phân khúc thống trị thị trường Fintech Việt Nam (chiếm gần một nửa tổng tỷ trọng), trong khi các dịch vụ khác như quản lý tài sản, quản lý dữ liệu/chấm điểm tín dụng, quản lý đầu tư, bảo hiểm, dịch vụ tư vấn tài chính SMEs… vẫn đang ở giai đoạn sơ khai. Đóng góp của các dịch vụ trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam năm 2021 ( Hình 2.1 )”
Hình 2.1: Đóng góp của các dịch vụ trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam năm 2021
“Quan sát Hình 2.1, có thể thấy hoạt động thanh toán điện tử đang chiếm tỷ trọng lớn nhất (31%) trong các loại hình dịch vụ Fintech. Điều này xuất phát từ quy mô dân số lớn, sự hỗ trợ từ Chính phủ nhằm thúc đẩy một nền kinh tế không dùng tiền mặt, cũng như tỷ lệ sử dụng Internet và di động cao tại Việt Nam (Vũ Cẩm Nhung & Lại Cao Mai Phương, 2021). Không chỉ vậy, các công ty Fintech trong lĩnh vực thanh toán luôn thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư nhất và đây cũng là quy luật chung của các thị trường Fintech phát triển ở giai đoạn đầu (Tomorrow Maketers, 2020). Xu hướng này sẽ còn được tiếp tục khi theo dự báo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), giá trị thanh toán qua thiết bị di động tại Việt Nam dự kiến tăng gần 4 lần, từ 16 tỷ USD vào năm 2016 lên đến 70,9 tỷ USD vào năm 2025 (ISEV, 2020). Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam
Ngoài ra, đa số công ty Fintech ở Việt Nam do đang ở giai đoạn phát triển sơ khởi nên có quy mô còn khiêm tốn. Báo cáo khảo sát của NHNN năm 2021 cho thấy, phần lớn các công ty Fintech tại Việt Nam là các công ty mới được thành lập với quy mô nhỏ. Cụ thể, về giai đoạn phát triển của công ty Fintech: 47% đang trong giai đoạn khởi động kinh doanh chưa đạt điểm hòa vốn; 28% đang trong giai đoạn ra mắt sản phẩm khả thi tối thiểu (MVP) và có doanh thu bán hàng trong sáu tháng gần nhất tính đến thời điểm khảo sát; 13% đang trong giai đoạn phát triển mô hình kinh doanh; 9% đã đạt được lợi nhuận; 3% đang trong giai đoạn chứng minh ý tưởng và chưa có doanh thu.” (Hình 2.2)
Hình 2.2: Đánh giá giai đoạn phát triển của các công ty Fintech Việt Nam năm 2021
“Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (Fourth Industrial Revolution) đã và đang là một xu thế mới, tác động mạnh đến phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, từng khu vực và toàn cầu. Thị trường chứng khoán là thị trường tài chính bậc cao, có sự liên thông và phản ứng rất nhanh với các diễn biến của nền kinh tế trong nước và thế giới, vì vậy cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra trên phạm vi toàn cầu đang tác động lên thị trường vốn, thị trường chứng khoán Việt Nam trên nhiều khía cạnh và đây được xem là xu hướng tất yếu trong thời đại mới. Chính vì nhận thức được vai trò quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong lĩnh vực chứng khoán, nên Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã nỗ lực triển khai đồng bộ các ứng dụng và hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại nhằm nâng cao năng lực quản lý, giám sát và điều hành, góp phần tạo dựng thị trường hiệu quả, công khai, minh bạch đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế. Trải qua thập kỷ phát triển rất nhanh của công nghệ, công nghệ thông tin của ngành tài chính nói chung và chứng khoán nói riêng đang đứng trước cơ hội và thách thức mới của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn biến rất nhanh với sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, tạo ra những khả năng hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đối với xã hội, kinh tế, trong đó có thị trường chứng khoán của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung”.
Hình 2.3 : Cấu trúc Fintech ở Vietnam
Quan sát hình 2.3 có thể thấy cấu trúc Fintech ở Vietnam rất đa dạng , số lượng startup trong lĩnh vực fintech tại Việt Nam đã tăng từ 44 công ty năm 2017 lên 120 công ty vào năm 2020. Trong đó lĩnh vực P2P và blockchain có sự tăng trưởng mạnh mẽ . Lĩnh vực Wealth Management cũng rất phát triển . Trong công tác hiện đại hóa hệ thống công nghệ tài chính Việt Nam và cùng với sự lớn mạnh của TTCK , việc ứng dụng công nghệ tài chính hiện đại trong lĩnh vực chứng khoán đã liên tục phát triển lớn mạnh và đạt được nhiều thành quả.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Tài Chính Ngân Hàng
2.2.2 Bài học về Tổ chức thể chế trong lĩnh vực chứng khoán Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam
Kinh nghiệm các nước trên thế giới về tổ chức thể chế trong lĩnh vực chứng khoán nhìn chung đều có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý . Ở Nhật Bản và Hàn Quốc là mô hình quản lý tài chính hợp nhất với một cơ quan quản lý cao nhất chịu trách nhiệm ban hành chính sách về quản lý tài chính và giám sát tổ chức hoạt động trong lĩnh vực ngân hành , chứng khoán , bảo hiệm . Còn ở Việt Nam là bộ tài chính sẽ chịu trách nhiệm chính ở mô hình này . Công tác quản lý Fintech trong lĩnh vực chứng khoán ở Hoa Kỳ là Ủy ban chứng khoán (SEC ) , ở Trung Quốc là Ủy ban chứng khoán (CSRC ) còn ở Việt Nam là UBCKNN. Thực hiện quản lý, giám sát điều hành TTCK và các đối tượng tham gia TTCK các hệ thống Công nghệ tài chính và các CSDL của UBCKNN đã phát huy hiệu quả, là công cụ quan trọng để hỗ trợ UBCKNN. Đồng thời, việc vận hành các hệ thống này là cơ sở để hình thành một kho dữ liệu về từng đối tượng quản lý, giúp các đơn vị nghiệp vụ khai thác, sử dụng hỗ trợ công tác ra quyết định quản lý và giám sát thị trường. Dưới sự giám sát của UBCKNN , Fintech còn tác động đến các thành phần tham gia thị trường :
- Đối với nhà đầu tư (bên cầu): Fintech tạo ra thêm những sản phẩm đầu tư và dịch vụ mới, từ đó đa dạng hóa các phương án lựa chọn cho nhà đầu tư. Tùy theo mục tiêu, khẩu vị rủi ro và mức độ hiểu biết, nhà đầu tư có thể tìm thấy những phương thức đầu tư mới phù hợp. Quan trọng hơn, ngay cả những nhà đầu tư sở hữu số tiền rất nhỏ cũng có cơ hội kiếm lợi nhuận với chi phí thấp hơn (như tham gia các nền tảng gọi vốn cộng đồng) và hưởng những dịch vụ chất lượng mà các dịch vụ truyền thống khó đáp ứng được (ví dụ như quản lý tài sản và tư vấn tự động). Lợi ích này, kết hợp với một số yếu tố khác đạt được nhờ công nghệ (như giảm sự bất cân xứng về thông tin; sự cải thiện về quy trình, tính minh bạch và quản lý rủi ro) là động lực củng cố niềm tin đối với thị trường và mở rộng cơ sở nhà đầu tư.
- Đối với doanh nghiệp (bên cung): Khả năng tiếp cận vốn doanh nghiệp được mở rộng đáng kể cả về không gian, thời gian và đối tượng cung cấp vốn. Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt với những doanh nghiệp (doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa) khó đáp ứng các yêu cầu, điều kiện để huy động vốn theo những phương thức truyền thống như phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Không những thế, xu hướng phi trung gian hóa (trong quá trình huy động vốn) nhờ ứng dụng fintech còn giúp cắt giảm một số loại chi phí (chi phí trung gian, chi phí hành chính cho giấy tờ, hồ sơ) làm giảm bớt chi phí vốn cho doanh nghiệp.
- Đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán: Việc ứng dụng fintech có thể giúp đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Ở cấp độ cao hơn, ứng dụng công nghệ có thể dẫn đến sự thay đổi quy trình tạo ra và cung cấp sản phẩm, dịch vụ (chẳng hạn như sử dụng định danh khách hàng điện tử thay vì phương thức truyền thống), thậm chí là mô hình kinh doanh, giúp các tổ chức kinh doanh chứng khoán tối ưu hóa hoạt động tốt hơn, tiết kiệm chi phí, cải thiện hiệu suất và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, một nhánh của fintech là công nghệ quản lý có thể giúp các tổ chức này đáp ứng các yêu cầu tuân thủ từ phía cơ quan quản lý hiệu quả hơn. Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam
- Đối với cơ sở hạ tầng của thị trường: Được nâng cấp theo hướng tăng hiệu quả (nhờ tự động hóa, đơn giản hóa các quy trình), giảm chi phí (nhờ phi trung gian hóa), cải thiện sự minh bạch và độ an toàn, kiểm soát tốt hơn các rủi ro hoạt động và thanh toán. Điều này diễn ra trên toàn chuỗi giá trị gắn với cơ sở hạ tầng thị trường (từ thị trường sơ cấp đến thị trường thứ cấp, từ khâu giao dịch đến khâu xử lý hậu giao dịch và dịch vụ thông tin – dữ liệu), không chỉ ở các thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết mà cả với những lĩnh vực vẫn được coi là có nhiều thách thức hơn như thị trường phi tập trung (OTC), thị trường vốn cổ phần tư nhân.
- Đối với cơ quan quản lý: Sự phát triển của fintech không chỉ đặt ra những thách thức cho cơ quan quản lý những thách thức (khi các sản phẩm, dịch vụ mới, thành phần tham gia thị trường mới và những mô hình kinh doanh mới xuất hiện), mà cũng đem lại những cơ hội để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý, giám sát. Với việc ứng dụng công nghệ giám sát, cơ quan quản lý có thể tự động hóa quy trình hoạt động, số hóa cơ sở dữ liệu và công cụ làm việc hay cải thiện khâu phân tích dữ liệu. Hệ quả là, phương thức quản lý, giám sát truyền thống (phần nhiều dựa vào dữ liệu quá khứ và việc thanh kiểm tra tại chỗ) sẽ được thay thế bằng phương thức mới có tính chủ động và dự báo tốt hơn, dựa trên việc phân tích cơ sở dữ liệu phức tạp (dữ liệu phi cấu trúc và tiếp cận theo thời gian thực).
2.2.3 Bài học về khung pháp lý và quản lý nhà nước về Fintech trong lĩnh vực chứng khoán.
Kinh nghiệm về khung pháp lý và quản lý tại các quốc gia trên thế giới hiện nay còn khá mới mẻ và đang trong quá trình hoàn thiện . Tại Mỹ, chính phủ ban hành Đạo luật JOBS để hỗ trợ các doanh nghiệp Fintech . Tại Trung quốc , Cục CAC đã ban hành quy định về quản lý thông tin chuỗi khối (1/2019) trong đó nghiêm cấm hoạt động chào bán tiền lần đầu (ICO ) . Còn tại Việt nam, khung pháp lý của nhà nước về Fintech trong lĩnh vực chứng khoán được dựa trên chủ yếu trong Nghị định 64/2007 về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Cơ quan nhà nước, Nghị định 25/2014 về Quy định phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao và luật công nghệ thông tin 2007 về chính sách nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các bên trong phát triển hạ tầng công nghệ thông tin. Ngoài ra còn dựa trên luật giao dịch điện tử 2005 về nguyên tắc bảo mật của các bên tham gia giao dịch điện tử, trách nhiệm quản lý nhà nước bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên. Theo điều 9 của Luật công nghệ thông tin: Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin số của mình trên môi trường mạng, thông báo công khai trên môi trường mạng những thông tin có liên quan. Tổ chức, cá nhân tham gia phát triển công nghệ thông tin có trách nhiệm bảo đảm tính trung thực, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu cơ sở dữ liệu và không gây cản trở cho việc sử dụng cơ sở dữ liệu đó khi thực hiện hành vi tái sản xuất, phân phối, quảng bá, truyền đưa, cung cấp nội dung hợp thành cơ sở dữ liệu đó. Cơ quan nhà nước có trách nhiệm sau thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về các hoạt động thực hiện trên môi trường mạng theo quy định. Thông báo cho tổ chức, cá nhân có liên quan địa chỉ liên hệ của cơ quan đó trên môi trường mạng, trả lời theo thẩm quyền văn bản của tổ chức, cá nhân gửi đến cơ quan nhà nước thông qua môi trường mạng.
2.2.4 Bài học về chính sách tại thị trường chứng khoán Việt Nam Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam
Kinh nghiệm về chính sách của các nước trên thế giới có nhiều sáng kiến thúc đẩy sự phát triển của Fintech điển hình như ở Hoa Kỳ , một số cơ quan quản lý cấp tiểu bang và liên bang đã phát triển các chính sách dựa trên cơ chế thử nghiệm , bang Arizona (8/2018 ) là bang đầu tiên được áp dụng khung pháp lý thử nghiệm này . Tại Nhật bản , chính phủ cũng có nhiều đề xuất sáng kiến và giới thiệu khung pháp lý thử nghiệm (6/2018) . Tại Trung quốc các doanh nghiệp được xếp vào diện “ công ty công nghệ cao” sẽ được ưu đãi thuế . Nhìn chung , việc phát triển Fintech là một trong những cam kết của các nhà quản lý chính sách , thúc đẩy hoạt động , tạo môi trường thuận lợi cho phát triển chính sách Fintech . Còn ở Việt Nam, sau cuộc khủng hoảng năm 2008 hầu hết các tổ chức tài chính, Ngân hàng và các định chế tài chính đều được các Chính phủ quản lý chặt chẽ hơn, các yêu cầu về vốn và các điều kiện để hoạt động ngày càng trở nên khó khăn hơn nhằm kiểm soát được các rủi ro có thể xảy đến. Do đó, từ giai đoạn này hoạt động của các ứng dụng Fintech được xem là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển do các yêu cầu ràng buộc ít hơn và xu hướng đa phần là tạo môi trường và hành lang pháp lý thuận lợi. Tuy nhiên, tại Việt Nam có thể nói các cơ chế chính sách và hành lang pháp lý cho Fintech chưa đầy đủ và đồng bộ cho các hoạt động, thời gian cập nhật, sửa đổi, bổ sung pháp lý còn chậm so với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ. Một số văn bản nổi bật có liên quan đã đang ban hành:
Chính phủ đã ban hành luật giao dịch điện tử năm 2005 Luật công nghệ thông tin năm 2006 và mới nhất là luật an ninh mạng;
Nghị định 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính
Ứng dụng ví điện tử được NHNN cấp phép theo Thông tư 39/2014/TT-NHNN quy định rõ về việc lập, sử dụng, bảo quản, lưu trữ chứng từ điện tử theo quy định của Pháp luật;
Về trung gian thanh toán, Việt Nam đã có khuôn khổ pháp lý tương đối sớm, cho phép thí điểm từ năm 2008 và chính thức từ năm 2012 khi Nghị định 01/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt được ban hành và hiện tại đang trình Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt;
Ngoài ra, ngày 16/3/2017, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 328/QĐ-NHNN thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực Fintech tại NHNN. Ban Chỉ đạo gồm 10 thành viên là lãnh đạo cấp vụ của một số Vụ, Cục, Cơ quan Thanh tra Giám sát của NHNN và Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam (NAPAS);
Quyết định số 1255/QĐ-TTg của Thủ tướng ngày 21/8/2017 phê duyệt Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tải sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo.
Tại Hội thảo “Đẩy mạnh triển khai thực hiện Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ” Ông Nghiêm Thanh Sơn, Phó vụ trưởng Vụ thanh toán, Phó trưởng ban chỉ đạo Fintech NHNN cho biết, dự thảo Đề án Cơ chế quản lý thử nghiệm cho hoạt động Fintech (Regulatory Sandbox) đã được cơ quan này trình Thủ tướng Chính phủ vào tháng 8/2019 (Lê Quân 2019);
Mục tiêu của đề án là hiện thực hóa các giải pháp tại Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo quốc gia đến năm 2025” được phê duyệt tại Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ và cũng là nhiệm vụ được nêu tại Quyết định 999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ đã ban hành ngày 12/8/2019.
Ngày 12/8/2019 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 999/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ; trong đó đã thể hiện khá rõ quan điểm: “ủng hộ và thích ứng với xu thế phát triển mới của mô hình kinh tế chia sẻ trong điều kiện phát triển rất nhanh của công nghệ số trên thế giới; không cần thiết phải có các chính sách riêng biệt cho hình thức kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ do kinh tế chia sẻ không phải là một bộ phận tách rời hoặc một thành phần kinh tế riêng trong nền kinh tế”.
2.2.5 Triển vọng và tồn tại, hạn chế trong ứng dụng Fintech tại thị trường chứng khoán Việt Nam Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam
2.2.5.1. Triển vọng trong ứng dụng Fintech tại thị trường chứng khoán Việt Nam
Fintech tại Việt Nam có rất nhiều cơ hội khi mà số lượng dân số trẻ chiếm tỷ trọng lớn trong 92 triệu dân, tỷ lệ người dùng Internet hiện chiếm 54% dân số, xu hướng sử dụng điện thoại thông minh có thể đạt mốc 40 triệu vào năm 2021, nhận thức của nhà quản lý về Fintech ngày càng rõ nét… những thuận lợi này sẽ tạo ra những tiềm năng rộng mở cho phát triển Fintech tại Việt Nam.
Theo số liệu của Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam (VSD), năm 2021, nhà đầu tư trong nước mở mới hơn 1,5 triệu tài khoản chứng khoán, lớn gấp 1,5 lần tổng số tài khoản mở mới trong 4 năm 2017 – 2020 cộng lại (tổng 4 năm đạt 1,04 triệu tài khoản). Riêng trong tháng 01/2022, nhà đầu tư trong nước mở mới 195.068 tài khoản chứng khoán, giảm 31.512 tài khoản so với thời điểm kỷ lục mở tài khoản trong tháng 12/2021. Tính đến thời điểm cuối tháng 01/2022, tổng số tài khoản giao dịch của nhà đầu tư cá nhân trong nước là 4,45 triệu tài khoản; nhà đầu tư cá nhân nước ngoài là 35.676 tài khoản, tăng 4 tài khoản so với thời điểm cuối năm 2021.
“Một mô hình mới đang được chú ý là các công ty cung cấp dịch vụ quản lý tài sản bằng robot. Dữ liệu từ Statista cho thấy, tài sản do các cố vấn robot quản lý trên toàn thế giới đạt gần 1 nghìn tỷ USD vào năm 2020 và dự báo đạt 2.500 tỷ USD vào năm 2024. Số lượng người sử dụng dịch vụ sẽ tăng từ 45 triệu vào năm 2019 lên 147 triệu vào năm 2023. Sự xuất hiện của các công ty Fintech giúp việc mua, bán dễ dàng hơn thông qua ứng dụng, mức đầu tư tối thiểu tham gia cũng được giảm xuống đáng kể. Một số ứng dụng chỉ cần 50 nghìn đồng đã có thể đầu tư cổ phiếu quỹ.
Các chuyên gia đánh giá, sự phổ biến của các Fintech đầu tư và quản lý tài sản sẽ giúp nhiều người tham gia thị trường chứng khoán dễ dàng hơn. Đây là dấu hiệu tích cực vì việc đầu tư chứng khoán lâu dài là cơ hội gia tăng thu nhập cho các nhà đầu tư ở nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, lợi nhuận thu về từ đầu tư chứng khoán trung bình khoảng 12 – 15%/năm.
Từ nền tảng là các doanh nghiệp công nghệ hoạt động về thanh toán, các fintech (công nghệ tài chính) đang dần lấn sang lĩnh vực đầu tư tài chính với các dịch vụ về chứng chỉ quỹ và chứng khoán. Mở màn cho xu hướng này, một startup trong lĩnh vực fintech là Finhay Việt Nam công bố việc mua lại Công ty cổ phần chứng khoán Vina (niêm yết trên sàn OTC, mã VNSC). Khi việc thành lập một công ty chứng khoán hầu như khó để được cấp phép, do đó việc mua lại những công ty hiện có trên thị trường là cách làm nhanh chóng. Nhà đầu tư ở thị trường Việt Nam có khoảng 5 triệu tài khoản chứng khoán mở, chiếm 5% toàn bộ tổng dân số. Các fintech như ví điện tử sẽ cần những dịch vụ có lượng giao dịch hàng ngày lớn để tiếp đà tăng trưởng. Giao dịch chứng khoán là loại dịch vụ như vậy.Momo với thương vụ mua lại 49% cổ phần của chứng khoán CVS. Các giao dịch trên ví điện tử lâu nay thường là những khoản chi tiêu không quá lớn. Việc đầu tư tài chính trên các ứng dụng ví điện tử hay fintech mang đến sự tiện lợi nhất định.
Theo UBCKNN triển vọng ứng dụng Fintech ngành Tài chính từ nay tới năm 2030 tập trung vào những nội dung chính sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng thành công nền Tài chính điện tử: Hoàn thành các mục tiêu về chính phủ điện tử theo yêu cầu của lộ trình triển khai chính phủ điện tử của Chính phủ. Tập trung số hóa các hồ sơ, thông tin lưu trữ tạo thành các kho dữ liệu chuyên ngành, đưa vào khai thác dữ liệu hiệu quả.
Hai là, xây dựng cơ sở dữ liệu tài chính mở và ứng dụng các công cụ phân tích dữ liệu: Đây là định hướng lớn, ngành Tài chính cần tập trung xây dựng lộ trình thiết lập dữ liệu mở trong Ngành. Trước mắt, hoàn thành việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về Tài chính giai đoạn 1 (từ nay đến năm 2020 theo kế hoạch đã duyệt). Nghiên cứu triển khai công nghệ phân tích dữ liệu lớn và phân tích đa chiều trên CSDL quốc gia về tài chính nhằm phục vụ công tác điều hành tài chính công, cung cấp thông tin mọi lúc mọi nơi, trên các phương tiện thông minh cho lãnh đạo các cấp của ngành Tài chính và Lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Từng bước xây dựng chính sách mở về dữ liệu, các quy định về bảo mật và tính riêng tư.
Ba là, tiếp tục duy trì hoàn thiện và phát triển các hệ thống thông tin nghiệp vụ cốt lõi của ngành: Duy trì và phát triển các hệ thống thông tin nghiệp vụ chính đảm bảo ổn định hoạt động tài chính chính phủ, thông thường là các ứng dụng, hệ thống cốt lõi như: Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (TABMIS), VNASS/VCIS, Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS)… Các hệ thống này cần tiếp tục đầu tư và hiện đại hóa. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ Blockchain.
Bốn là, xây dựng dịch vụ dữ liệu : Sử dụng nền tảng công nghệ di động và nền tảng dữ liệu mở để khuyến khích đầu tư xây dựng các dịch vụ về dữ liệu. Hỗ trợ và tập trung đầu tư cho lĩnh vực Fintech để nhanh chóng triển khai các dịch vụ dữ liệu, dịch vụ tài chính số hiện đại.
Năm là, thiết lập môi trường làm việc điện tử trong ngành: Tập trung triển khai kết nối tích hợp dữ liệu, thông tin điện tử và số hóa trong nội bộ Bộ Tài chính và với các đơn vị khác nhằm tự động hóa cao từ khâu đầu đến khâu cuối các dịch vụ công điện tử.
Sáu là, xây dựng cổng giao tiếp: Thiết lập các cổng giao tiếp qua trang thông tin điện tử, Portal, các Gateway trao đổi dữ liệu tạo ra các kênh giao tiếp các đối tượng phục vụ, giao dịch, trao đổi thông tin 2 chiều và đa chiều. Sử dụng mạng xã hội trong giao tiếp, thu thập thông tin và tuyên truyền. Thiết lập hệ thống một cửa trong giao tiếp liên ngành, quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực Hải quan.
Bảy là, định hướng trong việc chuẩn bị nguồn lực và chính sách: Tập trung xây dựng hệ thống cơ chế chính sách tài chính mở, chú trọng các chuẩn thỏa thuận về bảo mật phục vụ chính sách dữ liệu mở. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực sẵn sàng cho các công nghệ mới, đáp ứng các nghiệp vụ của Ngành, nhất là đào tạo nguồn lực về phân tích dữ liệu”.
Với sự phát triển không ngừng của CMCN 4.0, UBCKNN sẽ xây dựng và định hướng cho các thành viên thị trường ứng dụng các công nghệ hiện đại của nền công nghiệp 4.0 để tổ chức một TTCK hiện đại, đáp ứng các yêu cầu về công khai minh bạch, thuận tiện trong giao dịch đồng thời vẫn đảm bảo an toàn cho thị trường. Ứng dụng các công nghệ về dữ liệu lớn (Big Data), hay phân tích dữ liệu hỗ trợ ra quyết định với công nghệ phân tích dữ liệu thông minh (Business Intelligence – BI), công nghệ trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI), áp dụng chuẩn báo cáo quốc tế (eXtensible Business Reporting Language – XBRL) phục vụ công tác quản lý điều hành, giám sát thị trường và hỗ trợ Lãnh đạo ra quyết định. Ngoài ra, có thể áp dụng các giải pháp công nghệ mạng xã hội (Social) để thu thập thông tin (tin đồn) phục vụ công tác giám sát thị trường, Chuỗi khối (Blockchain) trong giao dịch chứng khoán trực tuyến hay thu thập báo cáo. Cụ thể: Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam
Ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu lớn (Analytics): Mặc dù chưa hình thành dữ liệu lớn (Big Data), nhưng UBCKNN đã triển khai và đưa vào vận hành các hệ thống CSDL cốt lõi. Đây là cơ sở để UBCKNN hình thành được kho dữ liệu (Data Warehouse – DW). Hệ thống DW cho phép tập trung tất cả dữ liệu từ các ứng dụng tác nghiệp hiện có, chuẩn hóa, chuyển đổi và được lưu tập trung làm đầu vào cho các bài toán về phân tích dữ liệu, hỗ trợ ra quyết định dựa trên các công nghệ về phân tích dữ liệu lớn (Data Analytics) hay thông qua các công cụ BI trong tương lai để có thể đưa các quyết định hiệu quả hơn trong hoạt động quản lý điều hành, giám sát TTCK.
Áp dụng chuẩn công nghệ XBRL trong việc chuẩn hóa dữ liệu, báo cáo, thông tin công bố của các định chế tài chính, CTĐC… nhằm nâng cao chất lượng dữ liệu, việc tiếp nhận và xử lý báo cáo nhanh chóng, thuận tiện hơn, tăng khả năng kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống của UBCKNN và hướng đến hội nhập với TTCK khu vực và thế giới. Qua đó, xây dựng bộ tiêu chuẩn đảm bảo việc kết nối, chia sẻ dữ liệu đối với các hệ thống trong tương lai được thuận tiện và dễ dàng hơn.
Ứng dụng công nghệ di động (Mobility): Việc tiếp cận với công nghệ Mobility thể hiện ở việc người dân, doanh nghiệp và các cán bộ nghiệp vụ của UBCKNN có thể truy cập được các dịch vụ công và các ứng dụng nghiệp vụ mọi lúc, mọi nơi bằng máy tính, các thiết bị di động (máy tính bảng, điện thoại thông minh) thông qua mạng Internet. UBCKNN đã xây dựng, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến từ mức độ 1 đến mức độ 3 trên Cổng Thông tin điện tử UBCKNN đảm bảo người dân, doanh nghiệp có thể sử dụng dịch vụ công trực tuyến mọi lúc, mọi nơi thông qua mạng Internet. Tuy nhiên, các ứng dụng trên mới chỉ dừng lại ở mức hỗ trợ cho ứng dụng web trên nền tảng thiết bị di động mà chưa phát triển thành các ứng dụng Mobile Apps để tăng thêm các tiện ích cho người sử dụng. Hạn chế này một phần là do chưa có các giải pháp để triển khai hiệu quả vấn đề bảo mật thông tin trên các thiết bị di động và bảo mật kết nối từ Mobile Apps vào hệ thống xử lý tập trung. Đối với hoạt động giao dịch chứng khoán trực tuyến, các CTCK triển khai cung cấp ứng dụng giao dịch chứng khoán trên web và mobile Apps cho nhà đầu tư.
Đối với công nghệ mạng xã hội (Social): Ứng dụng công nghệ này trong thu thập thông tin, dữ liệu về tin đồn liên quan đến chứng khoán và giao dịch chứng khoán từ các phương tiện thông tin đại chúng (báo mạng, mạng xã hội, diễn đàn xã hội…). Đồng thời áp dụng công nghệ AI để thu thập thông tin trên từ các nguồn khác nhau, hỗ trợ tự động phân loại thông tin, xử lý và lưu trữ theo các tiêu chí và yêu cầu của UBCKNN. Các thông tin được tự động cập nhật giúp UBCKNN có thể bổ sung thông tin thu thập được vào hệ thống; hỗ trợ tra cứu, đánh giá phân tích và dự báo tin đồn từ nguồn thu thập, lưu trữ. Qua việc phân tích có thể giúp chuyên viên giám sát nhận diện các giao dịch, hoạt động bất thường của TTCK.
Ứng dụng công nghệ chuỗi khối (Blockchain): Với những đặc điểm ưu việt của Blockchain cho phép truyền tải dữ liệu một cách an toàn dựa vào hệ thống mã hóa vô cùng phức tạp, công nghệ Blockchain sẽ mở ra một xu hướng ứng dụng tiềm năng cho lĩnh vực chứng khoán, lĩnh vực mà tính công khai minh bạch được đặt lên hàng đầu. Có thể nghiên cứu ứng dụng công nghệ Blockchain trong toàn bộ quá trình giao dịch chứng khoán, từ khâu đặt lệnh đến thanh toán, hay ứng dụng cho từng phần trong chu trình này. Ngoài ra, có thể ứng dụng công nghệ Blockchain trong việc kết nối, trao đổi dữ liệu giữa UBCKNN, các SGDCK, VSD để quản lý và lưu trữ dữ liệu các CTĐC, công ty niêm yết và các thành viên thị trường.
Có thể nói rằng “Chính Phủ đã và đang cung cấp một môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp Fintech phát triển, đặc biệt kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008” (Terry & cộng sự). Do đó, việc ra đời các ứng dụng Fintech hầu hết được khuyến khích phát triển và hỗ trợ môi trường hoạt động từ Chính phủ như: cấp giấy phép hoạt động Fintech, các dịch vụ cung ứng ra thị trường, những ưu đãi về thuế, các yêu cầu về vốn,… Tuy nhiên, tuỳ vào điều kiện và mục tiêu phát triển khác nhau mà Chính phủ của mỗi Quốc gia có những động thái riêng biệt đối với hoạt động này.
2.2.5.2. Một số tồn tại và hạn chế trong ứng dụng Fintech tại thị trường chứng khoán Việt Nam Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam
“Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường có lịch sử non trẻ và quy mô còn nhỏ so với nhiều thị trường phát triển trên thế giới. Do đó, các nền tảng công nghệ hiện đại còn hạn chế. Kỹ thuật giao dịch mới chuyển đổi sang hình thức trực tuyến hoá gần đây. Cơ sở hạ tầng của các Sở giao dịch chứng khoán do đó còn chưa được phát triển tương xứng với quy mô giao dịch. Hệ thống giao dịch gần đây vẫn còn bị quá tải và phải ngưng vì sự cố kỹ thuật khi khối lượng giao dịch tăng lên cao. Nền tảng công nghệ đang áp dụng tại Sở giao dịch của Việt Nam là từ Sở giao dịch chứng khoán của Thái Lan hỗ trợ. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ tại nhiều công ty chứng khoán thành viên vẫn chưa được đầu tư thích đáng. Các quy định về luật pháp, các chính sách của chính phủ đối với lĩnh vực công nghệ thông tin ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Gần đây, trước đòi hỏi của sự thay đổi trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0, chính phủ bắt đầu lập kế hoạch và dự định triển khai các chiến lược có liên quan. Tuy nhiên, tất cả các chính sách đều đang trong giai đoạn manh nha và khởi đầu. Ngoài ra, tâm lý của những nhà đầu tư và các thành phần tham gia thị trường vẫn còn ngại thay đổi và thích ứng với những công nghệ mới. Bên cạnh lý do về chi phí đầu tư lớn, có thể thấy sự an toàn và bảo mật về thông tin ở Việt Nam vẫn còn bất cập, dẫn đến lo ngại về các rủi ro phát sinh. Nhiều người vẫn ưa thích sử dụng tiền mặt hoặc các cách thanh toán truyền thống nhiều hơn.
Thị trường chứng khoán Việt Nam kể từ khi thành lập vào tháng 7/2000 đã cho thấy những sự thay đổi đáng kể không chỉ về quy mô mà còn về kỹ thuật và hệ thống giao dịch. Bắt đầu từ hình thức giao dịch bán tự động từ những năm đầu tiên, hiện nay hầu hết các công ty chứng khoán đã triển khai giao dịch trực tuyến và tự động hoá. Tương tự, thời gian thanh toán cũng được rút ngắn từ T+3 xuống T+2 trên thị trường cổ phiếu. Tuy nhiên, vấn đề minh bạch hoá hơn nữa các thông tin giao dịch và cải thiện tính thanh khoản của thị trường là tiền đề cần thiết để có một thị trường chứng khoán phát triển. Hiện nay, các hoạt động giao dịch nội gián, giả mạo thông tin hay làm giá vẫn thường xảy ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam
Với sự phát triển của TTCK, việc ứng dụng Fintech trong lĩnh vực chứng khoán nói chung và trong công tác quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK nói riêng đã liên tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu trong công tác hiện đại hóa hệ thống Fintech. Trong quá trình xây dựng phát triển đã gặp không ít hạn chế trở ngại xuất phát từ chính những đặc thù của ngành, cụ thể như sau:
Thứ nhất, hạn chế trong đầu tư, xây dựng những hệ thống ứng dụng Fintech và hệ thống cơ sở dữ liệu cốt lõi:
- Các giải pháp về Fintech chưa thực sự linh động trong việc cập nhật các yêu cầu thay đổi về chuyên môn nghiệp vụ. Hiện nay, các quy trình nghiệp vụ, các biểu mẫu báo cáo đầu vào và đầu ra thường xuyên có sự điều chỉnh nên các chương trình hiện nay còn có những bất cập và cần phải được nâng cấp, chỉnh sửa cho phù hợp với nhu cầu quản lý của các đơn vị nghiệp vụ.
- So với yêu cầu nghiệp vụ quản lý đặc thù của Ngành, các ứng dụng Fintech của UBCKNN chỉ mới được xây dựng ở mức cơ bản, các hệ thống được xây dựng tương đối độc lập với nhau nên chưa thực sự gắn kết và hỗ trợ nhau để cùng phát huy hiệu quả khai thác và sử dụng, gây ra hiện tượng cùng một nội dung doanh nghiệp phải báo cáo qua nhiều chương trình phần mềm.
- Cổng thông tin điện tử UBCKNN chủ yếu mới chỉ tập trung vào việc cung cấp và công bố thông tin. Nội dung trang tiếng Anh của Cổng thông tin điện tử UBCKNN chưa phong phú, độc giả và nhà đầu tư nước ngoài gặp khó khăn trong việc tiếp cận với các thông tin, chính sách về chứng khoán và TTCK Việt Nam.
Thứ hai, việc áp dụng Fintech vào công việc của UBCKNN và đối tượng quản lý gặp nhiều hạn chế:
- Các chế tài đối với việc ứng dụng Fintech vào lĩnh vực chứng khoán vẫn chưa được hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, trong giai đoạn này các quy định pháp lý về chứng khoán và TTCK thay đổi rất nhanh làm cho các yêu cầu về xây dựng hệ thống ứng dụng Fintech cũng thay đổi theo.
- Đối tượng quản lý của UBCKNN bao gồm các thành viên tham gia thị trường khá rộng, dàn trải trong phạm vi địa lý cả nước, các đối tượng lại có điều kiện về môi trường Fintech không đồng đều, nên việc triển khai ứng dụng Fintech trên diện rộng đối với UBCKNN gặp khá nhiều khó khăn.
- Vì thiếu các quy định có tính pháp lý cho việc quản lý và sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin của ngành Chứng khoán nên khi triển khai các hệ thống công nghệ thông tin không có các căn cứ phát lý để bắt buộc toàn bộ các đối tượng do UBCKNN quản lý như công ty đại chúng, CTCK, CTQLQ… tham gia sử dụng các hệ thống công nghệ thông tin.
Thứ ba, việc đầu tư, phát triển hạ tầng Fintech còn mang tính chất thụ động, chưa tập trung, chưa có tính tổng thể và bài bản. Nguyên nhân chủ yếu là do những tồn tại sau:
Việc đầu tư trang bị về phần cứng còn mang tính chất nhỏ lẻ và gắn liền với mỗi dự án hệ thống riêng lẻ, chưa có tính tập trung, chưa có quy mô mang tính tổng thể, chưa có sự tính toán lâu dài trong việc mở rộng và nâng cấp về sau. Vấn đề bố trí vốn, kinh phí triển khai cũng chưa thực sự linh hoạt do cân đối nguồn kinh phí để triển khai những hệ thống ứng dụng với mức quan trọng khác nhau.
Hạ tầng Fintech hiện chưa được tập trung, mức độ phân bố rời rạc, khả năng quản trị bị động. Nguyên nhân chính là UBCKNN chưa có trung tâm dữ liệu hoàn chỉnh của riêng mình, tất cả hệ thống quan trọng đều thuê địa điểm đặt tại đơn vị cung cấp dịch vụ hosting.
Vấn đề an toàn bảo mật của UBCKNN tuy đã được đầu tư, trang bị nhiều nhưng mức độ còn hạn chế, các thiết bị thực sự cấp thiết, tối quan trọng mới được ưu tiên đầu tư và đều ở chế độ đơn. Điều này là rất nguy hiểm cho hệ thống hạ tầng Fintech, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính – chứng khoán.
Thứ tư, hạn chế, khó khăn về nguồn nhân lực và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác Fintech :
- Thiếu hụt nguồn nhân lực thực hiện công tác xây dựng và pháp triển ứng dụng Fintech trong ngành Chứng khoán. Đặc biệt là kỹ năng quản lý các dự án lớn theo mô hình tập trung còn rất khiêm tốn và sự hiểu biết về nghiệp vụ chứng khoán còn hạn chế. Ngoài ra, các cán bộ hoạt động ở chế độ kiêm nhiệm, mỗi người được phân công quản trị, xử lý cùng lúc nhiều hệ thống chồng chéo, nhiều công cụ quản trị còn thiếu khiến việc quản trị vất vả và chưa thực sự đem lại hiệu quả cao.
- Cơ chế tuyển dụng tuy đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tiễn nên chưa thu hút được đủ về số lượng đội ngũ tin học vào làm việc. Việc đào tạo, phát triển nhân lực về Fintech hiện tại vẫn còn bị động, chưa tương xứng với yêu cầu công việc nên chất lượng của đội ngũ tin học chưa đạt yêu cầu”. Luận văn: Thực trạng thị trường Fintech áp dụng tại Việt Nam
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Biện pháp NC ứng dụng Fintech trong chứng khoán