Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Phát triển kinh doanh than đá nhập khẩu của Công ty Visa Resources tại thị trường Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Giới thiệu khái quát về Công ty
2.1.1. Giới thiệu về Tập đoàn Visa Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Tập đoàn Visa được thành lập tại Ấn Độ vào năm 1994 bởi ông Vishambhar Saran và vợ là bà Saroj Agarwal. Visa là tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực Khoáng sản, Sắt thép, Năng lượng, Nhiệt Điện, Thương mại quốc tế và Vận tải biển.
Tập đoàn Visa là tập đoàn có sự nhận diện toàn cầu bao gồm các quốc gia: Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Singapore, Úc, Indonesia, Nam Phi. Visa luôn tìm kiếm cơ hội đầu tư trong mảng: Than, Quặng Sắt, Quặng Crôm để phục vụ cho nhu cầu và sự phát triển kinh doanh của tập đoàn trong mảng thép, năng lượng và thương mại hàng hóa.
Visa đã và đang mang lại giá trị cho quốc gia Ấn Độ bằng cách thực hiện các dự án năng lượng xanh và tích cựa đóng góp vào trách nhiệm xã hội thông qua các chương trình phát triển về giáo dục, sức khỏe và phát triển nông thôn, thể thao văn hóa, du lịch và được nhiều sự ủng hộ từ chính phủ.
Hiện nay, Tập đoàn Visa có 3 công ty trực thuộc: Công ty Visa Steel, Công ty Visa Power và Công ty Visa Resources. Trong đó Visa Steel là một trong những công ty hàng đầu về sản xuất thép đặc biệt, quặng Crom và than Coke tại Kalinganagar, Odisha, Ấn Độ.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Trị Kinh Doanh
2.1.2. Giới thiệu về Công ty Visa Resources Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Công ty Visa Resources là một trong ba công ty thuộc Tập đoàn Visa – Là công ty thương mại quốc tế, chuyên cung cấp các sản phẩm/ hàng hóa chứa cacbon như: than nhiệt, than coke, than mỡ, than antraxit, ferro chrom và các loại khoáng sản khác như: quặng sắt, quặng mangan, quặng ferro chrom…Công ty Visa Resources có mặt tại các thị trường: Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Nam Phi, Singapore, Indonesia. Cụ thể:
- Visa Resource Singapore: Thành lập vào tháng 12/2008, là công ty mẹ điều hành các vấn để như hồ sơ thanh toán, tài chính ngân hàng, kế toán và hoạt động nhân sự.
- Visa Indonesia: Là văn phòng đại diện của công ty Visa Resources tại Indonesia, được đặt tại Jakarta, là đầu mối thu mua khoáng sản tại Indonesia, bao gồm: than nhiệt, than antraxit Indonesia, than mỡ, than coke.
- Visa Trading China: Là văn phòng đại diện của công ty Visa Resources tại Trung Quốc, được đặt tại Thượng Hải, là công ty chuyên về thị trường Trung Quốc, kinh doanh các loại hàng hóa: than coke, than mỡ, ferro chrom, than nhiệt/than antraxit và xúc tiến đầu tư vào các nhà máy thép tại Trung Quốc,
- Visa Ấn Độ: Công ty Visa Resources có 3 chi nhánh tại ấn Độ, được đặt tại Newdelhi, Mumbai và Chenai và trụ sở chính đặt tại Koltaka. Tại Ấn Độ, Visa Resources là một trong 5 công ty lớn nhất Ấn Độ chuyên cung cấp than nhiệt, than antraxit cho công nghiệp và tiêu dùng tư nhân. Hoạt động của Công ty bao gồm việc cung cấp than cho công nghiệp tới kinh doanh các sản phẩm quặng sắt, ferro chrom, sắt thép.
- Visa Nam Phi: là đầu mối thu mua khoáng sản tại thị trường Nam Phi nói riêng và toàn Châu Phi nói chung, bao gồm: quặng ferro, khoáng sản, than nhiệt và than antraxit.
- Visa Thái Lan: Là văn phòng đại diện của công ty Visa Resources tại Thái Lan, được đặt tại Bangkok, chuyên kinh doanh và xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường cho hàng hóa bao gồm: than antraxit và than nhiệt cho công nghiệp và nhà máy nhiệt điện tại Thái Lan
- Visa Việt Nam: Là văn phòng đại diện của công ty Visa Resources tại Việt Nam được thành lập vào tháng 2/2017, được đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh, chuyên kinh doanh và xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường cho hàng hóa, bao gồm: than antraxit và than nhiệt cho công nghiệp và nhà máy nhiệt điện tại Việt Nam.
Như vậy, công ty Visa Resources đến nay đã có lịch sử hơn 10 hình thành và phát triển trong lĩnh vực kinh doanh than đá nhập khẩu và đã có mặt tại các thị trường: Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc, Nam Phi, Indonesia. Chính vì vậy, Công ty đã có nhiều thế mạnh trong lĩnh vực kinh doanh than đá nhập khẩu, như: danh tiếng, kinh nghiệm, quy trình kinh doanh, nguồn cung than đá…Riêng đối với thị trường Việt Nam, Công ty mới hoạt động được 2 năm (từ tháng 2/2017 đến nay), bước đầu đã đạt được nhiều kết quả khả quan (đạt lợi nhuận hàng năm và doanh thu liên tục tăng, ngày càng mở rộng danh mục khách hàng…).
2.2. Thực trạng kinh doanh than đá nhập khẩu của Công ty Visa Resources tại thị trường Việt Nam giai đoạn 2017 – quý I/2019
2.2.1. Quy trình kinh doanh than đá nhập khẩu của công ty Visa Resources tại thị trường Việt Nam Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Quy trình kinh doanh than đá nhập khẩu của công ty Visa Resources tại thị trường Việt Nam được tiến hành qua 2 bước cơ bản như sau:
2.2.1.1. Tìm kiếm khách hàng
Công ty Visa Resources tại Việt Nam sẽ thay mặt thực hiện việc chào hàng, quảng bá sản phẩm, đàm phán, thương lượng, xúc tiến hợp đồng, hỗ trợ khách hàng khi có vấn đề phát sinh.
Nhân sự hiện nay Công ty tại Việt Nam chỉ bao gồm 2 nhân sự: 01 trường văn phòng đại diện, phụ trách chính tất cả các công việc, trong đó chủ yếu là công tác tìm kiếm khách hàng và 01 trợ lý hỗ trợ công việc cho trưởng đại diện. Việc tìm kiếm khách hàng chủ yếu dựa vào năng lực và mối quan hệ của trưởng văn phòng đại diện mà chưa có sự hỗ trợ từ công ty mẹ. Hoạt động Marketing, quảng bá sản phẩm vẫn chưa được triển khai trên thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, việc tìm kiếm và tiếp cận khách hàng của Công ty đã thực hiện rất tốt, hiện nay, Công ty đã tiếp cận và có các giao dịch mua bán với hầu hầu các doanh nghiệp nhập khẩu than đá của Việt Nam.
Hiện nay, công ty tập trung vào cả 2 đối tượng khách hàng là doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, hai đối tượng này đều là doanh nghiệp thương mại và nhà chế biến.
2.2.1.2. Nhập khẩu than đá về Việt Nam và giao hàng cho người mua
Hiện nay, Công ty chủ yếu nhập khẩu than đá từ thị trường Indonesia, qua quý I/2019 bắt đầu nhập khẩu thêm than đá từ 2 thị trường là Liên bang Nga và Nam Phi, tuy nhiên tỷ trọng có thấp.
Việc nhập khẩu than đá về Việt Nam được công ty Visa Resources thực hiện theo một quy trình rõ rằng, chặt chẽ gồm các bước sau:
Hỏi hàng Chào hàng Thống nhất điều khoản và ký hợp đồng ngoại thương Mở L/C Người bán chuẩn bị hàng hóa Giao hàng lên tàu Vận chuyển về cảng Người mua khai quan và làm thủ tục nhập khẩu Tháo gỡ hàng
Thanh Toán Khiếu nại (nếu đó)
Công ty Visa Resources tại Singapore là văn phòng trụ sở chính, thực hiện các công việc liên quan tới nhận/mở L/C cho phía chủ mỏ, tiến hành ký kết các hợp đồng thương mại.
Trong 2 năm hoạt động tại Việt Nam, việc nhập khẩu than diễn ra tương đối suôn sẻ, cơ bản đáp ứng được hoạt động kinh doanh, tuy nhiên, việc nhập hàng cũng hay xảy ra một số trục trặc như tàu về cảng trễ so với kế hoạch và không thể thông quan do thiếu các chứng từ cần thiết.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh than đá nhập khẩu của công ty Visa Resources tại thị trường Việt Nam
2.2.2.1. Các yếu tố thuộc về vĩ mô Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Chính trị
Theo QĐ số 403/QĐ-TTg ngày 14/03/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành than, nhu cầu than nhập khẩu cho các nhà máy nhiệt điện rất lớn, khoảng 27,5 triệu tấn năm 2020 và tới 87 triệu tấn năm 2030. Để phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu than này, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, chủ trương nhằm hỗ trợ cho hoạt động khẩu than. Cụ thể như sau:
Tình hình thực hiện đầu tư xây dựng cảng biển nhập khẩu than Việt Nam từ trước đến nay luôn là nước xuất khẩu than, các hoạt động nhập khẩu than chủ yếu là nhỏ lẻ và do các doanh nghiệp tự thực hiện. Vì vậy, trước tình hình sẽ phải nhập khẩu than số lượng lớn trong những năm tới đây, chúng ta vẫn còn rất yếu và rất thiếu về cơ sở hạ tầng như cảng nước sâu, hệ thống kho bãi trung chuyển, khả năng vận chuyển quốc tế và nội địa,…
Để phục vụ việc nhập khẩu than cho các nhà máy nhiệt điện than, chủ yếu cho các nhà máy từ miền Trung trở vào, yêu cầu ít nhất phải có 01 cảng nước sâu có thể tiếp nhận tàu có trọng tải lớn >100.000 DWT đưa vào sử dụng để có thể giảm chi phí nhập khẩu than cho các nhà máy điện. QH 403/2016 đề ra định hướng là: Xây dựng mới, đầu tư nâng cấp, mở rộng các cảng hiện có đáp ứng nhu cầu nhập khẩu than theo từng giai đoạn, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển các cảng biển Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo đó:
- Giai đoạn đến năm 2020: Đầu tư xây dựng mới cảng biển Duyên Hải – Trà Vinh với công suất đến 40 triệu tấn than/năm, tiếp nhận được tàu có tải trọng đến 80.000 ÷ 160.000 DWT nhằm phục vụ việc nhập khẩu than cung cấp cho Trung tâm Điện lực Duyên Hải (tỉnh Trà Vinh) với tổng công suất thiết kế 4.200 MW.
- Giai đoạn 2021 – 2030: Đầu tư cải tạo và mở rộng nâng cấp cảng Hòn Nét với công suất đến 30 triệu tấn than/năm, tiếp nhận được tàu có tải trọng đến 100.000 DWT. Đầu tư cải tạo mở rộng cảng Hà Tĩnh (khu bến Sơn Dương) với công suất đến 35 triệu tấn than/năm, tiếp nhận được tàu có tải trọng đến 200.000 DWT
Tuy nhiên, đến nay TKV – đơn vị được giao làm chủ đầu tư dự án Cảng biển Duyên Hải – Trà Vinh đã có văn bản trình Bộ Công Thương xin dừng công tác nghiên cứu và lập dự án đầu tư cảng này.
Do vậy, hiện nay tại miền Nam Việt Nam chưa có cảng nào có khả năng tiếp nhận trực tiếp tàu có tải trọng đến cỡ Panamax (72.000 DWT).
Hơn nữa, các nhà máy nhiệt điện than tập trung nhiều ở vùng Duyên Hải, Trung Nam bộ, địa hình có nhiều sông ngòi, cự ly vận chuyển xa, phương án tốt nhất để vận chuyển than về cảng nhà máy điện là bằng đường sông. Song, hiện tại năng lực vận chuyển đường sông nội địa trên toàn quốc là khoảng 500.000 tấn, chủ yếu là sà lan 1.000 – 2.000 tấn, chỉ đáp ứng được khoảng 10 triệu tấn/năm (với chu trình 2 chuyến/tháng).
Còn về cảng trung chuyển than nhập khẩu: việc Chính phủ vẫn chưa có chỉ đạo đối với đề xuất mới của TKV, do đó chưa có cơ sở pháp lý để các đơn vị nhập khẩu than cho sản xuất điện tại khu vực tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chuyển tải than thay thế cũng là một vấn đề cần được giải quyết. Trong dài hạn, khi nhập khẩu than với khối lượng lớn, việc không có cảng trung chuyển ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình vận hành của chuỗi cung ứng, không chỉ PVN, EVN mà cả các hộ tiêu thụ nhỏ lẻ khác. Khi doanh nghiệp phải tự chủ động tìm giải pháp sẽ gây ra hiện tượng manh mún, chồng chéo, không có quy hoạch, gây ảnh hưởng đến môi trường và khó đảm bảo nguồn cung ổn định. Bên cạnh đó, việc cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ cũng dẫn tới các đơn vị nhập khẩu phải chịu nhiều khoản chi phí phát sinh (như phạt dôi nhật với số tiền lớn, mất uy tín của doanh nghiệp với các đối tác quốc tế…).
Trước những khó khăn trên, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã chủ động đầu tư nghiên cứu, tìm ra phương án cảng trung chuyển than cho các cụm nhà máy nhiệt điện của mình tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là Long Phú và Sông Hậu. Được biết, đến nay phương án chuyển tải nổi than tại khu vực Gò Gia do PVN kết hợp cùng các đơn vị khác đầu tư nghiên cứu đã được các bộ, ban, ngành phê duyệt và bước đầu đã áp dụng thành công.
Chính sách nhập khẩu than
Mặc dù Chính phủ đã ban hành một số văn bản về công tác nhập khẩu than, song không có văn bản thống nhất chỉ đạo phương án điều hành cung ứng than cho nhiệt điện nên có khó khăn cho công tác tổ chức nhập khẩu than. Chẳng hạn:
- Thông báo số 346/TB-VPCP ngày 26/8/2014 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đối với các đầu mối nhập khẩu than: Cho phép đàm phán trực tiếp với các doanh nghiệp xuất khẩu than “Khẩn trương chuyển đổi các Hợp đồng nguyên tắc đã ký với các đối tác thành các hợp đồng mua bán dài hạn”.
- Để bảo đảm việc nhập khẩu than cho sản xuất điện có hiệu quả, duy trì nguồn cung ổn định dài hạn, chất lượng phù hợp với yêu cầu của nhà máy điện với giá cạnh tranh, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, ngày 16/01/2017, Thủ tướng Chính phủ có Văn bản số 46/TTg-CN về việc cung cấp than cho sản xuất điện. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo: “Các đơn vị cung cấp than (TKV, TCT Đông Bắc và các đơn vị khác) làm việc với EVN để xây dựng kế hoạch cung cấp than ổn định, lâu dài đáp ứng phục vụ cho các NMNĐ của EVN theo đúng quy định của pháp luật”.
Tuy nhiên, cho đến nay, các bên cung cấp than và EVN vẫn chưa đạt được những thỏa thuận cung cấp than mang tính bền vững và lâu dài.
Tiếp theo các chỉ đạo của Chính phủ đã thiên về hướng cho phép các nhà máy nhiệt điện được chủ động hơn trong việc nhập khẩu than thay vì phải thông qua các đơn vị đầu mối. Tại công văn số 2172/VPCP-CN ngày 10/3/2017 của Văn phòng Chính phủ nêu rõ: “Chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện than (gồm cả chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện BOT, chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài…) chịu trách nhiệm thu xếp nguồn than để cung cấp cho nhà máy theo quy định (trực tiếp nhập khẩu, hoặc mua than qua đầu mối là TKV, TCT Đông Bắc, hoặc qua doanh nghiệp thương mại)”.
Như vậy, thị trường kinh doanh than nhập khẩu ở Việt Nam thực sự mở cửa đối với các doanh nghiệp kinh doanh than trong và ngoài nước. Tất cả các công ty đều có thể nhập khẩu than, nhà nước không giới hạn quyền nhập khẩu than của bất cứ đơn vị nào. Tuy nhiên tất cả các loại than nhập bởi các đơn vị thương mại (Không thuộc Vinacomin hoặc Tổng Công ty Đông Bắc hoặc đơn vị trúng thầu nhiệt điện): Phải cam kết không bán cho nhiệt điện (các đơn vị này sẽ bán cho các hộ thương mại nhỏ lẻ khác, bán cho các khu công nghiệp). Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Chỉ đạo mới nhất của Bộ Công Thương (Thông báo số 69/TB-BCT ngày 27/03/2018) yêu cầu sử dụng phương thức đấu thầu quốc tế rộng rãi khi mua than nhập khẩu. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, các bên mua than (các dự án nhiệt điện) đã đưa ra trong hồ sơ mời thầu những điều khoản là điều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, dẫn đến những khó khăn như đã nêu trên. Ngoài ra, các nhà máy nhiệt điện khi chủ động mua than nhập khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn so với các đơn vị đầu mối vì không có đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp để tiếp cận thị trường luôn biến động phức tạp, chuẩn bị cơ sở hạ tầng vận chuyển, chuyển tải và chế biến than.
Tóm lại, về cơ chế chính sách, trong thời gian qua, Chính phủ đã ban hành một số văn bản về công tác nhập khẩu than, có thể phân thành 2 giai đoạn:
- Giai đoạn trước năm 2015: Chính phủ chỉ đạo hoạt động nhập khẩu than thông qua Ban chỉ đạo nhập khẩu than; Hình thành các đầu mối nhập khẩu; Cho phép đàm phán trực tiếp với các doanh nghiệp xuất khẩu than. Các chỉ đạo trong giai đoạn này khá phù hợp với thông lệ quốc tế khi giá than tăng cao kỷ lục và việc thu xếp nguồn cung gặp rất nhiều khó khăn.
- Giai đoạn sau năm 2015: Các chỉ đạo theo hướng cho phép các nhà máy nhiệt điện chủ động nhập khẩu than bằng hình thức đấu thầu quốc tế thay vì phải thông qua các đơn vị đầu mối. Việc tổ chức đấu thầu quốc tế sẽ phù hợp với điều kiện giá than thấp và nguồn cung phong phú. Tuy nhiên, trong những năm gần đây giá than lại tăng cao trở lại và nhu cầu tăng như giai đoạn trước năm 2015, dẫn tới các doanh nghiệp khó khăn khi thực hiện công tác nhập khẩu than. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công Thương cũng có các văn bản chỉ đạo trong việc tạo cơ hội cho các đội tàu Việt Nam tham gia vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu.
- Kinh tế
Thứ nhất, về nhu cầu nhập khẩu than. Việt Nam chỉ mới bắt đầu nhập khẩu than từ năm 2013 nhưng đã tăng hơn 6,5 lần sau 4 năm. Khối lượng than nhập khẩu của Việt Nam từ 2014 đến tháng 9/2018 luôn có xu hướng ngày càng tăng. Tốc độ tăng trưởng khối lượng than nhập khẩu bình quân hàng năm lên tới 75%/năm. Đây là một mức tăng tương đối lớn. Đến năm 2017, tổng khối lượng than nhập khẩu của Việt Nam đã tương đương hơn 1/3 tổng sản lượng khai thác than trong nước. Tổng giá trị than nhập khẩu tăng 4,2 lần trong vòng 4 năm qua. Trong 9 tháng đầu năm 2018, khối lượng than nhập khẩu đạt gần 15 triệu tấn, trị giá 1,49 tỷ USD (tăng 51% về lượng và 73% về kim ngạch so với 9 tháng đầu năm 2017). Theo dự báo trong Quy hoạch phát triển ngành than được phê duyệt theo Quyết định số 403/2016/QĐ-TTg, nhu cầu than ngày càng tăng cao. Riêng than cho sản xuất điện năm 2019 khoảng 56 triệu tấn và tiếp tục tăng mạnh trong các năm tiếp theo sau khi các nhà máy nhiệt điện sử dụng than nhập khẩu đi vào hoạt động, dự kiến năm 2030 hơn 131 triệu tấn. Trong khi đó, lượng than thương phẩm dự kiến chỉ đạt từ 47 – 50 triệu tấn năm 2020 và 55 – 57 triệu tấn năm 2030. Với việc sản lượng than khai thác không đảm bảo cho nhu cầu trong nước, đồng thời chất lượng than cung cấp cho các nhà máy ngày càng xấu đi, các hộ tiêu thụ được Chính phủ cho phép chủ động tìm kiếm các nguồn than thay thế. Do đó, nhu cầu nhập khẩu than của Việt Nam trong tương lai là rất lớn.
Thứ hai, về giá và chi phí vận tải than nhập khẩu. Số liệu thống kê tổng hợp cho thấy, giá nhập khẩu than vào Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào 2 yếu tố: giá than trên thị trường và cước tàu vận chuyển (chi phí logistics). Theo đó, giá than trung bình giảm mạnh từ năm 2014 sang 2015 xuống mức khoảng 60 USD/tấn, tuy nhiên từ đầu năm 2016 đến nay giá than tiếp tục tăng mạnh trở lại, đạt mức 117 USD/tấn, tiệm cận mức cao kỷ lục 118 USD/tấn trong thời kỳ khủng hoảng trước năm 2014. Trên thị trường thế giới giá than nhiệt và giá than cốc vẫn duy trì ở mức cao từ đầu năm 2018 đến nay. Giá giao ngay của than nhiệt (theo giá FOB tại cảng Newcastle ở Úc) đã dao động quanh mức 100 USD/tấn kể từ mùa hè năm 2017. Sau khi tăng lên 110 USD/tấn vào tháng 3/2018, giá giảm trở lại mức 93 USD/tấn vào tháng 4/2018 cuối mùa nhu cầu cao. Tuy nhiên, giá đảo ngược tăng lên tới 120 USD/tấn một lần nữa do sự tăng cường nhập khẩu của Trung Quốc chuẩn bị cho nhu cầu mùa hè. Giá giao ngay của than cốc (giá FOB than cốc cứng cao cấp của Úc) tăng lên 260 USD/tấn trong tháng 1/2018 do nhập khẩu tăng ở Trung Quốc và Ấn Độ. Sau đó giá đã quay trở lại mức 170 USD/tấn vào cuối tháng 4, nhưng đã hồi phục và chạm mức 200 USD/tấn vào đầu tháng 7/2018. Hiện tại, giá đã quay trở lại mức 170 USD/tấn một lần nữa. Cùng với giá than và giá cước vận chuyển, chi phí chuyển tải cũng chiếm tỷ trọng tương đối cao do khả năng tiếp nhận tàu chở than cỡ lớn của các cảng nhập than của Việt Nam còn rất hạn chế. Các cảng than Vũng Áng, Duyên Hải chỉ tiếp nhận trực tiếp được tàu dưới 30.000 DWT, cảng Vĩnh Tân tiếp nhận tàu 50.000 DWT. Trong khi đó các NMNĐ sử dụng than nhập khẩu của PVN nằm sâu trong Sông Hậu, cảng nhà máy chỉ tiếp nhận được xà lan đầu kéo/tự hành đến 10.000 DWT do đó phải chuyển tải từ tàu mẹ sang xà lan làm tăng chi phí. Mặt khác, điều kiện tuyến luồng vận chuyển nội địa bồi lắng phức tạp, năng lực đội xà lan vận tải dẫn đến chi phí vận tải tăng. Hiện tại hoạt động tại cảng Duyên Hải chưa theo thiết kế, do tuyến luồng bồi lắng, chưa tiếp nhận được tàu đến 30.000 DWT, phải chuyển tải tại Gò Gia, Thiềng Liềng làm tăng chi phí.
Văn hóa – Xã hội
Việc nhập khẩu than của Việt Nam nhằm hai mục đích chính là: Trực tiếp đáp ứng nhu cầu của các hộ tiêu thụ theo hợp đồng đã ký, nhất là các nhà máy nhiệt điện than và để pha trộn, chế biến với than trong nước thành các sản phẩm than phù hợp cung cấp cho các hộ tiêu thụ/sử dụng theo nhu cầu của họ.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, chủng loại than nhập về Việt Nam trong những năm qua chủ yếu là than antraxit, than bitum và than bán bitum; tuy nhiên, khối lượng than anthracxite nhập khẩu không nhiều, chủ yếu than antraxit chỉ nhập khẩu để pha trộn với than sản xuất trong nước.
Công nghệ
Thực tế hiện nay toàn bộ sản lượng than khai thác bằng 02 phương pháp: lộ thiên và hầm lò, bao gồm 24 mỏ lộ thiên và 49 mỏ hầm lò, được phân bố chủ yếu tại tỉnh Quảng Ninh, phía Bắc Việt Nam, với tỷ lệ 50/50 và tỷ lệ khai thác than hầm lò tăng lên từ năm 2014 đến 2020 sẽ chiếm tỷ lệ hơn 70% tổng sản lượng than. Các mỏ đang được đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị và các kỹ thuật khai thác mỏ, đặc biệt là cơ giới hóa khai thác hầm lò đã góp phần tăng sản lượng và tiết kiệm chi phí. Đồng thời VINACOMIN đang nghiên cứu công nghệ khí hóa than ngầm, là một quy trình công nghệ nhằm chuyển đổi than từ dạng rắn thành dạng khí và cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện. Với công nghệ tiên tiến này, VINACOMIN có cơ hội mở rộng công tác thăm dò và khai thác trữ lượng than nằm từ độ sâu 300m xuống tới 1.200m so với mặt nước biển tại bể than Quảng Ninh, và tại bể than Đồng bằng Sông Hồng với sự hợp tác của các nhà đầu tư nước ngoài.
Với sự phát triển công nghệ này sẽ giúp than trong nước có khả năng gia tăng sản lượng, chất lượng và hạ giá thành, những yếu tố này sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu than đá.
2.2.2.2. Các yếu tố thuộc về ngành hàng Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Đối thủ cạnh tranh hiện tại
Tại Việt Nam có rất nhiều công ty hoạt động trong lĩnh vực thương mại than đá nhập khẩu có chức năng như công ty Visa Resources. Tuy nhiên số lượng doanh nghiệp hoạt động thực sự, tạo ra doanh thu và có sự phát triển tại Việt Nam thì không quá nhiều.
Các đối thủ cạnh tranh trực tiếp hiện tại: Wellhunt, Glencore, Galaxy Energy, Swiss Singapore, IMR, E&R, Tata International, Adani, Coal Orbis, RWood Resources. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp có những mặt hàng và thế mạnh, việc đối đầu trưc tiếp tại từng thời điểm hay không phụ thuộc nhiều vào các mối quan hệ. Những đối thủ có tiềm lực tài chính mạnh, có thể kể đến như sau:
- Welhunt : Có mối quan hệ rộng và tốt với các chủ mỏ và nguồn hàng đa dạng
- Glencore: Là một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực khoáng sản. Glencore đầu tư và sở hữu nhiều mỏ trên toàn thế giới
- Adani: là một trong những công ty lớn nhất/nhì Ấn Độ trong việc nhập khẩu than đá cho nhiệt điện, Adani sở hũu nhiều mỏ ở Indonesia, Úc, Nam Phi.
- Tata: là một trong những tập đoàn kinh tế đa ngành lớn nhất Ấn Độ, sở hữu nhiều mỏ than khắp nơi trên thế giới: Nga, Nam Phi, Úc, Indonesia …
Đối thủ cạnh tranh tương lai
Thị trường kinh doanh than nhập khẩu ở Việt Nam thực sự mở cửa đối với các doanh nghiệp kinh doanh than trong và ngoài nước. Tất cả các công ty đều có thể nhập khẩu than, nhà nước không giới hạn quyền nhập khẩu than của bất cứ đơn vị nào. Do đó, khả năng xuất hiện thêm nhiều đối thủ cạnh tranh với Công ty Visa Resources trong tương lai là khá cao.
Khách hàng
Như đã đề cập trong phần Chính trị và Đối thủ cạnh tranh, thị trường kinh doanh than nhập khẩu ở Việt Nam thực sự mở cửa đối với các doanh nghiệp kinh doanh than trong và ngoài nước. Tất cả các công ty đều có thể nhập khẩu than, nhà nước không giới hạn quyền nhập khẩu than của bất cứ đơn vị nào. Do đó, khách hàng của công ty Visa Resources là rất lớn, kể cả các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước.
Khách hàng tại Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu một lượng lớn than bán bitum giá rẻ mà thị trường than Indonexia của Công ty Visa Resources hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu này.
Nhà cung cấp
Hiện nay, trên thị trường Việt Nam, công ty Visa Resources đang kinh doanh than đá nhập khẩu lấy từ 3 thị trường: Indonesia, Liên Bang Nga và Nam Phi. Tình hình cụ thể của mỗi thị trường như sau:
Indonesia
Thứ nhất, về trữ lượng và chất lượng than. Indonesia là nước có tiềm năng tài nguyên trữ lượng than và cũng là nước sản xuất than lớn nhất Đông Nam Á. Theo thống kê của Bristish Petroleum – là một công ty dầu khí đóng trụ sở tại Luân Đôn, Anh quốc, tính đến ngày 31/12/2017, Indonesia có trữ lượng than 22.598 triệu tấn, trong đó: 15.068 triệu tấn than antraxit và bitum, 7.530 triệu tấn than bán bitum và than lignite, chiếm 2,2% trữ lượng than thế giới và chiếm 5,3% trữ lượng than khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Về chất lượng, than của Indonesia, theo tiêu chí nhiệt năng khô (ADB, kcal/kg) được phân thành 4 nhóm: nhiệt năng rất cao (>7.100); nhiệt năng cao (6.100÷7.100); nhiệt năng trung bình (5.100÷6.100); nhiệt năng thấp (<5.100). Than có nhiệt năng trung bình và thấp chiếm ưu thế với tỉ trọng 96%, còn lại là than có nhiệt năng cao và rất cao.
Thứ hai, về giá than Indonesia. Giá chuẩn của than nhiệt ở Indonesia giai đoạn 2012 – tháng 1/2018 được nêu ở biểu đồ 2.1 sau:
Biểu đồ trên cho thấy, giá than nhiệt có sự biến động tăng, giảm thường xuyên qua hàng tháng trong năm và có xu hướng giảm từ năm 2012 đến 2015-2016. Giá than cao nhất vào tháng 3/2012, lên tới 112,87 USD/tấn và giảm thấp nhất vào tháng 2/2016 với 50,92 USD/tấn chưa bằng 1/2 giá than tháng 3/2012. Từ nửa sau năm 2016 đến nay giá than có xu hướng tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, tháng 7/2018 giá than tại Indonesia đã là 104,65 USD/tấn và còn có thể đạt mức cao hơn trong các tháng tiếp theo. Giá than tại Indonesia tăng cao là do nước này đang áp dụng chính sách ưu tiên đáp ứng than cho sản xuất trong nước, hạn chế xuất khẩu, trong khi nhu cầu nhập khẩu than của một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ tăng mạnh. Điều này cho thấy giá than ở Indonesia đã thực sự vận hành theo cơ chế thị trường.
Thứ ba, về dự báo xu hướng xuất khẩu than đá trong tương lai của Indonesia.
“Nguồn: Năm 2018-2019 theo Hiệp hội khai thác than Indonesia (APBI) và Bộ NL và TN khoáng sản Indonesia. Năm 2030 và 2050 theo IEEJ Outlook 2018”
Bảng 2.1 trên đây có thể nhận thấy một xu hướng chung là sản lượng than tiêu thụ trong nước tăng mạnh, ngược lại, sản lượng than xuất khẩu giảm mạnh. Điều này khẳng định sự quyết tâm của Indonesia ưu tiên đáp ứng than cho sản xuất trong nước, hạn chế xuất khẩu. Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Thứ tư, về chính sách xuất khẩu than của Indonesia. Việc xuất khẩu than của Indonesia hiện nay được thực hiện theo chính sách “Trách nhiệm đối với thị trường trong nước” (Được gọi là chính sách Domestic Market Obligation – DMO). DMO là chính sách trong đó quy định tỉ lệ phần trăm tối thiểu đối với tiêu thụ than trong nước, tỉ lệ này sẽ được Bộ Năng lượng và Tài nguyên khoáng sản Indonesia (MEMR) ban hành mỗi năm. Do vậy, DMO là cách mà Chính phủ Indonesia sử dụng nhằm đảm bảo tính liên tục và bền vững của việc cung cấp than trong thị trường nội địa. Ngày 5/1/2018, MEMR ban hành DMO số 23K/30/MEM/2018 áp dụng cho năm 2018 với các điểm chính có liên quan đến chính sách xuất khẩu than như sau: – Quy định tỉ lệ tối thiểu đối với than tiêu thụ trong nước là 25% (tỉ lệ này bao gồm việc bán than cho mọi mục đích). Điều này đồng nghĩa với quy định, các công ty khai thác than chỉ được phép xuất khẩu tối đa 75% sản lượng than sản xuất trong năm; – Xử phạt các công ty khai thác than không hoàn thành kế hoạch DMO năm 2018 bằng cách: giảm năng lực sản xuất và cung cấp than của công ty trong năm 2019, giảm hạn ngạch xuất khẩu năm 2019 tương đương với tỉ lệ % chưa hoàn thành của DMO năm 2018. Như vậy, từ năm 2018, để đảm bảo mục tiêu cung cấp than liên tục và bền vững cho nhu cầu trong nước, Indonesia áp dụng hạn ngạch xuất khẩu cho tất cả các công ty cung cấp than. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến thị trường than châu Á vì Indonesia là nước xuất khẩu than rất lớn trong khu vực.
Ngoài ra, việc xuất khẩu than phải tuân thủ các quy định sau: – Việc trung chuyển than được thực hiện xung quanh các cảng chính, được nhìn thấy trực tiếp từ cảng và cách đất liền không quá 2 km; – Đối với các dự án than mới, trong giai đoạn chuyển tiếp việc trung chuyển than ngoài biển không qua cảng chính cho phép tối đa không quá 3 năm; – Các cảng than chính phải có địa chỉ cụ thể; – Việc xuất khẩu than phải qua cảng chính.
Như vậy, với những phân tích trện có thể rút ra những cơ hội và thách thức đối với việc nhập khẩu than Indonesia để kinh doanh tại Việt Nam như sau:
- Thứ nhất, về cơ hội: Indonesia có tiềm năng than bán bitum và bitum rất phù hợp cho các dự án nhiệt điện chạy than mới của Việt Nam (từ khu vực miền Trung trở vào phía Nam). Đặc biệt trong những năm gần đây xuất khẩu than nhiệt tăng mạnh, giá cả nhập khẩu than từ Indonesia có tính cạnh tranh (thấp hơn so với than của Úc với cùng nhiệt trị), nên việc nhập khẩu than từ Indonesia để phục vụ cho nhu cầu của các nhà máy điện có tính khả thi kinh tế cao hơn so với nhập khẩu than từ thị trường khác. Trên thực tế, phần lớn các dự án nhiệt điện duyên hải của Việt Nam đều đã được thiết kế lò hơi theo các đặc tính than pha trộn giữa than bitum và thán á bitum của Indonesia (70%) và than đá (30%). Công ty Visa Resources có thể nhập khẩu than từ Indonesia với số lượng lớn do Indonesia là nước có trữ lượng than tương đối dồi dào, chất lượng than chủ yếu là trung bình thấp phù hợp với nhu cầu than cho sản xuất điện của Việt Nam, nhất là trong ngắn hạn và trung hạn. Khối lượng than xuất khẩu của Indonesia tuy giảm mạnh nhưng vẫn là con số rất lớn khi so sánh với nhu cầu nhập khẩu than của Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2020 vào khoảng 35 triệu tấn.
- Thứ hai, về thách thức: Trong tương lai, việc nhập khẩu than từ Indonesia sẽ gặp một số khó khăn do các mỏ than chất lượng tốt ngày một xuống sâu trong khi các mỏ than mới nằm sâu trong lục địa và chất lượng thấp; điều kiện thời tiết không thuận lợi do mùa mưa kéo dài, khó khăn trong vận chuyển; nhu cầu tiêu thụ than trong nước của Indonesia gia tăng mạnh. Mặt khác, Indonesia ưu tiên nguồn than cho sử dụng trong nước, hạn chế xuất khẩu nên giá than tăng cao, hơn nữa bị nhiều nước nhập khẩu than lớn khống chế, do đó, việc nhập khẩu than Indonesia về Việt Nam phải cạnh tranh với các nước này.
Liên Bang Nga
Thứ nhất, trữ lượng và chất lượng than. Theo Bristish Petroleum, tổng trữ lượng than của Nga là 160.364 triệu tấn, chiếm 15,5% trữ lượng than thế giới (đứng sau Mỹ với tổng trữ lượng là 250.916 triệu tấn), trong đó than antraxit và bitum chiếm 69.634 triệu tấn và than bán bitum và than non là 90.730 triệu tấn. Mặc dù Nga có trữ lượng than lớn thứ hai trên thế giới, song sự vượt trội của than trong cân bằng năng lượng của Nga đã bắt đầu sụt giảm từ năm 1990. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do Nga có nguồn tài nguyên năng lượng dồi dào, đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt, cho nên hiện nay than chỉ chiếm khoảng 13% trong tổng năng lượng sơ cấp của Nga, sau khí (khoảng 52%) và dầu (khoảng 22%).
Thứ hai, về dự báo xu hướng xuất khẩu than trong tương lai của Liên bang Nga.
Theo dự báo năm 2016 của Viện nghiên cứu Năng lượng (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga), sản lượng sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu đến năm 2040 của Nga theo 3 kịch bản (Kịch bản khả thực -1, Kịch bản thấp -2 và Kịch bản thuận lợi – được nêu ở bảng 2.2 trên. Sản lượng than sẽ phụ thuộc vào nhu cầu trong nước và ngoài nước (xuất khẩu) chứ không phải trữ lượng hay năng lực sản xuất. Trong giai đoạn đến năm 2040, nhu cầu trong nước và xuất khẩu được dự báo sẽ giảm 17– 20% trong các kịch bản 1 và 2 và có thể xảy ra và gần như quay trở lại mức của năm 2015 trong kịch bản thuận lợi. Vùng than Kuznetsk sẽ vẫn là khu vực khai thác chính, trong khi sản xuất than từ các vùng Kansk-Achinsk, Irkutsk và Viễn Đông sẽ tăng lên. Một yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của ngành công nghiệp than là sự đòi hỏi nâng cấp chất lượng và tiêu chuẩn hóa than cho nhà máy nhiệt điện, là điều bắt buộc nếu nó được xuất khẩu. Ngoài ra còn có vấn đề về việc sử dụng và/hoặc xử lý lượng tro xỉ lớn phát sinh cũng như khoảng cách quá xa từ mỏ đến cảng biển phải vận tải bằng đường sắt. Mặc dù sản lượng than của Nga xuất khẩu sang châu Á dự báo tăng lên, nhưng mức tăng này sẽ không bù đắp nhanh chóng cho sự sụt giảm mạnh về xuất khẩu sang châu Âu. Chính vì vậy, trong kịch bản 1 và kịch bản 2, năm 2040 tổng lượng than xuất khẩu của Nga so với 2015 dự báo sẽ giảm rõ rệt và mức tính toán cụ thể tương ứng cho 2 kịch bản là khoảng 35%-39%. Kịch bản 3 ngược lại lại dự báo đến 2040 lượng than xuất khẩu có sự phục hồi và sẽ gần bằng mức xuất khẩu của năm 2015. Theo dự báo của JEEI Outlook 2018 (tháng 10/2017): trong Kịch bản thông thường sản lượng than nhiệt của Nga đến năm 2030 (triệu tấn): 221; 2040: 243; 2050: 266. Như vậy, có sự gia tăng đáng kể so với năm 2015 (195 triệu tấn). Còn sản lượng than cốc là (triệu tấn): 2030: 78; 2040: 78; 2050: 79. Như vậy có sự giảm nhẹ so với năm 2015 (83 triệu tấn). Nga sẽ tăng xuất khẩu than nhiệt từ 112 triệu tấn năm 2015 lên 201 triệu tấn năm 2050.
Thứ ba, về chính sách xuất khẩu than của Liêng bang Nga. Theo dự báo năm 2016 của Viện nghiên cứu Năng lượng thuộc (Viện Hàn lâm Khoa học Nga), cân bằng năng lượng của Nga đến năm 2040 sẽ hầu như không thay đổi, với khí tự nhiên tiếp tục chiếm ưu thế và đảm bảo 52%-55% nhu cầu tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Nga; sản lượng nhiên liệu lỏng tiêu thụ sẽ chiếm khoảng 19% trong tất cả 3 kịch bản. Ngược lại, tỷ trọng của than tiêu thụ trong cán cân năng lượng sơ cấp sẽ giảm nhẹ từ 15% trong năm 2015 xuống 13-14% vào năm 2040. Kết quả dự báo khẳng định than vẫn là nguồn năng lượng được sử dụng nhiều thứ 3 ở Nga, với mức tiêu thụ lớn nhất là khoảng 213 triệu tấn/năm trong cả 2 kịch bản 1 và kịch bản 2. Việc sử dụng than tại Nga trong giai đoạn đến 2040 vẫn là để phục vụ cho sản xuất điện năng, sản xuất công nghiệp hay tiêu dùng gia đình. Qua dự báo sản lượng than xuất khẩu nêu trên cho thấy, Nga vẫn chú trọng xuất khẩu than nếu có thị trường xuất khẩu.
Như vậy, với những phân thức đối với việc nhập khẩu than sau: tích trên có thể rút ra những cơ hội và thách Liên bang Nga để kinh doanh tại Việt Nam như
Nga có trữ lượng than dồi dào và tiềm năng xuất khẩu than lớn, vì trong nước ưu tiên sử dụng khí đốt. Than của Nga có giá FOB cạnh tranh, song khi cung cấp sang khu vực châu Á thì không có lợi thế về vận chuyển, đặc biệt khó khăn về vận tải than từ các mỏ vùng Siberi ra cảng biển với cung độ rất lớn (bình quân khoảng 4.000 km) nên chi phí cao (thông thường, chi phí vận tải than bằng đường sắt tuy thấp, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng khá cao (tới 30% trong giá FOB) và việc kết nối từ mỏ ra cảng khó khăn, phức tạp. Hơn nữa, than nhiệt của Nga rất được Nhật Bản, Hàn Quốc ưa chuộng mà 2 nước này lại gần Nga nên bị thu hút vào 2 thị trường này. Ngoài ra, Việt Nam với Liên bang Nga có quan hệ truyền thống lâu đời, điều kiện chính trị thuận lợi, công nghệ khai thác mỏ tương đồng, vì vậy, việc hợp tác khai thác than tại bể than Donbass thuộc Liên bang Nga là định hướng quan trọng trong việc thu xếp nguồn than nhập khẩu trong dài hạn. Bên cạnh đó, trên thực tế, các nhà xuất khẩu than của Nga thường có khả năng và dễ chấp nhận phương thức bán CIF, thuận lợi cho phía mua ở Việt Nam.
Như vậy, Nga là thị trường rất thuận luận để công ty Visa Group nhập khẩu than kinh doanh tại Việt Nam.
Nam Phi
Thứ nhất, về trữ lượng và chất lượng than. Theo Thống kê của Cơ quan Năng lượng thế giới, tổng trữ lượng than của Nam Phi tính đến cuối năm 2017 là 9.893 triệu tấn (trong đó toàn bộ là than antraxit và bitum) chiếm 1% tổng trữ lượng than toàn thế giới. Nam Phi là quốc gia có trữ lượng đứng thứ 12 trên thế giới. Than của Nam Phi chủ yếu tập trung ở khu vực Waterberg và Witbank với tỉ trọng lần lượt là 29,4% và 52,6%, các khu vực còn lại chiếm tỉ trọng từ 2,6% đến 6,2%. Than có chất lượng từ trung bình đến cao chiếm phần lớn trong tổng trữ lượng than của Nam Phi. Chỉ có than tại khu vực South Rand có nhiệt trị 4.300 kcal/kg và khu vực Vereeniging – Sasolburg, nhiệt trị 3.775 kcal/kg, còn tại các khu vực khác than đều có nhiệt trị trên 6.000 kcal/kg. Hầu hết các mỏ có hàm lượng lưu huỳnh trong than dưới 1%.
Thứ hai, về giá than Nam Phi. Từ năm 2014 đến nay, giá than của Nam Phi không ổn định với nhiều pha biến động mạnh. Trong vòng 2 năm từ tháng 2/2014 đến tháng 1/2016 giá than liên tục giảm và mức giá thấp nhất trong những năm gần đây là 49,4 USD/tấn. Giá than bắt đầu tăng đều từ tháng 2/2016 đến tháng 1/2017 sau đó có một đợt giảm nhẹ, tháng 7/2017 giá than bắt đầu tăng và đạt mức cao nhất kể từ đầu năm 2014 với 92,73USD/ tấn vào tháng 1/2018. Tính đến tháng 4/2018 giá than đang ở mức cao với 90,26 USD/tấn. Giá than tại Nam Phi biến động thất thường là do nhu cầu nhập khẩu than của các nước tăng mạnh.
Thứ ba, về dự báo xu hướng xuất khẩu than trong tương lai của Nam Phi. Theo dự báo của JEEI Outlook 2018 (tháng 10/2017), sản lượng than khai thác của Nam Phi đến 2030: 290 triệu tấn, 2040: 302 triệu tấn và 2050: 310 triệu tấn. Nam Phi sẽ phát triển một số mỏ mới do sự suy giảm trữ lượng của các mỏ lớn nhưng việc mở rộng sản xuất có giới hạn nhất định. Khi nhu cầu than trong nước tăng Nam Phi sẽ hạn chế sản lượng xuất khẩu hàng năm tối đa tới mức 90 triệu tấn. Theo Energy Efficiency Outlook for South Africa, dự báo sản lượng than tiêu thụ nội địa của Nam Phi năm 2020 là 181,5 triệu tấn và năm 2030 là 191,3 triệu tấn tăng 8,2% so với năm 2017, chủ yếu cho sản xuất điện, chiếm khoảng 60%, luyện cốc và hóa lỏng, chiếm từ 21-24%. Sản lượng than xuất khẩu của Nam Phi sẽ dao động quanh mức 80 triệu tấn/năm, không thay đổi đáng kể so với hiện tại. Như vậy, sản lượng than sản xuất, sản lượng than tiêu thụ của Nam Phi tăng, trong khi sản lượng than xuất khẩu trong tương lai ở mức ổn định. Điều này cho thấy mặc dù Nam Phi thực hiện cam kết cắt giảm khí thải, tỉ trọng than trong sản xuất điện giảm, nhưng sản lượng than tiêu thụ của Nam Phi trong tương lai vẫn tăng lên đáng kể. Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Thứ tư, về chính sách xuất khẩu than của Nam Phi. Than là nguồn thu xuất khẩu khoáng sản hàng đầu của Nam Phi. Trong những năm tới, Chính phủ Nam Phi vẫn yêu cầu mở rộng thị trường xuất khẩu than của nước này trên thị trường than thế giới. Xuất khẩu than của Nam Phi sang các nước châu Âu sẽ giảm do xu thế giảm sử dụng than tại EU và cũng không thể tăng vào các nước châu Phi đang trong tình trạng thiếu điện nhưng do thiếu đầu tư các nhà máy nhiệt điện chạy than nên nhu cầu nhập khẩu than của các nước trong khu vực này không tăng. Nam Phi sẽ phát triển thị trường xuất khẩu than sang các nước ở châu Á như: Pakistan, Malaysia, Đài Loan và Bangladesh,… khi nhu cầu nhập khẩu than của các nước này đang tăng cao nhằm phục vụ cho sản xuất điện. Tuy nhiên, Nam Phi sẽ ưu tiên sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong nước, hạn chế xuất khẩu do trữ lượng than ngày càng cạn kiệt.
Như vậy, với những phân tích trên có thể rút ra những cơ hội và thách thức đối với việc nhập khẩu than Nam Phi để kinh doanh tại Việt Nam như sau:
Than của Nam Phi có giá FOB cạnh tranh, song khi cung cấp sang Việt Nam thì không có lợi thế về vận chuyển. Hơn nữa, Ấn Độ tiếp tục là nước nhập khẩu chính than của Nam Phi do nhu cầu than của nước này sẽ tiếp tục tăng trong tương lai gần vì nhiều lý do (nguồn cung ở Ấn Độ vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng, sản xuất điện của Ấn Độ bị chi phối bởi than đá với hơn 75% tổng sản lượng điện là từ than). Ngoài ra, các nước trong khu vực cũng có nhu cầu nhập khẩu than Nam Phi. Trữ lượng than hiện có của Nam Phi chỉ đảm bảo khai thác trong vòng 39 năm với mức sản lượng năm 2017, trong khi nhu cầu than trong nước của Nam Phi tăng cao, phải hạn chế xuất khẩu trong tương lai. Mặt khác, xét về giá trị sử dụng, than Nam Phi tương đối “khó tính” và kém hấp dẫn đối với các loại lò hơi được thiết kế của các dự án điện ở Việt Nam. Vì rằng than nhập khẩu phải có khả năng pha trộn với các loại than sản xuất trong nước có chất lượng thấp (chất bốc thấp từ 3-5%, lưu huỳnh cao đến 1% như than cám 5a.3, cám 6 và cám 7) để pha trộn, chế biến ra những loại than có chất bốc và nhiệt năng phù hợp với nhu cầu của các hộ tiêu thụ (than có chất bốc trung bình 6÷9%, lưu huỳnh 0,65÷0,90%, nhiệt năng từ 4.800kcal/kg cơ sở khô trở lên), thông thường đó là than anthracite, trong khi than Nam Phi chủ yếu là than bitum. Do vậy, khả năng nhập khẩu than Nam Phi để kinh doanh tại Việt Nam là không cao, với khối lượng không lớn và không lâu dài.
Sản phẩm thay thế
Từ khi cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới nổ ra, than đá, một loại nhiên liệu hóa thạch, đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống con người. Tuy nhiên đối với môi trường, khai thác than đã làm thay đổi và phá hủy cảnh quan thiên nhiên nghiêm trọng, là một nguyên nhân gây ra sự biến đổi khí hậu. Chính vì thế, các nước trên thế giới, đặc biệt là châu Âu, đang hướng đến việc tìm nguồn năng lượng mới thay thế cho than đá. Có thể kể đến các nguồn năng lượng sạch trong tương lai như sau:
- Pin nhiên liệu. Đây là kỹ thuật có thể cung cấp năng lượng cho con người mà không hề phát ra khi thải CO2 hoặc những chất thải độc hại khác. Một pin nhiên liệu tiêu biểu có thể sản sinh ra điện năng trực tiếp bởi phản ứng giữa Hydro và Ôxy. Hydro có thể lấy từ nhiều nguồn như khí thiên nhiên, khí Mêtan lấy từ chất thải sinh vật và do không bị đốt cháy nên chúng không có khí thải độc hại. Đi đầu trong lĩnh vực này là Nhật Bản. Quốc gia này sản xuất được nhiều nguồn pin nhiên liệu khác nhau, dùng cho xe phương tiện giao thông, cho ôtô hoặc cả cho cả các thiết bị dân dụng như điện thoại di động.
- Năng lượng mặt trời. Nhật Bản, Mỹ và một số quốc gia Tây Âu là những nơi đi đầu trong việc sử dụng nguồn năng lượng mặt trời rất sớm (từ những năm 50 ở thế kỷ trước). Tính đến năm 2002, Nhật Bản đã sản xuất được khoảng 520.000 kW điện bằng pin mặt trời, với giá trung bình 800.000 Yên/kW, thấp hơn 10 lần so với cách đây trên một thập kỷ. Nếu một gia đình người Nhật 4 người tiêu thụ từ 3 đến 4 kW điện/mỗi giờ, thì họ cần phải có diện tích từ 30-40 m2 mái nhà để lắp pin. Nhật Bản phấn đấu đến năm 2010 sẽ sản xuất được hơn 8,2 triệu kW điện tử năng lượng mặt trời.
- Năng lượng từ đại dương. Đây là nguồn năng lượng vô cùng phong phú, nhất là quốc gia có diện tích biển lớn. Sóng và thủy triều được sử dụng để quay các turbin phát điện. Nguồn điện sản xuất ra có thể dùng trực tiếp cho các thiết bị đang vận hành trên biển như hải đăng, phao, cầu cảng, hệ thống hoa tiêu dẫn đường v.v…
- Năng lượng gió. Năng lượng gió được coi là nguồn năng lượng xanh vô cùng dồi dào, phong phú và có ở mọi nơi. Người ta có thể sử dụng sức gió để quay các turbin phát điện. Ví dụ như ở Hà Lan hay ở Anh, Mỹ. Riêng tại Nhật mới đây người ta còn sản xuất thành công một turbin gió siêu nhỏ, sản phẩm của hãng North Powen. Turbin này có tên là NP 103, sử dụng một bình phát điện dùng cho đèn xe đạp thắp sáng hoặc giải trí có chiều dài cánh quạt là 20 cm, công suất điện là 3 W, đủ để thắp sáng một bóng đèn nhỏ.
- Dầu thực vật phế thải dùng để chạy xe. Dầu thực vật khi thải bỏ, nếu không được tận dụng sẽ gây lãng phí lớn và gây ô nhiễm môi trường. Để khắc phục tình trạng này, tại Nhật có một công ty tên là Someya Shoten Group ở quận Sumida Tokyo đã tái chế các loại dầu này dùng làm xà phòng, phân bón và dầu VDF (nhiên liệu diezel thực vật). VDF không có các chất thải ôxít lưu huỳnh, còn lượng khỏi đen thải ra chỉ bằng 1/3 so với các loại dầu truyền thống.
- Năng lượng từ tuyết. Hiệp hội nghiên cứu năng lượng thiên nhiên ở Bihai của Nhật đã thành công trong việc ứng dụng tuyết để làm lạnh các kho hàng và điều hòa không khí ở những tòa nhà khi thời tiết nóng bức. Theo dự án này, tuyết được chứa trong các nhà kho để giữ nhiệt độ kho từ 0oC đến 4oC. Đây là mức nhiệt độ lý tưởng dùng để bảo quản nông sản vì vậy mà giảm được chi phí sản xuất và giảm giá thành sản phẩm.
- Năng lượng từ sự lên men sinh học. Nguồn năng lượng này được tạo bởi sự lên men sinh học các đồ phế thải sinh hoạt. Theo đó, người ta sẽ phân loại và đưa chúng vào những bể chứa để cho lên men nhằm tạo ra khí metan. Khí đốt này sẽ làm cho động cơ hoạt động từ đó sản sinh ra điện năng. Sau khi quá trình phân hủy hoàn tất, phần còn lại được sử dụng để làm phân bón.
- Nguồn năng lượng địa nhiệt. Đây là nguồn năng lượng nằm sâu dưới lòng những hòn đảo, núi lửa. Nguồn năng lượng này có thể thu được bằng cách hút nước nóng từ hàng nghìn mét sâu dưới lòng đất để chạy turbin điện. Tại Nhật Bản hiện nay có tới 17 nhà máy kiểu này, lớn nhất có nhà máy địa nhiệt Hatchobaru ở Oita Kyushu, công suất 110.000 kW đủ điện năng cho 3.700 hộ gia đình.
- Khí Mêtan hydrate. Khí Mêtan hydrate được coi là nguồn năng lượng tiềm ẩn nằm sâu dưới lòng đất, có màu trắng dạng như nước đá, là thủ phạm gây tắc đường ống dẫn khí và được người ta gọi là “nước đá có thể bốc cháy”. Metan hydrate là một chất kết tinh bao gồm phân tử nước và metan, nó ổn định ở điều kiện nhiệt độ thấp và áp suất cao, phần lớn được tìm thấy bên dưới lớp băng vĩnh cửu và những tầng địa chất sâu bên dưới lòng đại dương và là nguồn nguyên liệu thay thế cho dầu lửa và than đá rất tốt.
Ưu điểm của các nguồn năng lượng này là sạch, có sẵn trong thiên nhiên, không gây ô nhiễm, không bị cạn kiệt và là giải pháp tốt nhất nhằm tiết kiệm năng lượng hóa thạch cho tương lai và sẽ dần dần thay thế cho than đá. Tuy nhiên, việc các năng lượng sạch này thay thế hoàn toàn cho than đá vẫn còn là câu chuyện của tương lai xa, nhất là đối với Việt Nam.
Theo cơ cấu quy hoạch điện Việt Nam năm 2016 – 2030, nhiệt điện than chiếm tỷ trọng lớn nhất, ở mức 43% đến năm 2030, trong khi tiềm năng phát triển thủy điện không còn nhiều và không đám ứng kịp tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện năng của nền kinh tế.
2.2.2.3. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Điểm mạnh
Đối với hoạt động kinh doanh than đá nhập khẩu tại thị trường Việt Nam, Công ty có một số điểm mạnh chủ yếu liên quan đến bộ máy tổ chức của văn phòng đại diện tại Việt Nam. Cụ thể như sau:
- Cơ cấu tổ chứ, thực hiện công việc gọn nhẹ và linh hoạt.
- Chi phí hoạt động được giảm thiểu tối đa.
- Văn phòng đại diện có đầy đủ năng lực để thực hiện công việc, thương mại tại Việt Nam.
Điểm yếu
Công việc của văn phòng đại diện khá nhiều và bao phủ các vùng miền tại Việt Nam nhưng thiếu nhân sự (văn phòng đại diện tại Việt Nam hiện nay chỉ bao gồm 2 nhân sự: 01 trưởng văn phòng đại diện phụ trách chính tất cả các công việc và 01 trợ lý hỗ trợ công việc cho trưởng đại diện).
Là công ty còn mới trên thị trường Việt Nam, Công ty gặp nhiều khó khăn trong việc tiến hành xúc tiến thương mại và mở rộng mối quan hệ.
2.2.3. Đánh giá về kết quả kinh doanh than đá nhập khẩu của công ty Visa Resources tại thị trường Việt Nam
Với thực tế quy trình kinh doanh than đá nhập khẩu của Công ty Visa Resources tiến hành tại thị trường Việt Nam trong 2 năm qua cùng với các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh than đá nhập khẩu của Công ty trên thị trường Việt Nam, đến nay hoạt động kinh doanh than đá nhập khẩu của Công ty tại thị trường Việt Nam có những thành tựu và hạn chế như sau:
2.2.3.1. Thành tựu Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Mặt dù công ty Visa Resources mới chỉ bắt đầu hoạt động kinh doanh than đá nhập khẩu tại thị trường Việt Nam mới chỉ 2 năm nhưng nhờ Công ty đã có công tác nghiên cứu thị trường và chuẩn bị các kế hoạch kinh doanh rất kỹ lưỡng, ngoài ra Công ty đã tuyển được các nhân sự hoạt động tại thị trường Việt Nam rất năng động, có chuyên môn và am hiểu thị trường cùng với những nổ lực trong việc quảng bá sản phẩm và tạo lập các mối quan hệ, hoạt động kinh doanh than đá nhập khẩu tại thị trường Việt Nam của Công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về kết quả kinh doanh. Công ty Visa Resources chính thức tiến hành hoạt động kinh doanh than nhập khẩu tại thị trường Việt Nam từ tháng 2/2017, tới nay mới được 2 năm ở nhưng đã đạt được tốc độ phát triển ấn tượng so với tốc độ phát triển chung của Tập đoàn. Cụ thể được thể hiện qua bảng 2.3.
Năm 2017, Công ty đã đạt được khối lượng kinh doanh than nhập khẩu tại thị trường Việt Nam là 140.000MT, điều đặc biệt đáng chú ý ở đây là mặt dù chính thức hoạt động tại Việt Nam vào tháng 2/2017 nhưng chỉ sau 1 tháng, tức trong tháng 3/2017, Công ty đã có hợp đồng kinh doanh thành công đầu tiên với khối lượng 50.000MT than bán bitum, sau đó, Công ty tiếp tục giao dịch thành công thêm 3 hợp đồng nữa vào tháng 5/2017 (20.000MT), tháng 7/2017 (50.000MT) và tháng 9/2017 (20.000MT). Với khối lượng bán được là 140.000MT than, năm 2017, Công ty đã mang về doanh thu 5.698.000USD, đạt lợi nhuận 950.000USD. Qua đây có thể thấy, Công ty đã có bước đi đầu tiên khá chắc chắn và thành công. Có được thành công này là nhờ Công ty đã có công tác nghiên cứu thị trường và chuẩn bị các kế hoạch kinh doanh rất kỹ lưỡng, ngoài ra Công ty đã tuyển được các nhân sự hoạt động tại thị trường Việt Nam rất năng động, có chuyên môn và am hiểu thị trường.
“Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2017, 2018, quý I/2019, Công ty Visa Resources” Bước qua năm 2018, Công ty giao dịch thành công 6 hợp đồng kinh doanh với tổng khối lượng 319.600MT than đá, tăng 179.600MT (tương đương tăng 128,3%) so với năm 2017. Qua đó, đạt được doanh thu 9.724.100USD, tăng 4.026.100USD (tương đương tăng 70,7%) và gia tăng 88.200USD lợi nhuận (tương đương tăng 9,3%) so với năm 2017. Có được những thành công lớn này, ngoài các yếu tố tương tự như năm 2017, sang năm 2018, Công ty tiếp tục đẩy mạnh công tác tiếp cận khách hàng để tìm kiếm thêm nhiều đối tác và luôn duy trì nguồn hàng chất lượng với giá cả hợp lý.
Trên đà thành công của 2 năm trước, chỉ tính đến Quý I/2019, Công ty đã giao dịch thành công 4 hợp đồng với tổng khối lượng 210.000USD (gấp 1,5 lần so với năm 2017 và bằng 65,7% khối lượng của năm 2018). Xét về doanh thu, quý I/2019 đã đạt 12.473.000USD doanh thu (bằng 218,9% doanh thu năm 2017 và bằng 128,3% doanh thu của năm 2018). Và theo dự kiến dựa trên các hợp đồng đã và đang ký kết, năm 2019 sẽ đạt được khối lượng bán ra là 500.000MT với doanh thu 30.000.000USD. Những con số ấn tượng của quý I/2019 cho thấy viễn cảnh kinh doanh tương sáng của toàn năm 2019 của Công ty trên thị trường Việt Nam.
Ngoài các chỉ số đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh là doanh thu và lợi nhuận, các chỉ tiêu còn lại như: mức doanh lợi trên doanh số bán, mức doanh lợi trên vốn kinh doanh và mức doanh lợi trên chi phí kinh doanh cũng cho thấy những tín hiệu khả quan khi các chi tiêu này có xu hướng gia tăng, đặc biệt trong quý I/2019.
Thứ hai, về cơ cấu mặt hàng. Hiện nay, Công ty mới chỉ kinh doanh 2 mặt hàng than đá nhập khẩu trên thị trường Việt Nam, đó là than antraxit và than bán bitum nhưng cơ cấu mặt hàng đã đáp ứng theo đúng nhu cầu nhập khẩu của thị trường Việt Nam là than bán bitum dễ bốc cháy có giá tương đối rẻ. Cụ thể như sau:
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, xu hướng nhập khẩu than của Việt Nam trong những năm qua chủ yếu là than antraxit, than bitum và than bán bitum; tuy nhiên, khối lượng than antraxit nhập khẩu không nhiều, chủ yếu than antraxit chỉ nhập khẩu để pha trộn với than sản xuất trong nước. Chính vì xu hướng đó mà trong thời gian qua, Công ty Visa Resources cũng chỉ kinh doanh 2 loại than nhập khẩu trên thị trường Việt Nam, đó là: than bán bitum và than antraxit với cơ cấu chủ yếu là than bán bitum.
Sở dĩ Công ty kinh doanh chủ yếu là than bán bitum ở thị trường Việt Nam là do than nội địa của Việt Nam chủ yếu là than antraxit có chất bốc rất thấp. Theo TCVN 8910:2011, than khu vực Hồng Gai- Cẩm Phả có chất bốc cao nhất cũng chỉ tới 6,5%, than Mao Khê: 5%, than Uông Bí, Vàng Danh: 2- 4%, cá biệt có vỉa than có chất bốc < 2% (than mêtan antraxit), nên rất khó cháy. Những năm gần đây than nội địa cấp cho các nhà máy nhiệt điện nói chung đều có phẩm cấp thấp, chất lượng than không ổn định, độ tro của than rất cao, (hầu hết > 30%) gây khó khăn rất lớn cho việc tổ chức quá trình đốt cháy than. Do đó, Việt Nam chỉ nhập một lượng ít than antraxit để pha trộn với than sản xuất trong nước nhằm nâng cao chất lượng đốt của than antraxit.
Trong khi đó, than bitum và than bitum, có chất bốc theo mẫu làm việc rất cao (từ 25-40%) nên dễ bốc cháy, do đó, Việt Nam nhập nhiều than bitum và bán bitum này. Ngoài ra, than bitum của Úc là than có nhiệt trị cao, độ tro, độ ẩm thấp, hàm lượng chát bốc theo mẫu làm việc tới 28% còn theo mẫu cháy tới 35% nên nếu được chọn làm than để trộn với than nội địa thì chắc chắn điều kiện đốt cháy sẽ thuận lợi. Tuy nhiên than bitum Úc khá đắt (~125USD/tấn, kể cả chi phí vận chuyển, giá 05/3/2010). Trong khi than bán bitum Indonexia dù có nhược điểm là độ ẩm khá cao (Wlv=24%) (2), nhiệt độ chảy của tro thấp (1.1000C) nhưng có giá thấp hơn nhiều (~85USD/tấn cả vận chuyển (giá 5/3/2010) nên là lựa chọn hàng đầu của các nhà máy nhiệt điện Việt Nam. Chính vì những nguyên nhân trên, kết hợp với việc thị trường cung cấp than của Công ty Visa Resources chủ yếu là Indonexia với thế mạnh về than bán bitum nên Công ty có nhiều thuận lợi trong việc kinh doanh than bán bitum tại thị trường Việt Nam.
Thứ ba, về cơ cấu khách hàng. Mặt dù mới hoạt động kinh doanh 2 năm với kinh nghiệm và mối quan hệ còn hạn chế nhưng Công ty đã tiếp cận và giao dịch kinh doanh thành công cả hai loại hình doanh nghiệp nhập than của Việt Nam và doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Tỷ trọng cơ cấu khách hàng qua các năm có sự thay đổi lớn nhưng có thể thấy Công ty đã có những thành công ban đầu khi tạo cho mình mối quan hệ tốt, rộng với cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Đây chính là tiền đề để Công ty tiếp cận hơn với nhiều khách hàng trong tương lai. Cụ thể như sau: Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
Trong 2 năm đầu tiên Công ty hoạt động tại Việt Nam, do chưa có nhiều mối quan hệ, Công ty chưa thể tiếp cận được nhiều với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu than nên chủ yếu khách hàng của Công ty là doanh nghiệp tư nhân (chiếm tỷ trọng 85,6% trong năm 2017 và 100% trong năm 2018). Sau một quá trình hoạt động, nhờ có thêm nhiều mối quan hệ cũng như danh tiếng tại thị trường Việt Nam, Công ty dần tiếp cận được nhiều hơn các doanh nghiệp nhà nước để có thể ký kết những hợp đồng có giá trị lớn hớn, kết quả trong Quý I/2019, 72,9% khách hàng của Công ty là các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ tư, về công tác tổ chức, triển khai nhập khẩu và kinh doanh than đá. Công ty đã bước đầu xây dựng cho mình một quy trình nhập khẩu chặt chẽ với các bước thực hiện rõ ràng, có sự phân chia, hỗ trợ công việc hợp lý giữa công ty mẹ tại Singapore và văn phòng đại diện tại Việt Nam.
2.2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, do mới hoạt động tại thị trường Việt Nam 2 năm nay nên mọi thứ với Công ty vẫn còn khá mới mẻ, kinh nghiệm chưa có nhiều nên hoạt động kinh doanh than nhập khẩu tại thị trường Việt Nam của Công ty vẫn còn những hạn chế cần hoàn thiện và khắc phục để Công ty phát triển hơn hoạt động kinh doanh của mình trong tương lai. Cụ thể một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, nguồn cung cấp than đá chưa đa dạng. Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam nhập khẩu than từ nhiều thị trường khác nhau: Indonesia, Úc, Nga, Trung Quốc, Malaysia, Nhật Bản…Tuy nhiên, hiện nay công ty Visa Resources kinh doanh than đá nhập khẩu chủ yếu từ Indonesia, thỉnh thoảng nhập khẩu từ thị trường Nga và Nam Phi.
Qua bảng số liệu trên có thể thấy trong năm 2017 và 2018, Công ty hoàn toàn nhập khẩu than từ Indonesia, bước sang quý I/2019, Công ty mới nhập than đá của Nam Phi và Nga, tuy nhiên, theo kế hoạch của năm 2019, than nhập khẩu từ Indonesia vẫn chiếm tỷ trọng cao. Như vậy, có thể thấy, nguồn cung than đá của Công ty chưa đa dạng, phụ thuộc chủ yếu vào than Indonesia, trong khi trong lương lai, Indonesia đang có xu hướng hạn chế xuất khẩu than. Bên cạnh đó, Công ty cũng mới chỉ có mối quan hệ nhập khẩu từ một vài công ty tại thị trường Indonesia, điều này khiến công tác thu mua gặp nhiều khó khăn, thường xảy ra tình trạng thiếu nguồn hàng cung ứng cho thị trường Việt Nam. Ngoài ra, một số đơn hàng đã nhận được L/C nhưng vẫn không có hàng để giao do gặp phải nhà cung cấp yếu kém, không uy tín.
Thứ hai, chất lượng hàng hóa chưa được kiểm soát tốt. Từ ngày bắt đầu hoạt động tại thị trường Việt Nam hiện nay, Công ty cũng đã gặp phải một số đơn hàng không đáp ứng yêu cầu chất lượng như thỏa thuận trong hợp đồng khiến cho công tác kinh doanh gặp khó khăn trở ngại. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là nhân sự của Văn phòng đại diện của công ty Visa Resources tại Việt Nam chưa đủ đáp ứng khối lượng công việc, chưa có nhân sự thực hiện công tác kiểm soát chất lượng hàng hóa.
Thứ ba, giá bán than nhập khẩu của Công ty tại thị trường Việt Nam còn khá cao do mục tiêu lợi nhuận cao mà Công ty đề ra khiến hàng hóa của Công ty có tính cạnh tranh về giá thấp so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Thứ tư, số lượng nhân sự hoạt động tại thị trường Việt Nam còn ít, chưa đáp ứng được khối lượng công việc đang càng nhiều. Luận văn: Thực trạng than đá nhập khẩu tại CT Visa Resources
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Giải pháp kiến nghị nhằm pháp triển doanh nghiệp