Luận văn: Thực trạng PL về công bố thông tin chứng khoán

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng PL về công bố thông tin chứng khoán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.2. Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán

2.2.1. Kết quả đạt được trong hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Luận văn: Thực trạng PL về công bố thông tin chứng khoán

2.2.1.1. Thực trạng thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng trên TTCK

Các quy định chặt chẽ tại Thông tư 52/2012/TT-BTC cùng với việc tăng mức xử phạt đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ CBTT tại Nghị định số 108/2013/NĐ-CP đã tạo hiệu ứng khá tích cực trên TTCK, các vi phạm về CBTT có chiều hướng giảm trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán. Cụ thể:

  • Tình hình tuân thủ nghĩa vụ CBTT của công ty niêm yết trên HNX:
  • Về tình hình tuân thủ thời hạn nộp BCTC:

Số lượng công ty niêm yết có nghĩa vụ công bố BCTC kiểm toán năm 2013 trên HNX là 377 công ty. Tính đến ngày 14/05/2014 có 51 trường hợp (chiếm 13%) chậm công bố BCTC kiểm toán năm 2013, giảm 10% so với năm 2012 (là 121 trường hợp vi phạm, chiếm 23%).

Về công bố thông tin bất thường:

Trong năm 2013, trên HNX có 308 trường hợp vi phạm (giảm 31,7% so với năm 2012). Hầu hết đều là vi phạm chậm CBTT về thay đổi nhân sự, thay đổi người được ủy quyền CBTT và Nghị quyết ĐHĐCĐ/HĐQT về việc thông qua việc trả cổ tức, mua cổ phiếu quỹ hoặc điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh.

Về công bố thông tin về các giao dịch đặc biệt:

Năm 2013 có 266 trường hợp vi phạm, giảm 25% so với 356 vi phạm năm 2012. Các vi phạm về giao dịch của cổ đông nội bộ, người có liên quan là 178 vi phạm, giảm 20% so với 224 vi phạm năm 2012.

  • Tình hình tuân thủ nghĩa vụ CBTT của công ty niêm yết trên HOSE:
  • Tình hình tuân thủ nghĩa vụ công bố thông tin Báo cáo tài chính:

Tính đến hết ngày 7/5/2014, đã có 298/303 công ty đã hoàn tất BCTC kiểm toán 2013 và thực hiện công bố thông tin ra thị trường. Số lượng công ty chậm công bố BCTC kiểm toán là 38/303 công ty niêm yết chiếm tỷ lệ 12,5%, giảm so với mức 15,5% của năm 2013.

Về tình hình tuân thủ thời hạn CBTT Báo cáo thường niên và Báo cáo quản trị công ty:

Tính đến tháng 5/2014, có 37 vi phạm liên quan đến CBTT Báo cáo thường niên 2013 và 34 vi phạm CBTT Báo cáo quản trị công ty năm 2013 (so với số lượng vi phạm năm 2013 là 46 trường hợp công ty vi phạm CBTT Báo cáo Quản trị công ty năm 2012 và 42 vi phạm CBTT Báo cáo thường niên năm 2012).

Về tình hình tuân thủ CBTT bất thường:

Trong nửa đầu năm 2014, có 64 vi phạm liên quan đến CBTT bất thường. Trong quý II/2014 có 24 vi phạm liên quan đến CBTT bất thường (giảm 9%) so với 39 vi phạm liên quan đến CBTT bất thường trong quý II/2013.

Như vậy, số lượng các vi phạm về CBTT trên cả SGDCK Hà Nội và SGDCK TP. Hồ Chí Minh đều có chiều hướng giảm. Không những thế, thực tế cho thấy các thông tin từ công ty đại chúng được công bố cũng được cải thiện hơn về “chất”. Nhiều công ty đã sử dụng Báo cáo thường niên như là công cụ để quảng bá hình ảnh của mình và đưa vào Báo cáo này các yếu tố liên quan đến phát triển bền vững. Hàng năm, tại các giải thưởng về Báo cáo thường niên do các SGDCK tổ chức, nhiều công ty như Công ty sữa Việt Nam (Vinamilk), Tập đoàn Bảo Việt… đã được vinh danh tại các hạng mục như BCTN xuất sắc nhất, BCTN có nội dung quản trị công ty tốt nhất, các giải cho Báo cáo phát triển bền vững. Đây là một tín hiệu tích cực cho thấy kết quả từ các biện pháp minh bạch hóa thông tin trên TTCK của cơ quan quản lý và ý thức minh bạch thông tin tốt hơn của các doanh nghiệp. Đây chính là động lực giúp TTCK phát triển, qua đó thu hút được đông đảo nhà đầu tư tham gia thị trường. Tính từ đầu năm 2014 đến nay, TTCK đã bứt phá mạnh mẽ, chỉ số VN Index đạt “đỉnh” trong vòng 5 năm trở lại đây. Điều này có nguyên nhân một phần vì tính khả quan từ các thông tin vĩ mô, một phần là do môi trường đầu tư đã công khai hơn, giúp nhà đầu tư có được thông tin nhanh chóng, kịp thời hơn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học

2.2.1.2. Về quy trình, cách thức công bố thông tin Luận văn: Thực trạng PL về công bố thông tin chứng khoán

Hiện nay, công ty đại chúng khi công bố thông tin phải đồng thời báo cáo UBCKNN, SGDCK và quy trình này được thực hiện như sau:

  • Khi xuất hiện thông tin mà công ty đại chúng phải công bố ra thị trường
  • Hoạt động báo cáo của CTĐC
  • Hoạt động CBTT của công ty đại chúng
  • Đăng thông tin trên website của công ty
  • UBCKNN Hoạt động CBTT của
  • SGDCK (đối với công ty niêm yết/đăng ký giao dịch)
  • UBCKNN/SGDCK
  • Đăng thông tin trên website của UBCKNN/SGDCK

Trước đây, việc báo cáo và đăng thông tin của công ty đại chúng trên website của UBCKNN được thực hiện theo Quyết định 515/QĐ-UBCK ngày 25/6/2012 của Chủ tịch UBCKNN, theo đó công ty đại chúng phải gửi thông tin bằng văn bản đến UBCKNN hoặc gửi dữ liệu điện tử qua địa chỉ thư điện tử chuyên về CBTT của UBCKNN, sau đó cơ quan này thực hiện đăng tải thông tin trên trang CBTT của mình (dưới dạng file .pdf). Quy trình này rất mất thời gian và không đảm bảo tính kịp thời của thông tin (nhất là các bản giấy đều đòi hỏi phải chuyển sang file .pdf), đồng thời làm tăng chi phí cho doanh nghiệp (do doanh nghiệp để đảm bảo thời hạn báo cáo UBCKNN, đã gửi thông tin bằng dữ liệu điện tử thì sau đó vẫn phải gửi bản giấy cho cơ quan này). Quy trình tương tự này được áp dụng tại SGDCK TP. Hồ Chí Minh.

Từ tháng 7/2013, UBCKNN đã triển khai hệ thống CBTT dành riêng cho các công ty đại chúng – hệ thống IDS (Information Disclosure system). Sử dụng hệ thống này, công ty đại chúng khi có thông tin công bố, công ty gửi thông tin điện tử qua hệ thống IDS, sau đó UBCKNN chuyển nội dung này lên trang thông tin điện tử của mình. Nếu công ty sử dụng chữ ký số sẽ được miễn bỏ việc gửi báo cáo bằng bản giấy. Quy trình cụ thể được quy định tại Quyết định số 578/QĐ-UBCK của Chủ tịch UBCKNN ngày 4/8/2014 ban hành Quy chế hướng dẫn CTĐC sử dụng Hệ thống CBTT của UBCKNN.

Tại SGDCK Hà Nội, quy trình tiếp nhận báo cáo về nội dung CBTT của công ty niêm yết/đăng ký giao dịch được thực hiện trên nền tảng hệ thống CBTT tự động (CIMS) được triển khai từ ngày 8/5/2012, theo đó công ty thực hiện khai báo trên các truờng thông tin của hệ thống CIMS, sau đó hệ thống này tự động đẩy thông tin trên hệ thống CBTT của HNX.

Có thể thấy, hệ thống CBTT của UBCKNN, SGDCK không ngừng đuợc hoàn thiện, giúp cho việc CBTT của các đối tuợng tham gia thị truờng, trong đó có công ty đại chúng được thực hiện trên cơ sở hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, đảm bảo thông tin được công khai ra thị truờng một cách kịp thời. Hiện nay, đề án hợp nhất hai SGDCK thành SGDCK Việt Nam đang được xây dựng, theo đó yêu cầu hoàn thiện hệ thống công nghệ đuợc coi là một trong những nội dung trọng tâm tại đề án này.

2.2.2. Những bất cập và tồn tại trong hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Luận văn: Thực trạng PL về công bố thông tin chứng khoán

2.2.2.1. Những vướng mắc, bất cập của pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán

Một là, nhiều quy định pháp luật còn chưa đầy đủ, rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình thực thi nghĩa vụ CBTT của công ty đại chúng. Cụ thể như sau:

Về quy định CBTT Báo cáo tài chính:

Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng nhất và gần như là tài liệu duy nhất cho nhà đầu tư biết tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc chậm CBTT Báo cáo tài chính lại là vi phạm khá phổ biến của công ty đại chúng. Điều này chủ yếu do nguyên nhân chủ quan từ phía doanh nghiệp nhưng cũng có một phần do nguyên nhân của chính sách pháp luật, dẫn đến khó khăn trong việc hoàn thành và công bố thông tin BCTC của công ty. Cụ thể:

Thời gian qua, công ty chứng khoán Sài gòn (SSI) liên tục đề nghị UBCKNN gia hạn CBTT Báo cáo tài chính hợp nhất do công ty này không thu thập đủ số liệu tài chính từ công ty liên kết (các công ty liên kết của SSI đều là công ty niêm yết như CTCP Xuất nhập khẩu Bình Thạnh (GIL), công ty giống cây trồng miền Nam (SSC)… và có thời hạn CBTT BCTC giống SSI). Đến sát thời điểm kết thúc thời hạn CBTT BCTC, SSI vẫn chưa nhận được số liệu tài chính chính thức của công ty liên kết (pháp luật cũng không có quy định bắt buộc các công ty liên kết phải gửi số liệu trước thời điểm CBTT cho công ty đầu tư) nên SSI khó có thể hoàn thành được BCTC đúng thời hạn quy định tại Thông tư số 52/2102/TT-BTC; mặc dù, để đảm bảo CBTT BCTC đúng thời hạn, thực tế các công ty thường dùng phương pháp ngoại trừ trên BCTC hoặc ước tính số liệu (căn cứ vào số liệu chưa chính thức do kế toán công ty con/công ty liên kết cung cấp) hoặc thay đổi phương pháp kế toán áp dụng (khoản đầu tư vào công ty liên kết được kế toán theo phương pháp giá gốc thay vì phương pháp vốn chủ sở hữu). Điều này dễ dẫn đến số liệu tại BCTC của công ty không chính xác và có thể bị kiểm toán ngoại trừ, ảnh hưởng đến hình ảnh của doanh nghiệp. Chính vì thế, UBCKNN đã có nhiều công văn chấp thuận gia hạn CBTT BCTC cho SSI từ quý II/2013 đến nay. Tuy nhiên, cách thức này không giải quyết dứt điểm bất cập trên mà cần có những sửa đổi quy định pháp lý phù hợp.

Ngoài ra, một số doanh nghiệp đặc thù như công ty thuộc tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam, các doanh nghiệp dầu khí… phải lập BCTC trên cơ sở nghiệm thu các chỉ tiêu công nghệ riêng của Tập đoàn nên việc lập BCTC mất nhiều thời gian hơn các doanh nghiệp khác. Do đó, các doanh nghiệp này thường xin gia hạn CBTT BCTC như trường hợp Công ty Than Hà Lầm – TKV (mã HLC), Công ty Than Hà Tu – TKV (mã THT)… Vì vậy, cần xem xét bổ sung các quy định về thời hạn CBTT Báo cáo tài chính áp dụng với các nhóm ngành đặc thù. Đây cũng là quy định được nhiều quốc gia áp dụng như Philippines, Australia… như quy định tại Chương IV Quy chế niêm yết của SGDCK Australia, thời hạn công bố các thông tin định kỳ (trong đó có các BCTC) đối với các công ty niêm yết là 2 tháng nhưng đối với với các công ty khai thác, thăm dò khoáng sản, khai thác mỏ hoặc khí ga thì thời hạn CBTT là 75 ngày.

Hay quy định CBTT về giải trình ý kiến ngoại trừ, lưu ý của kiểm toán đối với BCTC năm tại Thông tư 52/2012/TT-BTC lại không quy định rõ giải trình có đi kèm với BCTC không hoặc khi nào công ty phải giải trình. Vì vậy trên thực tế, các doanh nghiệp thường công bố BCTC trước để kịp thời hạn và lâu sau đó mới công bố giải trình của mình đối với các ý kiến lưu ý/ngoại trừ của kiểm toán.

Về quy định CBTT các sự kiện có ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của công ty đại chúng:

Hiện nay nhiều sự kiện ảnh hưởng lớn đến tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của công ty chưa được đưa vào nghĩa vụ CBTT bất thường của công ty đại chúng như trường hợp công ty bị xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực môi trường, sở hữu trí tuệ, lao động; khi có quyết định của Trọng tài đối với công ty hoặc khi công ty ký kết các hợp đồng có giá trị lớn… Một số quy định về CBTT bất thường cũng chưa rõ ràng như yêu cầu công ty đại chúng công bố trong vòng 24 giờ khi có quyết định vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn chủ sở hữu trở lên nhưng không cụ thể đây là giá trị một khoản vay hay tổng giá trị các khoản vay, vì thế các công ty đại chúng thường chia nhỏ các khoản vay để “lách” nghĩa vụ CBTT. Hoặc quy định tại Điều 11 Thông tư 52/2012/TT-BTC, công ty niêm yết/công ty đại chúng quy mô lớn phải CBTT trong vòng 24 giờ khi công ty bị tổn thất tài sản có giá trị từ 10% vốn chủ sở hữu trở lên hoặc khi xảy ra sự kiện ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thế nào là “tổn thất” hoặc “sự kiện ảnh hưởng lớn” lại không được giải thích cụ thể.

Quy định CBTT về quản trị công ty đại chúng:

Một số quy định về nghĩa vụ CBTT của công ty đại chúng nhằm tránh xung đột về mặt lợi ích tại Thông tư 121/2012/TT-BTC về quản trị công ty đại chúng như khoản 3 Điều 23 yêu cầu công ty đại chúng CBTT trong vòng 24h về giao dịch giữa người nội bộ công ty đại chúng và người có liên quan của họ với công ty, công ty con, công ty do công ty đại chúng nắm quyền kiểm soát hoặc Điều 28 yêu cầu công ty đại chúng CBTT giao dịch giữa công ty đại chúng với công ty mà thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Giám đốc/Tổng Giám đốc điều hành trong 3 năm trước và giao dịch giữa công ty với công ty mà người có liên quan của những người này là thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Giám đốc/Tổng Giám đốc hoặc cổ đông lớn) chưa được đề cập tại Thông tư 52/2012/TT-BTC. Các công ty cũng thường không công bố các giao dịch với người có liên quan ra thị trường nhưng UBCKNN chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ các vi phạm này. Luận văn: Thực trạng PL về công bố thông tin chứng khoán

Ngoài ra, các quy định về CBTT của công ty đại chúng trên TTCK hiện nay cũng chưa quy định cụ thể việc CBTT trong tương lai các đánh giá của HĐQT, ban giám đốc về kế hoạch kinh doanh, sự thay đổi thị trường đầu ra của công ty, những tác động của thị trường vốn và triển vọng của công ty. Nhiều thông tin về thành viên HĐQT như sở hữu cổ phần của họ tại các công ty khác, năng lực, kinh nghiệm quản lý… chưa được đề cập tại Thông tư 52/2012/TT-BTC, trong khi các nước như Hàn Quốc, Úc…. đã đặt ra yêu cầu công ty đại chúng phải công bố các thông tin này, nhằm giúp nhà đầu tư đánh giá năng lực, phẩm chất của đội ngũ lãnh đạo công ty.

Hai là, các quy định hiện hành về công bố thông tin của công ty đại chúng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển TTCK và hội nhập quốc tế:

Về Báo cáo tài chính:

Nếu như nhiều quốc gia như Mỹ, Úc, Nhật Bản… đã áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS) trong lập BCTC thì tại Việt Nam, việc lập BCTC của các công ty đại chúng vẫn sử dụng chuẩn mực quốc tế quốc gia. Do đó, để đảm bảo chất lượng các BCTC, về lâu dài các doanh nghiệp cần lập BCTC theo quy định chuẩn mực quốc tế nhằm tăng khả năng so sánh, độ tin cậy và tính chính xác của BCTC. Mặt khác, các BCTC lập theo IFRS được chấp nhận rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được thị trường vốn quốc tế.

Về ngôn ngữ công bố thông tin trên TTCK:

Ngôn ngữ thực hiện CBTT trên TTCK Việt Nam là tiếng Việt. Hiện nay, tính trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán, chỉ có 15 công ty niêm yết có vốn hóa lớn nhất trên HOSE thực hiện CBTT bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh do các công ty này tham gia vào sàn giao dịch chứng khoán chung của khối ASEAN (ASEAN Exchange). Nếu so sánh với TTCK Nhật Bản – thị trường giao dịch chủ yếu dành cho nhà đầu tư nước ngoài, con số này là quá ít bởi trên TTCK Nhật Bản, mọi thông tin đều phải được công bố bằng tiếng Anh. Do đó, nhà đầu tư nước ngoài rất khó tiếp cận được thông tin về các doanh nghiệp Việt, chính vì thế TTCK Việt Nam chưa thu hút được nguồn vốn lớn từ đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt là từ các tổ chức lớn như các quỹ đầu tư, các ngân hàng và chính phủ nước ngoài…

Ngoài ra, Việt Nam cũng đang triển khai các biện pháp nhằm nâng hạng TTCK chuyển từ “thị trường biên” (Frontier Market) sang “thị trường mới nổi” (Emerging Market) nhằm thu hút hơn dòng vốn ngoại. Theo tiêu chí của MSCI (Morgan Stanley Capital International), việc nâng hạng TTCK đòi hỏi bắt buộc là phải tăng độ mở trong tiếp cận thông tin cho khối ngoại, vì thế, yêu cầu công ty đại chúng phải CBTT bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh là yêu cầu vô cùng bức thiết. Trước mắt, có thể lựa chọn một số thông tin quan trọng mà CTĐC phải công bố bằng tiếng Anh như các Báo cáo tài chính hoặc Báo cáo thường niên hoặc yêu cầu các công ty niêm yết quy mô lớn phải CBTT bằng tiếng Anh.

Về các thông tin liên quan đến phát triển bền vững của doanh nghiệp:

Hiện nay, pháp luật nhiều nước như Ấn Độ, Úc, Singapore, Nam Phi… đã đưa nội dung về phát triển bền vững là nội dung bắt buộc phải công bố của công ty đại chúng, nghĩa là yêu cầu công ty phải công bố các thông tin liên quan đến lĩnh vực kinh tế (như hiệu quả hoạt động kinh tế, thị phần trên thị trường…), trách nhiệm về môi trường (như thông tin về sử dụng năng lượng, phát thải, thông tin về các sản phẩm và dịch vụ), trách nhiệm xã hội (chính sách đối với người lao động, cộng đồng địa phương…) của công ty. Tại Ấn Độ, 100 công ty niêm yết lớn nhất phải nêu trong Báo cáo thường niên các nội dung về trách nhiệm môi trường, xã hội và kinh tế của doanh nghiệp. Hay tại Singapore, SGDCK ban hành Quy chế hướng dẫn Báo cáo phát triển bền vững cho doanh nghiệp và tại Quy chuẩn quản trị công ty sửa đổi, trách nhiệm liên quan đến vấn đề phát triển bền vững tại công ty thuộc về HĐQT. Tuy nhiên, tại Việt Nam yêu cầu công ty phải CBTT các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững chưa bắt buộc. Do đó, cần nghiên cứu để có những sửa đổi phù hợp tại văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động CBTT trên TTCK, giúp cho các doanh nghiệp không chỉ hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận mà còn phải có trách nhiệm hơn với môi trường, cộng đồng xã hội.

Ba là, pháp luật về CBTT chưa tạo ra cơ chế bảo vệ nhà đầu tư hiệu quả:

Về quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư:

Các quy định hiện nay mới chỉ đề cập quyền tiếp cận thông tin của nhà đầu tư theo những quy định chung trong Luật Doanh nghiệp mà chưa được cụ thể hoá trong pháp luật công bố thông tin. Do vậy, trong những trường hợp nhà đầu tư muốn biết, muốn tìm hiểu về những vấn đề quan tâm, sẽ không có căn cứ để yêu cầu công ty cung cấp các thông tin liên quan, trong khi đó nhu cầu này của họ là cần thiết và hợp pháp.

Ngoài ra, pháp luật hiện hành yêu cầu công ty đại chúng phải thực hiện CBTT trên website nhưng việc lưu trữ các thông này như thế nào hoặc bao lâu cũng chưa được quy định cụ thể. Nhiều thông tin khi tìm kiếm tại website doanh nghiệp đối với nhà đầu tư rất khó khăn. Các công ty khi CBTT cũng không hiển thị thời gian công bố trên trang thông tin điện tử. Nhiều trường hợp, họ có thể sửa lại thời gian công bố nhưng cả nhà đầu tư và cơ quan quản lý khó có thể kiểm soát. Do đó, cần có biện pháp hữu hiệu để quản lý các thông tin được đăng tải trên website của doanh nghiệp, giúp nhà đầu tư có thể tìm kiếm được thông tin dễ dàng.

Về cơ chế bảo vệ nhà đầu tư:

Đa số nhà đầu tư trên thị trường thường tiếp cận thông tin muộn hơn so với một số đối tượng khác như cổ đông nội bộ, kiểm toán viên… của công ty đại chúng, do đó, công ty phải đảm bảo nguyên tắc kịp thời trong CBTT. Pháp luật nhiều nước (như Mỹ, Hàn Quốc, Úc…) đều yêu cầu công ty niêm yết phải công bố ngay tức thì khi xảy ra các sự kiện phát sinh bất thường, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty nhằm hạn chế tình trạng trục lợi từ những người có lợi thế về thông tin nội bộ, qua đó đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Tại Việt Nam, theo Điều 8, Điều 10 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, thời hạn CBTT bất thường là 24 giờ hoặc 72 giờ. Thời hạn này được đánh giá là khá dài bởi với khoảng thời gian này, các đối tượng đã có thể thực hiện nhiều giao dịch chứng khoán để thu lợi.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư và chưa tồn tại một cơ quan chuyên trách nào về bảo vệ nhà đầu tư. Tại Hoa Kỳ, nhà đầu tư được bảo vệ tốt hơn bởi công ty bảo vệ nhà đầu tư và các công ty đại chúng buộc phải tuân thủ nghĩa vụ CBTT một cách nghiêm túc vì nếu không, họ sẽ bị lên án bởi công ty bảo vệ nhà đầu tư, và hệ quả là nhà đầu tư không chỉ tẩy chay chứng khoán mà còn tẩy chay cả sản phẩm, dịch vụ của công ty đó. Các công ty chứng khoán đưa ra các thông tin qua dịch vụ tư vấn đầu tư cũng phải thận trọng với cách thức tương tự. Do đó, cần xây dựng cơ chế pháp lý cho hoạt động của các công ty hoặc các quỹ bảo vệ nhà đầu tư.

2.2.2.2. Hạn chế, tồn tại trong áp dụng pháp luật công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Luận văn: Thực trạng PL về công bố thông tin chứng khoán

Xét trên Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh trong năm 2013, có 197 công ty vi phạm quy định về CBTT và đã được nhắc nhở bằng văn bản, chiếm 63% số công ty niêm yết. Tổng số lần nhắc nhở bằng văn bản là 489 lần, cụ thể như sau: Có 110 vi phạm liên quan đến CBTT bất thường; 253 vi phạm liên quan đến CBTT các Báo cáo tài chính; 84 vi phạm liên quan đến nộp hoặc CBTT Báo cáo tình hình quản trị công ty và 42 vi phạm liên quan đến CBTT

Báo cáo thường niên. Điều này cho thấy, các vi phạm nghĩa vụ CBTT vẫn còn phổ biến, chiếm tỷ trọng lớn trong các vi phạm trên TTCK.

Tính trên cả hai SGDCK, nếu trong năm 2012 có 23 doanh nghiệp bị hủy niêm yết thì đến năm 2013, con số này lên tới 37 doanh nghiệp, và chỉ trong nửa đầu năm 2014 số doanh nghiệp hủy niêm yết đã lên đến 22 công ty. Trong số các công ty này, nhiều công ty bị hủy niêm yết do vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ CBTT như Công ty cổ phần Sông Đà 3 (mã SD3), Công ty cổ phần xây dựng Huy Thắng (HTB), Công ty cổ phần phát triển nhà và sản xuất vật liệu xây dựng Chí Linh (mã MCI), Công ty cổ phần khai thác mỏ và xây dựng Cavico Việt Nam (mã MCV)… Điều này cho thấy trách nhiệm đối với nhà đầu tư và ý thức tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp Việt còn thấp.

Trên TTCK, các vi phạm về nghĩa vụ CBTT của công ty đại chúng đều liên quan đến tính kịp thời, đầy đủ và chính xác của thông tin, cụ thể như sau:

Về tính kịp thời trong CBTT của công ty đại chúng:

Phân tích thực trạng CBTT của các công ty đại chúng cho thấy, vi phạm của các công ty đại chúng liên quan đến tính kịp thời trong CBTT khá phổ biến. Các công ty đại chúng thường chậm công bố các thông tin phát sinh bất thường như thông tin về thay đổi nhân sự, thay đổi người được ủy quyền CBTT và Nghị quyết ĐHĐCĐ/HĐQT về việc thông qua việc trả cổ tức, mua cổ phiếu quỹ hoặc điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh… (năm 2013, HNX đã phát hiện 308 trường hợp vi phạm nghĩa vụ CBTT bất thường, tại HOSE cũng phát hiện 110 vi phạm). Ngoài ra, chậm CBTT Báo cáo tài chính cũng là một trong những sai phạm thường gặp của CTĐC (tính trong năm 2013, có khoảng 80 công ty vi phạm thời hạn thực hiện nghĩa vụ CBTT Báo cáo tài chính) và nguyên nhân được doanh nghiệp giải trình thường là thay đổi hệ thống kế toán, kế toán trưởng đi vắng hoặc phải thu thập nhiều số liệu của công ty liên kết… Tuy nhiên, vi phạm nghĩa vụ CBTT BCTC thường có nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp bởi tài liệu này chứa đựng những thông tin quan trọng nhất có ảnh hưởng đến giá chứng khoán, vì thế khi doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh tốt, họ thường có xu hướng “gom hàng” giá rẻ, sau đó mới công bố BCTC nhằm thu lợi khi giá chứng khoán tăng lên; ngược lại, khi BCTC có các thông tin không tốt về tình hình tài chính của doanh nghiệp, những người nắm được thông tin này sẽ bán trước chứng khoán do lo ngại giá chứng khoán sẽ giảm sau khi công bố BCTC.

Về chất lượng thông tin do công ty đại chúng công bố trên thị trường:

Việc công ty đại chúng CBTT đúng hạn mới chỉ đáp ứng các yêu cầu CBTT về mặt hình thức, tuy nhiên điều mà nhà đầu tư quan tâm nhất lại chính là tính chính xác trong nội dung thông tin do công ty công bố. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có khoảng cách rất lớn về chất lượng thông tin được công ty công bố trên thị trường và nội dung thông tin mà công ty đại chúng phải công bố theo quy định pháp luật. Các thông tin không chất lượng chủ yếu bắt gặp trong các Báo cáo tài chính, Báo cáo thường niên của công ty đại chúng được công bố định kỳ, bởi các báo cáo này đòi hỏi công ty phải định lượng nhiều chỉ tiêu, do đó thường mất nhiều thời gian để hoàn thành.

Về thông tin liên quan đến Báo cáo tài chính:

Sự chênh lệch đáng kể số liệu tài chính trước và sau kiểm toán của các công ty niêm yết luôn là một vấn đề nóng trên TTCK Việt Nam. Tại kỳ soát xét BCTC 2013, rất nhiều doanh nghiệp có chênh lệch lớn giữa BCTC trước và sau soát xét, thậm chí có công ty chuyển từ lãi qua lỗ khiến các nhà đầu tư “hoang mang” như: CTCP Xây dựng hạ tầng Sông Đà (SDH) công bố BCTC bán niên soát xét công ty mẹ với mức lỗ 16,37 tỷ đồng, thay vì lãi 612 triệu đồng như báo cáo trước đó do các khoản chi phí phát sinh thêm; CTCP Xuất nhập khẩu lâm thủy sản Bến Tre (FBT) từ lãi 3,36 tỷ đồng chuyển thành lỗ 4,34 tỷ đồng dẫn tới lãi gộp chỉ còn 755 triệu đồng so với mức 4,71 tỷ đồng trước soát xét… Không chỉ giảm mạnh lợi nhuận sau soát xét, nhiều doanh nghiệp bị kiểm toán viên đưa ra ý kiến nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục như công ty chứng khoán Tràng An (TAS), công ty đầu tư tổng hợp Hà Nội (SHN), Tập đoàn Thái Hòa (THV), công ty Viglacera Hạ Long (VHL), công ty đầu tư phát triển Vinaconex (VCR)… Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, nguyên nhân dẫn đến những sai lệch số liệu trước và sau soát xét không chỉ do việc phức tạp trong công tác lập BCTC mà thường còn do nguyên nhân chủ quan từ phía doanh nghiệp. Trong bối cảnh tình hình thị trường khó khăn chung, doanh nghiệp gặp khó khăn trong công tác bán hàng, tiêu thụ sản phẩm… nên họ tìm cách “làm đẹp” Báo cáo tài chính. Và trong các trường hợp này, dù các công ty có giải trình nguyên nhân nào thì khi nhà đầu tư nhìn vào những con số giảm đột ngột trong BCTC cũng không thể không hoài nghi về tính trung thực của nó. Điều này không những ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của nhà đầu tư mà còn làm ảnh hưởng đến chính hình ảnh của doanh nghiệp và gây tác động tiêu cực đến niềm tin của nhà đầu tư đối với TTCK. Luận văn: Thực trạng PL về công bố thông tin chứng khoán

Về thông tin trong Báo cáo thường niên của công ty đại chúng:

Không chỉ các thông tin tài chính mà nhiều thông tin khác do công ty đại chúng công bố tại Báo cáo thường niên cũng không đảm bảo chất lượng. Nhiều công ty đại chúng mới chỉ xây dựng Báo cáo thường niên một cách chung chung, thiếu thông tin được lượng hoá; sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên môn và quá nặng về các thông tin quá khứ… nên Báo cáo thường niên không nhiều hữu ích cho nhà đầu tư. Ngoài ra, các lợi ích và lương thưởng của Hội đồng quản trị cũng không được công ty đại chúng thống kê đầy đủ và chính xác tại báo cáo này. Điều này cho thấy, các công ty còn coi nhẹ việc công bố Báo cáo thường niên và thường công bố mang tính đối phó.

Về cách ứng xử của công ty khi xuất hiện các thông tin ảnh hưởng đến công ty hoặc đến giá chứng khoán:

Đối với một thị trường mới nổi như TTCK Việt Nam, yếu tố đầu cơ, lũng đoạn bằng tin đồn hay làm giá là điều không thể tránh khỏi. Những năm qua, TTCK đã xuất hiện nhiều tin đồn từ “các đội lái chứng khoán, làm giá chứng khoán” như sự kiện từ 18/12/2009 đến ngày 7/1/2010, công ty cổ phần Khoáng sản Hà Nam đã có 14 phiên tăng trần liên tiếp, từ 3.0 lên gần 6.0, phần nhiều nguyên nhân là do tin đồn công ty đã tìm ra được một mỏ vàng trữ lượng lớn; hay vào tháng 12/2011, thông tin công ty chứng khoán VNDirect (mã VND) nộp đơn xin phá sản làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của công ty này cũng như giá chứng khoán; hoặc gần đây sự kiện ngày 21/2/2014, sau khi tin đồn ông Trần Bắc Hà bị bắt, TTCK đã lao đốc mạnh, còn giá vàng, USD đồng loạt tăng… Có thể thấy các tin này đều có sức lan tỏa lớn và nhà đầu tư thì bất chấp rủi ro, tiếp nhận thông tin một cách đơn giản và vì thế khi TTCK “đảo sóng”, thiệt hại đối với họ là không tránh khỏi. Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành chưa quy định về cơ chế ứng phó với tin đồn cho các công ty đại chúng, và nhất là cho các công ty niêm yết; do đó các công ty thường chỉ công bố cho nhà đầu tư các giải trình khi UBCKNN yêu cầu. Mặt khác, các cơ quan quản lý cũng không có cơ chế kịp thời để phối hợp, xác định được tin đồn là chính xác hay không và bản thân nhiều công ty còn chậm trễ ứng phó với các tin đồn hoặc đôi khi còn “bỏ mặc”, “tiếp tay” cho các tin đồn. Theo ước tính, có đến 30% công ty niêm yết có tin đồn về các kế hoạch kinh doanh hay chia thưởng, song số doanh nghiệp lên tiếng để bác bỏ tin đồn chỉ chiếm phần nhỏ. Chỉ khi giá cổ phiếu của công ty tăng hoặc giảm liên tiếp từ 10 phiên liên tiếp, công ty mới giải trình và thường giải trình với nguyên nhân là do cung – cầu thị trường. Điều này chứng tỏ trách nhiệm của doanh nghiệp đối với nhà đầu tư còn thấp và khi thị trường càng thiếu minh bạch, các hiện tượng “làm giá chứng khoán” nhờ các tin đồn càng nhiều. Do đó, cần có cơ chế công khai, minh bạch hơn, tránh việc các nhà đầu tư coi “tin đồn” như là một “đặc sản” của TTCK Việt Nam.

Qua các phân tích trên cho thấy, các vi phạm về công bố thông tin của các công ty đại chúng vẫn còn khá phổ biến. Bên cạnh đó, còn một khoảng cách khá lớn giữa việc công bố thông tin và minh bạch thông tin. Thực trạng này xuất phát từ nguyên nhân các công ty đại chúng vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của CBTT và việc nâng cao hình ảnh doanh nghiệp thông qua thực hiện tốt nghĩa vụ công bố thông tin. Trên thực tế, các công ty đại chúng thường đối phó bằng cách tuân thủ nghĩa vụ CBTT đúng hạn nhưng chất lượng thông tin còn thấp. Hệ quả của nó là làm cho nhà đầu tư không có niềm tin với doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến tính thanh khoản của chứng khoán và về lâu dài nó làm ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của TTCK.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

TTCK là một “cái Chợ” mà ở đó công ty đại chúng có vai trò cung cấp “hàng hóa chứng khoán”. Muốn “hàng hóa” được nhà đầu tư lựa chọn, có “giá” tốt thì bản thân hàng hóa đó phải có chất lượng và các công ty phải đưa ra thông tin về hàng hóa một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác. Pháp luật điều chỉnh hoạt động CBTT trên TTCK nói chung và điều chỉnh hoạt động CBTT của công ty đại chúng nói riêng đã không ngừng được hoàn thiện. Hiện nay, Thông tư số 52/2012/TT-BTC đã xác định khá chi tiết nghĩa vụ CBTT của các công ty đại chúng. Theo đó, công ty đại chúng phải công bố định kỳ hoặc bất thường hoặc công bố theo yêu cầu của SGDCK, UBCKNN đối với các thông tin có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty hoặc đến giá chứng khoán. Các thông tin này có vai trò quan trọng, giúp nhà đầu tư xây dựng chiến lược đầu tư hiệu quả. Tuy nhiên, tình trạng công bố thông tin không kịp thời, thiếu minh bạch của các công ty đại chúng vẫn là vấn đề “nổi cộm” hiện nay. Thực trạng này có nguyên nhân từ chính sách pháp luật nhưng phần nhiều do yếu tố chủ quan của doanh nghiệp và hệ quả của nó là làm giảm niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước đối với doanh nghiệp nói riêng và TTCK nói chung. Do đó, cần thiết phải có những giải pháp kịp thời nhằm nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động công bố thông tin của các chủ thể tham gia TTCK, mà quan trọng nhất là các công ty đại chúng, từ đó giúp TTCK phát triển ổn định, bền vững hơn. Luận văn: Thực trạng PL về công bố thông tin chứng khoán

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Giảp pháp HĐ công bố thông tin của CTy đại chúng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x