Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.1. Công ty đại chúng và phân loại công ty đại chúng theo pháp luật chứng khoán Việt Nam
Khái niệm công ty đại chúng:
Hiện nay, khái niệm công ty đại chúng được pháp luật Việt Nam tiếp cận khá gần với thông lệ quốc tế, theo đó tính chất đại chúng của công ty cổ phần được xem xét trên cả quy mô vốn, số lượng cổ đông cũng như hoạt động phát hành, niêm yết cổ phiếu. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 25 Luật Chứng khoán năm 2006, công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau:
“a) Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng;
- Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán;
- Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên”.
Với đặc thù tại Việt Nam, các công ty đại chúng chủ yếu là công ty cổ phần có quy mô vốn từ trên 10 tỷ và số lượng cổ đông từ trên 100 cổ đông, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Phân loại công ty đại chúng:
Tại Việt Nam, cách phân loại công ty đại chúng có sự thay đổi theo từng giai đoạn. Từ trước ngày 1/6/2012 (trước ngày Thông tư số 52/2012/TT-BTC có hiệu lực), công ty đại chúng chỉ được phân loại theo tiêu chí niêm yết, bao gồm: (i) công ty niêm yết (công ty có chứng khoán niêm yết trên SGDCK hoặc Trung tâm Giao dịch chứng khoán) và (ii) công ty đại chúng khác, theo đó công ty niêm yết có trách nhiệm CBTT nghiêm ngặt hơn các công ty đại chúng không niêm yết. Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
Với nỗ lực minh bạch hóa TTCK, trong đó có tiếp thu xu hướng chung về việc phân loại nghĩa vụ CBTT của công ty đại chúng theo quy mô, Thông tư số 52/2012/TT-BTC đã xác định nghĩa vụ CBTT của các công ty đại chúng theo cả yếu tố niêm yết và quy mô công ty, cụ thể các công ty đại chúng quy mô lớn có nghĩa vụ CBTT ngang bằng với các công ty niêm yết; các công ty đại chúng khác (không phải công ty niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn) có nghĩa vụ CBTT thấp hơn. Như vậy, hiện nay công ty đại chúng được phân loại như sau:
- Theo tiêu chí niêm yết, công ty đại chúng bao gồm:
- Công ty đại chúng niêm yết: Là công ty đại chúng có chứng khoán niêm yết trên SGDCK (sau đây gọi tắt là công ty niêm yết), bao gồm:
Công ty đại chúng niêm yết cổ phiếu: Để niêm yết cổ phiếu trên SGDCK, công ty phải đáp ứng các điều kiện khắt khe quy định tại khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 54 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán (sau đây gọi tắt là Nghị định số 58/2012/NĐ-CP). SGDCK TP. Hồ Chí Minh (HOSE) tổ chức giao dịch cho cổ phiếu của các công ty có vốn điều lệ từ trên 120 tỷ đồng (trước 15/9/2012 là 80 tỷ đồng) và trên 300 cổ đông. Còn SGDCK Hà Nội (HNX) tổ chức giao dịch cho cổ phiếu của các công ty có vốn điều lệ từ trên 30 tỷ đồng (trước 15/9/2012 là 10 tỷ đồng) và trên 100 cổ đông. Có thể thấy, so với các công ty đại chúng thông thường (có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng và có trên 100 cổ đông không phải nhà đầu tư chuyên nghiệp), các công ty niêm yết cổ phiếu phải đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn.
Công ty đại chúng niêm yết trái phiếu: Các điều kiện niêm yết trái phiếu trên SGDCK được quy định tại khoản 2 Điều 53, khoản 2 Điều 54 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP. Trên HOSE, công ty muốn niêm yết trái phiếu phải có vốn điều lệ trên 120 tỷ; (ii) hoạt động kinh doanh 2 năm liền trước có lãi; (iii) có ít nhất 100 người sở hữu trái phiếu cùng một đợt phát hành. Đối với công ty niêm yết trái phiếu trên HNX phải đáp ứng điều kiện sau: (i) vốn điều lệ trên 10 tỷ; (ii) hoạt động kinh doanh năm liền trước có lãi. Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, các công ty đại chúng niêm yết trái phiếu trên SGDCK phải thực hiện nghĩa vụ CBTT như công ty niêm yết cổ phiếu.
Công ty đại chúng khác: Là công ty đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 25 Luật Chứng khoán năm 2006 nhưng không có chứng khoán niêm yết trên SGDCK, bao gồm:
Công ty đại chúng đăng ký giao dịch: Là công ty được chấp thuận giao dịch chứng khoán trên TTCK đăng ký giao dịch (thị trường UPCoM) tại SGDCK Hà Nội. Thị trường này chính thức đi vào hoạt động ngày 24/06/2009 và hiện khá hoàn thiện với chỉ số riêng có tên gọi UPCoM Index (tương tự như chỉ số VN Index của SGDCK TP. Hồ Chí Minh và chỉ số HNX Index của SGDCK Hà Nội). Chứng khoán được giao dịch trên thị trường UPCoM bao gồm các loại cổ phiếu và trái phiếu chuyển đổi của các công ty đại chúng chưa niêm yết hoặc bị hủy niêm yết với phương thức giao dịch tương tự như trên thị trường niêm yết là khớp lệnh liên tục và phương thức giao dịch thỏa thuận.
Các công ty đại chúng khác: Là các công ty đại chúng đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 25 Luật Chứng khoán năm 2006 nhưng không có chứng khoán niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên SGDCK.
Theo tiêu chí quy mô công ty, công ty đại chúng bao gồm:
Công ty đại chúng quy mô lớn: Theo khoản 2 Điều 2 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, công ty đại chúng quy mô lớn là công ty đại chúng đáp ứng cả hai điều kiện sau: (i) có vốn điều lệ thực góp từ 120 tỷ đồng trở lên được xác định tại Báo cáo tài chính năm gần nhất có kiểm toán hoặc theo kết quả phát hành gần nhất và (ii) có số lượng cổ đông không thấp hơn 300 cổ đông tính tại thời điểm chốt danh sách cổ đông tại TTLKCK vào ngày 31 tháng 12 hàng năm theo danh sách do UBCKNN công bố.
Công ty đại chúng thông thường: Là công ty đại chúng khác đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 25 Luật Chứng khoán năm 2006 nhưng có quy mô vốn nhỏ hơn 120 tỷ và/hoặc số cổ đông thấp hơn 300 cổ đông.
Như vậy, hiện nay công ty đại chúng được phân loại theo cách thức hỗn hợp, vừa theo yếu tố niêm yết, vừa theo quy mô công ty. Để xác định một công ty là công ty đại chúng quy mô lớn, các nhà lập pháp Việt Nam căn cứ trên cả quy mô vốn (vốn điều lệ thực góp từ trên 120 tỷ) và số lượng cổ đông (từ trên 300 cổ đông). Đây là điểm khá khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của nhiều quốc gia có chính sách CBTT theo quy mô công ty như Mỹ, Nhật… khi các quốc gia này không xem số lượng cổ đông là căn cứ để xác định một công ty là công ty quy mô lớn, bởi trên thực tế, số lượng cổ đông công ty có thể thường xuyên thay đổi do hoạt động chuyển nhượng cổ phần hiện nay rất phổ biến, dẫn đến một công ty hôm nay có thể trở thành công ty đại chúng quy mô lớn nhưng ngày mai lại là công ty đại chúng thông thường hoặc ngược lại.
Theo quy định tại Thông tư số 52/2012/TT-BTC, các công ty đại chúng quy mô lớn và công ty niêm yết (cả niêm yết cổ phiếu và trái phiếu) có trách nhiệm CBTT khắt khe hơn các công ty đại chúng khác. Yêu cầu công ty đại chúng quy mô lớn phải công khai thông tin ngang bằng các công ty niêm yết là điểm mới quan trọng tại Thông tư số 52/2012/TT-BTC so với các Thông tư điều chỉnh hoạt động CBTT trên TTCK trước đó, nhằm khuyến khích các công ty lớn lên niêm yết tập trung trên TTCK, tăng nguồn cung hàng hóa cho thị trường, triệt tiêu tư tưởng doanh nghiệp không muốn niêm yết vì ngại CBTT, qua đó thu hẹp thị trường tự do, bảo vệ đông đảo cổ đông đang nắm giữ cổ phần tại các công ty lớn, ngay cả khi các công ty này không niêm yết. Quy định này cũng thể hiện sự tiếp thu kinh nghiệm tiến bộ trong chính sách CBTT của nhiều nước có TTCK phát triển như Mỹ, Nhật… bởi lẽ nghĩa vụ CBTT của công ty cần căn cứ trên tính đại chúng, phạm vi hoạt động, tính ảnh hưởng của công ty đối với xã hội mà không phải căn cứ dựa trên việc cổ phiếu của công ty đó có được niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán hay không.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2.1.2. Nội dung các thông tin của công ty đại chúng phải công bố trên thị trường chứng khoán Việt Nam Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
2.1.2.1. Công bố các thông tin tài chính của công ty đại chúng
Thông tin tài chính của doanh nghiệp, mà chủ yếu là thông tin về Báo cáo tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó cho biết tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của công ty. Các nhà quản lý doanh nghiệp sử dụng BCTC để đánh giá hiệu quả của các chính sách đã thực hiện cũng như xác định các vấn đề cần xử lý, từ đó đưa ra các đối sách kinh doanh phù hợp. Các cổ đông cần BCTC để theo dõi khoản vốn đầu tư của mình được quản lý và sinh lời ra sao. Các chủ nợ, nhà cung ứng tìm kiếm thông tin về khả năng thanh toán của những công ty mà họ đang giao dịch. Còn các nhà đầu tư thông qua BCTC để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Thông thường, khi công ty công bố kết quả kinh doanh tốt đồng nghĩa với việc cổ đông sẽ được doanh nghiệp chi trả cổ tức cao hơn và giá trị cổ phiếu của công ty cũng sẽ tăng lên tương ứng, điều này kích thích dòng tiền đầu tư vào mã chứng khoán đó. Chính vì thế mà các “mùa báo cáo tài chính” hàng năm chính là giai đoạn giá chứng khoán có biến động lớn, vì khi đó thông tin về tình hình tài chính và mức chia cổ tức của các doanh nghiệp được “hé lộ”.
Theo thông lệ chung của các nước, công ty đại chúng phải lập và CBTT định kỳ BCTC năm, BCTC bán niên và BCTC quý. Pháp luật một số quốc gia phát triển như Mỹ, Úc, Nhật Bản… còn yêu cầu công ty đại chúng lập BCTC theo chuẩn mực BCTC quốc tế (International Financial Reporting Standards – IFRS), đồng phải công bố BCTC trên website của công ty. Tại Việt Nam, việc lập và trình bày BCTC của công ty đại chúng thực hiện theo các Chuẩn mực kế toán Việt Nam (Vietnamese Accounting Standards – VAS) ban hành kèm theo Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003; Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15/2/2005; Thông tư số 244/2009/TT-BTC ngày 31/12/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Chế độ kế toán doanh nghiệp hoặc chế độ kế toán do Bộ Tài chính chấp thuận ban hành. Việc lập và trình bày BCTC phải tuân thủ các yêu cầu như trung thực, hợp lý; lựa chọn chính sách kế toán phù hợp với chuẩn mực kế toán; phải căn cứ vào số liệu sau khi khóa sổ kế toán; phải lập đúng nội dung, phương pháp… Trường hợp công ty đại chúng là công ty mẹ hoặc là đơn vị kế toán cấp trên có các đơn vị kế toán trực thuộc thì công ty phải CBTT về BCTC của công ty mẹ/đơn vị kế toán cấp trên và BCTC hợp nhất/BCTC tổng hợp theo quy định pháp luật kế toán. Báo cáo tài chính của công ty đại chúng phải bao gồm các báo cáo sau: Bảng cân đối kế toán; Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Bản thuyết minh BCTC theo quy định pháp luật kế toán. Các báo cáo này cung cấp cho người đọc những thông tin khác nhau để có cái nhìn toàn diện về doanh nghiệp, cụ thể: Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
- Bảng cân đối kế toán cung cấp thông tin về tình hình tài sản, nguồn vốn và nợ phải trả tại thời điểm báo cáo;
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cung cấp thông tin về hoạt động kinh doanh của công ty trong một giai đoạn nhất định;
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho biết luồng tiền doanh nghiệp đã nhận được và chi ra trong thời gian báo cáo;
- Bản thuyết minh Báo cáo tài chính giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo không thể trình bày rõ ràng và chi tiết.
Tương tự quy định pháp luật các nước, công ty đại chúng khi CBTT phải gửi BCTC đến UBCKNN, SGDCK (đối với công ty niêm yết/đăng ký giao dịch) và công bố toàn văn BCTC năm trên website của công ty [4, Điều 7, Điều 10]. Bên cạnh đó, BCTC phải được lưu trữ trong thời hạn 10 năm, nhằm đảm bảo nhà đầu tư có thể tìm kiếm và sử dụng các thông tin tài chính dễ dàng trong một khoảng thời gian dài.
Trước đây theo quy định tại Thông tư 09/2010/TT-BTC, các công ty niêm yết phải thực hiện CBTT BCTC năm được kiểm toán, BCTC bán niên soát xét và BCTC quý; các công ty đại chúng không niêm yết chỉ phải CBTT BCTC năm. Hiện nay, theo Thông tư số 52/2012/TT-BTC, công ty đại chúng quy mô lớn phải thực hiện nghĩa vụ CBTT ngang bằng với công ty niêm yết, còn các công ty đại chúng khác thực hiện nghĩa vụ CBTT theo tiêu chí thấp hơn. Theo đó, công ty đại chúng niêm yết (cổ phiếu hoặc trái phiếu) và các công ty đại chúng quy mô lớn phải CBTT BCTC năm được kiểm toán, BCTC bán niên được soát xét bởi tổ chức kiểm toán độc lập được chấp thuận và BCTC quý; các công ty đại chúng khác chỉ phải CBTT BCTC năm được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập, cụ thể như sau:
Công bố thông tin Báo cáo tài chính năm:
BCTC năm phản ánh toàn bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp trong năm và là tài liệu cung cấp thông tin quan trọng không chỉ đối với công chúng đầu tư, các đối tác mà còn đối với cả cơ quan quản lý. Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005, tất cả các công ty cổ phần phải gửi BCTC năm đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải thông báo đến tất cả các cổ đông nội dung tóm tắt BCTC hàng năm; đồng thời mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền xem và sao chép BCTC năm của công ty tại cơ quan đăng ký kinh doanh [18, Điều 129]. Hiện nay, dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi đang xem xét bổ sung quy định các công ty cổ phần phải công bố BCTC năm trên website công ty hoặc trên cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, nhằm phù hợp với các thông lệ quốc tế hiện nay
Đối với các công ty đại chúng, theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, yêu cầu CBTT định kỳ BCTC năm đã được kiểm toán là yêu cầu bắt buộc. Việc kiểm toán BCTC năm nhằm đảm bảo các thông tin tài chính do công ty cung cấp là tin cậy và chính xác, thể hiện đúng đắn vị thế và kết quả hoạt động của công ty. Điều này có nghĩa là vào thời điểm kết thúc năm tài chính, các kiểm toán viên sẽ tham gia công việc kiểm kê tài sản, xem xét các vấn đề đền bù, xử lý công nợ, lãi, lỗ…của công ty đại chúng, để đưa ra xác nhận đảm bảo những nội dung, số liệu trong BCTC năm do công ty lập là trung thực, hợp lý hoặc đưa ra các điểm ngoại trừ hoặc từ chối đưa ra ý kiến kiểm toán…
Về tổ chức kiểm toán thực hiện kiểm toán BCTC năm của công ty đại chúng: Đối với các CTĐC thông thường, BCTC chỉ cần được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập. Còn với các CTĐC quy mô lớn và công ty niêm yết, theo khoản 1 Điều 10 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, BCTC năm của các công ty này phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên được UBCKNN chấp thuận. Điều này có nghĩa là để được kiểm toán cho công ty niêm yết, CTĐC quy mô lớn thì công ty kiểm toán và các kiểm toán viên phải trải qua một quá trình xét duyệt hàng năm với những tiêu chuẩn khắt khe theo quy định tại Quyết định số 89/2007/QĐ-BTC ngày 24/10/2007 của Bộ Tài chính về Quy chế lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán được chấp thuận kiểm toán cho tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán. Theo đó, tổ chức kiểm toán phải đáp ứng rất nhiều tiêu chí như quy mô vốn, số lượng kiểm toán viên đăng ký (trên 7 người), số lượng khách hàng… và phải đệ trình hồ sơ cho UBCKNN trước ngày 30 tháng 10 hàng năm. Kiểm toán viên đăng ký cũng cần có tối thiểu hai năm kinh nghiệm, kể từ ngày được cấp chứng chỉ hành nghề. Với những tiêu chí đó, hiện chỉ có 43 trong số gần 200 công ty kiểm toán tại Việt Nam được UBCKNN chấp thuận thực hiện kiểm toán cho công ty đại chúng quy mô lớn, công ty niêm yết. Điều này cũng dẫn đến thực tế “quá tải” công việc cho các công ty kiểm toán khi số lượng các công ty niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn lên đến cả nghìn công ty. Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
Về thời hạn CBTT Báo cáo tài chính năm: Các công ty đại chúng đều phải CBTT BCTC năm đã được kiểm toán chậm nhất là mười (10) ngày, kể từ ngày tổ chức kiểm toán ký báo cáo kiểm toán, đồng thời thời hạn CBTT không được vượt quá chín mươi (90) ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính [4, khoản 1 Điều 7]. Thời hạn 90 ngày là khoảng thời gian nhằm đảm bảo công ty đại chúng có thể hoàn thành việc lập và kiểm toán BCTC năm, nhất là khi thủ tục kiểm toán mang tính phức tạp và mất nhiều thời gian. Thời hạn này đã được rút ngắn lại (10 ngày) so với thời hạn 100 ngày quy định tại Thông tư số 09/2010/TT-BTC, đồng thời cũng phù hợp với thời hạn nộp BCTC năm của doanh nghiệp được quy định tại pháp luật kế toán. Ngoài ra, do tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của BCTC năm đến giá cổ phiếu nên Thông tư số 52/2012/TT-BTC còn yêu cầu công ty nếu hoàn thành BCTC sớm, phải chủ động CBTT sớm mà không đợi đến hết thời hạn 90 ngày mới công bố (công bố trong vòng 10 ngày kể từ ngày tổ chức kiểm toán ký báo cáo kiểm toán), ví dụ kiểm toán viên ký báo cáo kiểm toán vào ngày thứ 60 sau khi kết thúc năm tài chính thì công ty phải CBTT BCTC năm chậm nhất vào ngày thứ 70, kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Đây là điểm mới tại Thông tư 52/2012/TT-BTC, nhằm đảm bảo tính kịp thời của các thông tin tài chính và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Công bố thông tin Báo cáo tài chính bán niên:
Nghĩa vụ CBTT Báo cáo tài chính bán niên đã được soát xét trước đây chỉ áp dụng cho công ty niêm yết thì hiện nay áp dụng cả cho các công ty đại chúng quy mô lớn. Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, đơn vị kiểm toán thực hiện soát xét BCTC bán niên phải là đơn vị thực hiện kiểm toán BCTC năm cho công ty đại chúng quy mô lớn, công ty niêm yết, nghĩa là việc soát xét BCTC bán niên cũng phải được thực hiện bởi tổ chức kiểm toán độc lập được UBCKNN chấp thuận. Mặc dù so với nghiệp vụ kiểm toán thì kết luận của kiểm toán viên tại BCTC soát xét chỉ đảm bảo ở mức độ vừa phải (do việc soát xét BCTC đơn giản hơn, đó chỉ là thủ tục kiểm tra giữa kỳ, cách kiểm kê đơn giản, nhanh gọn hơn, ví dụ hàng tồn kho chỉ kiểm kê đột xuất một số mặt hàng, công nợ chỉ đối chiếu khi có nghi vấn…), tuy nhiên việc soát xét BCTC bán niên của công ty niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn là cần thiết vì thông qua công tác soát xét, kiểm toán viên sẽ giúp doanh nghiệp chấn chỉnh công tác kế toán trong 6 tháng đầu năm, không bị lặp lại các sai sót trong 6 tháng cuối năm. Ngoài ra, ý kiến của kiểm toán viên tại BCTC bán niên cũng giúp nhà đầu tư yên tâm hơn khi sử dụng các số liệu tài chính để đưa ra chiến lược đầu tư.
Về thời hạn CBTT BCTC bán niên soát xét: Theo khoản 3 Điều 10 Thông tư 52/2012/TT-BTC thì tổ chức niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn phải CBTT định kỳ BCTC bán niên đã được soát xét trong vòng 5 ngày làm việc, kể từ ngày tổ chức kiểm toán ký báo cáo soát xét và không quá 45 ngày, kể từ ngày kết thúc sáu tháng đầu năm tài chính. Trường hợp tổ chức niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ/đơn vị kế toán cấp trên thì thời hạn CBTT BCTC bán niên hợp nhất/tổng hợp và BCTC bán niên của công ty mẹ/đơn vị kế toán cấp trên đã được soát xét là 60 ngày, kể từ ngày kết thúc sáu tháng đầu năm tài chính. Tương tự BCTC năm, điểm mới tại Thông tư 52/2012/TT-BTC so với Thông tư 09/2010/TT-BTC trước đây là không chỉ quy định tổng thời hạn CBTT BCTC bán niên (là 45 ngày hoặc 60 ngày) mà còn buộc công ty nếu hoàn thành sớm công tác soát xét phải CBTT BCTC bán niên sớm hơn (công bố trong vòng 5 ngày làm việc, sau khi kiểm toán ký báo cáo soát xét). Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
Công bố thông tin định kỳ Báo cáo tài chính quý:
Tương tự như BCTC bán niên soát xét, các công ty niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn phải lập và CBTT BCTC quý. Mặc dù không có ý kiến của đơn vị kiểm toán nhưng việc công ty CBTT BCTC quý giúp nhà đầu tư có được thông tin tài chính của công ty trong từng quý, so sánh được với số liệu tài chính được nêu tại BCTC bán niên và BCTC năm, từ đó đánh giá được mức độ trung thực của các thông tin được công ty đưa ra. Theo khoản 3 Điều 10 Thông tư 52/2012/TT-BTC, tổ chức niêm yết, CTĐC quy mô lớn phải CBTT về BCTC quý trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày kết thúc quý. Trường hợp tổ chức niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ/đơn vị kế toán cấp trên có các đơn vị kế toán trực thuộc thì thời hạn CBTT BCTC quý là 45 ngày, kể từ ngày kết thúc quý. Thời hạn này đã rút ngắn lại 5 ngày so với quy định trước đó tại Thông tư số 09/2010/TT-BTC (lần lượt là 25 ngày – 50 ngày).
Ngoài ra, các thông tin tài chính được đưa ra cần có sự so sánh với các số liệu của cùng kỳ năm trước để nhà đầu tư dự đoán, đánh giá được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, Thông tư 52/2012/TT-BTC cũng bổ sung quy định trường hợp lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp tại Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa BCTC quý của kỳ công bố so với BCTC quý cùng kỳ năm trước có biến động từ mười phần trăm (10%) trở lên hoặc kết quả kinh doanh trong quý bị lỗ thì công ty phải giải trình rõ nguyên nhân trong BCTC đó.
Công bố bất thường các thông tin khác liên quan đến Báo cáo tài chính:
Bên cạnh các BCTC, CTĐC còn phải công bố trong vòng 24 giờ đối với một số thông tin khác có liên quan đến BCTC như: khi BCTC năm kiểm toán có kiến ngoại trừ, không chấp nhận hoặc ý kiến từ chối của tổ chức kiểm toán; khi công bố công ty kiểm toán đã ký hợp đồng kiểm toán BCTC năm hoặc thay đổi công ty kiểm toán (sau khi đã ký hợp đồng) hoặc việc từ chối kiểm toán BCTC của công ty kiểm toán; kết quả điều chỉnh hồi tố BCTC (nếu có). Ngoài ra, CTĐC quy mô lớn, công ty niêm yết còn phải giải trình trong vòng 24 giờ khi số liệu tài chính mà công ty công bố trước đó khác với BCTC năm được kiểm toán.
Có thể thấy, các quy định về CBTT BCTC của công ty đại chúng trên TTCK Việt Nam (cả định kỳ và bất thường) đã khá đầy đủ và tiệm cận với thông lệ quốc tế về cả loại BCTC cũng như cách thức thực hiện CBTT (thực hiện công bố qua website). Ngoài ra, do vai trò đặc biệt quan trọng của các thông tin tài chính nên pháp luật các nước đều quy định chế tài nghiêm khắc khi công niêm yết khi không thực hiện CBTT Báo cáo tài chính. Tại Việt Nam, một công ty sẽ bị hủy niêm yết nếu chậm công bố BCTC năm trong vòng 3 năm liên tiếp [6,
Điều 60]. Còn tại Thái Lan, theo điểm 1.2 phần I Chương IV Quy chế CBTT của SGDCK, các công ty niêm yết phải lập BCTC năm và BCTC quý, nếu công ty chậm nộp BCTC thì SGDCK sẽ gửi thông báo “đình chỉ” giao dịch chứng khoán của công ty; hoặc trường hợp công ty niêm yết không nộp bất cứ BCTC nào được yêu cầu trong một khoảng thời gian dài hơn 180 ngày, SGDCK Thái Lan sẽ gửi thông báo “huỷ bỏ” niêm yết chứng khoán của công ty. Các công ty sẽ có 180 ngày để thực hiện CBTT BCTC, sau thời gian này, SGDCK Thái Lan ban hành cảnh báo hủy bỏ niêm yết ra thị trường và sẽ cho phép chứng khoán đó được giao dịch trong vòng 30 ngày trước khi chính thức hủy bỏ niêm yết cổ phiếu. Tương tự, theo quy định tại điểm 9.28 phần K về CBTT định kỳ tại Quy chế CBTT của SGDCK Bursa của Malaysia, các công ty niêm yết phải CBTT BCTC năm và quý, nếu sau một khoảng thời gian được gia hạn (từ 15-20 ngày) mà công ty không phát hành BCTC, SGDCK Bursa sẽ đình chỉ giao dịch chứng khoán của công ty đó.
2.1.2.2. Công bố thông tin về tình hình hoạt động và kết quả sản xuất, kinh doanh của công ty đại chúng Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
Công bố thông tin bất thường khi phát sinh các sự kiện có ảnh hưởng lớn đến quá trình hoạt động, sản xuất kinh doanh của công ty đại chúng:
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các nước đều quy định nghĩa vụ công khai thông tin của công ty đại chúng khi phát sinh các thông tin quan trọng ảnh hưởng đến quá trình hoạt động, sản xuất kinh doanh của công ty như việc ký hợp đồng có giá trị lớn hoặc khi công ty bị tổn thất lớn về mặt tài sản… bởi những thông tin này đều có ảnh hưởng tức thời đến giá chứng khoán. Đa số các nước như Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Úc… đều quy định công ty đại chúng phải CBTT ngay lập tức trong các trường hợp này. Tại Việt Nam, công ty đại chúng phải CBTT bất thường khi phát sinh các sự kiện được quy định tại Điều 101 Luật Chứng khoán năm 2006; khoản 19 Điều 1 Luật Chứng khoán năm 2010 và được cụ thể tại Điều 8, Điều 10 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, cụ thể như sau:
Theo Điều 8 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, công ty đại chúng phải CBTT trong thời hạn 24 giờ khi phát sinh một trong các sự kiện sau:
- Quyết định của HĐQT về việc mua lại cổ phiếu của công ty hoặc bán lại số cổ phiếu đã mua; ngày thực hiện quyền mua cổ phiếu hoặc chuyển đổi trái phiếu sang cổ phiếu; quyết định chào bán chứng khoán ra nước ngoài và các quyết định liên quan đến việc chào bán chứng khoán; chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty;
- Nghị quyết/Quyết định của ĐHĐCĐ/HĐQT (kèm theo Biên bản họp hoặc Biên bản kiểm phiếu) về mức cổ tức, hình thức trả cổ tức, phát hành cổ phiếu thưởng; việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp; tách, gộp cổ phiếu;
- Quyết định vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn chủ sở hữu trở lên tính tại BCTC năm gần nhất đã được kiểm toán hoặc BCTC bán niên gần nhất được soát xét;
- Có kết luận của cơ quan thuế về việc công ty vi phạm pháp luật về thuế;
- Khi có thông báo của Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc khi nhận được thay đổi đổi nội dung liên quan đến Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy phép thành lập và hoạt động hoặc Giấy phép hoạt động;
- Các sự kiện khác có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, công ty đại chúng còn phải CBTT trong 72 giờ khi có quyết định về việc thành lập, mua, bán hoặc giải thể công ty con, đầu tư hoặc không còn đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết.
Đối với công ty đại chúng quy mô lớn, công ty niêm yết, ngoài các trường hợp trên, công ty còn phải CBTT trong vòng 24 giờ khi xảy ra một trong các sự kiện được quy định tại khoản 1 Điều 11 Thông tư 52/2012/TT-BTC, bao gồm:
Khi có tổn thất tài sản từ 10% vốn chủ sở hữu trở lên tính tại BCTC năm gần nhất đã được kiểm toán hoặc BCTC bán niên gần nhất được soát xét;
Quyết định liên quan đến vấn đề tăng, giảm vốn điều lệ; góp vốn có giá trị từ 10% trở lên tổng tài sản của công ty vào một tổ chức khác hoặc việc mua, bán tài sản có giá trị lớn hơn 15% tổng tài sản của công ty;
Góp vốn có giá trị từ 50% trở lên tổng vốn của công ty nhận vốn góp; thông qua hợp đồng có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản;
Có quyết định về việc đóng mở công ty trực thuộc, chi nhánh, nhà máy, văn phòng đại diện.
Trường hợp, các công ty đại chúng quy mô lớn, công ty niêm yết khi được chấp thuận hoặc hủy bỏ niêm yết tại SGDCK nước ngoài, công ty phải CBTT trong vòng 72 giờ.
Có thể thấy, pháp luật Việt Nam đã quy định khá chi tiết và đầy đủ các sự kiện ảnh hưởng lớn đến tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh mà công ty đại chúng phải CBTT. Tuy nhiên, nếu pháp luật nhiều nước quy định công ty đại chúng có nghĩa vụ CBTT “ngay lập tức” (công bố trong ngày) khi phát sinh các sự kiện này thì tại Việt Nam, các công ty chỉ phải CBTT trong vòng 24 giờ, có trường hợp là 72 giờ. Theo đánh giá của Hiệp hội các Uỷ ban chứng khoán thế giới (IOSCO) thì khoảng thời gian 24 giờ chưa đảm bảo tính kịp thời của thông tin, bởi với TTCK thời gian một vài giây cũng đủ để các nhà đầu tư đặt lệnh giao dịch và kiếm lời. Vì thế, Hiệp hội này khuyến nghị đối với TTCK Việt Nam, nên áp dụng thông lệ của nhiều quốc gia, theo đó công ty đại chúng phải CBTT “ngay sau khi phát sinh sự kiện bất thường”. Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
CBTT về tình hình hoạt động và kết quả sản xuất, kinh doanh của công ty đại chúng tại Báo cáo thường niên:
Nếu như các thông tin tài chính được thể hiện đầy đủ nhất ở BCTC thì các thông tin về tình hình hoạt động, kết quả sản xuất, kinh doanh của công ty đại chúng lại được thể hiện tập trung tại Báo cáo thường niên (BCTN). Báo cáo này có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho hoạt động phân tích cơ bản của nhà đầu tư cũng như các bên có quan tâm đến hoạt động của công ty. Tại BCTN, các công ty đại chúng phân tích rõ những kết quả đạt được cũng như những thách thức mà công ty phải đối mặt. Nghĩa vụ CBTT Báo cáo thường niên (Annual Report) đã được nhiều quốc gia quy định như tại Hoa Kỳ, Malaysia, Nhật Bản…, theo đó các công ty đại chúng phải nộp BCTN đến cơ quan quản lý TTCK và phải công bố bản tiếng Anh của tài liệu này trên website của mình với các nội dung khá tương đồng với pháp luật Việt Nam.
Theo khoản 2 Điều 7 Thông tư 52/2012/TT-BTC, tất cả CTĐC phải CBTT Báo cáo thường niên sau 20 ngày, kể từ ngày công bố BCTC năm được kiểm toán trên trang thông tin điện tử của công ty, đồng thời phải lưu trữ BCTN ít nhất 10 năm tại trụ sở chính. BCTN của công ty đại chúng phải được trình bày theo mẫu tại Phụ lục II Thông tư số 52/2012/TT-BTC, bao gồm các thông tin sau: thông tin chung về công ty; thông tin về tình hình hoạt động của công ty; Báo cáo đánh giá của Ban giám đốc, HĐQT và Báo cáo tài chính của công ty. Việc quy định BCTN của CTĐC bao gồm cả trong đó BCTC đã được kiểm toán bởi việc xem xét BCTN hữu ích nhất khi nó được xem xét cùng với BCTC.
Về thông tin liên quan đến tình hình hoạt động, kết quả sản xuất, kinh doanh của công ty đại chúng tại BCTN: BCTN của công ty đại chúng phải nêu được các thông tin sau: (i) Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh trong cả năm (gồm thông tin liên quan đến thay đổi chiến lược kinh doanh, doanh thu, lợi nhuận, sản phẩm, nguồn cung cấp… và tình hình thực hiện các chỉ tiêu so với năm liền kề trước đó); (ii) các nguyên nhân dẫn đến việc đạt/không đạt/vượt chỉ tiêu đề ra; (iii) tình hình đầu tư và thực hiện các dự án đầu tư (các khoản đầu tư lớn gồm khoản đầu tư tài chính và đầu tư dự án, tình hình thực hiện các dự án lớn và tiến độ chào bán chứng khoán cũng như nguyên nhân dẫn đến việc đạt/không đạt tiến độ, nếu công ty chào bán chứng khoán ra công chúng để thực hiện dự án); (iv) tình hình hoạt động của các công ty con, công ty liên kết. Ngoài các nội dung này, công ty đại chúng phải so sánh, đối chiếu các thông tin tài chính trong năm với các số liệu trong hai năm gần nhất, nhằm giúp nhà đầu tư đánh giá được các chỉ tiêu quan trọng như tổng giá trị tài sản, doanh thu thuần, lợi nhuận, tỷ lệ trả cổ tức hay các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ cấu vốn, năng lực hoạt động và khả năng sinh lời… của công ty đại chúng.
Về Báo cáo đánh giá của Ban Giám đốc và Báo cáo đánh giá của Hội đồng quản trị về mọi mặt hoạt động của công ty tại BCTN: Tại mục này Ban Giám đốc, HĐQT công ty đại chúng sẽ đánh giá các kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm so với kế hoạch đã đề ra của công ty và nguyên nhân, trách nhiệm của ban lãnh đạo công ty khi không hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh (nếu có), đồng thời nêu những kết quả mà công ty đã đạt được; tình hình tài chính (tình hình tài sản, nợ xấu phải thu, nợ phải trả, ảnh hưởng của chênh lệch tỷ giá hối đoái đến kết quả hoạt động kinh doanh…); báo cáo cải tiến về cơ cấu nhân sự quản lý; các kế hoạch phát triển trong tương lai và giải trình liên quan đến ý kiến kiểm toán nếu kiểm toán không chấp thuận toàn phần BCTC của công ty đại chúng. Đây là một nội dung quan trọng tại BCTN được nhiều nhà đầu tư quan tâm, giúp họ đánh giá năng lực điều hành của đội ngũ lãnh đạo cũng như cách thức, hướng đi mà đội ngũ lãnh đạo công ty đưa ra nhằm giúp doanh nghiệp có thể đối mặt với những thách thức trong tương lai. Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản… khi doanh nghiệp ý thức được vai trò quan trọng của BCTN, công ty thường trình bày khá đầy đủ Báo cáo đánh giá của Ban giám đốc và HĐQT. Tuy nhiên, vấn đề này còn khá mới mẻ tại Việt Nam và chưa được doanh nghiệp chú trọng, vì thế nội dung này tại Báo cáo thường niên của công ty đại chúng trên thực tế khá sơ sài. Mới đây, theo dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi, Báo cáo đánh giá kết quả hoạt động hàng năm của HĐQT và Ban kiểm soát là nội dung được đưa vào nghĩa vụ công khai thông tin của công ty cổ phần. Đây được coi là nỗ lực lớn từ cơ quan quản lý nhằm cải thiện môi trường quản trị yếu của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
2.1.2.3. Công bố thông tin liên quan đến quản trị công ty Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
Quản trị công ty cổ phần là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ để đảm bảo cho công ty được định hướng và kiểm soát một cách có hiệu quả thông qua bộ máy nhân sự quản lý (HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát) vì quyền lợi của cổ đông và những người liên quan đến công ty. Ngày nay, nhà đầu tư ngày càng đòi hỏi nhiều hơn tiếng nói của mình trong quản trị công ty và một trong các quyền cơ bản của nhà đầu tư là có được và tiếp cận thông tin về cơ cấu sở hữu của công ty, quan hệ giữa các công ty trong tập đoàn, quyền lợi của họ trong công ty… Do đó, các vấn đề liên quan đến quản trị công ty đại chúng như hoạt động điều hành của ban Giám đốc, HĐQT; quyền của cổ đông (được thể hiện tập trung tại cuộc họp của ĐHĐCĐ); thông tin liên quan đến nhân sự quản lý, cổ đông lớn và giao dịch của họ… đều bắt buộc phải CBTT ra thị trường.
Theo quy định hiện hành, công ty đại chúng phải công khai một số thông tin liên quan đến quản trị công ty như việc thay đổi nhân sự chủ chốt, họp Đại hội đồng cổ đông, hoạt động của HĐQT, Ban kiểm soát, các giao dịch giữa công ty với các bên liên quan… Các vấn đề này có thể phát sinh trong quá trình hoạt động của công ty và một số trường hợp công ty phải công bố bất thường. Ngoài ra, nó được tổng hợp và thể hiện tập trung tại Báo cáo tình hình quản trị công ty (công bố định kỳ 2 lần/năm) và một phần nằm trong Báo cáo thường niên (công bố định kỳ 1 lần/năm) của công ty đại chúng. Cụ thể như sau:
Công bố các thông tin liên quan đến nhân sự quản lý:
Nhân sự quản lý của công ty đại chúng hiện nay được gọi chung là “cổ đông nội bộ”. Thuật ngữ “cổ đông nội bộ” được định nghĩa tại khoản 3 Điều 2 Thông tư 52/2012/TT-BTC bao gồm thành viên HĐQT, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc), Giám đốc tài chính, Kế toán trưởng, Trưởng phòng tài chính kế toán của công ty đại chúng. Những người này có tầm quan trọng đặc biệt tại công ty, họ đưa ra các chính sách, chiến lược phát triển công ty, do đó bất kỳ sự thay đổi nào về nhân sự quản lý hoặc các vấn đề pháp lý liên quan đến họ đều ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của doanh nghiệp và đòi hỏi công ty đại chúng phải CBTT tức thì. Ngoài ra, nhà đầu tư luôn muốn biết năng lực cũng như phẩm chất của đội ngũ điều hành công ty, do đó các thông tin về kinh nghiệm làm việc, những người có liên quan và các giao dịch cổ phần của họ cũng đòi hỏi công ty phải công khai cho nhà đầu tư. Đây là thông lệ chung của pháp luật chứng khoán và TTCK trên thế giới như tại Mỹ, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc… Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
Tại Việt Nam, khi CTĐC có thay đổi cổ đông nội bộ hoặc khi có quyết định khởi tố, bản án, quyết định của Tòa án đối với những người này, công ty phải CBTT bất thường trong vòng 24 giờ [4, điểm 1.7 khoản 1 Điều 8]. Ngoài ra, định kỳ CTĐC phải thống kê danh sách cổ đông nội bộ và người có liên quan của họ tại Báo cáo quản trị công ty sáu tháng đầu năm và Báo cáo quản trị công ty năm để công bố ra công chúng. Tại dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi, các nhà lập pháp đặt ra yêu cầu công ty cổ phần phải công bố Điều lệ công ty, sơ yếu lý lịch, trình độ học vấn và kinh nghiệm nghề nghiệp của các thành viên HĐQT, thành viên BKS, Giám đốc/Tổng Giám đốc trên website của công ty. Dự kiến, đây sẽ là nền tảng bước đầu cho vấn đề công khai hóa thông tin quản trị công ty cổ phần theo thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, các cổ đông nội bộ CTĐC luôn có lợi thế về thông tin hơn so với các nhà đầu tư khác trên TTCK, do đó các giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư thường bị chi phối bởi các hành vi mua bán của các cổ đông nội bộ hoặc người có liên quan của họ. Vì thế, để hạn chế việc trục lợi của các đối tượng có lợi thế về thông tin nội bộ, Điều 28 Thông tư số 52/2012/TT-BTC quy định trước khi thực hiện giao dịch tối thiểu là 03 ngày làm việc, cổ đông nội bộ của công ty niêm yết/đăng ký giao dịch hoặc người có liên quan của họ phải đăng ký với UBCKNN và công ty (thời hạn đăng ký giao dịch tối đa là 30 ngày) và chỉ được bắt đầu giao dịch khi có thông tin công bố về việc đăng ký giao dịch của cổ đông nội bộ từ SGDCK. Sau khi hoàn tất giao dịch, trong vòng 3 ngày làm việc, họ cũng phải báo cáo cho UBCKNN, SGDCK, công ty niêm yết/đăng ký giao dịch về kết quả thực hiện giao dịch và nguyên nhân không thực hiện hết khối lượng đã đăng ký (nếu có). Ngoài ra, Thông tư 52/2012/TT-BTC còn bổ sung quy định những người này chỉ được thực hiện giao dịch khác sau khi đã báo cáo đợt giao dịch trước đó, tránh trường hợp họ vừa mua, vừa bán chứng khoán như trước đây, góp phần đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư trên thị trường.
Công bố các thông tin liên quan đến hoạt động của Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị (HĐQT) là một trong những cơ quan quan trọng nhất trong công ty cổ phần, thực hiện các quyền và nghĩa vụ do ĐHĐCĐ giao. Có thể nói, HĐQT là một ĐHĐCĐ thường trực (vì các thành viên HĐQT đều là đại diện của các cổ đông, do ĐHĐCĐ bầu ra). Hiện nay, theo quy định tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC, CTĐC phải có tối thiểu một phần ba thành viên HĐQT là thành viên độc lập không điều hành, nghĩa là họ phải đáp ứng các điều kiện: (i) không phải là người có liên quan với Giám đốc (Tổng giám đốc), Phó giám đốc (Phó Tổng giám đốc), kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác được HĐQT bổ nhiệm; (ii) không phải là thành viên HĐQT, Giám đốc (Tổng giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng giám đốc) của các công ty con, công ty liên kết, công ty do công ty đại chúng nắm quyền kiểm soát; (iii) không phải là cổ đông lớn hoặc người đại diện của cổ đông lớn hoặc người có liên quan của cổ đông lớn của công ty. Thành viên HĐQT độc lập có vai trò giải quyết hài hòa mâu thuẫn giữa thành viên quản lý và các cổ đông thiểu số bởi họ là những người có kinh nghiệm và các ý kiến được đưa ra mang tính độc lập, nhằm bảo vệ quyền lợi cho cổ đông nhỏ, đồng thời họ có nhiệm vụ can thiệp vào quyết định của Ban điều hành khi thấy quyết định đó có dấu hiệu vụ lợi cá nhân. Quy định về thành viên HĐQT độc lập được coi là thông lệ tốt về quản trị công ty của nhiều nước hiện nay. Tại Úc, công ty niêm yết phải có đa số thành viên HĐQT là độc lập. Còn tại Anh, theo Luật hỗn hợp về quản trị công ty (Combined Code on Corporate Governance – CCCG) các công ty cổ phần phải có ít nhất 2 hoặc 50% số thành viên HĐQT là độc lập, tùy số nào lớn hơn. Ngoài ra, một số quốc gia còn quy định HĐQT có trách nhiệm giải thích lý do vì sao một thành viên lại được coi là thành viên độc lập và yêu cầu công ty phải CBTT về quy trình tuyển chọn ứng viên là thành viên HĐQT độc lập (như Nhật Bản). Tại Việt Nam, yêu cầu số lượng thành viên độc lập không điều hành ít nhất phải bằng một phần ba số thành viên HĐQT như quy định tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC là một bước tiến lớn trong pháp luật về quản trị công ty đại chúng theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Hiện nay, dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi cũng dự kiến áp dụng quy định này cho tất cả các công ty cổ phần. Nếu được thông qua, đây sẽ là một thách thức đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là với những công ty có quy mô nhỏ, chưa đạt đến tính đại chúng bởi thực tế cho thấy sau khi bước đầu thực hiện yêu cầu trên với công ty đại chúng nhưng số lượng công ty đáp ứng điều kiện quy định là không nhiều. Điều này xuất phát từ nguyên nhân số lượng thành viên HĐQT của công ty cổ phần bị hạn chế (Luật Doanh nghiệp 2005 quy định số lượng tối đa là 11 người, trong khi nhiều nước khác chỉ quy định số lượng tối thiểu như Mỹ, Thái Lan…), mặt khác tiêu chuẩn là thành viên HĐQT độc lập khá khắt khe nên nhiều công ty gặp khó khăn khi tìm kiếm đủ số lượng các cá nhân này hoặc không thể bầu được thành viên Hội đồng quản trị độc lập (do cổ đông chỉ bầu cho những người đại diện cho quyền lợi của họ).
Hoạt động của HĐQT công ty đại chúng được thể hiện tập trung tại Báo cáo quản trị công ty, Báo cáo thường niên. Tại Báo cáo thường niên được công bố hàng năm, CTĐC phải nêu rõ số lượng thành viên, cơ cấu, tỷ lệ sở hữu cổ phần, hoạt động của HĐQT, thành viên HĐQT độc lập không điều hành, các tiểu ban trong HĐQT, danh sách thành viên HĐQT có chứng chỉ đào tạo quản trị công ty. Ngoài ra, hoạt động của HĐQT được thể hiện thông qua cuộc họp HĐQT, do đó công ty cần thống kê số lượng, nội dung và kết quả của tất cả các cuộc họp này tại BCTN. Đây cũng là nội dung được thể hiện tại Báo cáo quản trị công ty được CTĐC công bố 6 tháng/lần. Theo khoản 3 Điều 7 Thông tư 52/2012/TT-BTC, Báo cáo quản trị công ty phải được công bố sau 30 ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ báo cáo, trong đó cần liệt kê chi tiết số lần tham gia dự họp của thành viên HĐQT, lý do không tham dự và nêu rõ nội dung các quyết định của HĐQT trong kỳ báo cáo cũng như các hoạt động giám sát của HĐQT đối với Giám đốc (Tổng Giám đốc) và hoạt động của tiểu ban giúp việc cho HĐQT. Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
Ngoài ra, theo quy định tại Thông tư số 52/212/TT-BTC, công ty đại chúng phải công bố trong vòng 24 giờ đối với một số quyết định của HĐQT có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc đến giá chứng khoán như quyết định về việc mua lại cổ phiếu của công ty hoặc bán lại số cổ phiếu đã mua; ngày thực hiện quyền mua cổ phiếu hoặc ngày thực hiện chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi sang cổ phiếu; quyết định chào bán chứng khoán ra nước ngoài và các quyết định liên quan đến việc chào bán chứng khoán; hoặc quyết định về mức cổ tức, hình thức trả cổ tức, phát hành cổ phiếu thưởng; quyết định tổ chức lại doanh nghiệp hoặc quyết định góp vốn có giá trị từ mười phần trăm (10%) trở lên tổng tài sản của công ty vào một tổ chức khác…
Công bố các thông tin liên quan đến hoạt động của Ban Kiểm soát:
Khi một công ty đạt đến quy mô nhất định thì sự điều hành và quản lý công ty trở nên phức tạp, cần có một đội ngũ quản trị chuyên nghiệp và lúc này người điều hành trực tiếp công ty có thể không đồng thời là chủ sở hữu công ty. Lúc này, các cổ đông – người sở hữu thực sự của công ty cần một bộ phận thực hiện việc giám sát, kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành của HĐQT, Ban giám đốc hoặc trong công tác kế toán, thống kê và lập Báo cáo tài chính. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời của BKS. Theo Điều 95 Luật Doanh nghiệp 2005, các công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có BKS, do đó hiện nay các CTĐC đều bắt buộc phải có BKS. Cơ quan này đảm bảo các quyết định của HĐQT và Ban giám đốc là phù hợp và bảo vệ lợi ích của các cổ đông. Mặc dù có vai trò quan trọng nhưng thực tế hiện nay cho thấy BKS đã không thể hiện được vai trò của mình. Các quy định hiện hành cũng chỉ yêu cầu CTĐC phải công bố các hoạt động của BKS (các cuộc họp và đánh giá hoạt động của BKS) tại Báo cáo thường niên được công bố hàng năm.
CBTT về chính sách thù lao cho các nhân sự quản lý:
Các thông tin về thù lao cho cán bộ quản lý cấp cao cũng là thông tin được nhà đầu tư rất quan tâm, bởi lẽ chính sách thù lao cho các nhân sự chủ chốt có liên quan đến hiệu quả hoạt động của công ty, giúp nhà đầu tư có thể đánh giá chi phí và lợi ích của kế hoạch thù lao của công ty. Tại Việt Nam, thù lao của Hội đồng quản trị được ĐHĐCĐ thông qua hàng năm và được công bố chi tiết trong Báo cáo thường niên công ty đại chúng [5, Điều 16]. Tại Báo cáo thường niên, công ty phải liệt kê chi tiết các khoản lợi ích, thù lao, chi phí cho thành viên HĐQT, Ban kiểm soát, Ban Giám đốc, bao gồm cả các khoản lợi ích vật chất và phi vật chất không thể lượng hóa. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, các công ty đại chúng thường chỉ liệt kê mang tính chất chung chung, không phản ánh đầy đủ các lợi ích thực tế mà các cá nhân này có được. Ngoài ra, theo khoản 4 Điều 13 Thông tư 121/2012/TT-BTC thì thành viên HĐQT công ty đại chúng có trách nhiệm công bố cho công ty các khoản thù lao mà họ nhận được từ các công ty con, công ty liên kết và các tổ chức khác mà họ là người đại diện phần vốn góp của công ty nhưng Thông tư không chỉ rõ thời hạn CBTT nên thực tế rất ít trường hợp công khai vấn đề này.
CBTT về cổ đông lớn và quyền biểu quyết của cổ đông công ty đại chúng:
Công bố thông tin về cổ đông lớn:
Theo khoản 9 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 thì “cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ năm phần trăm trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành”. Các thông tin về cổ đông lớn trên TTCK chủ yếu liên quan đến giao dịch của những người này. Theo Điều 29 Luật Chứng khoán năm 2006, cổ đông lớn của tất cả công ty đại chúng phải CBTT khi trở thành cổ đông lớn hoặc khi giao dịch làm thay đổi tỷ lệ sở hữu vượt quá 1% số cổ phiếu cùng loại đang lưu hành trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày trở thành cổ đông lớn hoặc có thay đổi tỷ lệ sở hữu của cổ đông lớn. Tại Thông tư 09/2010/TT-BTC trước đây, nghĩa vụ CBTT của cổ đông lớn khá khắt khe (ngang bằng với cổ đông nội bộ) và chỉ áp dụng với cổ đông của công ty niêm yết, cụ thể cổ đông lớn phải báo cáo cả trước và sau giao dịch trong vòng 3 ngày làm việc khi tỷ lệ sở hữu cổ phiếu có quyền biểu quyết thay đổi từ 1% trở lên so với tỷ lệ nắm giữ trước giao dịch. Quá trình triển khai Thông tư 09/2010/TT-BTC đã cho thấy việc báo cáo trước giao dịch gây khó khăn cho quá trình chủ động đầu tư của nhà đầu tư, nhất là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp. Ngoài ra, nhiều trường hợp cổ đông lớn “lách” nghĩa vụ báo cáo khi cố tình thực hiện giao dịch với khối lượng nhỏ hơn 1% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty và dần thâu tóm doanh nghiệp mà công chúng đầu tư không biết được điều này. Để khắc phục thực trạng trên, Thông tư 52/2012/TT-BTC đã quy định: cổ đông lớn chỉ phải báo cáo sau giao dịch trong thời hạn 07 ngày kể từ khi hoàn tất giao dịch khi có thay đổi tỷ lệ sở hữu tại các ngưỡng 1% mà không phụ thuộc vào mức sở hữu trước đó (như từ 6,8% lên 7,1%), kể cả đối với trường hợp chuyển nhượng không thông qua hệ thống giao dịch như tặng, cho, thừa kế… cổ phần. Quy định này là điểm mới tại Thông tư 52/2012/TT-BTC, không những tạo điều kiện cho VSD, các công ty chứng khoán dễ theo dõi sự thay đổi tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông mà còn góp phần khắc phục tình trạng “mua xé lẻ, né nghĩa vụ CBTT” của cổ đông lớn như trước đây.
Thông tin về quyền biểu quyết của cổ đông công ty đại chúng:
Trong công ty đại chúng, các cổ đông thực hiện quyền của mình chủ yếu bằng cách tham gia biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông. Một điểm chung giữa quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước là yêu cầu các công ty đại chúng phải công bố cả trước và sau khi tiến hành các cuộc họp ĐHĐCĐ (bao gồm cả họp ĐHĐCĐ thường niên và bất thường). Trước khi họp, công ty đại chúng phải công bố ngày họp, nội dung họp, tài liệu, thông báo mời họp… trên trang thông tin điện tử, đồng thời với việc gửi thông báo mời họp và tài liệu họp cho các cổ đông chậm nhất là mười lăm (15) ngày trước khi khai mạc họp ĐHĐCĐ [4, khoản 4 Điều 7]. Các Nghị quyết/Quyết định của ĐHĐCĐ kèm theo Biên bản họp hoặc Biên bản kiểm phiếu đều phải CBTT trong vòng 24 giờ, kể từ khi có Nghị quyết/Quyết định đó.
Thông tin về giao dịch giữa công ty đại chúng và người liên quan: một số quốc gia, quan hệ người có liên quan được hiểu gồm: các quan hệ hôn nhân, huyết thống; quan hệ giữa các công ty trong cùng một tập đoàn (bao gồm cả quan hệ giữa công ty mẹ – công ty con); các tổ chức bị kiểm soát hoặc cùng chịu chung sự kiểm soát với công ty, các cổ đông lớn kể cả thành viên gia đình họ và các cán bộ quản lý chủ chốt hoặc các đối tác quan trọng của công ty… Tại Việt Nam, khái niệm “người có liên quan” được quy định tại khoản 34 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006, theo đó người có liên quan của CTĐC gồm chủ sở hữu trên 10% số cổ phiếu lưu hành có quyền biểu quyết của công ty; thành viên HĐQT, BKS, Giám đốc (Tổng giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng giám đốc) và các chức danh quản lý khác của công ty; công ty mẹ hoặc công ty con của CTĐC; hoặc người mà trực tiếp, gián tiếp kiểm soát công ty hoặc bị kiểm soát bởi CTĐC hoặc cùng với công ty chịu chung một sự kiểm soát. Quy định này khá bao quát, tuy nhiên tương tự pháp luật nhiều nước, nội hàm khái niệm “người có liên quan” được đánh giá là khá phức tạp, nhiều trường hợp trên thực tế khó xác định được quan hệ là “có liên quan” hay không. Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
Do người có liên quan của CTĐC có lợi thế về thông tin nhất định so với các nhà đầu tư khác trên thị trường, mặt khác các giao dịch giữa những người này với công ty cũng tiềm ẩn mục đích tư lợi, vì thế việc CBTT giao dịch giữa công ty đại chúng và người có liên quan là cần thiết, giúp nhà đầu tư xác định giao dịch này có vì lợi ích chung của công ty hay không. Đây là một trong những nguyên tắc quản trị công ty của OECD và được các nước thành viên OECD cũng như nhiều quốc gia quy định. Tại Việt Nam, theo Thông tư 52/2012/TT-BTC, công ty đại chúng có nghĩa vụ thống kê toàn bộ danh sách người có liên quan tại Báo cáo quản trị công ty. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 24 Thông tư 121/2012/TT-BTC cũng quy định: khi tiến hành giao dịch với người có liên quan, công ty đại chúng phải ký kết hợp đồng bằng văn bản theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện; nội dung hợp đồng phải rõ ràng, cụ thể và phải CBTT cho cổ đông khi cổ đông có yêu cầu. Tuy nhiên, quy định này còn thiếu chặt chẽ vì cổ đông khó có thể biết được thông tin về giao dịch giữa công ty và người có liên quan để yêu cầu công ty công bố. Ngoài ra, khoản 3 Điều 23 Thông tư 121/2012/TT-BTC cũng quy định cổ đông nội bộ công ty đại chúng phải thông báo cho HĐQT các giao dịch giữa họ hoặc người có liên quan của họ với công ty/công ty con/công ty do công ty đại chúng nắm quyền kiểm soát, đồng thời công ty đại chúng có nghĩa vụ CBTT trên website và báo cáo UBCKNN về Nghị quyết/Quyết định của ĐHĐCĐ/HĐQT về việc thông qua các giao dịch nêu trên trong thời hạn 24 giờ.
Để tránh các xung đột về lợi ích, Thông tư 121/2012/TT-BTC còn yêu cầu công ty đại chúng phải CBTT các giao dịch giữa công ty với công ty có liên quan của thành viên HĐQT, Ban Kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong các trường hợp: Giao dịch giữa công ty với công ty mà các thành viên nêu trên là thành viên sáng lập hoặc là thành viên HĐQT, Giám đốc (Tổng giám đốc) điều hành trong thời gian ba năm trước; giao dịch giữa công ty với công ty trong đó người liên quan của các thành viên nêu trên là thành viên HĐQT, Giám đốc (Tổng giám đốc) điều hành, cổ đông lớn; hoặc các giao dịch có thể mang lại lợi ích (vật chất hoặc phi vật chất) cho các thành viên nêu trên. Tuy nhiên, Thông tư này lại không nêu thời gian cụ thể mà công ty đại chúng phải CBTT nên trên thực tế hầu như các công ty không thực hiện quy định này.
2.1.2.4. Thông tin về các rủi ro và hệ thống giám sát, quản lý rủi ro của công ty đại chúng
Trong quá trình hoạt động, công ty đại chúng có thể đối mặt với các rủi ro sau: rủi ro cụ thể đối với ngành kinh doanh hoặc khu vực địa lý nơi công ty hoạt động, sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu, rủi ro của thị trường tài chính (biến động lãi suất hoặc rủi ro tiền tệ, rủi ro liên quan đến chứng khoán phái sinh) và rủi ro khác. Việc công ty lường trước các rủi ro, có chính sách phòng ngừa và hạn chế rủi ro giúp công ty có thể chủ động đối phó với các tình huống “xấu” có thể xảy ra trong tương lai. Nội dung này cũng giúp cho nhà đầu tư tiên liệu một cách hợp lý về kết quả hoạt động kinh doanh của công ty bên cạnh những rủi ro mà công ty có thể gặp phải. Yêu cầu công ty đại chúng CBTT về rủi ro, hệ thống giám sát và quản lý rủi ro ngày càng được coi là một thông lệ tốt và được pháp luật nhiều quốc gia quy định (như Mỹ, Úc…).
Thông thường, công ty đại chúng phải liệt kê các rủi ro có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các mục tiêu của công ty trong Báo cáo thường niên. Việc liệt kê các rủi ro, lường trước các phương án phòng ngừa, khắc phục rủi ro càng chi tiết, càng giúp công ty có được kế hoạch kinh doanh hiệu quả, từ đó nhà đầu tư có niềm tin hơn khi đầu tư tiền của mình vào công ty. Tuy nhiên, qua thực trạng Báo cáo thường niên được công ty đại chúng công bố thì tại Việt Nam cũng như tại một số TTCK chưa thật sự phát triển như Indonesia, Philipines…, hầu hết các công ty đại chúng chỉ công bố yếu tố rủi ro nhưng lại không công bố chính sách quản lý rủi ro. Điều này dẫn đến các kế hoạch công ty đề ra có thể không chính xác (do chưa trừ đi các yếu tố liên quan đến chi phí phòng ngừa, khắc phục rủi ro) hoặc khi có rủi ro xảy ra, thiệt hại cho công ty sẽ nhiều hơn do không có phương án dự phòng hiệu quả.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 8 Thông tư 52/2012/TT-BTC, CTĐC phải CBTT bất thường khi xảy ra một số sự kiện có thể đem lại rủi ro lớn cho công ty mà nhà đầu tư cần thiết phải có các thông tin này kịp thời để xác định chiến lược đầu tư hiệu quả, cụ thể CTĐC phải CBTT trong vòng 24 giờ trong các trường hợp sau: khi có thông tin về tài khoản của công ty tại ngân hàng bị phong toả hoặc tài khoản được phép hoạt động trở lại sau khi bị phong toả; thông tin về tạm ngừng kinh doanh; thông tin về việc bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy phép thành lập và hoạt động hoặc Giấy phép hoạt động; thông báo của Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp…
2.1.2.5. Công bố các thông tin khác của công ty đại chúng Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
Ngoài các thông tin về tài chính, quản trị công ty, thông tin liên quan đến tình hình hoạt động, kết quả sản xuất kinh doanh, thông tin về rủi ro và chính sách phòng ngừa rủi ro, CTĐC còn phải công bố một số thông tin khác như: công ty phải CBTT trong vòng 24 giờ khi giá chứng khoán tăng trần hoặc giảm sàn từ mười (10) phiên liên tiếp trở lên (đối với công ty niêm) hoặc trường hợp CTĐC chào bán chứng khoán, công ty còn phải định kỳ sáu tháng CBTT về tiến độ sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán cho đến khi giải ngân hết vốn huy động, đồng thời tuân thủ quy định khác theo pháp luật chào bán chứng khoán.
Ngoài ra, công ty đại chúng phải CBTT theo yêu cầu của SGDCK (đối với công ty niêm yết, đăng ký giao dịch), UBCKNN khi xảy ra sự kiện ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư hoặc khi có thông tin ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán và cần phải xác nhận thông tin đó như: trường hợp UBCKNN yêu cầu công ty Dược Viễn đông phải giải trình các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng khi nhận thấy các dấu hiệu bất thường trong sử dụng vốn đã được chào bán vào năm 2010. Hoặc gần đây, UBCKNN yêu cầu Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV xác nhận đối với tin đồn lãnh đạo ngân hàng này là ông Trần Xuân Giá bị bắt năm 2012 trong bối cảnh thị trường liên tục giảm điểm, ảnh hưởng lớn đến nhà đầu tư… Trong các trường hợp này, công ty đại chúng phải CBTT ngay trên website công ty và khi công bố phải nêu rõ sự kiện được UBCKNN, SGDCK yêu cầu công bố; nguyên nhân và đánh giá của công ty về tính xác thực của sự kiện đó, giải pháp khắc phục (nếu có).
2.1.3. Phương tiện và trình tự, thủ tục CBTT của công ty đại chúng
Về phương tiện CBTT: Theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, các CTĐC có thể thực hiện CBTT qua các phương tiện sau: Báo cáo thường niên, trang thông tin điện tử (website), các ấn phẩm của tổ chức này và các phương tiện thông tin đại chúng khác (báo in, báo mạng, truyền hình…). Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 4 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, công ty đại chúng phải lập website trong vòng 6 tháng kể từ ngày trở thành CTĐC và mọi thông tin phải được thực hiện công bố trên website. Yêu cầu này nhằm đảm bảo tính kịp thời của thông tin, đáp ứng nhu cầu về thông tin của nhà đầu tư trên TTCK.
Về phương thức CBTT của công ty đại chúng: Theo khoản 2 Điều 3 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, các công ty đại chúng phải thực hiện CBTT thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền CBTT của công ty. Người đại diện theo pháp luật phải chịu mọi trách nhiệm liên quan đến thông tin do người được ủy quyền CBTT của công ty công bố. Trường hợp thay đổi người được ủy quyền CBTT, công ty đại chúng phải thông báo bằng văn bản cho UBCKNN, SGDCK ít nhất 5 ngày làm việc trước khi có sự thay đổi.
Về quy trình CBTT của công ty đại chúng: Theo khoản 3 Điều 3 Thông tư số 52/2012/TT-BTC, các CTĐC khi CBTT phải đồng thời báo cáo UBCKNN, SGDCK (đối với tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch), nhằm giúp các cơ quan này kiểm soát được các thông tin do công ty công bố. Do đó quy trình CBTT và báo cáo của các công ty đại chúng hiện nay được thực hiện như sau: Bước 1, khi phát sinh sự kiện phải CBTT, công ty phải đăng thông tin trên website (hoạt động CBTT), đồng thời gửi nội dung thông tin phải công bố đến UBCKNN, SGDCK qua fax, email, bưu điện hoặc qua cổng thông tin trực tuyến (hoạt động báo cáo). Bước 2, sau khi nhận được thông tin cần công bố của công ty đại chúng thì UBCKNN, SGDCK kiểm tra thông tin và thực hiện đăng tải thông tin trên hệ thống CBTT của UBCKNN, SGDCK.
2.1.4. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật về công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
Thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà đầu tư nhưng các vi phạm chủ yếu trên TTCK vẫn là vi phạm về chế độ báo cáo, CBTT, trong đó các phạm về CBTT của CTĐC chiếm tỷ lệ lớn. Vì thế, các biện pháp xử lý các hành vi vi phạm về CBTT theo hướng nghiêm khắc là điều cần thiết nhằm tăng cường tính răn đe, góp phần làm giảm các vi phạm và nâng cao tính công khai, minh bạch của TTCK. Hiện nay, theo Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 20/6/2012 có năm hình thức xử phạt hành chính gồm: cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; trục xuất. Đối với các hành vi vi phạm quy định pháp luật về CBTT của trên TTCK chỉ áp dụng ba hình thức xử lý vi phạm hành chính gồm cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại diện, chứng chỉ hành nghề chứng khoán có thời hạn từ trên 03 tháng đến 24 tháng, trong đó các công ty đại chúng (không phải tổ chức kinh doanh chứng khoán) chỉ áp dụng hai hình thức là cảnh cáo và phạt tiền. Các hình thức xử lý bổ sung gồm buộc hủy bỏ hoặc cải chính thông tin; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
Trước đây, việc xử lý hành chính đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ CBTT trên TTCK được quy định tại Nghị định số 85/2010/NĐ-CP. Các mức phạt tại Nghị định này được đánh giá là chưa đủ sức răn đe đối với các vi phạm trên thị trường, vì thế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực chứng khoán, đồng thời phù hợp với quy định mới tại Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (trong đó mức xử phạt cao nhất lên đến 2 tỷ đồng), ngày 23/9/2013 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 108/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK (sau đây gọi tắt là Nghị định số 108/2013/NĐ-CP) thay thế cho Nghị định số 85/2010/NĐ-CP. Các nội dung của Nghị định số 108/2013/NĐ-CP được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số 217/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Theo đó, các hình thức xử lý vi phạm khi công ty đại chúng không tuân thủ quy định về CBTT trên TTCK gồm: Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
- Biện pháp cảnh cáo: Chỉ áp dụng trong trường hợp công ty đại chúng không thực hiện đăng ký người được ủy quyền CBTT; không thông báo, thông báo không đúng thời hạn về việc thay đổi người được ủy quyền CBTT hoặc không thông báo với UBCKNN, SGDCK về địa chỉ trang thông tin điện tử và mọi thay đổi liên quan đến địa chỉ này theo quy định pháp luật.
- Hình thức phạt tiền áp dụng với các vi phạm sau: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng với hành vi không tuân thủ đầy đủ quy định pháp luật về phương tiện, hình thức CBTT; không lưu giữ thông tin công bố theo quy định pháp luật. Nghị định mới này cũng bổ sung quy định về phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với mọi hành vi CBTT không đúng thời hạn, không đầy đủ nội dung theo quy định pháp luật hoặc theo yêu cầu của UBCKNN (trước đây Nghị định 85/2010/NĐ-CP chỉ áp dụng đối với vi phạm về CBTT bất thường). Còn hành vi không CBTT hoặc CBTT không chính xác theo quy định pháp luật hoặc theo yêu cầu của UBCKNN có mức phạt đến 100.000.000 đồng (tăng so với mức 90.000.000 đồng trước đây). Ngoài ra, Nghị định số 108/2013/NĐ-CP cũng quy định trường hợp CTĐC không lập trang thông tin điện tử cũng bị phạt đến 100.000.000 đồng (trước đây là 30.000.000 đồng), nhằm đẩy mạnh hoạt động CBTT điện tử của CTĐC. Bên cạnh đó, Nghị định cũng bổ sung các hành vi vi phạm như: không xác nhận hoặc đính chính thông tin hoặc xác nhận, đính chính thông tin không đúng thời hạn khi có thông tin làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán hoặc khi nhận được yêu cầu xác nhận, đính chính thông tin của UBCKNN (mức phạt đến 100.000.000 đồng). Đặc biệt, đối với hành vi tổ chức trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào việc tạo dựng thông tin sai sự thật, CBTT sai lệch nhằm lôi kéo, xúi giục việc mua, bán chứng khoán hoặc không công bố kịp thời, đầy đủ thông tin về các sự kiện xảy ra có ảnh hưởng đến giá chứng khoán… mức phạt lên đến 1,2 tỷ đồng.
Ngoài ra, với vai trò là chủ thể “cung cấp hàng hóa” trên thị trường giao dịch có tổ chức, các công ty niêm yết/đăng ký giao dịch còn phải tuân thủ quy định của cơ quan tổ chức thị trường – các SGDCK. Theo Quy chế CBTT của các SGDCK hiện có năm hình thức xử lý vi phạm khi các công ty niêm yết/đăng ký giao dịch không tuân thủ quy định về CBTT, bao gồm (i) Nhắc nhở bằng văn bản; (ii) Đưa chứng khoán vào diện cảnh báo; (iii) Đưa chứng khoán vào diện kiểm soát; (iv) Tạm ngừng giao dịch; (v) Hủy niêm yết/hủy đăng ký giao dịch cổ phiếu theo quy định tại Quy chế Niêm yết chứng khoán/Quy chế Quản lý thị trường đăng ký giao dịch. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm quy định về CBTT mà Tổng Giám đốc SGDCK quyết định một trong năm hình thức xử lý trên đối với công ty niêm yết/đăng ký giao dịch. Các quy định này cũng góp phần đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư, giúp cung cấp hàng hóa có chất lượng trên thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức.
Đặc biệt, ngày 26/6/2013, Thông tư liên tịch số 10/2013/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC giữa Bộ Tư pháp – Bộ Công an – Tòa án nhân dân tối cao – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Tài chính hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính – kế toán và chứng khoán đã được ban hành. Điều này đánh dấu việc lần đầu tiên Việt Nam có hướng dẫn cụ thể về tội phạm hình sự trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, trong đó chủ yếu là các tội liên quan đến CBTT và sử dụng thông tin nội bộ (Ba tội liên quan đến lĩnh vực chứng khoán tại Điều 181 a, b, c Bộ luật Hình sự gồm: (1) tội cố ý thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; (2) tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán; (3) tội thao túng giá chứng khoán). Những hành vi cần áp dụng chế tài nghiêm khắc do nó xâm hại đến trật tự quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK, tạo ra cung cầu giả tạo đối với cổ phiếu, làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào môi trường đầu tư chứng khoán Việt Nam… Trên thực tế, nhiều trường hợp đã bị khởi tố như vụ việc khởi tố lãnh đạo công ty Dược Viễn Đông vào tháng 12/2011 về tội thao túng giá chứng khoán hay khởi tố lãnh đạo công ty cổ phần chứng khoán Sacombank (SBS) về hành vi “công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, thao túng giá chứng khoán” vào tháng 8/2012… Các sự việc này đã tạo sức răn đe rất lớn đến các đối tượng tham gia TTCK, làm “chùn tay các đội lái chứng khoán”, góp phần làm tăng cường tính minh bạch của thị trường.
Có thể thấy, khung pháp lý điều chỉnh hoạt động CBTT nói chung cũng như điều chỉnh hoạt động CBTT của công ty đại chúng nói riêng đã song hành cùng những biến động của TTCK và đều có những thay đổi thích hợp trong từng giai đoạn phát triển của thị trường, góp phần rất lớn vào việc thiết lập trật tự, ổn định của TTCK. Việc ban hành Thông tư 52/2012/TT-BTC với các quy định chặt chẽ về nghĩa vụ CBTT định kỳ, bất thường của công ty đại chúng cho thấy nỗ lực rất lớn của cơ quan quản lý trong vấn đề minh bạch hóa TTCK và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Phân tích các quy định hiện hành cho thấy pháp luật điều chỉnh hoạt động CBTT của công ty đại chúng trên TTCK Việt Nam đã tiệm cận đến chuẩn mực quốc tế cả về loại thông tin cần công bố và cách thức CBTT. Luận văn: Khái quát về thông tin chứng khoán ở Việt Nam
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Thực trạng PL về công bố thông tin chứng khoán