Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Các yếu tố quản trị công ty tác động đến giá trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết trên Sàn chứng khoán TP.HCM dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.3 Thực trạng công tác lập, trình bày, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính ở các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay

2.3.1 Thực trạng công tác lập và trình bày báo cáo tài chính ở các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay

2.3.1.1 Danh mục hệ thống báo cáo tài chính, chế độ kế toán và thời hạn nộp báo cáo tài chính cho các công ty cổ phần niêm yết đang áp dụng hiên nay

Danh mục hệ thống báo cáo tài chính

Theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006. Hệ thống báo cáo tài

Đối với công ty niêm yết phải nộp báo cáo tài chính năm với những báo cáo trên và phải lập báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ. Nội dung báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ cũng giống như báo cáo tài chính năm, chỉ khác là thuyết minh báo cáo tài chính ở dạng nêu các thông tin một cách chọn lọc. Hệ thống báo cáo bao gồm:

Bảng cân đối kế toán giữa niên độ, dạng đầy đủ (Mẫu số B01a-DN)

  • Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ, dạng đầy đủ (Mẫu số B02a-DN)
  • Báo cáo lưu chuyển tiên tệ giữa niên độ, dạng đầy đủ (Mẫu số B03a-DN)
  • Thuyết minh báo cáo tài chính giữa niên độ, dạng đầy đủ(Mẫu số B09a- DN).

Theo thông tư số 38/2007/TT-BTC của Bộ tài chính thì công ty niêm yết phải công bố báo cáo tài chính năm tóm tắt theo Mẫu CBTT-03 trên ba (03) số báo liên tiếp của một (01) tờ báo Trung ương và một (01) tờ báo địa phương nơi công ty niêm yết đang đóng trụ sở chính hoặc thông qua phương tiện công bố thông tin của UBCKNN.Đối với báo cáo tài chính quý, công ty niêm yết công bố báo cáo tài chính quý tóm tắt theo mẫu CBTT-03 thông qua phương tiện công bố thông tin của UBCKNN, SGDCK, TTGDCK.

Báo cáo tài chính quý, năm của công ty niêm yết phải công bố trên các ấn phẩm,trang thông tin điện tử của công ty niêm yết và lưu trữ ít nhất trong vòng mười ngày (12) tháng tiếp theo (đối với báo cáo tài chính quý) và ít nhất trong vòng mười (10) năm (đối với báo cáo tài chính năm) tại trụ sở chính của tổ chức nhà đầu tư tham khảo.

Đối với các công ty niêm yết là công ty mẹ của một tổ chức khác phải lập báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ và báo cáo tài chính hợp nhất vào cuối kỳ kế toán năm theo quy định tại Nghị định số 129/2004/NĐ-CP ngày 31/05/2004 của Chính phủ. Việc lập báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ được thực hiện từ năm 2008.Hệ thống báo cáo tài chính hợp nhất bao gồm:

  • Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất (Mẫu số B02-DN/HN)
  • Báo cáo lưu chuyển tiên tệ hợp nhất (Mẫu số B03-DN/HN)
  • Thuyết minh báo cáo tài chính hợp nhất (Mẫu số B09-DN/HN)
  • Nội dung, phương pháp tính toán,hình thức trình bày, thời hạn lập, nộp và công khai báo cáo tài chính hợp nhất thực hiện theo quy định tại thông tư 23/2005/TT-BTC hướng dẫn Chuẩn mực kế toán số 25”Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con” và Thông tư 21/2006/TT-BTC hướng dẫn Chuẩn mực kế toán số 11”Hợp nhất kinh doanh”.
  • Đối với công ty niêm yết là ngân hàng thì báo cáo tài chính được lập theo quy định bổ sung ở Chuẩn mực kế toán số 22”Trình bày bổ sung báo cáo tài chính của ngân hàng và tổ chức tài chính tương tự” và Thông tư 20/2006/TT-BTC hướng dẫn thực hiện chuẩn mực này.

Chế độ kế toán

Chế độ kế toán doanh nghiệp hiện nay được biên soạn lại trên cơ sở các Quyết định, Thông tư hướng dẫn bổ sung và các hướng dẫn kế toán theo yêu cầu của 26 chuẩn mực kế toán đã được ban hành.

Hiện nay, các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán thực hiện chế độ kế toán nói chung, chế độ kế toán theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC do Bộ tài chính ban hành ngày 20/03/2006 và theo 26 chuẩn mực kế toán đã được ban hành

Thời hạn nộp báo cáo tài chính

Đối với các công ty niêm yết: do đặc thù là phải công bố thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, trong đó có thông tin về báo cáo tài chính. Các công ty niêm yết phải công bố thông tin về tình hình tài chính năm đã được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập đủ điều kiện hành nghề theo qui định của Bộ tài chinh.. Thời hạn hoàn thành báo cáo tài chính năm chậm nhất là chín mươi (90) ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm theo qui định của Luật kế toán.

Đối với báo cáo tài chính quý, công ty niêm yết phải công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính quý trong thời hạn năm (05) ngày, kể từ ngày hoàn thành báo cáo tài chính quý. Thời hạn hoàn thành báo cáo tài chính quý là hai lăm (25) ngày kể từ ngày kết thúc quý. Trong trường hợp công ty niêm yết là công ty mẹ phải lập báo cáo tài chính hợp nhất thì thời hạn công bố thông tin là năm mươi (50) ngày, kết thúc quý. Báo cáo tài chính quý không phải yêu cầu kiểm toán.

Công ty niêm yết phải lập và công bố thông tin về BCTC giữa niên độ (sáu tháng đầu năm) đã được soát xét bởi tổ chức kiểm toán được chấp nhận theo qui định của Chuẩn mực kiểm toán số 910 trong thời hạn bốn lăm (45) ngày, kể từ ngày kết thúc Quý 2 hàng năm. Trường hợp công ty niêm yết là công ty mẹ phải lập BCTC hợp nhất thì thời hạn công bố thông tin là sáu mươi (60) ngày, kể từ ngày kết thúc Quý 2 hàng năm.

Trường hợp kết quả kinh doanh giữa hai kỳ báo cáo quý có biến động từ năm phần trăm trở lên công ty niêm yết phải có văn bản giải trình rõ nguyên nhân dẫn đến những biến động bất thường đó trong báo cáo tài chính quý.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

2.3.1.2 Thực trạng lập và trình bày báo cáo tài chính ở các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

Luận văn tập trung tìm hiểu sự tuân thủ của các công ty niêm yết đối với các quy định về hệ thống các biểu mẫu báo cáo tài chính, thời hạn nộp báo cáo tài chính,tuân thủ chế độ kế toán và phương pháp lập báo cáo tài chính (thời điểm từ năm 2002 đến 30/09/2009).

Việc tuân thủ hệ thống các biểu mẫu báo cáo tài chính

Những công ty lớn, có thương hiệu, uy tín trên thị trường chấp hành tốt theo đúng quy định tại QĐ15/2006/QĐ-BTC. Tuy nhiên còn một số công ty vẫn còn sử dụng báo cáo theo mẫu cũ không phù hợp theo qui định. Báo cáo tài chính quý vì không phải kiểm toán nên các công ty niêm yết thường không tuân thủ theo biểu mẫu quy định.

Các công ty niêm yết hiện nay đang gặp khó khăn trong việc thực hiện các biểu mẫu báo cáo tài chính theo quy định vì việc không thống nhất biểu mẫu theo Thông tư 38/2007/TT-BTC và Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC (ngày 20/03/2006 của Bộ Tài chính). Các công ty phải lập một báo cáo theo yêu cầu của UBCKNN và một báo cáo tài chính theo yêu cầu của cơ quan thuế, cơ quan thống kê. Sự khác nhau thể hiện ở mẫu Bảng cân đối kế toán (Thông tư 38/2007/TT-BTC quy định chung cho cả quý và năm, trong đó thể hiện số dư đầu kỳ và số dư cuối kỳ; Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC, mẫu Bảng cân đối kế toán quý lại thể hiện số dư cuối quý và số dư đầu năm). Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Thông tư 38/2007/TT-BTC chỉ bao gồm số liệu”kỳ báo cáo” và “luỹ kế” nhưng trong Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC lãi quy định bao gồm số liệu “kỳ báo cáo của năm nay và năm trước” và số liệu”luỹ kế đến cuối năm/cuối quý của năm nay và năm trước”

BCTC tóm tắt theo mẫu CBTT-03 quy định khác nhau ở một số ngành nghề (như công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, ) được trình bày cụ thể ở Phụ Lục số: 2.1;2.2 và 2.3-Nguồn www.vinafund.com.vn; www.ssi.com.vn; www.vse.org.vn

Thời hạn nộp báo cáo tài chính và tính minh bạch của BCTC được công bố trên TTCK Việt Nam hiện nay

Nhìn chung các công ty chấp hành nộp báo cáo và công bố đầy đủ thông tin về báo cáo tài chính quý, báo cáo tài chính năm. Tuy nhiên, xét về tính kịp thời, có một số công ty còn công bố báo cáo tài chính định kỳ chậm hơn so với quy định. Theo thống kê của uỷ ban chứng khoán, tính đến ngày 31/03/2009 chỉ có 105 công ty tại HASTC và 91 công ty tại HOSE gửi báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2008.

Những công ty chậm nộp và công bố báo cáo tài chính đều đã có công văn xin gia hạn nộp báo cáo và giải trình lý do nộp chậm trể. Những lý do chủ quan và khách quan chủ yếu thường gặp là: phần mềm kế toán bị lỗi, hệ thống máy tính bị nhiễm virus, chuyển đổi phần mềm, chưa quen cách lập báo cáo tài chính hợp nhất…Một số công ty có nhiều chi nhánh và các công ty con nên việc lập báo cáo tương đối phức tạp, mất nhiều thời gian (Gemadept, Bảo Minh..). Một số công ty có đặc thù riêng của ngành nên không thể quyết toán doanh thu, chi phí vào thời điểm hàng năm (Than Núi Béo NBC-HASTC). Môt lý do khách quan không xuất phát từ công ty niêm yết đó là số lượng công ty kiểm toán đủ tiêu chuẩn hành nghề rất ít (chỉ khoảng 26 công ty đáp ứng các tiêu chí của UBCK) không đáp ứng đủ số lượng để kiểm toán cho các công ty niêm yết (Công ty chứng khoán sài gòn (SSI) xin hoãn nộp và công bố báo cáo tài chính là chờ “đóng dấu” của công ty kiểm toán).

Theo báo cáo của các DN, cho đến tháng 11/2008, khi đưa số liệu thông tin tài chính ra thì không đến nỗi nào nhưng đến khi báo cáo quý IV thì số lỗ rất lớn. Điều này là thực tế đang tồn tại trên TTCKVN. Vậy có phải báo cáo quý đang tìm cách giấu lỗ để che mắt NĐT chăng. Năm 2008, số liệu trong nhiều BCTC có sự chênh lệch, xuất hiện tình trạng DN đua nhau xin gia hạn nộp báo cáo hoặc dồn lỗ vào cuối năm.. Điều này xảy ra là do BCTC quý không bắt buộc nhiều các thủ tục như BCTC năm(như không phải kiểm kê hàng tồn kho, đối chiếu công nợ…), do đó BCTC quý chưa thật chuẩn xác nhất là nhiều công ty niêm yết muốn giá cổ phiếu được cao thì tâm lý muốn công bố báo cáo quý lãi, đẹp, những tồn tại không muốn trưng bày.

Ngoài việc công bố thông tin chậm, tình trạng công bố thông tin theo kiểu đánh đố cũng được nhiều công ty áp dụng như: có công ty để file word, excel, PDF(cả PDF từ word chuyển sang lẫn file scan bản cứng), thậm chí có công ty công bố báo cáo tài chính bằng hàng chục bức ảnh chụp các trang tài liệu cứng. Nhiều lúc, mở file báo cáo không đọc được. Phông chữ đối với các file cũng khiến nhà đầu tư chẳng biết công ty viết gì vì máy không mở được. Còn về nội dung BCTC thì cũng rơi vào tình trạng mỗi công ty đưa một tiêu chí, một đơn vị. Có công ty lựa chọn các so sánh kỳ hiện tại với kỳ liền trước. Có công ty so sánh với cùng kỳ năm trước. Rồi đơn vị tiền tệ thì có công ty sử dụng VND, 1.000VND rồi đến triệu đồng, tỷ đồng…thậm chí là USD. Điều này khiến mỗi lần xem báo cáo, người đọc đôi khi bất ngờ vì thấy con số bất thường. Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

Tính minh bạch việc công bố thông tin báo cáo tài chính là vấn đề cần bàn đến tại TTCK Việt nam: cụ thể là thời gian gần đây, bất kỳ NĐT nào cũng có thể nhận thấy, lệnh mua một số mã cổ phiếu tăng lên bất thường trong nhiều phiên giao dịch nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, DN công bố tin tốt khiến cổ phiếu tăng giá chóng mặt. Xin nêu vài trường hợp: từ ngày 02/09 đến ngày 15/09/2009, giá cổ phiếu SJS tăng trần 7/9 phiên liên tiếp, từ 150,000đồng/CP lên 207,000 đồng/CP; giá cổ phiếu TDH tăng trần 5/7 phiên liên tiếp từ 91,000 đồng/CP lên 118,000 đồng/CP, từ ngày 9/10 đến 20/10/2009, cổ phiếu DHC có 8 phiên tăng trần liên tiếp từ 18,500 đồng/CP lên 26,900 đồng/CP…Các trường hợp này khá giống nhau:khi thông tin tốt được chính thức công bố, giá cổ phiếu đi xuống trước làn sóng NĐT chốt lời. Hiện tượng này cho thấy, thông tin đã bị rò rỉ khá lâu trước khi được công bố rộng rãi. Điều này tạo đặc quyền, đặc lợi cho một bộ phận NĐT có ưu thế về việc tiếp cận thông tin. Tại TTCK Việt Nam hiện tượng này có thể được ngăn ngừa, hạn chế tối đa nếu việc công bố thông tin được thực hiện nghiêm túc. Đơn cử, HĐQT DHC ra nghị quyết chia thưởng cho cổ đông bằng cổ phiếu với tỷ lệ 15%. Nghị quyết ghi ngày 16/10 nhưng tới ngày ngày 20/10 Sở GDCK TPHCM(HOSE) mới nhận được và tới 17h02 ngày 21/10/2009 mới được công bố trên Website. Thực tế cho thấy, trải qua nhiều khâu trung gian, đang có khoảng cách thời gian khá lớn từ thời điểm DN gửi thông tin đến thời điểm HOSE hay HASTC nhận được và cơ quan này công bố rộng rãi tới cộng đồng NĐT. Sự dây dưa như thế có thể tạo ra lợi thế về thông tin cho những ai nảy sinh giao dịch nội gián. Sự việc này làm lũng đoạn TTCK Việt Nam

Việc tuân thủ các quy định về chế độ kế toán và phương pháp lập báo cáo tài chính

Những công ty lớn, có thương hiệu, uy tín trên thị trường nhìn chung tuân thủ tốt chế độ và phương pháp lập báo cáo tài chính, báo cáo được lập kỹ và chất lượng cao, phần thuyết minh chi tiết rõ ràng, cung cấp rõ thông tin cho người đọc. Bên cạnh đó, còn một số công ty lập báo cáo sai sự thật (như Bông Bạch Tuyết biến lỗ thành lãi trong nhiều năm liền, UBCK đã xử phạt hai công ty thực hiện kiểm toán BCTC của Công Ty Bông Bạch Tuyết năm 2005 và 2006 là Công ty kiểm toán A&C và AISC ) hoặc báo cáo sơ sài, thuyết minh báo cáo không rõ ràng…

Liên quan đến việc hạch toán kế toán (như ghi nhận các khoản phải thu, phải trả;đặc thù nghành;trích lập dự phòng, các khoản đầu tư chứng khoán và các hạch toán khác)

Nhiều công ty vẫn chưa chấp hành theo đúng quy định là tách riêng biệt thành ngắn hạn và dài hạn theo thời hạn chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp mà chỉ trình bày trong phần tài sản, nợ ngắn hạn và phần nguồn vốn, phải trả ngắn hạn (cụ thể

CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN KỸ NGHỆ GỖ TRƯỜNG THÀNH Các công ty hoạt động trong ngành xây dựng chiếm tỷ trọng khá nhiều trong các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường hiện nay. Phần lớn các công ty hạch toán doanh thu theo trường hợp thanh toán theo giá trị khối lượng thực hiện vì cách này đã quen thuộc với các công ty trước đây (theo Chuẩn mực kế toán số 15 về Hợp đồng xây dựng, có hai hình thức thanh toán là thanh toán theo tiến độ kế hoạch, tức là khi kết quả thực hiện hợp đồng xây dựng được ước tính một cách đáng tin cậy, thì doanh thụ và chi phí của hợp đồng xây dựng được ghi nhận một cách tương ứng với phần công việc đã hoàn thành do nhà đầu tư xác định vào ngày lập báo cáo tài chính mà không phụ thuộc vào hoá đơn thanh toán theo tiến độ kế hoạch đã lập hay chưa lập và số tiền ghi trên hoá đơn là bao nhiêu.; và thanh toán theo giá trị khối lượng thực hiện, tức là khi kết quả thực hiện hợp đồng xây dựng được xác định một cách đáng tin cậy và được khách hàng xác nhận, thì doanh thu và chi phí liên quan đến hợp đồng được ghi nhận tương ứng với phần công việc đã hoàn thành được khách hàng xác nhận trong kỳ phản ánh trên hoá đơn đã lập (cụ thể cách ghi nhận doanh thu của CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN NHÀ THỦ ĐỨC)

Việc ghi nhận lợi nhuận từ định giá lại tài sản để góp vốn liên doanh: nhìn chung, hầu hết các công ty hay tổng công ty ở Việt Nam khi mang tài sản đi góp vốn liên doanh trong các năm qua không ghi nhận lợi nhuận từ chênh lệch định giá lại tài sản. Ví dụ cụ thể là CTCP Viễn thông Saigon Postel (SPT) mang giấy phép CDMA đi góp vốn với SK Telecom của Hàn Quốc, trong đó SK Telecom góp hơn 200 triệu USD để phát triển di động S-fone và quyền lợi sẽ được ăn chia 50:50.Như vậy, tại thời điểm đó có thể nói giấy phép CDMA của SPT được định giá hơn 200 triệu USD, nhưng SPT cũng không ghi nhận lợi nhuận gì từ việc định giá tài sản này.Ở một khía cạnh khác, trên thực tế, có một vài công ty đã từng ghi nhận lợi nhuận ngay từ giao dịch như thế này, nhưng đây không phải là thông lệ kế toán hiện tại và không phổ biến ở Việt Nam. Việc ghi nhận lợi nhuận từ giao dịch góp vốn như thế này có thể làm tăng việc cố ý ghi lợi nhuận thông qua việc góp tài sản để hình thành các công ty con với các đối tác nội bộ và sau đó ghi nhận con số lợi nhuận dựa trên giá trị định giá theo ý muốn của các bên. Ngoài ra, việc ghi nhận lợi nhuận ngay từ chênh lệch định giá lại tài sản góp vốn liên doanh khiến công ty có thể phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 25% ngay, như vậy rất bất lợi cho cổ đông khi mà dòng tiền trên thực tế phải rất nhiều năm sau mới thu được từ liên doanh.Với cơ sở trên, nhà đầu tư cần nhìn nhận việc định giá lại tài sản góp vốn liên doanh với nghỉa là xác định lại giá trị sổ sách cho DN và lợi ích dài hạn cho cổ đông chứ không phải là kỳ vọng để ghi nhận một khoản lợi nhuận đột biến trong ngắn hạn.

Việc thực hiện trích lập dự phòng là một vấn đề đáng quan tâm đến báo cáo tài chính của các công ty niêm yết hiện nay, nhất là dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán. Hầu hết các công ty không thực hiện viêc trích lập dự phòng vì sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty, ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của công ty trên thị trường. Vào thời điểm năm 2007-2008, thị trường chứng khoán suy giảm mạnh, một số công ty có đầu tư chứng khoán nhưng không trích lập dự phòng hoặc trích lập không đủ, không thực hiện trích lập dự phòng trong báo cáo quý và sau khi kiểm toán năm đã có một sự điều chỉnh giảm lớn về lợi nhuận của mình do công ty trích lập thêm dự phòng đầu tư chứng khoán. Bên cạnh đó việc trích lập dự phòng cho danh mục hàng tồn kho, công nợ chưa được các công ty tuân thủ theo đúng yêu cầu của chuẩn mực. Cụ thể liên quan đến việc trích lập dự phòng các khoản đầu tư tài chính, công ty Cổ phần Tập đoàn Kỹ nghệ gỗ Trường Thành(Mã giao dịch:TTF) cũng đã phải điều chỉnh kết quả kinh doanh của năm 2008 so với số liệu BCTC quý. Mặc dù BCTC quý III/2008, công ty này có gửi công văn đến Sở Giao Dịch Chứng Khoán TPHCM để giải trình việc trích lập dự phòng với nội dung:theo công văn của HOSE số 1161/SGDHCM-NY ngày 03/06/2008 yêu cầu các công ty niêm yết thực hiện theo Khoản mục 4 Mục I của Thông tư số 13/2006/TT-BTC. Tuy nhiên, theo Thông tư 13/2006/TT-/BTC thì các công ty niêm yết không bắt buộc thực hiện trích lập dự phòng đầu tư tài chính ngắn hạn vào giữa niên độ. Để tránh việc phải thực hiện trích lập và hoàn nhập dự phòng nhiều lần Hội Đồng Quản Trị Công ty đã quyết định sẽ thực hiện vào cuối năm tài chính. Hội đồng quản trị của công ty có cam kết sẽ thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy định của pháp luật đúng như các yêu cầu của UBCKNN và HOSE.

Cần phải xem xét kỹ hơn về các khoản lợi nhuận của các công ty cổ phần niêm yết, từ hoạt động kinh doanh của công ty hay chăng là việc hoàn nhập dự phòng đầu tư tài chính? Theo báo cáo tài chính quý II và quý III/2009 của nhiều DN có mức lợi nhuận đột biến, những khoản lợi nhuận này chủ yếu đến từ khoản hoàn nhập dự phòng đầu tư chứng khoán. Trong khi đó, ngành nghề hoạt động kinh doanh chính mới chỉ phục hồi một cách chậm chạp. Nhưng quý IV là quý mà DN phải công bố đầy đủ thông tin về các khoản đầu tư thua lỗ cũng như lợi nhuận của mình, với chỉ số VN-Index vào ngày 31/12/2009 là 494 thấp hơn nhiều so với các quý trước trong năm chắc chắn nhiều DN sẽ phải trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán. Ví dụ điển hình là SAM, hoạt động kinh doanh chính của công ty trong 3 quý đầu năm 2009 gặp khó khăn lớn. Doanh thu bán hàng thấp hơn giá vốn khiến lợi nhuận gộp của SAM đều bị âm. Quý I, lợi nhuận gộp -689 triệu đồng, quý -5. 465 triệu đồng, quý III có lãi 12 tỷ đồng. Lợi nhuận gộp mới chỉ được 6, 7 tỷ đồng, nhưng lợi nhuận sau thuế cả 3 quý là hơn 231 tỷ đồng, trong đó phần lớn là do lợi nhuận từ việc hoàn nhập dự phòng tài chính. Khi thị trường đi xuống vào cuối năm 2009 chắc chắn danh mục đầu tư của SAM sẽ biến động.

Liên quan đến việc hạch toán các khoản đầu tư chứng khoán theo phương pháp giá gốc và phương pháp vốn chủ sở hữu: hiện này số lượng công ty phải nộp BCTC hợp nhất trên TTCK Việt Nam đã nhiều (Vinamilk, SSI, REE…) nhưng tất cả các giá trị đầu tư vào công ty liên kết, công ty liên doanh, công ty con khi hợp nhất trong BCTC hợp nhất vẫn theo phương pháp giá gốc, chưa theo phương pháp vốn chủ sở hữu. Cụ thể BCTC đã kiểm toán năm 2007 của REE (Phụ Lục:2.6-Nguồn www.reecorp.com.vn)

Liên quan đến việc trình bày các chỉ số tài chính trên BCTC

EPS là một trong những chỉ tiêu rất quan trọng và phổ biến mà nó ảnh hưởng rất lớn đến giá cổ phiếu của công ty. Theo VAS, lãi được dùng để tính EPS bao gồm cả khoản lãi không dành cho các cổ đông phổ thông như lãi để trích quỹ khen thưởng, phúc lợi cho nhân viên và các quỹ khen thưởng không phải cho các cổ đông. Quy định này của VAS phản ánh không trung thực và hợp lý kết quả và tình hình tài chính của DN. Theo IAS, những khoản thưởng này sẽ được tính vào chi phí để trừ ra khỏi lãi cho việc tính EPS. Ví dụ, năm 2008, công ty Vinamilk và Than Núi Béo đã trích lập quỹ khen thưởng phúc lợi tương ứng 10% và 30% lợi nhuận thuần sau thuế, do vậy EPS của các công ty này công bố trên BCTC theo VAS là cao hơn so với EPS tính theo IFRS tương ứng là 10% và 30%.

Quy định các biểu mẫu là phải trình bày tỉ suất thu nhập trên cổ phần (EPS) nhưng các công ty thường không tính chỉ số này trên báo cáo tài chính.Theo tìm hiểu thực tế, ở một số công ty niêm yết vẫn chưa nắm vững cách tính chỉ số này, chưa xác định cách tính chính xác số cổ phiếu lưu hành bình quân.(cụ thể không tính chỉ số EPS của BCTC Quý II/2009 của Phụ Lục 2.7-nguồn www.ssi.com.vn)

Liên quan đến Thuyết minh BCTC

Mặc dù thuyết minh là phần bắt buộc của BCTC, nhưng không có tiêu chuẩn chung quy định về độ chính xác và rõ ràng. Ngoài một số công ty có bảng thuyết minh rõ ràng chi tiết, cung cấp khá nhiều thông tin tài chính cho người đọc. Phần lớn các công ty khác thuyết minh sơ sài , chính sách kế toán áp dụng nêu rất chung và thường trích dẫn theo chuẩn mực kế toán là chính, nhiều khoản mục thực tế không có số liệu phát sinh tại công ty nhưng vẫn có thuyết minh chính sách về khoản mục đó. Phần các thông tin khác như nợ tiềm tàng, thông tin về các bên liên quan, báo cáo bộ phận.. nhiều công ty có trình bày nhưng không kỹ hoặc không trình bày. Chí phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp hay bị bỏ qua không thuyết minh. Các khoản đầu tư, dự phòng, hàng tồn kho, chi phí trả trước..chủ yếu diễn giải các số liệu, không thuyết minh cụ thể. Một số thuyết minh ghi chú xem các phụ lục nhưng công ty không đính kèm phụ lục như Thuyết minh BCTC của GMD(Phụ Lục 2.8 www.vse.org.vn) Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

Những vấn đề không được đưa ra trong thuyết minh BCTC như lỗi trong báo cáo kế toán trước đó, những trường hợp dính líu đến pháp luật mà công ty có liên quan. Các DN thường công bố thông tin ít nhất bằng yêu cầu tối thiểu của pháp luật để tránh bị kiện tụng, sự tối thiểu này thường phụ thuộc vào phán xét chủ quan của đội ngũ quản lý. Một vấn đề khác với thuyết minh BCTC, là thỉnh thoảng công ty cố gắng gây khó cho người đọc BCTC, nhà đầu tư bằng cách sử dụng các thuật ngữ chuyên nghành luật hoặc chuyên ngành kỹ thuật. Việc sử dụng các từ ngữ khó hiểu này có thể hiểu rằng công ty đang cố gắng che đậy điều gì đó.

Các công ty có BCTC hợp nhất có nêu danh sách các công ty liên kết và liên doanh và số tiền nắm giữ, tỷ lệ nắm giữ nhưng không có thông tin thuyết minh thêm các công ty hoạt động trong lĩnh vực gì? kết quả kinh doanh? tài sản đầu tư,doanh thu,chi phí…BCTC hợp nhất có cả đầu tư tài chính ngắn hạn và dài hạn, có thể hiện giá trị đầu tư cho từng loại cổ phiếu, nhưng không cho biết số lượng cổ phiếu đầu tư, vì vậy không biết được giá bình quân đầu tư một cổ phiếu đến thời điểm báo cáo, lợi nhuận đầu tư tài chính cũng không thể biết được trung thực đến mức nào vì phương pháp tính giá xuất cổ phiếu đầu tư không nằm trong chính sách kế toán phải kê khai.

Liên quan đến việc kiểm toán và kết quả sau kiểm toán BCTC

Việc soát xét báo cáo tài chính giữa niên độ (sáu tháng đầu năm) còn nhiều vấn đề cần quan tâm (đã trung tuần tháng 09/2009 nhưng rải rác vẫn còn công ty niêm yết công bố báo cáo tài chính của 6 tháng đầu năm do phải chờ công ty kiểm toán thực hiện soát xét) :

  • Thứ nhất, phần lớn ý kiến soát xét của công ty kiểm toán có nội dung gần giống nhau như: “chúng tôi đã thực hiện công tác soát xét báo cáo tài chính theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam về công tác soát xét. Chuẩn mực này yêu cầu công tác soát xét phải lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo vừa phải rằng, báo cáo tài chính không có những sai phạm trọng yếu”. Công tác soát xét bao gồm chủ yếu việc trao đổi với nhân sự của công ty và áp dụng các thủ tục phân tích trên những thông tin tài chính. Công tác này cung cấp một mức độ đảm bảo thấp hơn công tác kiểm toán. Chúng tôi không thực hiện công tác kiểm toán nên không đưa ra ý kiến kiểm toán”. Đối với nhà đầu tư với nhận xét chung chung, thận trọng như vậy nhằm hạn chế thấp nhất mức rủi ro cho công ty kiểm toán nhưng không đảm bảo an toàn cho nhà đầu tư về các số liệu đã được soát xét.
  • Thứ hai, thực tế nhiều bản công bố báo cáo tài chính soát xét được đăng tải trên website của Sở GDCK không có báo cáo soát của công ty kiểm toán. Việc không đăng tải báo cáo soát xét của công ty kiểm toán kèm theo báo cáo tài chính của doanh nghiệp khiến nhà đầu tư không thực sự tin tưởng vào tính xác thực về tài chính của công ty. Điển hình trường hợp CTCP Đại lý vận tải SAFI chỉ nêu là báo cáo tài chính”sau kiểm toán” (một cách gọi khác đối với soát xét báo cáo tài chính giữa niên độ) và cũng không đăng tải ý kiến của công ty kiểm toán, thậm chí nhà đầu tư không biết công ty nào thực hiện việc soát xét.

Qua báo cáo kiểm toán thường niên của các công ty niêm yết năm 2008, nhiều báo cáo bị kiểm toán viên ngoại trừ bởi vì đó là những điều kiểm toán viên không thể khẳng định. Với những báo cáo này thì mức độ tin cậy rất thấp đối với nhà đầu tư (cụ thể ý kiến ngoại trừ của kiểm toán trong BCTC kiểm toán năm 2008 của Tổng Công Cổ phần Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam(VGC)

Sau khi kiểm toán BCTC năm 2008, lợi nhuận nhiều DN bị giảm do cách hiểu, áp dụng các chuẩn mực kế toán giữa công ty niêm yết và phía đơn vị kiểm toán không đồng nhất. Cụ thể, trường hợp của Ngân Hàng TMCP Sai Gòn Thương Tín(STB), lợi nhuận trước thuế cũ cả tập đoàn đạt 1.243 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau khi kiểm toán lại, chỉ còn gần 1.110 tỷ đồng, chênh lệch đến 133 tỷ đồng, tương đương 10.7%. Nguyên nhân chủ yếu do sự khác biệt về phương pháp trích lập dự phòng giảm giá đối với các loại cổ phiếu chưa niêm yết giữa STB và phía kiểm toán. Theo đó, STB xác định giá trị của cổ phiếu dựa trên nguyên tắc chiết khấu dòng cổ tức dự kiến thu được trong tương lai. Sau đó, so sánh giữa giá trị hợp lý với giá trị sổ sách, nếu giá trị hợp lý thấp hơn giá trị sổ sách, STB trích lập. Trong khi đó, Công ty kiểm toán PWC dựa trên giá thị trường (xác định từ bảng giá tham chiếu của các công ty chứng khoáng đang niêm yết hoặc xác định theo xu hướng của cổ phiếu niêm yết củng ngành)so sánh với giá sổ sách.; trường hợp tương tự cũng xảy ra với Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Khánh Hội(Mã KHA) chỉ trích lập cho các khoản đầu tư tài chính dài hạn năm 2008 có 12,59 tỷ đồng. Song phía kiểm toán yêu cầu trích thêm 6.31 tỷ đồng nữa khiến lợi nhuận sau thuế của KHA từ mức 46 tỷ xuống còn 38, 4 tỷ đồng giảm 7.62 tỷ đồng

2.3.2 Thực trạng công tác kiểm tra báo cáo tài chính ở các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

Đối với công ty cổ phần, việc thành lập Ban kiểm soát là bắt buộc, số lượng thành viên của Ban kiểm soát theo luật định là từ 3 đến 5 thành viên. Theo điều 122 của Luật doanh nghiệp 2005 quy định rõ thành viên Ban kiểm soát không được giữ các chức vụ quản lý trong công ty, đồng thời không có quan hệ thân cận với các vị trí như Tổng giám đốc, giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị…và không nhất thiết phải là cổ đông hoặc người lao động của công ty. Các quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan của các thành viên Ban kiểm soát trong quá trình kiểm tra báo cáo tài chính của công ty. Tuy nhiên, trên thực tế, các báo cáo tài chính của công ty thường được tự kiểm tra bởi chính bộ phận Tài chính-kế toán của công ty. Việc kiểm tra báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết thường tập trung chủ yếu vào các nội dung chính sau:

  • Kiểm tra các chỉ tiêu báo cáo kết quả kinh doanh liên quan đến các loại chi phí sản xuất kinh doanh. Đối chiếu các số liệu báo cáo về chi phí với các định mức, kế hoạch.
  • Kiểm tra các chỉ tiêu báo cáo tài chính liên quan đến Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
  • Kiểm tra các chỉ tiêu báo cáo tài chính liên quan đến tài sản cố định và khấu hao tài sản cố định.
  • Kiểm tra chỉ tiêu lợi nhuận và tình hình sử dụng, phân phối lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
  • Kiểm tra việc trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp dựa trên các số liệu từ Bảng cân đối kế toán và các sổ sách chi tiết, đối chiếu thực tế tại doanh nghiệp với các quy chế tài chính của doanh nghiệp.
  • Kiểm tra số dư các khoản dự phòng giảm giá (dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ khó đòi, các khoản đầu tư tài chính) trên Bảng cân đối kế toán, kiểm tra nguyên tắc và thực tế trích lập, hoàn nhập, sử dụng dự phòng và trình bày thông tin trên báo cáo tài chính.
  • Kiểm tra thời hạn lập và gửi báo cáo tài chính, tình hình công khai các báo cáo tài chính tới các đối tượng sử dụng thông tin.

Qua khảo sát thực tế hiện nay, tại các công ty niêm yết công tác kiểm tra báo cáo tài chính chỉ mang tính rà soát nhằm đối phó với các quy định của nhà nước. Nội dung kiểm tra báo cáo dơn giản, chỉ kiểm tra các chỉ tiêu chủ yếu liên quan đến doanh thu, chi phí, lợi nhuận, dòng tiền.. Phương pháp kiểm tra báo cáo tài chính được áp dụng phổ biến là phương pháp so sánh, đối chiếu do phương pháp này có thể áp dụng được với nhiều đối tượng kiểm tra và thời gian kiểm tra tương đối ngắn. Phương pháp kiểm kê chỉ được thực hiện trong một số trường hợp đặc biệt khi chủ sở hữu hoặc người sử dụng thông tin nghi vấn về sự khớp đúng giữa số liệu báo cáo và tình hình thực tế của công ty. Hơn nữa, do thời gian lập và nộp báo cáo tài chính tương đối ngắn nên thời gian dành cho các cuộc kiểm tra bị hạn chế

Hạn chế trong công tác kiểm tra BCTC hiện nay tại các công ty cổ phần niêm yết , kết quả được thể hiện tại môt số công ty dưới đây:

  • Công ty Bông Bạch Tuyết (cả lý do khách quan và chủ quan của Ban Giám Đốc , kiểm toán viên của công ty này): do công tác kiểm tra, quản lý tài chính lỏng lẻo dẫn đến việc nhân viên lợi dụng việc thanh lý tài sản để lấy tiền mua đất. BCTC quý và hàng năm bị phát hiện nhiều sai sót trong quá trình kiểm toán; khoản nợ lớn của công ty gần 7 tỉ đồng nhưng không được thuyết minh nguồn nợ từ đâu (chỉ đến khi bị các cơ quan chức năng vào cuộc mới biết đây là khoản tiền ban điều hành công ty đã thu tiền cọc mua cổ phiếu của một số cổ đông nhằm phát hành cổ phiếu cho họ);Với kết quả hồi tố của kiểm toán viên đã làm giảm lợi nhuận năm 2006 của BBT đi 10.74 tỷ đồng khiến lợi nhuận ròng của năm 2006 từ lãi 2.26 tỷ đồng xuống thành lỗ 8.49 tỷ đồng , nguyên nhân là do hai khoản mục được điều chỉnh lớn nhất là giảm doanh thu bán hàng năm 2006 (do công ty chưa giao hàng trong năm nhưng lại ghi nhận doanh thu vào năm này) và tăng giá vốn hàng bán (do thay đổi chính sách khấu hao, phương pháp xác định thành phẩm dở dang). Qua đây cũng đánh giá được tính không cẩn trọng của kiểm toán viên trong việc kiểm toán BCTC. Cụ thể, kiểm toán viên không đưa khoản loại trừ chi phí quảng cáo vào BCTC kiểm toán năm 2005, ngoài ra công ty kiểm toán không có thư quản lý sau kiểm toán.
  • Công tác kiểm tra BCTC không chặt chẻ dẫn đến số liệu chênh lệch trước và sau kiểm toán của một số công ty như với trường hợp của CTCP Sonadezi Long Thành(SZL), quỹ lợi nhuận sau thuế thời điểm cuối năm 2008 điều chỉnh sau kiểm toán tăng từ 55,17 tỷ đồng tăng lên 262,673 tỷ đồng do công ty thực hiện tạm phân bổ chi phí đầu tư kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp Long Thành hoặc trường hợp của Cadovimex và CTCP Dịch vụ kỹ thuật viễn thông (TST)

2.3.3 Thực trạng công tác phân tích báo cáo tài chính ở các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

  • Qua nghiên cứu khảo sát các công ty cổ phần niêm yết trên thị trườmg chứng khoán hiện nay tỷ lệ công ty có quan tâm đến phân tích báo cáo tài chính rất thấp chủ yếu tập trung ở các công ty lớn có thương hiệu, còn các công ty khác chỉ phân tích ở dạng đơn giản chỉ tính toán các chỉ tiêu theo quy định của UBCK.
  • Các công ty chưa nhận thấy được vai trò của phân tích báo cáo tài chính, một phần có thể do hạn chế về trình độ kế toán, tài chính của Ban giám đốc của công ty. Do đó cơ sở ra quyết định của Ban giám đốc công ty chủ yếu dựa vào những nghiệp vụ phát sinh nhằm ra quyết định tức thời, chứ không dựa vào các thông tin về tình hình tài chính, chỉ số tài chính để đưa ra các chính sách lâu dài nhằm nâng tầm giá trị của công ty.
  • Ở một số công ty có tiến hành phân tích báo cáo tài chính ở mức độ đơn giản: ngoài một số chỉ số tài chính bắt buộc phải công bố thông tin theo biểu mẫu của UBCK, các chỉ tiêu phổ biến được phân tích khác là; doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận hoạt động kinh doanh..
  • Việc phân tích báo cáo tài chính không được thực hiện như một phần việc độc lập của kế toán hay quản trị mà chỉ là một số tính toán đơn giản được thể hiện trong các báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty hay các bảng tổng kết tình hình kinh doanh hàng năm với phương pháp phân tích chủ yếu là so sánh tuyệt đối và tương đối của kỳ báo cáo so với kỳ kế toán liền trước đó. Các công ty không tiến hành so sánh dọc hay so sánh với nhiều năm trước nên không thấy được quan hệ giữa các chỉ tiêu trên báo cáo. Việc so sánh các chỉ tiêu kinh tế-tài chính khi phân tích chủ yếu giới hạn trong công ty, không có sự so sánh báo cáo, các chỉ số tài chính với các công ty khác cùng nghành, chỉ tiêu bình quân chung cùng nghành. Kết quả phân tích thường được trình bày dưới các con số, thiếu sự đánh giá và xác định nguyên nhân, nên chỉ mang tính chất báo cáo là chính chứ không giúp nhiều cho việc hoạch định các kế hoạch, chính sách tài chính cho các niên độ tiếp theo.
  • Về nhân lực phân tích báo cáo tài chính: qua khảo sát chung tại các công ty niêm yết phần lớn không có bộ phận hay nhân lực chuyên môn hoá cho công tác kiểm tra, phân tích báo cáo tài chính. Việc phân tích báo cáo tài chính được thực hiện đồng thời bởi người lập báo cáo tài chính. Tại các công ty kế toán trưởng có nhiệm vụ kiểm tra báo cáo tài chính và kế toán tổng hợp có nhiệm vụ phân tích báo cáo tài chính. Với nhân sự như vậy việc kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính thiếu đi tính khách quan.

Một số công ty phân tích báo cáo kết quả kinh doanh dựa vào số liệu thực hiện được so với kế hoạch đặt ra và đặt kế hoạch cho những tháng tiếp theo. Như trường hợp công ty CP XNK YTẾ Domesco (Phụ Lục 2.15-Nguồn từ HĐQT của công ty Domesco)

2.3.4 Đánh giá thực trạng công tác lập, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính ở các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay

2..3.4.1 Ưu điểm Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

2.3.4.1.1 Công tác lập báo cáo tài chính

  • Nhìn chung các công ty cổ phần niêm yết đã tuân thủ quy định lập và nộp báo cáo tài chính định kỳ. Những công ty lớn tạo ra các báo cáo có chất lượng tốt, thông tin đầy đủ giúp cho các đối tượng sử dụng đưa ra quyết định dễ dàng hơn.
  • Với quy định hiện nay báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo bắt buộc trong hệ thống báo cáo đã giúp các nhà đầu tư, ngân hàng, chủ nợ.. thấy được nguồn tiền hiện tại của công ty.
  • Lãi cơ bản trên mỗi cổ phiếu (EPS) được bổ sung trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đã giúp nhà đầu tư thấy được khả năng tạo ra lợi nhuận ròng trên một cổ phần mà cổ đông đóng góp vốn. Với chỉ tiêu này nhà đầu tư có thể so sánh hiệu quả hoạt động giữa các công ty trong cùng kỳ báo cáo, và hiệu quả hoạt động của cùng một công ty qua các kỳ báo cáo, từ đó đối tượng sử dụng thông tin ra quyết định một cách hữu ích.
  • Bảng thuyết minh báo cáo tài chính được trình bày chi tiết cung cấp cho người sử dụng đủ thông tin về công ty (vốn chủ sở hữu, tình hình đầu tư, các khoản vay…). Bảng cân đối kế toán và Thuyết minh báo cáo tài chính được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ giúp cho người sử dụng báo cáo tài chính của công ty đánh giá được tình hình tài chính của công ty.
  • Các công ty phải lập BCTC hợp nhất tuy chưa sử dụng được phương pháp VCSH nhưng đã sử dụng phương pháp giá gốc để hạch toán đầu tư tài chính vào báo cáo tài chính riêng của công ty và trình bày trong BCTC riêng về những thông tin cần thiết về các loại chứng khoán đầu tư, các công ty liên doanh liên kết, công ty con.

2.3.4.1.2 Công tác kiểm tra báo cáo tài chính

Việc thành lập ban kiểm soát tại các công ty cổ phần niêm yết đã giúp cho công tác kiểm tra báo cáo tài chính mang tính khách quan. Các công ty cổ phần niêm yết đã thấy được tầm quan trọng, tính chính xác của các con số khi công bố báo cáo tài chính của công ty trên thị trường nên các số liệu được kiểm tra chặt chẽ trước khi gửi đến các cơ quan chức năng.

2.3.4.1.3 Công tác phân tích báo cáo tài chính

Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán hiện nay, công tác phân tích báo cáo tài chính đang được các công ty cổ phần niêm yết quan tâm, chú trọng thực hiện nhằm mục đích phục vụ cho yêu cầu nội bộ công ty và cho các nhà đầu tư, các đối tượng khác quan tâm đến tình hình tài chính của công ty.

2.3.4.2 Những hạn chế và nguyên nhân Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

2.3.4.2.1 Công tác lập báo cáo tài chính

Đối với các cơ quan ban hành chính sách và quản lý kinh tế Nhà nước

Liên quan đến các khoản đầu tư chứng khoán (theo phương pháp giá gốc và VCSH): một số chuẩn mực kế toán chưa được soạn thảo hướng dẫn đúng và chi tiết để thực sự làm được trong thực tế như VAS07, 08, 10,16, 25, 26; chưa hướng dẫn cụ thể phương pháp VCSH (chỉ mới có TT 161/2007: chuyển từ BCTC riêng theo phương pháp giá gốc sang BCTC hợp nhất theo phương pháp VCSH).

Ở một số nước đã có quy định rằng các báo cáo tài chính phải công bố thông tin về thu nhập của hội đồng quản trị và ban giám đốc bao gồm các khoản thu nhập bằng tiền mặt, cổ phiếu ưu đãi, quyền mua cổ phiếu, cổ phiếu được cấp và giá trị các khoản lợi khác. Ở Việt Nam chưa có quy định này, điều này làm thiệt hại đến các cổ đông nhỏ, các cổ đông không nằm trong ban điều hành trong việc biểu quyết thông qua các phương án phát hành cổ phiếu ưu đãi cho các cán bộ điều hành chủ chốt của công ty.

Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu là báo cáo quan trọng đối với các công ty cổ phần vì báo cáo này cho biết lợi ích của cổ đông. Ở Việt Nam báo cáo này chưa phải là báo cáo bắt buộc trong hệ thống báo cáo tài chính, các thuyết minh trong báo cáo tài chính về chỉ tiêu này chỉ nêu tóm tắt, sơ sài.

Chưa có sự thống nhất về biểu mẫu Báo cáo tài chính cho các công ty niêm yết giữa QĐ15/2006/QĐ-BTC và Thông tư 38/2007/TT-BTC. Việc công bố báo cáo tài chính theo Thông tư 38/2007/TT-BTC gây khó khăn cho nhà đầu tư vì các công ty niêm yết chỉ phải công bố báo cáo tài chính năm và quý dưới dạng tóm tắt theo mẫu CBTT-03. Các báo cáo này ở dạng đơn giản, chỉ đưa ra thông tin tài chính cơ bản chứ không có tính hệ thống hoá như mẫu báo cáo trong Quyết định 15/2006/QĐ-BTC (không có Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. )

Chuẩn mực kế toán Việt Nam còn một số hạn chế và chưa phù hợp so với thay đổi của nền kinh tế, khi Việt Nam gia nhập vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO. Một số nghiệp vụ trên thực tế đã xuất hiện nhưng chưa có chuẩn mực, thông tư hướng dẫn rõ ràng gây khó khăn cho các công ty khi thực hiện. Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

Đối với các công ty cổ phần niêm yết

Nhiều công ty chưa tuân thủ đầy đủ và nghiêm túc các biểu mẫu theo quy định gây hiểu nhằm cho nhà đầu tư, một số công ty còn sử dụng những biểu mẫu cũ. Báo cáo tài chính quý ít được các công ty tuân thủ theo đúng quy định. Theo Quyết định 15 thì trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ phải có các cột Quý này năm trước, Quý này năm nay, Luỹ kế từ đầu năm đến cuối quý này năm trước . Tuy nhiên các báo cáo của các công ty thường chỉ có cột Quý này và Luỹ kế từ đầu năm.

Các khoản phải thu, phải trả các công ty vẫn chưa chấp hành theo đúng quy định là tách riêng biệt thành ngắn hạn và dài hạn theo thời hạn chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp mà chỉ trình bày trong phần tài sản, nợ ngắn hạn và phần nguồn vốn, phải trả ngắn hạn.

Việc bỏ trống chỉ tiêu Lãi cơ bản trên cổ phiếu(EPS) trên báo cáo kết quả kinh doanh thường gặp ở các công ty niêm yết hiện nay. Đây là chỉ tiêu quan trọng rất được các nhà đầu tư quan tâm. Theo quy định của Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 30, lãi trên cổ phiếu bao gồm 2 chỉ tiêu: Lãi cơ bản trên cổ phiếu và lãi suy giảm trên cổ phiếu. Chỉ tiêu lãi suy giảm trên cổ phiếu có tính số lượng các công cụ có thể chuyển thành cổ phiếu như trái phiếu chuyển đổi, quyền chọn…Do những loại chứng khoán này có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường nên số lượng cổ phiếu phổ thông sẽ tăng lên. Đây là nguyên nhân dẫn đến giảm thu nhập của mỗi cổ phiếu và sự suy giảm này thể hiện ở chỉ tiêu Lãi suy giảm trên cổ phiếu.. Thực tế hiện nay, Quốc hội đã ban hành Luật chứng khoán và nhiều công ty đã phát hành trái phiếu chuyển đổi và thực hiện chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông (Công ty chứng khoán Sài Gòn –SSI, công ty cổ phần kỹ thuật hạ tầng CII, Ngân hàng ACB) nhưng Bộ tài chính vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể cho chỉ tiêu lãi suy giảm trên cổ phiếu, các công ty niêm yết chỉ báo cáo lãi trên cổ phiếu cơ bản.

Một số công ty có đầu tư chứng khoán nhưng không trích lập dự phòng hoặc trích lập không đủ, không thực hiện trích lập dự phòng trong báo cáo quý và sau khi kiểm toán năm đã có một sự điều chỉnh giảm lớn về lợi nhuận của mình do công ty trích lập thêm dự phòng đầu tư chứng khoán. Việc trích lập dự phòng cho danh mục hàng tồn kho, công nợ chưa được các công ty tuân thủ theo đúng yêu cầu của chuẩn mực.

Các công ty phải lập BCTC hợp nhất chưa biết phương pháp điều chỉnh giá gốc trong BCTC riêng sang phương pháp VCSH trong BCTC hợp nhất. Và một số nguyên nhân khác như: Ban giám đốc, hội đồng quản trị, ban kiểm soát…chưa thực sự quan tâm đến thông tin đầu tư tài chính theo phương pháp VCSH; các đối tượng sử dụng BCTC quen với thông tin được báo cáo theo giá gốc; một số công ty kiểm toán độc lập khi lập báo cáo kiểm toán đã không nêu bật những sai sót này, cho rằng sai sót không trọng yếu…

Theo chuẩn mực kế toán qui định, nếu công ty có hoạt động sản xuất kinh doanh ở các lĩnh vực khác nhau tại các khu vực địa lý khác nhau thì phải tiến hành lập báo cáo bộ phận. Theo khảo sát hiện nay, có rất nhiều công ty thuộc đối tượng này nhưng rất ít công ty thực hiện báo cáo này hoặc nếu có thì rất sơ xài, ở mức độ đơn giản.

Phần lớn các công ty thuyết minh BCTC sơ sài, chính sách kế toán áp dụng nêu rất chung và thường trích dẫn theo chuẩn mực kế toán là chính, nhiều khoản mục thực tế không có số liệu phát sinh tại công ty nhưng vẫn có thuyết minh chính sách về khoản mục đó. Phần các thông tin khác như nợ tiềm tàng, thông tin về các bên liên quan, báo cáo bộ phận.. nhiều công ty có trình bày nhưng không kỹ hoặc không trình bày. Chí phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp hay bị bỏ qua không thuyết minh. Các khoản đầu tư, dự phòng, hàng tồn kho, chi phí trả trước ..chủ yếu diễn giải các số liệu, không thuyết minh cụ thể. Một số thuyết minh ghi chú xem các phụ lục nhưng công ty không đính kèm phụ lục.

Liên quan đến báo cáo tài chính đã được kiểm toán, có một số công ty khi công bố báo cáo tài chính đã loại bỏ một số phần thuyết minh không tốt hoặc thuyết minh không đầy đủ về khoản mục “khác”. Nhiều báo cáo bị kiểm toán viên ngoại trừ bởi vì đó là những điều kiểm toán viên không thể khẳng định. Với những báo cáo này thì mức độ tin cậy rất thấp đối với nhà đầu tư.

2.3.4.2.2 Công tác kiểm tra báo cáo tài chính Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

Đối với các cơ quan ban hành chính sách và quản lý kinh tế Nhà nước -Các cơ quản quản lý Nhà nước chưa có những xử phạt thích đáng trong trường hợp số liệu tài chính bị điều chỉnh quá lớn giữa trước và sau kiểm toán ở các Công ty cổ phần niêm yết, việc này gây ảnh hưởng lớn cho đối tượng sử dụng BCTC.

Đối với các công ty cổ phần niêm yết

Phần lớn các công ty niêm yết thực hiên kiểm tra báo cáo tài chính chủ yếu để phục vụ mục tiêu kiểm tra độ chính xác của các chỉ tiêu, cách tính toán trên hệ thống báo cáo tài chính. Các chủ thể kiểm tra chưa đi sâu vào nguồn gốc của các số liệu báo cáo là các hoạt động kinh tế và thực tế kinh doanh của công ty mình.

Phạm vi kiểm tra thường khá hạn hẹp, do nhu cầu của người nhận thông tin sau các cuộc kiểm tra với các chỉ tiêu chủ yếu như: Doanh thu, chi phí, lợi nhuận của công ty. Điều này làm cho kết quả kiểm tra mất đi phần nào tính khách quan do sự thiếu liên kết giữa chỉ tiêu được kiểm tra với các chỉ tiêu khác trên báo cáo tài chính và với tổng thể hoạt động kinh doanh của công ty.

Phương pháp kiểm tra báo cáo tài chính được áp dụng phổ biến là phương pháp so sánh, đối chiếu do phương pháp này có thể áp dụng được với nhiều đối tượng kiểm tra và thời gian kiểm tra tương đối ngắn. Thiếu sự áp dụng kết hợp nhiều phương pháp kiểm tra cho cùng một chỉ tiêu hay một đối tượng kiểm tra làm khó có khả năng phát hiện sai sót, gian lận trong quản lý tài chính tại công ty.

Hầu hết các báo cáo tài chính của công ty thường được tự kiểm tra bởi chính bộ phận Tài chính-kế toán của công ty. Việc bố trí nhân sự kiểm tra như vậy đã vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm trong phân công công việc kế toán, dẫn đến sự thiếu độc lập của người kiểm tra đối với quá trình lập và trình bày báo cáo tài chính (người kiểm tra đồng thời là người lập báo cáo). Một số công ty có Ban kiểm soát là Giám Đốc hay Kế toán trưởng cũng làm mất đi tính khách quan trong công tác kiểm tra báo cáo tài chính, sai sót gian lận nếu có khó có thể phát hiện được.

2.3.4.2.3 Công tác phân tích báo cáo tài chính Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

Đối với các cơ quan ban hành chính sách và quản lý kinh tế Nhà nước

Một số vấn đề về quy định kế toán có thể làm sai lệch cách tính chỉ số tài chính, ví dụ, khi tính Hệ số khả năng thanh toán nợ tổng quát =Tổng tài sản/Tổng nợ phải trả (trong đó, các chỉ tiêu liên quan đến Tài sản hoặc Tài sản ngắn hạn chưa có sự loại trừ với số liệu phát sinh hoặc số dư của các khoản mục đặc biệt như: tài sản thiếu chờ xử lý, chi phí trả trước ngắn hạn hoặc dài hạn…), hệ số thanh toán tổng quát sẽ bị đẩy lên cao hơn so với khả năng thanh toán thực sự của công ty do tử số bao gồm cả phần tài sản thiếu mà công ty không chắc chắn thu hồi được.

Hệ thống chỉ tiêu trung bình nghành chưa được xây dựng, đây là cơ sở tham chiếu quan trọng khi tiến hành phân tích. Chúng ta chỉ có thể thấy và so sánh được các tỷ lệ tài chính của công ty mình cao hay thấp, tốt hay xấu khi so sánh với các tỷ lệ tương ứng của công ty khác có đặc điểm và điều kiện sản xuất kinh doanh tương tự . Thông qua đối chiếu với hệ thống chỉ tiêu trung bình nghành, ban giám đốc thấy được vị thế của công ty mình, từ đó thấy được thực trạng của doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất kinh doanh so với các công ty khác cùng nghành và đưa ra hướng hoạt động quản lý tốt hơn cho những năm tiếp theo.

Những yêu cầu phân tích các chỉ số tài chính được quy định trên BCTC hiện nay chưa đáp ứng đủ yêu cầu cho các đối tượng sử dụng BCTC

Đối với các công ty cổ phần niêm yết

Công việc phân tích BCTC tại các công ty niêm yết chủ yếu do bộ phận tài chính-kế toán của công ty thực hiện

  • Các công ty niêm yết chưa thấy được tầm quan trọng và vai trò của công tác phân tích báo cáo tài chính tại công ty, chỉ tập trung vào các công ty lớn thường xuyên tham gia vào công tác này. Việc phân tích nhằm mục đích cân đối tài chính, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời. Các công ty chưa quan tâm đến việc phân tích rủi ro tài chính, rủi ro kinh doanh…
  • Các công ty niêm yết chưa chú trọng đến việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ: báo cáo này có tác dụng quan trọng trong việc dự báo khả năng tạo ra tiền, khả năng thanh toán.. nhằm giúp ban quản trị, nhà đầu tư, các đối tượng khác có nhu cầu sử dụng thông tin có những hiểu biết nhất định đối với hoạt động của công ty, nhưng nhận thức về tầm quan trọng cũng như việc phân tích báo cáo này chưa được các công ty. Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết
  • Liên quan đến các chỉ số tài chính: các chỉ số tài chính được nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất là: chỉ số EPS, hệ số giá trên giá trị sổ sách một cổ phiếu (P/B), hệ số giá trên thu nhập mộ cổ phiếu(P/E)…các chỉ số tài chính này được tính toán dựa trên báo cáo tài chính nên mức độ chính xác của nó phụ thuộc rất lớn vào chất lượng và nguyên tắc kế toán của công ty. Thực tế, các nguyên tắc và chế độ kế toán có thể khác nhau giữa các công ty, do đó, dẫn đến có thể làm sai lệch các tỷ số tài chính. Các nhà quản lý của công ty có thể chủ động tạo ra các báo cáo tài chính do thực hiện sai với nguyên tắc và chính sách kế toán quy định, và tạo ra các chỉ số tài chính theo ý muốn, làm cho phân tích báo cáo tài chính không còn là công cụ đánh giá va kiểm soát khách quan.
  • Các công ty niêm yết chưa chú trọng đến việc phân tích báo cáo bộ phận, việc phân tích bộ phận sẽ giúp ban quản lý thấy được điểm mạnh, điểm yếu của từng bộ phận, so sánh được các hệ số tài chính với các công ty khác cùng nghành (đối vói các công ty có quy mô lớn, hoạt động đa nghành).
  • Trình độ các nhân viên kế toán, phân tích tài chính tại các công ty chưa bắt kịp được sự thay đổi của các thông tư, chuẩn mực, các chuẩn mực kế toán quốc tế. Ban giám đốc chưa thấy được tầm quan trọng của công tác lập, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính, chưa quan tâm đến viêc đào tạo chuyên môn .
  • Trừ một số công ty lớn thường xuyên tổ chức công tác phân tích báo cáo tài chín h, hầu hết các công ty niêm yết còn lại phân tích báo cáo tài chính theo yêu cầu đột xuất của Ban giám đốc hay đối tượng khác có liên quan, quá trình phân tích không được xây dựng thành một quy trình cụ thể. Nhu cầu phân tích bị thu hẹp (các chỉ tiêu chủ yếu như:doanh thu, chi phí, lợi nhuận, thuế thu nhập doanh nghiệp…) làm ảnh hưởng đến quá trình phân tích và sử dụng thông tin phân tích.

Kết Luận Chương 2

Chương 2 của đề tài đã tập trung nghiên cứu một số vấn đề chính sau:

  • Sự ra đời và vai trò của thị trường chứng khoán Việt Nam và vai trò của công ty niêm yết đối với nền kinh tế Việt Nam.
  • Toàn cảnh kết quả giao dịch của thị trường chứng khoán Việt Nam ngày 30/09/2009.
  • Những khác biệt thực tế giữa VAS và IFRS có thể ảnh hưởng lớn đến đối tượng sử dụng BCTC.
  • Tóm tắt hệ thống báo cáo tài chính, chế độ kế toán quy định hiện nay cho các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
  • Nghiên cứu , khảo sát thực trạng lập, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt nam hiện nay bao gồm các nội dung: các quy định, việc tuân thủ các quy định tại các công ty (cụ thể tại một số công ty).
  • Đánh giá thực trạng (ưu và nhược điểm) của công tác lập, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính ở các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt nam hiện nay để làm cơ sở phương hướng cho giải pháp hoàn thiện được thể hiện ở chương 3. Luận văn: Thực trạng phân tích tài chính tại các Cty niên yết

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Biện pháp cải thiện tài chính tại các Cty niên yết

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x