Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Ảnh hưởng của sự tập trung sở hữu và sự kiểm soát gia đình đến lựa chọn công ty kiểm toán – Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

3.1. Mô hình nghiên cứu và các biến trong mô hình.

3.1.1. Các giả thuyết nghiên cứu.

Bằng chứng về mối quan hệ giữa tập trung sở hữu và lựa chọn công ty kiểm toán đã được cung cấp trong nghiên cứu thực nghiệm trước. Trong các công ty có sở hữu tập trung, vấn đề đại diện có thể bị trầm trọng hơn hoặc được giảm nhẹ đi. Một mặt, quyền kiểm soát nằm trong tay của một cổ đông có thể bị lợi dụng để chiếm dụng các nguồn vốn của công ty, hoặc hành động vì lợi ích cá nhân, các cổ đông này sẽ làm cho tình trạng báo cáo tài chính không rõ ràng kéo dài, dẫn đến cổ đông kiểm soát sẽ tích lũy được lợi ích cá nhân. Như vậy, để giảm mức độ bị giám sát và thực hiện các hành vi vì lợi ích cá nhân, các cổ đông kiểm soát có thể chọn để có báo cáo tài chính được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán có chất lượng thấp hơn (Lin và Liu, 2009).

Mặt khác, các cổ đông kiểm soát có thể lo lắng đến cơ chế giám sát, vấn đề khả năng của mình bị hạn chế trong quản trị có thể ảnh hưởng đến lợi ích của mình. Họ có thể tin rằng công ty cần phải thuyết phục các cổ đông thiểu số và các nhà đầu tư tiềm năng về độ tin cậy của quản trị công ty và báo cáo tài chính để đảm bảo quyền lợi của mình được bảo vệ tốt hơn. Mối quan tâm này có thể dẫn đến việc bổ nhiệm kiểm toán viên chất lượng cao để kiểm tra các báo cáo tài chính của công ty. Như Fan và Wong (2005) cũng cho rằng những công ty có tập trung sở hữu cao có nhiều khả năng để thuê các công ty kiểm toán Big 4, các công ty kiểm toán lớn có thể giúp nâng cao sự tự tin của nhà đầu tư trên thị trường vốn.

Với hai quan điểm như trên thì có rất nhiều bằng chứng về mối quan hệ giữa vấn đề sở hữu và lựa chọn công ty kiểm toán đã được cung cấp bởi các nghiên cứu thực nghiệm trước. Theo một số nghiên cứu, mức độ tập trung quyền sở hữu có liên quan ngược chiều với khả năng của việc thuê công ty kiểm toán có chất lượng cao, như nghiên cứu bởi Gaetano Matonti et al. (2016). Từ nền kinh tế đang phát triển, Lin và Liu (2009) chứng minh rằng các công ty Trung Quốc với sự tập trung quyền sở hữu lớn hơn ít có khả năng để thuê Big 10 thực hiện kiểm toán. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Các môi trường thể chế và bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường vốn tại Việt Nam là tương đối yếu hơn so với các thị trường phát triển. Với tình trạng này, trong các công ty niêm yết với cơ cấu sở hữu tập trung, các cổ đông kiểm soát có thể có nhiều cơ hội hơn để duy trì những lợi ích không rõ ràng của họ. Một mức độ thấp hơn về chất lượng kiểm toán có thể được sử dụng để bảo vệ lợi ích cá nhân, dựa trên dự đoán này và kết quả của một số nghiên cứu trước, giả thuyết đầu tiên được xây dựng như sau:

Giả thiết H1. Có một mối tương quan âm giữa việc tập trung quyền sở hữu và khả năng để thuê các công ty kiểm toán chất lượng cao.

Tiếp theo, nghiên cứu này xem xét liệu quyền sở hữu và kiểm soát tập trung trong tay của một gia đình có ảnh hưởng đến cơ chế quản trị doanh nghiệp hay không, đặc biệt là có ảnh hưởng đến khả năng lựa chọn kiểm toán viên bên ngoài có uy tín cao. Ngoài tập trung quyền sở hữu, kiểm soát gia đình cũng có thể đóng một vai trò hoặc làm trầm trọng thêm hoặc giảm thiểu các vấn đề đại diện giữa gia đình kiểm soát và các cổ đông khác. Theo đề nghị của Khan (2015), các công ty được gia đình kiểm soát có xu hướng dễ bị tổn thương nhiều hơn bởi các vấn đề đại diện. Một mặt, vì nó có ảnh hưởng đến vấn đề kiểm soát của công ty và chỉ định các thành viên trong gia đình để ngồi ở hội đồng quản trị hoặc đội ngũ quản lý, gia đình kiểm soát có thể có cơ hội lớn hơn để khai thác lợi ích cá nhân và làm cho tính minh bạch của công ty thấp hơn. Với tình trạng này, các công ty được gia đình kiểm soát có thể không muốn áp đặt giám sát bên ngoài và do đó, có nhiều khả năng để thuê kiểm toán chất lượng thấp để bảo vệ lợi ích riêng tư của gia đình, theo Salim Darmadi (2014). Mặt khác, cũng có một số nghiên cứu cho rằng các công ty được gia đình kiểm soát tương đối quan tâm nhiều hơn về vấn đề dài hạn và uy tín của công ty, dẫn đến họ cung cấp thông tin tài chính chất lượng cao để duy trì niềm tin của nhà đầu tư, theo Khan (2015) và tình trạng này có thể dẫn đến việc bổ nhiệm của kiểm toán viên chất lượng cao.

Để khẳng định tốt nhất các quan điểm đưa ra, các nghiên cứu trước đã kiểm tra mối liên hệ giữa sự kiểm soát gia đình và sự lựa chọn công ty kiểm toán và đa số các nghiên cứu chỉ ra rằng các công ty được gia đình kiểm soát có rất ít khả năng thuê kiểm toán chất lượng cao. Sử dụng một mẫu của các công ty ở Indonesia, Salim Darmadi (2014) cung cấp bằng chứng về sự nghịch biến này. Tại Bangladesh, một kết quả tương tự như vậy cũng được báo cáo từ Khan (2015). Do đó, bài nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam đưa ra giả thuyết nghiên cứu thứ hai là phù hợp với sự phát hiện của các nghiên cứu trước tiến hành tại các thị trường trước đó

Giả thiết H2: Có một mối tương quan âm giữa sự kiểm soát của gia đình và khả năng để thuê các công ty kiểm toán chất lượng cao.

Bài nghiên cứu cũng xem xét một số đặc điểm của công ty cụ thể mà có khả năng ảnh hưởng đến lựa chọn công ty kiểm toán. Các đặc điểm đó tác động đếnv iệc lựa chọn công ty kiểm toán như sau, những công ty có quy mô lớn hơn có thể thích kiểm toán viên chất lượng cao vì họ muốn duy trì danh tiếng của họ trên thị trường. Bên cạnh đó, các công ty như vậy dường như có nguồn lực tài chính tốt hơn để thuê kiểm toán chất lượng cao. Các nghiên cứu trước đã chứng minh rằng quy mô doanh nghiệp cùng chiều trong các nhu cầu về kiểm toán viên chất lượng cao (Knechel et al. 2008). Đối với đòn bẩy tài chính, các công ty có đòn bẩy cao hơn có xu hướng có vấn đề đại diện nặng hơn Knechel et al. (2008) và với môi trường thể chế tương đối yếu, các công ty đó có thể ít có khả năng bổ nhiệm kiểm toán viên chất lượng cao. Hơn nữa, các doanh nghiệp với hiệu suất hoạt động của công ty cao có xu hướng thể hiện bằng trong việc thuê kiểm toán viên chất lượng cao (Lin và Liu, 2009).

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

3.1.2. Mô hình nghiên cứu. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Bài nghiên cứu tập trung vào việc lựa chọn công ty kiểm toán có chất lượng cao, các nghiên cứu trước đây có nhiều cách khác nhau để xác định một công ty kiểm toán được coi là có chất lượng cao. Như nghiên cứu Lin và Liu (2009) sử dụng top 10 công ty kiểm toán lớn nhất, hay Knechel et al. (2008) thì dựa vào loại chứng chỉ của kiểm toán viên. Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây thì sử dụng các công ty kiểm toán Big 4 để xác định như là công ty kiểm toán có chất lượng cao (như nghiên cứu Guedhami et al. (2009), Salim Darmadi (2014), Xianjie He et al. (2014)), vì vậy, luận văn thực hiện xác định biến AUD trên tinh thần kế thừa các nghiên cứu trước đây, tức biến phụ thuộc (AUD) lựa chọn công ty kiểm toán là biến nhị phân, tức bằng 1 nếu công ty được kiểm toán bởi một trong bốn công ty kiểm toán Big 4 (Price Waterhouse Coopers, Deloitte, Ernst & Young, và KPMG) và bằng 0 nếu không phải kiểm toán bởi Big 4. Vì biến phụ thuộc là biến nhị phân nên bài nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy logistic, kỹ thuật này phù hợp với hầu hết các nghiên cứu trước đây (Gaetano Matonti et al. (2016), Lin và Liu (2009), Guedhami et al. (2009)…).

Để tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam, luận văn đã tham khảo các mô hình nghiên cứu trước đây trên thế giới về vấn đề lựa chọn kiểm toán, đặc biệt là nghiên cứu liên quan đến vấn đề sở hữu tập trung và kiểm soát gia đình được thực hiện tại các thị trường mới nổi. Theo các nghiên cứu trước đã đề cập trong chương 2, biến OWNCONC sở hữu tập trung và biến FAMCON kiểm soát gia đình là hai biến độc lập chính trong mô hình dùng để xem xét mối quan hệ với biến phụ thuộc AUD. Ngoài ra, việc lựa chọn công ty kiểm toán không chỉ chịu ảnh hưởng của vấn đề sở hữu mà còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau liên quan đến đặc điểm công ty như quy mô, đòn bẩy tài chính, giám đốc điều hành, lợi nhuận hay hiệu quả hoạt động, do đó luận văn tiến hành đưa các biến này vào mô hình với vai trò là biến kiểm soát, các biến này cũng tác động vào biến phụ thuộc đang xem xét nhưng bài nghiên cứu chủ yếu tập trung vào mối quan hệ với sở hữu tập trung và kiểm soát gia đình.

Phương trình hồi quy logistic được trình bày như sau:

Trong đó:

  • AUD là sự lựa chọn kiểm toán công ty kiểm toán.
  • OWNCONC là tập trung quyền sở hữu.
  • FAMCON là sự hiện diện của gia đình kiểm soát.
  • BOARD là giám đốc kiêm nhiệm.
  • FSIZE là quy mô doanh nghiệp.
  • LEVER là Đòn bẩy tài chính.
  • PROFIT là Lợi nhuận.
  • TOBINQ là Hiệu suất hoạt động dựa trên thị trường.
  • i, t : Mẫu công ty thứ i vào năm t.

3.1.3. Đo lường các biến trong mô hình. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Trong phần này, nghiên cứu sẽ trình bày cách đo lường các biến trong mô hình dựa trên kết quả của các nghiên cứu trước đây.

(a) Biến phụ thuộc.

Lựa chọn công ty kiểm toán (AUD)

Để đánh giá công ty kiểm toán có chất lượng cao thì phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và tùy vào cách đo lường của từng vấn đề nghiên cứu, các nghiên cứu gần đây thường sử dụng các công ty kiểm toán Big 4 để xác định như là công ty kiểm toán có chất lượng cao (như nghiên cứu Guedhami et al. (2009), Salim Darmadi (2014), Xianjie He et al. (2014)). Thật vậy, top 4 công ty kiểm toán Big 4 (Price Waterhouse Coopers, Deloitte, Ernst & Young, và KPMG) được đánh giá là bốn hãng kiểm toán hàng đầu thế giới, tại Việt Nam, theo số liệu của VACPA tính đến năm 2015, thì Big 4 đang có doanh thu dẫn đầu thị trường kiểm toán độc lập Việt Nam.

Biến phụ thuộc (AUD) lựa chọn công ty kiểm toán là biến nhị phân, tức bằng 1 nếu công ty được kiểm toán bởi một trong bốn công ty kiểm toán Big 4 và bằng 0 nếu không phải kiểm toán bởi Big 4.

Các biến độc lập.

Biến Tập trung quyền sở hữu (OWNCONC)

Biến này được đo lường bởi tỷ lệ cổ phần phổ thông, đơn vị tính là %, được sở hữu bởi cổ đông lớn nhất, tức biến này sẽ được xác định bằng tỷ lệ phần tram cổ phần mà cổ đông lớn nhất công ty hiện đang sở hữu vào cuối năm thứ t.

Cách đo lường này tương tự như trong nghiên cứu của Lin và Liu (2009), Xianjie He et al. (2014) cũng sử dụng cách đo lường này khi xác định vấn đề sở hữu tập trung tác động đến việc lựa chọn công ty kiểm toán. Theo Lin và Liu (2009) cho rằng việc áp dụng đo lường tập trung sở hữu cổ phần phản ánh mức độ chi phối, ảnh hưởng trong việc ra quyết định lựa chọn công ty kiểm toán. Vấn đề này cũng phù hợp tại Việt Nam khi mà việc lựa chọn công ty kiểm toán phải được hội đồng cổ đông thông qua, và họ là những người ra quyết định nên chọn công ty kiểm toán nào, cổ đông càng có mức độ sở hữu lớn càng có ảnh hưởng trong vấn đề ra quyết định.

Để thu thập dữ liệu liên quan đến biên này, nghiên cứu sử dụng thông tin về tỷ lệ phần trăm của cổ đông đang nắm giữ tỷ lệ cổ phần phổ thông lớn nhất được lấy trực tiếp từ mục cơ cấu cổ đông, hoặc quan hệ cổ đông, hoặc báo cáo của Hội đồng quản trị được công bố trong báo cáo thường niên hàng năm của công ty. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Biến Sự kiểm soát của gia đình (FAMCON)

FAMCON là một biến nhị phân, bằng 1 nếu công ty được gia đình kiểm soát và 0 nếu ngược lại.

Có nhiều định nghĩa khác nhau về công ty gia đình kiểm soát. Như Morck và Yeung (2004) cho rằng các công ty gia đình kiểm soát có hai tiêu chí, đó là: cổ đông lớn nhất của một công ty là một gia đình cụ thể; và thứ hai, tỷ lệ sở hữu của gia đình đó là lớn hơn 10 hoặc 20% cổ phần có quyền biểu quyết. Chrisman et al. (2004) thì cho rẳng đó là việc sở hữu cổ phần mà sự tham gia của các thành viên trong gia đình trong đội ngũ quản lý hoặc hội đồng quản trị, và xảy ra việc chuyển tiếp quyền quản lý hoặc chuyển quyền sở hữu trong gia đình. Hay như Khan (2005) cũng đưa ra định nghĩa về công ty gia đình tức công ty trong đó có 20% cổ phần (trực tiếp hoặc gián tiếp) được sở hữu bởi một nhóm cổ đông thuộc một gia đình, và có ít nhất một thành viên của gia đình kiểm soát nắm giữ một vị trí quản lý như thành viên hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc chủ tịch. Tuy nhiên, tại Việt Nam, thông tin về gia đình kiểm soát chưa được công bố một cách rõ rang trên báo cáo thường niên. Vì vậy, để có thể đo lường được sự kiểm soát gia đình tại công ty niêm yết ở Việt Nam, bài nghiên cứu cũng xác định định nghĩa như thế nào là công ty bị gia đình kiểm soát theo Salim Darmadi (2014) là một công ty được sở hữu bởi một tổ chức, một cá nhân, hoặc nhóm cá nhân có liên quan nhau (vợ chồng, anh, chị em, con..) hoặc một công ty chưa niêm yết khác, mà tổng tỷ lệ sở hữu từ 20% trở lên. Với mức 20% này, từ nghiên cứu trước đó của Salim Darmadi (2014) đã xác định các cổ đông kiểm soát là cổ đông lớn nắm giữ ít nhất 20% cổ phiếu phổ thông của công ty, cho phép kiểm soát hiệu quả của công ty. Và mức 20% này cũng được sử dụng trong nghiên cứu của Claessens et al. (2000) và Setia-Atmaja et al. (2009).

Thông này được lấy trực tiếp từ mục cơ cấu cổ đông, hoặc quan hệ cổ đông, hoặc báo cáo của Hội đồng quản trị được công bố trong báo cáo thường niên hàng năm của công ty.

Biến Nước ngoài kiểm soát (FORCON)

Biến độc lập FORCON được sử dụng trong nghiên cứu với mục đích làm biến tương tác sử dụng trong hồi quy với các biến tương tác nhằm kiểm tra mối quan hệ giữa biên sở hữu tập trung với hai loại hình sở hữu chính là sở hữu gia đình và sở hữu nước ngoài.

Cũng tương tự như biến FAMCON, FORCON được xác định là biến nhị phân, bằng 1 nếu công ty bị nước ngoài kiểm soát, bằng 0 nếu ngược lại, theo Gaetano Matonti et al. (2016), Salim Darmadi (2014). Mức 20% tỷ lệ sở hữu cũng được sử dụng để xác định công ty có bị kiểm soát bởi cổ đông nước ngoài hay không.

Thông tin thu thập cho biến này cũng được lấy từ mục cơ cấu cổ đông, hoặc quan hệ cổ đông được công bố trong báo cáo thường niên hàng năm của các doanh nghiệp.

Các biến kiểm soát.

Sau khi ước lượng, đo lường các biến chính cho mô hình, trong nghiên cứu này sẽ đưa thêm vào bài một số biến kiểm soát để tăng tính thuyết phục cho mô hình nghiên cứu. Kế thừa từ những nghiên cứu trước đây, nghiên cứu đưa vào tổng cộng 5 biến kiểm soát bao gồm: Giám đốc kiêm nhiệm (BOARD), Đòn bẩy tài chính (LEVER), Quy mô công ty (FSIZE), Lợi nhuận (PROFIT), Hiệu suất hoạt động (TOBINQ).

Biến Giám đốc kiêm nhiệm (BOARD)

Trong công ty cổ phần thường tồn tại Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Hội đồng quản trị đóng vai trò như những đại diện của các cổ đông và thực hiện giám sát và vai trò tư vấn về quản lý, trong khi Ban giám đốc thực hiện việc quản lý hàng ngày của công ty. Biến BOARD được xác định như là biến nhị phân, bằng 1 nếu Chủ tịch hội đồng quản trị đồng thời kiêm nhiêm vai trò tổng giám đốc trong công ty, tượng tự như Lin và Liu (2009). Thông tin về chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm nhiệm tổng giám độc cũng được công bố trong báo cáo thường niên được công bố hàng năm của công ty.

Biến Quy mô doanh nghiệp (FSIZE).

Để đo lường quy mô của doanh nghiệp, nghiên cứu này sử dụng lấy logarit của giá trị sổ sách của tổng tài sản, Theo Gaetano Matonti et al. (2016), Lin và Liu (2009), Knechel et al. (2008).

Giá trị sổ sách của tổng tài sản được lấy từ bảng cân đối kế toán trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán của công ty.

Biến Đòn bẩy tài chính (LEVER)

Đòn bẩy tài chính liên quan đến việc sử dụng nợ để tạo lợi nhuận trên tài sản. Như Guedhami et al. (2009) cho thấy rằng doanh nghiệp của các công ty có sử dụng đòn bẩy có nhiều khả năng để lựa chọn kiểm toán viên chất lượng thấp vì lập luận liên quan đến chi phí đại diện có xu hướng cao hơn trong các công ty đòn bẩy cao nên họ sẽ ít có khả năng để thuê kiểm toán chất lượng cao nhằm tăng cường khả năng quản lý thu nhập. Vì vậy, một công ty với thông tin xấu (ví dụ, đòn bẩy tài chính cao hơn) sẽ không có lợi ích trong việc thuê kiểm toán viên chất lượng cao. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Biến này được đo lường bằng tổng nợ chia cho tổng tài sản, cách đo lường này tương tự như trong nghiên cứu Knechel et al. (2008), Lin và Liu (2009), Xianjie He et al. (2014)

Cả hai chỉ tiêu tổng nợ và tổng tài sản đều được lấy từ bảng cân đối kế toán trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán.

Biến Lợi nhuận (PROFIT)

Để đo lường thành quả hoạt động của công ty, trong mô hình hồi quy sử dụng biến lợi nhuận (PROFIT) được sử dụng như là một thước đo để đo lường kết quả thực hiện trên kế toán. Theo Lin và Liu (2009) các doanh nghiệp với hiệu suất hoạt động của công ty cao có xu hướng thể hiện bằng việc thuê kiểm toán viên chất lượng cao.

Dữ liệu của biến này được thu thập từ lợi nhuận sau thuế và lãi vay trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và chỉ tiêu tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán của doanh nghiệp.

Biến Tobin Q (TOBIN Q)

Trong khi biến PROFIT đo lường thành quả hoạt động dựa vào lợi nhuận kế toán thì biến này được sử dụng như là biến để đo lường thành quả hoạt động của doanh nghiệp theo thị trường. Tobin Q được định nghĩa là tỷ lệ giá trị thị trường của công ty với giá trị sổ sách, giá trị thị trường của công ty khi tính sẽ là tổng của giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu và giá trị thị trường của nợ phải trả. Tuy nhiên tại Việt Nam rất khó xác định được giá trị thị trường của nợ phải trả nên luận văn sử dụng cách tính trong đó giá trị thị trường được tính bằng giá trị sổ sách của nợ cộng với giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu, dựa trên Salim Darmadi (2014), TOBIN Q sử dụng trong các mô hình hồi quy ở dạng log.

Trong đó, giá trị sổ sách của nợ và tài sản được lấy từ bảng cản đối kế toán, riêng giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu sẽ bằng Giá cổ phiếu tại ngày 31 tháng 12 nhân với số lượng cổ phiếu đang lưu hành tại thời điểm cuối năm tài chính.

Dưới đây là trình bày tóm tắt các biến trong mô hình nghiên cứu.

Bảng 3.1. Trình bày tóm tắt các biến trong mô hình nghiên cứu. nợ cộng với giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu) chia cho giá trị sổ sách của tài sản. Khả năng để thuê các công ty kiểm toán Big 4 càng cao

3.2. Mô tả cơ sở dữ liệu.

Lựa chọn mẫu và dữ liệu

Luận văn sử dụng dữ liệu bảng bao gồm 415 quan sát hàng năm của 83 công ty phi tài chính niêm yết, với 5 quan sát cho mỗi công ty trong giai đoạn từ 2011 tới 2015. Dữ liệu các công ty sử dụng trong mẫu nghiên cứu được lấy từ danhh sách các công ty đang niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, với tổng số lượng công ty niêm yết tính đến hết năm 2015 là 308 công ty. Nghiên cứu sử dụng các tiêu chí để loại bỏ các công ty ra khỏi mẫu quan sát như sau: Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

  • Các công ty tài chính được loại bỏ khỏi mẫu vì cấu trúc vốn, tính chất đòn bẩy của các công ty tài chính và một số các yêu cầu về quản trị của công ty tài chính khác với các công ty phi tài chính, đã được Fama và French (1992) đề cập.
  • Các công ty có giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu âm và các công ty với các dữ liệu không đầy đủ cũng bị loại trừ khỏi mẫu nghiên cứu, theo như Salim Darmadi (2016). (iii) Ngoài ra,
  • Với phiên giao dịch đầu tiên được khai trương tại Sở GDCK Thành Phố Hồ Chí Minh vào ngày 28/07/2000. Trong luận văn này sử dụng giai đoạn nghiên cứu từ 2011-2015 vì đây là giai doạn gần nhất khi nghiên cứu của luận văn này được tiến hành, vì vậy các doanh nghiệp mới niêm yết gần đây (từ 2011 đến 2015) cũng bị loại ra khỏi mẫu.

Điều này để đảm bảo dữ liệu nghiên cứu có thể thu thập được, mẫu đủ dài và bảng dữ liệu cân đối.

Liên quan đến dữ liệu về ngành, luận văn tham khảo cách phân ngành 4 cấp theo chuẩn phân ngành ICB (Industry Classification Benchmark). Trong đó các cổ phiếu có mã ngành 8000 thuộc nhóm ngành Tài chính (Financials) được loại trừ khỏi mẫu.

Sau khi thực hiện bước loại bỏ các công ty trong mẫu dựa vào các tiêu chí như trên, nghiên cứu thu được mẫu nghiên cứu gồm 83 công ty với 5 quan sát mỗi công ty trong giai đoạn từ 2011 đến 2015, các công ty trong mẫu đại diện cho hầu hết các ngành nghề, ngoài trừ ngành tài chính.

Ứng với mỗi công ty có mặt trong mẫu nghiên cứu, tác giả tiến hành thu thập các dữ liệu sau:

  • Dữ liệu kế toán (Bảng CĐKT, Kết quả HĐKD): Dữ liệu kế toán hàng năm của các công ty, luận văn thu thập trực tiếp từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán, được công bố rộng rãi trên website của công ty và website của sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.
  • Dữ liệu công bố trên báo cáo thường niên liên quan đến quan hệ sở hữu, luận văn thu thập bằng tay trực tiếp từ báo cáo thường niên, bảng cáo bạch được công bố rộng rãi trên website của công ty và website của sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.
  • Dữ liệu thị trường: Liên quan đến giá cổ phiếu dung để tính giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu được thu thập từ cơ sở dữ liệu của Công ty Cổ phần Chứng khoán VNDIRECT và giá cổ phiếu sử dụng là giá đóng cửa, giá này sau đó được điều chỉnh theo các sự kiện chia, tách cổ phiếu, trả cổ tức trong các ngày giao dịch không hưởng quyền. Giá này đã được so với các nguồn dữ liệu đáng tin cậy khác như Công Ty Cổ Phần Chứng Khoán Sài Gòn SSI, trang web Công Ty Cổ Phần Chứng Khoán Bảo Việt và sau khi so sánh thì cho thấy không có sự sai lệch.

3.3. Phương pháp phân tích. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

3.3.1. Thống kê mô tả.

Thống kê mô tả (Descriptive statistics): là phương pháp liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán và mô tả các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu. Theo như Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), thống kê mô tả là các phương pháp thăm dò dung để khám phá ý nghĩa của dữ liệu bằng các phép tính số học đơn giản và các biểu đồ đơn giản nhằm tóm tắt lại dữ liệu nghiên cứu.

Các đại lượng thống kê mô tả thường được dung là:

  • Mean: Trung bình cộng.
  • Sum: tổng cộng (cộng tất cả các giá trị trong tập dữ liệu quan sát)
  • Deviation: Độ lệch chuẩn.
  • Minimun (min): Giá trị nhỏ nhất.
  • Maximun (max): Giá trị lớn nhất.
  • SE mean: Sai số chuẩn khi ước lượng trị trung bình.

3.3.2. Hồi quy Logistic. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Trước hết chúng ta xem xét một mô hình đơn giản: mô hình hồi quy xác suất tuyến tính, mô hình này giả định xác suất xảy ra sự kiện, Pi, là tuyến tính với các biến giải thích:

Pi = P(yi=1)= β1 + β2 + β3  βk

Đây là mô hình hồi quy tuyến tính và có thể ước lượng bằng phương pháp bình phương sai số bé nhất (Ordinary Least Squares – OLS). Giá trị ước lượng từ mô hình hồi quy này là những giá trị xác suất cho yi=1 ứng với mỗi quan sát i. Các giá trị ước lượng được biểu diễn như hình 3.1.

Hình 3.1: Mô tả kết quả hồi quy với mô hình hồi quy xác suất tuyến tính

Tuy nhiên, theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Hồng Ngọc (2008), khi biến phụ thuộc ở dạng nhị phân thì không thể phân tích với dạng hồi quy thông thường vì tiềm ẩn những vi phạm giả định nền tảng của OLS là (i) phân phối của phần dư không phải là phân phối chuẩn mà thay vào đó là phân phối nhị thức và (ii) phương sai thay đổi. Do vậy, mô hình nhị phân Logistic đã được thay thế cho mô hình hồi quy xác suất tuyến tính. Mô hình này sử dụng một hàm số có thể chuyển đổi một cách có hiệu quả mô hình hồi quy xác suất tuyến tính sao cho các giá trị ước lượng chỉ sẽ nằm giữa khoảng cách cho phép (0, 1). Các giá trị ước lượng đã được uốn cong lại theo hình chữ S thay vì là một đường thẳng như trước đây trong mô hình hồi quy xác suất tuyến tính.

Hình 3.2: Mô tả kết quả hồi quy với mô hình hồi quy nhị phân Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Mô hình hồi quy Logistic

Mô hình hồi quy Logistic đã sử dụng phân phối Logistic tích lũy (cumulative logistic distribution) để chuyển đổi sao cho các giá trị xác suất được ước lượng sẽ tuân theo mô hình chữ S như trên.

Với e là cơ số mũ tự nhiên tương ứng với phân phối Logistic, z là biểu thức . Sau khi biến đổi lấy logarit thì mô hình Logistic sẽ có dạng hàm như sau:

Độ phù hợp của mô hình Logistic

Độ phù hợp của mô hình hồi quy Logistic dựa vào chỉ tiêu Log likelihood function chứ không phải là tối thiểu hóa RSS (residual sum of squares). Do vậy, tiêu chuẩn như RSS, R2 không còn đúng với mô hình Logistic. Thay vào đó, có 2 cách đo lường mức độ phù hợp của mô hình hồi quy với biến phụ thuộc bị giới hạn. Vì vậy để đo lường sức mạnh dự báo (Measures of predictive power): cho thấy khả năng giải thích/ dự báo của các biến độc lập tới biến phụ thuộc. Luận văn sử dụng hệ số Pseudo- R2, với L0 là likelihood của mô hình chỉ có hệ số chặn (only an intercept model) hay mô hình không dự báo (no predictors) và LM là likelihood của mô hình Logistic.

Các giá trị Pseudo-R2 đều đo lường mức độ cải thiện khả năng dự báo của mô hình khi có các biến độc lập so với mô hình khi chỉ có tung độ gốc và có ý nghĩa tương tự R2 trong mô hình hồi quy tuyến tính.

Tóm lại, theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), điểm khác biệt cơ bản giữa hồi quy Logistic và hồi quy bội thông thường là ở chỗ biến phụ thuộc là dạng nhị phân, hồi quy logistic thay vì tối thiểu hóa độ lệch bình phương như hồi quy tuyến tính thì nó tối đa hóa khả năng hiện tượng xảy ra với ước lượng thích hợp cực đại – Maximum Likelihood Estimation, tuy nhiên hồi quy Logistic và hồi quy bội thông thường khá tương đồng trong việc kiểm định ý nghĩa của các hệ số hồi quy.

Trong luận văn này, vì biến phụ thuộc (AUD) là biến nhị phân, nên nghiên cứu này sử dụng hồi quy logistic gộp (pooled logistic regressions) để kiểm định các giả thuyết, tương tự như các nghiên cứu trước đó đã thực hiện. Ngoài ra, các biến giả theo năm và nhóm ngành (year and industry dummy) cũng được xây dựng nhằm kiểm soát sự khác nhau giữa các giai đoạn thời gian và các đặc tính của từng ngành nghề. Đồng thời, để kiểm tra khả năng giải thích/ dự báo của các biến độc lập tới biến phụ thuộc, thay vì sử dụng R2 như trong mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển, hồi quy logistic sử dụng hệ số Pseudo- R2 (hay McFadden’s R2) để trình bày kết quả này. Cuối cùng, thống kê z (z-statistics) với sai số chuẩn mạnh (robust standard errors) cũng được sử dụng.

Trong bài, nghiên cứu lần lượt thực hiện các phép hồi quy sau đây:

  • Hồi quy trên toàn mẫu,
  • Hồi quy với biến tương tác.
  • Các phép hồi quy kiểm định tính vững (robustness check). Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Biện pháp tăng người lựa chọn của công ty kiểm toán

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x