Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái quát về kiểm soát GĐ đến lựa chọn Cty kiểm toán hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Ảnh hưởng của sự tập trung sở hữu và sự kiểm soát gia đình đến lựa chọn công ty kiểm toán – Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Tổng quan các nghiên cứu trước đây.
Do có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quản lý, sự tồn tại của các cổ đông kiểm soát và cổ đông thiểu số, tồn tại vấn đề bất cân xứng thông tin trên thị trường vốn. Tình trạng này dẫn đến nhu cầu về kiểm toán độc lập báo cáo tài chính của công ty để phục vụ như một cơ chế giám sát. Kiểm toán bên ngoài sẽ cung cấp việc kiểm tra độc lập về thông tin tài chính được cung cấp bởi nhà quản lý, và việc này đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố niềm tin vào thông tin tài chính mà công ty công bố ra bên ngoài. Do đó, kiểm toán độc lập được coi là một trong những cơ chế quản trị công ty bên ngoài để giảm thiểu các vấn đề về đại diện và giảm bớt sự bất cân xứng thông tin. Tuy nhiên có nhiều yếu tố tác động đến việc lựa chọn công ty kiểm toán như môi trường thể chế, cơ cấu quản trị doanh nghiệp, sở hữu cổ phần và đặc điểm công ty… đặc biệt là vấn đề về sở hữu, có thể kể đến một số nghiên cứu như sau: Josephph Fan, Tjwong (2004), W.Robert Knechel, Lasse Niemi và Stefan Sundgren (2008), Z. Jun Lin, Ming Liu (2009), Omrane Guedhami, Jeffrey A.Pittman, Walid Saffar (2009), Xianjie He, Oliver Rui, Liu Zheng, Hongjun Zhu (2014), Omrane Guedhami, Jeffrey A.Pittman, Walid Saffar (2009), Khan (2015), Salim Darmadi (2016), Gaetano Matonti, Jon Tucker, Aurelio Tommasetti (2016).
Nghiên cứu của Josephph Fan, Tjwong (2004) chỉ ra rằng ở các thị trường mới nổi, vấn đề đại diện xảy ra do xung đột giữa cổ đông kiểm soát và cổ đông thiểu số là rất khó để giảm thiểu, và vấn đề liên quan đến quyền sở hữu tập trung của các công ty tại Đông Á làm phát sinh chi phí đại diện này. Và bài nghiên cứu tập trung vào kiểm tra liệu kiểm toán viên độc lập bên ngoài có được sử dụng như một cơ chế giám sát để làm giảm bớt các vấn đề đại diện hay không. Sử dụng mẫu từ hơn 40 nền kinh tế với 3,672 quan sát từ 1994-1996. Liên quan đến vấn đề lựa chọn công ty kiểm toán, nghiên cứu kiểm tra mối quan hệ (i) Quyết định thuê Big 5 với vấn đề sở hữu tập trung, (ii) Quyết định thuê Big 5 với nhu cầu về vốn của công ty. Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy logistic gộp để kiểm định mối quan hệ giữa lựa chọn công ty kiểm toán và vấn đề sở hữu. Nghiên cứu sử dụng các công ty kiểm toán Big 5 như là công ty kiểm toán có chất lượng cao, 3 biến chính được đưa vào mô hình để tìm hiểu ảnh hưởng đến lựa chọn công ty kiểm toán là giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu, đòn bẩy tài chính, vòng quay tài sản và nghiên cứu sử dụng mức 30% xác định như là mức sở hữu có quyền kiểm soát. Luận văn: Khái quát về kiểm soát GĐ đến lựa chọn Cty kiểm toán
Kết quả hồi quy cho thấy rằng doanh nghiệp có quyền sở hữu tập trung cao có nhiều khả năng để thuê kiểm toán viên Big 5 nhằm giúp tăng cường khả năng huy động vốn, và mối quan hệ này được thể hiện rõ trong các doanh nghiệp thường xuyên huy động vốn cổ phần. Ngoài ra, kết quả hồi quy cũng chỉ ra rằng, công ty càng lớn, lợi nhuận càng cao thì nhu cầu thuê Big 5 càng cao và ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính thì không có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của W. Robert Knechel, Lasse Niemi và Stefan Sundgren (2008) thực hiện nghiên cứu về lựa chọn công ty kiểm toán của các công ty vừa và nhỏ tại Phần Lan mà tại đây, các công ty vừa và nhỏ có thể lựa chọn một trong bốn dạng công ty kiểm toán khác nhau: Công ty kiểm toán cấp quốc tế, công ty kiểm toán cấp quốc gia, công ty kiểm toán cấp địa phương, và công ty kiểm toán chưa có chứng chỉ. Nghiên cứu với mục tiêu kiểm tra mối quan hệ giữa (i) Sự lựa chọn công ty kiểm toán với sự phức tạp trong hoạt động của công ty, (ii) Sự lựa chọn công ty kiểm toán có liên quan với nhu cầu về tài chính bên ngoài, (iii) Sự lựa chọn công ty kiểm toán có liên quan với đòn bẩy tài chính, (iv) Sự lựa chọn công ty kiểm toán với việc sử dụng vốn chủ sở hữu bên ngoài. Bài nghiên cứu sử dụng hồi quy logictis để kiểm tra ảnh hưởng của lựa chọn kiểm toán trong 3 trường hợp, kiểm toán có chứng chỉ và kiểm toán viên không có chứng chỉ, kiểm tóan có chứng chỉ tại địa phương với chứng chỉ cấp quốc gia, Big 6 và công ty kiểm toán ngoài Big 6 với mẫu nghiên cứu gồm 2,333 công ty vừa và nhỏ tại Phần Lan đã nộp báo cáo tài chính trong giai đoạn từ 1994 đến 1999. Nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn công ty kiểm toán liên quan chủ yếu đến hoạt động của doanh nghiệp nên các biến được đưa vào mô hình là quy mô công ty, tiền lương, đòn bẩy tài chính, sự phức tạp trong hoạt động…
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng mức độ phức tạp trong hoạt động của công ty ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn kiểm toán viên. Kết quả phân tích cho thấy sự lựa chọn công ty kiểm toán của các công ty nhỏ phụ thuộc vào các vấn đề phức tạp và hoạt động nội bộ của công ty. Thứ hai, các công ty cỡ trung chọn kiểm toán viên dựa trên nhu cầu vay nợ. Cuối cùng, công ty lớn hơn cũng bị ảnh hưởng bởi đòn bẩy (đặc biệt nợ không có bảo đảm) trong việc lựa chọn công ty kiểm toán.
Nghiên cứu của Z. Jun Lin, Ming Liu (2009) nghiên cứu tác động của quản trị doanh nghiệp đến lựa chọn công ty kiểm toán tại thị trường Trung Quốc cho rằng hoặc thuê kiểm toán chất lượng cao giúp phát đi một tín hiệu về quản trị doanh nghiệp tốt để giúp họ giảm chi phí huy động vốn, hoặc để chọn kiểm toán viên chất lượng thấp với việc giám sát kiểm toán kém hiệu quả tạo điều kiện để thu lợi ích cá nhân và che dấu sự minh bạch. Mục tiêu của nghiên cứu này là điều tra yếu tố quyết định đến sự lựa chọn công ty kiểm toán của các công ty ở Trung Quốc, nghiên cứu đưa ra giả thuyết: (i) Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của cổ đông lớn nhất càng cao thì khả năng thuê kiểm toán có chất lượng cao (Top 10) càng thấp, (ii) một công ty mà vị trí Giám đốc điều hành kiêm nhiệm chủ tịch HĐQT là ít có khả năng để lựa chọn một công ty kiểm toán có chất lượng cao (Top 10). Mẫu nghiên cứu được lấy từ 184 công ty IPO niêm yết tại Sở giao dịch Thượng Hải và Thâm Quyến từ đầu năm 2001-2004. Bài nghiên cứu phát triển mô hình hồi quy Logistic tập trung vào việc kiểm tra vấn đề quản trị nội bộ của công ty về các quyết định lựa chọn công ty kiểm toán. Ba biến được sử dụng để đại diện cho cơ chế quản lý nội bộ công ty của các công ty là tỷ lệ sở hữu, kích thước của ban giám sát, và Giám đốc điều hành kiêm nhiệm chủ tịch hội đồng quản trị.
Kết quả hồi quy của cả ba biến tỷ lệ sở hữu, kích thước của ban giám sát, và Giám đốc điều hành kiêm nhiệm chủ tịch hội đồng quản trị đều có ý nghĩa thống kê và kết quả cho thấy rằng các công ty với cổ đông kiểm soát lớn hơn tức cổ đông nắm giữ tỷ lệ cổ phần lớn, số lượng thành viên trong ban giám sát nhỏ, Giám đốc điều hành kiêm nhiệm, ít có khả năng để thuê kiểm toán có chất lượng cao. Điều này cũng cho thấy rằng các doanh nghiệp có cơ chế quản lý nội bộ công ty yếu có xu hướng để lựa chọn một công ty kiểm toán có chất lượng thấp để duy trì sự không rõ ràng trong báo cáo của họ.
Nghiên cứu của Omrane Guedhami, Jeffrey A.Pittman, Walid Saffar (2009) nghiên cứu việc lựa chọn công ty kiểm toán dưới tác động của sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài. Nghiên cứu cung cấp bằng chứng xuyên quốc gia về tầm quan trọng của minh bạch kế toán bằng cách kiểm tra vai trò của sự lựa chọn công ty kiểm toán bằng cách phân tích tập trung vào việc liệu những công ty có tỷ lệ sở hữu tập trung có chấp nhận sự giám sát từ các công ty kiểm toán chất lượng cao Big 4. Cụ thể, nghiên kiểm định mối quan hệ giữa (i) Khả năng lựa chọn công ty kiểm toán Big 4 với tỷ lệ sở hữu nhà nước, (ii) Khả năng lựa chọn công ty kiểm toán Big 4 với mức độ sở hữu nước ngoài. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 176 công ty tư nhân từ 21 nền kinh tế mới nổi và 11 quốc gia công nghiệp trong giai đoạn từ 1980 đến 2002. Nghiên cứu sử dụng kiểm định mô hình hồi quy logistic, sử dụng ba nhóm biến chính: nhóm biến về sở hữu nhà nước, nhóm biến về sở hữu nước ngoài, và nhóm tập hợp các biến kiểm soát liên quan đến công ty và quốc gia.
Kết quả hồi quy cho thấy rằng khả năng mà các doanh nghiệp tư nhân chọn một công ty kiểm toán Big 4 giảm với mức độ sở hữu của nhà nước và khả năng chọn Big 4 tăng đồng biến với tỷ lệ sở hữu của nước ngoài, tuy nhiên biến liên quan đến sở hữu nước ngoài lại không có ý nghĩa thống kê. Ngoài ra, nghiên cứu này thừa nhận rằng các nhà đầu tư nước ngoài một cách hợp lý có thể chọn để đầu tư vào những công ty mà thuê kiểm toán chất lượng cao, và thêm vào đó chủ sở hữu nước ngoài sẽ thích thuê một công ty kiểm toán Big Four vì họ cho rằng họ cần thông tin chính xác hơn để ngăn chặn lợi ích của họ bị ảnh hưởng.
Nghiên cứu của Xianjie He, Oliver Rui, Liu Zheng, Hongjun Zhu (2014) tiến hành nghiên những tác động của sở hữu nước ngoài vào sự lựa chọn công ty kiểm toán, trong nghiên cứu đề cập do việc tiếp cận vốn nước ngoài khó khăn và tốn kém vì vấn đề thông tin và chi phí đại diện, đặc biệt là các doanh nghiệp tại các thị trường mới nổi với một môi trường pháp lý yếu và quản trị doanh nghiệp yếu kém, vì vậy nhà đầu tư nước ngoài thường đánh giá báo cáo tài chính dựa vào việc lựa chọn kiểm toán viên chất lượng cao để cung cấp sự đảm bảo về chất lượng báo cáo tài chính và đóng vai trò quản lý trong việc giám sát và hạn chế vấn đề lợi ích cá nhân. Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy logistic cho mẫu các công ty từ năm 1992 đến 2006 tại thị trường chứng khoán Trung Quốc.
Nghiên cứu chỉ ra rằng các công ty trải qua sự sụt giảm lớn hơn trong quyền sở hữu nước ngoài có nhiều khả năng để chuyển sang thuê kiểm toán viên không phải Big 4. Kết quả này phù hợp với giả thuyết nghiên cứu đưa ra là đầu tư nước ngoài có thể ảnh hưởng đến sự thay đổi trong lựa chọn công ty kiểm toán tức sở hữu nước ngoài càng tăng thì càng có khả năng để thuê công ty kiểm toán Big 4. Về vai trò của sở hữu nước ngoài, nghiên cứu thực nghiệm này đề cập đến yếu tố nội sinh trong quan hệ giữa các nhà đầu tư và việc lựa chọn kiểm toán viên là vì vấn đề mở cửa thị trường chứng khoán.
Nghiên cứu của Arifur Khan, Mohammad Badrul Muttakin, Javed Siddiqui (2015), nghiên cứu việc lựa chọn công ty kiểm toán trong nền kinh tế có nhiều công ty gia đình tại thị trường Bangladesh, tại đây được đánh giá là thị trường mà các công ty có sở hữu tập trung cao, thị trường vốn yếu kém, thiếu các hoạt động cổ đông và việc giám sát thực thi các quy định chưa chặt chẽ. Nghiên cứu đề cập đến tác động của kiểm soát gia đình và lựa chọn công ty kiểm toán trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển, vấn đề mà trước đó chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến. Mục tiêu của nghiên cứu là kiểm tra nhu cầu về công ty kiểm toán chất cao (Big 4) trong công ty gia đình và công ty không thuộc gia đình. Nghiên cứu cũng đưa ra định nghĩa về công ty gia đình tức công ty trong đó có 20% cổ phần (trực tiếp hoặc gián tiếp) được sở hữu bởi một nhóm cổ đông thuộc một gia đình, và có ít nhất một thành viên của gia đình kiểm soát nắm giữ một vị trí quản lý như thành viên hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc chủ tịch. Nghiên cứu sử dụng hồi quy probit và Logistic cho 1.058 quan sát công ty niêm yết công khai tại Bangladesh, nơi các công ty gia đình là hình thức chi phối hầu hết các công ty đại chúng. Mô hình hồi quy gồm 3 nhóm biến chính: biến sở hữu gia đình, nhóm biến về đặc điểm cụ thể của công ty (tỷ lệ sỡ hữu của chính phủ, quy mô công ty, đòn bẩy, lợi nhuận) và nhóm biến về ngành công nghiệp.
Nghiên cứu chỉ ra rằng so với các công ty không thuộc gia đình, các công ty gia đình trong mẫu nghiên cứu ưu tiên lựa chọn kiểm toán viên chất lượng thấp. Tuy nhiên, đối với các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu, các doanh nghiệp gia đình có vẻ thích sử dụng kiểm toán viên chất lượng tốt hơn so với các công ty không thuộc gia đình. Nói chung, những phát hiện trong nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng đối với thị trường kiểm toán trong nền kinh tế mới nổi, hỗ trợ trong hoạch định chính sách ở các nước đang phát triển khi họ chứng minh sức mạnh của việc đảm bảo chất lượng kiểm toán và cuối cùng bảo vệ lợi ích công cộng. Luận văn: Khái quát về kiểm soát GĐ đến lựa chọn Cty kiểm toán
Nghiên cứu của Salim Darmadi (2016) nghiên cứu về việc lựa chọn công ty kiểm toán bị tác động như thế nào bởi vấn đề tập trung quyền sở hữu và kiểm soát gia đình tại thị trường Indonesia. Nghiên cứu này xem xét liệu quyền sở hữu tập trung và việc kiểm soát tập trung trong tay của một gia đình ảnh hưởng như thế nào đến khả năng lựa chọn kiểm toán viên bên ngoài có chất lượng cao, cụ thể là Big 4. Nghiên cứu này tập trung vào một thị trường mới nổi, cụ thể là, Indonesia, nơi tập trung quyền sở hữu và kiểm soát của gia đình là tương đối cao hơn so với các thị trường phát triển khác. Với mục tiêu là kiểm tra mối quan hệ giữa việc tập trung sở hữu với lựa chọn công ty kiểm toán và việc sở hữu gia đình tác động như thế nào đến lựa chọn công ty kiểm toán. Nghiên cứu sử dụng mẫu dữ liệu bao gồm 300 công ty với 787 quan sát của các công ty đại chúng niêm yết trên sàn chứng khoán Indonesia từ 2005-2007 và sử dụng hồi quy logistic để kiểm tra các giả thuyết nghiên cứu. Ba nhóm biến chính được đưa và mô hình là sở hữu tập trung, nhóm biến về kiểm soát gia đình, và nhóm biến kiểm soát liên quan đến đặc điểm cụ thể của công ty như: quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, lợi nhuận.
Bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng các công ty với mức độ tập trung quyền sở hữu cao hơn có nhiều khả năng để thuê một công ty kiểm toán Big 4. Do đó, trong công ty như vậy, kiểm toán chất lượng cao được sử dụng để giảm thiểu các vấn đề liên quan đến chi phí đại diện. Tuy nhiên, khi các cổ đông kiểm soát là một gia đình, sự liên quan giữa việc tập trung quyền sở hữu và nhu cầu kiểm toán viên chất lượng cao nghịch biến nhau, ngụ ý rằng các công ty được gia đình kiểm soát có xu hướng duy trì mức tăng không rõ ràng bằng cách thuê kiểm toán viên chất lượng thấp hơn.
Nghiên cứu của Gaetano Matonti, Jon Tucker, Aurelio Tommasetti (2016), Nghiên cứu này xem xét các yếu tố quyết định đến sự lựa chọn giữa kiểm toán viên chất lượng cao và kiểm toán viên được chỉ định tại các công ty không niêm yết ở Ý. Bài nghiên cứu này đề cập đến vấn đề sở hữu gia đình, và điều tra xem liệu quyền sở hữu gia đình có ảnh hưởng đến sự lựa chọn kiểm toán viên hay không. Cụ thể, nghiên cứu đi kiểm định mối quan hệ giữa: (i) Việc lựa chọn công ty kiểm toán và tỷ lệ sở hữu của gia đình, (ii) Việc lựa chọn công ty kiểm toán và tỷ lệ sỡ hữu của các cổ đông nước ngoài, (iii) Việc lựa chọn công ty kiểm toán với mức độ độc lập của hội đồng quản trị. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu được thu thập từ 384 công ty không niêm yết tại Ilalia tại năm 2009, những công ty phải có vốn chủ sỡ hữu lớn hơn $120.000 và sử dụng hồi quy logistic để tiến hành kiểm tra mối tương quan giữa các biến trong mô mình. Mô hình nghiên cứu gồm 20 biến độc lập, trong đó có biến chính là sở hữu gia đình, sở hữu nước ngoài và hội đồng quản trị độc lập, còn lại là các biến liên quan đến đặc điểm, hoạt động của công ty như doanh thu nước ngoài, đòn bẩy tài chính, quy mô công ty, vòng quay hàng tồn kho, vòng quay tài sản…các biến này liên quan đến các vấn đề đại diện, sự phức tạp trong tổ chức và yếu tố rủi ro công ty.
Và kết quả hồi qui không tìm thấy bằng chứng về tác động của sở hữu gia đình vào sự lựa chọn công ty kiểm toán, công ty càng có cơ cấu tổ chức phức tạp có xu hướng giảm nhu cầu đối với kiểm toán chất lượng cao, tuy nhiên những công lớn hơn, có nhiều công ty con thì ưa thích lựa chọn kiểm toán viên chất lượng cao để tận dụng được kinh nghiệm và yếu tố độc lập của họ, tuy nhiên, hai biến sở hữu gia đình và sở hữu nước ngoài lại không có ý nghĩa thống kê . Kết luận rằng đối với các công ty chưa niêm yết, việc lựa chọn kiểm toán viên chất lương cao sẽ mang tính thương mại do phải cân nhắc giữa lợi ích và chi phí bỏ ra.
Tóm lại, với các nghiên cứu trình bày ở trên đây, kết quả nhìn chung đều chỉ ra mối quan hệ giữa vấn đề sở hữu, kiểm soát gia đình và các yếu tố liên quan đến đặc điểm của doanh ngiệp đến việc lựa chọn công ty kiểm toán, các kết quả được trình bày tóm tắt dưới đây.
Bảng 2.1: Tổng hợp các nghiên cứu trước đây.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế
2.2. Tổng quan thị trường kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Luận văn: Khái quát về kiểm soát GĐ đến lựa chọn Cty kiểm toán
Hệ thống kiểm toán độc lập của Việt Nam ra đời khá trễ so với các thị trường khác trên thế giới, trong khi kiểm toán độc lập trên thế giới đã có từ hơn 100 năm nhưng Việt Nam thì chính thức hiện diện kiểm toán độc lập từ năm 1991 với sự ra đời của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) và Công ty Dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính (AASC).
Hoạt động kiểm toán độc lập đã trở thành nhu cầu cần thiết hỗ trợ cho vấn đề công khai, minh bạch thông tin tài chính, phục vụ lợi ích của doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành kinh tế, tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần vào lộ trình tiến tới hội nhập tài chính với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Theo Đào Thị Hằng (2016) trải qua 25 năm xây dựng và phát triển, lĩnh vực kiểm toán độc lập Việt Nam đã dần khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường và trở thành bộ phận cấu thành của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Các công ty kiểm toán độc lập giúp tham gia vào quá trình hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến hệ thống kế toán kiểm toán tại Việt Nam, giúp các doanh nghiệp tiến tới tuân thủ các nguyên tắc về minh bạch thông tin tài chính trong lộ trình tham gia các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh VACPA, Việt nam cũng đã hình thành một số hiệp hội về kế toán kiểm toán như Hội Kế toán và Kiểm toán Việt nam (VAA) năm 1994, Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh (ACCA), Hiệp hội Kế toán công chứng Australia (CPA Australia), Viện Kế toán Công chứng Anh và xứ Wales (ICAEW), Hiệp hội Kế toán Quản trị Công chứng Anh Quốc (CIMA)…
Về cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam, các quy định, văn bản về pháp lý cho hoạt động kiểm toán đã được ban hành khá đầy đủ và phù hợp với thông lệ quốc tế như:
- Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, Bộ Tài chính đã công bố 38 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (CMKiT VN) phù hợp với Chuẩn mực kiểm toán quốc tế từ 1999 đến 2006 và gần đây nhất, tháng 12/2012, Bộ Tài chính đã công bố mới 37 CMKiT do Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam soạn thảo dựa trên các CMKiT mới nhất của quốc tế và có hiệu lực thi hành từ năm 2014.
- Luật Kiểm toán độc lập công bố năm 2011, quy định các nội dung cơ bản về nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hoạt động kiểm toán độc lập; quyền, nghĩa vụ của kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam và đơn vị được kiểm toán.
- Ngày 08 tháng 5 năm 2015 Bộ Tài chính ban hành bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định nguyên tắc đạo đức cơ bản về nghề nghiệp kế toán, kiểm toán. Trong chuẩn mực có cung cấp một khuôn khổ mà kế toán viên, kiểm toán viên chuyên nghiệp phải áp dụng để xác định các nguy cơ ảnh hưởng tới việc tuân thủ các nguyên tắc đạo đức cơ bản.
- Và liên quan đến kiểm toán các doanh nghiệp niêm yết, Bộ Tài Chính ban hành thông tư 183/2013/TT-BTC về về kiểm toán độc lập đối với đơn vị có lợi ích công chúng, trong đó quy định nghiêm ngặt về các điều kiện mà tổ chức kiểm toán phải đảm bảo để được được chấp thuận thực hiện kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng, theo đó, công ty kiểm toán để được kiểm toán cho công ty niêm yết phải đảm bảo các điều kiện sau: Luận văn: Khái quát về kiểm soát GĐ đến lựa chọn Cty kiểm toán
- Có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán được Bộ Tài chính cấp còn hiệu lực;
- Vốn điều lệ: từ 4 tỷ đồng trở lên và phải thường xuyên duy trì vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán không thấp hơn 4 tỷ đồng. Từ năm 2016, số vốn nêu trên là 6 tỷ đồng trở lên;
- Số lượng kiểm toán viên hành nghề: từ 07 người trở lên, trong đó có Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, có đủ các tiêu chuẩn quy định tại Điều 8 của Thông tư này. Từ kỳ chấp thuận cho năm 2016, có số lượng kiểm toán viên hành nghề từ 10 người trở lên;
- Thời gian hoạt động kiểm toán tại Việt Nam: tối thiểu là 24 tháng tính từ ngày được cơ quan có thẩm quyền xác nhận danh sách đăng ký hành nghề kiểm toán lần đầu hoặc từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán lần đầu đến ngày nộp hồ sơ đăng ký thực hiện kiểm toán;
- Điều kiện về hoạt động: phát hành báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính cho tối thiểu 100 khách hàng tính từ ngày 01/01 của năm nộp hồ sơ đến ngày nộp hồ sơ đăng ký. Từ năm 2016, số lượng khách hàng tối thiểu này là 250 khách hàng.
- Ngoài ra, một số văn bản pháp luật khác như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, các Nghị định của Chính phủ về quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân, thông tư và quyết định về tổ chức thi tuyển cấp bằng kiểm toán viên, quy định về đăng ký hành nghề kiểm toán… Tất cả đã giúp tạo nên một nền tảng pháp lý khá vững chắc cho việc thực hành công việc kiểm tra, giám sát, kiểm toán báo cáo tài chính , góp phần nâng cao độ tin cậy của nhà đầu tư và xã hội vào sự công khai, minh bạch của thị trường tài chính.
Theo thống kê của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cho thấy, trong 25 năm qua, từ chỗ chỉ có 02 công ty kiểm toán độc lập, tính đến tháng 7/2016 cả nước đã có 142 công ty kiểm toán, với trên 9.705 người làm việc, cung cấp 30 loại dịch vụ cho 42.000 khách hàng, doanh thu đạt 5.139 tỷ đồng (doanh thu bình quân 435 triệu đồng/đầu người /năm). Bộ Tài chính đã cấp 3837 chứng chỉ kiểm toán viên, và cả nước có khoảng 1600 Chứng chỉ quốc tế. Theo ông Bùi Văn Mai cho biết thêm tốc độ tăng bình quân của kiểm toán độc lập là từ 20 đến 25%/năm trên tất cả các chỉ tiêu nói trên. Sự lớn mạnh đó đã chứng tỏ sự cần thiết và tầm quan trọng của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Ngoài hoạt động của những công ty kiểm toán trong nước, tại thị trường Việt nam hiện nay đã có sự tham gia đầy đủ của các hang kiểm toán lớn trên thế giới, mà dẫn đầu các công ty kiểm toán trên thế giới là Big 4. Theo Phạm Thị Thùy Vân (2014) thì không chỉ trên thị trường thế giới mà tại Việt Nam, các công ty kiểm toán Big 4 cũng đóng một vai trò quan trọng trong thị trường kiểm toán độc lập tại Việt Nam, 4 công ty kiểm toán nước ngoài lớn ( Big 4 gồm: EY, Deloitte, KPMG và PwC) chiếm ưu thế về doanh thu và lượng khách hàng, đã đóng góp to lớn vào sự lớn mạnh của hệ thống kiểm toán độc lập cũng như quá trình làm lành mạnh các quan hệ tài chính – tiền tệ.
Theo số liệu cửa Bộ Tài chính và Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã công bố kết quả xếp hạng một số chỉ tiêu hoạt động của các công ty kiểm toán độc lập năm 2015 thì theo đó 4 công ty kiểm toán Big 4 dẫn dầu về doanh thu trong năm 2015 và doanh thu của các công ty kiểm toán Big cao hơn một các vượt trội so với các công ty kiểm toán trong nước. Khi so sánh về số lượng khách hàng trên toàn thị trường kiểm toán độc lập, các công ty kiểm toán thuộc Big vẫn luôn dẫn đầu về số lượng khách hàng, cả về khách hàng là công ty cổ phần niêm yết trên sàn chứng khoán và khách hàng là các loại hình công ty khác, điều đó có thể cho thấy một thực tế là các công ty kiểm toán Big 4 luôn là ưu tiên lựa chọn của hầu hết các công ty khi có nhu cầu về việc xác nhận thông tin của bên thứ 3 là kiểm toán độc lập và đồng thời khẳng định chất lượng của dịch vụ kiểm toán được cung cấp bởi các công ty kiểm toán Big 4.
2.3. Cơ sở lý thuyết. Luận văn: Khái quát về kiểm soát GĐ đến lựa chọn Cty kiểm toán
2.3.1. Lý thuyết về chi phí đại diện.
Lý thuyết đại diện được phát triển bởi Jensen và Meckling (1976), nghiên cứu đưa ra khái niệm về vấn đề đại diện nói rằng những xung đột giữa các nhà quản lý và chủ sở hữu hay giữa người ủy quyền và người được ủy quyền xuất phát từ việc thiếu sự liên kết và có sự khác biệt về lợi ích. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát của công ty dẫn đến sự bất đối xứng thông tin, nơi các nhà quản lý có lợi thế thông tin so với các bên khác nhau, bao gồm cả cổ đông (Ross, 1977). Và chính sự tách biệt giữa sở hữu và kiểm soát sẽ tạo nên sự khác nhau trong mục tiêu của nhà quản lý và chủ sở hữu và làm cho hiệu quả hoạt động của công ty có nguy cơ không đạt mức tối ưu. Vấn đề đại diện phát sinh giữa chủ sở hữu và người quản lý được gọi là vấn đề đại diện I.
Ngoài mâu thuẫn lợi ích phát sinh giữa quyền kiểm soát và quyền quản lý thì trong công ty cổ phần vấn đề đại diện có thể phát sinh giữa các cổ đông kiểm soát và cổ đông thiểu số vì các cổ đông lớn có nhiều cơ hội hơn để chiếm đoạt tài sản của công ty (Shleifer và Vishny, 1997) gọi là Vấn đề đại diện II, các cổ đông kiểm soát được hưởng lợi ích đáng kể từ quyền kiểm soát, dẫn đến sự mất cân bằng về lợi ích giữa các cổ đông thiểu số và cổ đông kiểm soát.
Trong các công ty cổ phần thì vấn đề đại diện II thường xuyên tồn tại khi mà tỷ lệ cổ phần sở hữu bởi các cổ đông có sự chênh lệch, tức là một cổ đông nắm giữ phần lớn tỷ lệ cổ phần trong công ty sẽ có lợi thế trong việc nắm quyền kiểm soát và đưa ra quyết định. Các cổ đông kiểm soát này có thế lợi dụng việc kiểm soát để đưa ra những quyết định nhằm mục đích mang lại lợi ích cá nhân. Chẳng hạn như vấn đề lựa chọn công ty kiểm toán, khi quyết định lựa chọn công ty kiểm toán nằm trong tay các cổ đông, hay nói đúng hơn là các cổ đông lớn thì họ có khả năng sẽ lựa chọn các công ty kiểm toán với chất lượng thấp hơn nhằm giảm mức độ bị giám sát từ bên ngoài.
2.3.2. Chất lượng kiểm toán. Luận văn: Khái quát về kiểm soát GĐ đến lựa chọn Cty kiểm toán
Về khái niệm chất lượng kiểm toán.
Theo như Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, đã đưa ra khái niệm liên quan đến chất lượng nói chung như sau: “Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay qúa trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”. Đối với hoạt động kiểm toán, thì kiểm toán là một hoạt động đặc biệt, đây là một loại hình hoạt động dịch vụ đảm bảo để giúp các đối tượng sử dụng thông tin an tâm về tính trung thực, hợp lý của các thông tin đã được kiểm toá, vì vậy kết quả kiểm toán phải đạt những tiêu chuẩn chất lượng nhất định. Từ mục đích của hoạt động kiểm toán với khái niệm về chất lượng, khái niệm về chất lượng kiểm toán cũng được nêu ra, theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 về vấn đề kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán thì định nghĩa chất lượng kiểm toán được nêu ra như sau: “Chất lượng hoạt động kiểm toán là mức độ thoả mãn của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của kiểm toán viên; đồng thời thoả mãn mong muốn của đơn vị được kiểm toán về những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong thời gian định trước với giá phí hợp lý”.
Nội dung và đặc điểm chất lượng kiểm toán
Dựa trên định nghĩa về chất lượng kiểm toán theo VSA 220, ta có thể đưa ra một số nội dung và đặc điểm liên quan đến chất lượng kiểm toán, những tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng kiểm toán, bao gồm: mức độ thỏa mãn của đơn vị được kiểm toán và đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán. Luận văn: Khái quát về kiểm soát GĐ đến lựa chọn Cty kiểm toán
Thứ nhất, chất lượng dịch vụ kiểm toán phải thỏa mãn nhu cầu từ phía các đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán đó chính là khách hàng – đơn vị được kiểm toán. Đối với các nhà quản lý đơn vị được kiểm toán thì không phải lúc nào họ cũng có thể phát hiện và ngăn ngừa được các sai sót trong quá trình quản lý và lập báo cáo tài chính, vì vậy, trách nhiệm của các kiểm toán viên độc lập là phải đảm bảo rằng đối tượng được kiểm toán không có sai sót trọng yếu, và nếu có thì cần phải được chỉ ra những sai sót đó để đơn vị sửa chữa và điều chỉnh. Đó chính là cơ sở để các nhà quản lý tin tưởng và từ đó đảm bảo nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị.
Thứ hai, dưới góc nhìn của nhà đầu tư, là những đối tượng thứ ba chịu tác động rủi ro cũng như lợi ích nhiều nhất từ việc sử dụng dịch vụ kiểm toán. Dưới góc nhìn của nhóm đối tượng này, một cuộc kiểm toán có chất lượng phải thỏa mãn được nhu cầu về độ tin cậy, tính trung thực và hợp lý của các BCTC được kiểm toán, để từ đó đưa ra quyết định kinh tế đúng đắn, điều hành cho phù hợp. Những người sử dụng kết quả kiểm toán chỉ thật sự hài lòng và thoả mãn khi họ tin tưởng rằng ý kiến kiểm toán đưa ra dựa trên các cơ sở ý kiến kiểm toán được đưa ra bởi chuyên gia kiểm toán có đủ năng lực, trình độ chuyên môn; và tính độc lập, khách quan của ý kiến kiểm toán.
Bên cạnh đó, có một số quan điểm cho rằng, chất lượng kiểm toán là khả năng phát hiện và báo cáo các sai phạm trọng yếu trong BCTC của doanh nghiệp. quan điểm này cũng phù hợp với một số nghiên cứu trên thế giới, như Lin và Liu (2009) đề cập chất lượng kiểm toán gồm hai thành phần: khả năng phát hiện sai sót trọng yếu và sự sẵn sàng để báo cáo các sai sót trọng yếu đó trong cuộc kiểm toán, hay DeAngelo (1981) định nghĩa tương tự là chất lượng kiểm toán là xác suất chung mà một kiểm toán viên sẽ khám phá ra một sự vi phạm trong kế toán và báo cáo sự vi phạm đó. Từ những yếu tố đã đề cập ở trên, kiểm toán được đánh giá là kiểm toán có chất lượng cao nếu thỏa mãn các yêu cầu các khía cạnh sau: luôn đảm bảo tính độc lập, khách quan và chính trực; Kiến thức, kỹ năng kinh nhiệm, có năng lực cao của kiểm toán viên tham gia kiểm toán, Các phương pháp thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán của công ty kiểm toán; Công ty kiểm toán có công tác giám sát, quản lý cuộc kiểm toán được tiến hành phù hợp; Công ty có thủ tục soát xét và phát hành báo cáo kiểm toán chặt chẽ.
Để thỏa mãn các yêu cầu về chất lượng kiểm toán chất lượng cao, thì dường như trên thị trường kiểm toán độc lập hiện nay, các công ty kiểm toán Big Four thỏa mãn các yêu cầu này. Các công ty kiểm toán Big Four chiếm ưu thế về thị trường kiểm toán, các nhà đầu tư có thể tin tưởng vào tính tin cậy cao của dịch vụ kiểm toán của Big Four hơn bởi vì họ có các nguồn lực đa dạng về mặt địa lý và kỹ thuật nhiều hơn để mang đến cuộc kiểm toán tốt hơn, và nhờ vào quy mô lớn hơn và dùng danh tiếng công ty để cung cấp các dịch vụ kiểm toán đảm bảo và toàn vẹn.
2.3.3. Chất lượng kiểm toán và lựa chọn kiểm toán. Luận văn: Khái quát về kiểm soát GĐ đến lựa chọn Cty kiểm toán
Báo cáo tài chính được được lập bởi ban giám đốc của công ty, tuy nhiên, theo lý thuyết đại điện lập luận rằng sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát dẫn đến một cuộc xung đột lợi ích tiềm tàng giữa nhà quản lý và chủ sở hữu của một công ty. Các nhà quản lý có thể lợi dụng quyền hạn của mình để tham gia vào các hoạt động làm tối đa hóa lợi ích cá nhân mà tại đó có thể không được các chủ sở hữu giám sát chặt chẽ. Vì vậy để kiểm soát và quan sát các quyết định của nhà quản lý, chủ sở hữu có xu hướng trả thêm một số chi phí giám sát khác trong đó có chi phí liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Do đó, việc cung cấp các báo cáo tài chính đã được kiểm toán là một cơ chế giám sát giúp thu hẹp khoảng cách thông tin giữa các bên chủ sở hữu và nhà quản lý, đảm bảo rằng báo cáo tài chính được lập không có sai sót trọng yếu (Watts và Zimmerman, 1986). Báo cáo kịp thời có thể được xem như là một trong những yếu tố quyết định chính của chất lượng báo cáo tài chính nhằm nâng cao chất lượng ra quyết định, giảm vấn đề thông tin bất cân xứng. Do đó, ở góc độ quản trị doanh nghiệp, kiểm toán độc lập cung cấp các liên kết hoặc giám sát cơ chế để giảm thiểu xung đột đại diện, giảm chi phí đại diện.
Lin và Liu (2009) đề cập chất lượng kiểm toán gồm hai thành phần: khả năng phát hiện sai sót trọng yếu và sự sẵn sàng để báo cáo các sai sót trọng yếu đó trong cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, tồn tại những khó khăn trong việc quan sát đo lường chất lượng kiểm toán dẫn đến việc các nghiên cứu khác nhau sẽ sử dụng các chỉ số khác nhau. Một số thước đo được sử dụng để đo lường chất lượng kiểm toán được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây có thể kể đến như là: qui mô công ty kiểm toán như Palmrose (1988), trình độ, nghiệp vụ chuyên môn của kiểm toán viên như Schauer (2002), hay phí kiểm toán như Francis (2004 Một trong những thước đo được sử dụng rộng rãi là phí kiểm toán. Như nghiên cứu của Francis (2004), một khoản phí cao hơn có nghĩa là chất lượng kiểm toán cao hơn, và nó sẽ xứng đáng với nỗ lực của kiểm toán và cũng như là sử dụng những kiểm toán viên có chuyên môn cao hơn. Điều quan trọng là không phải tất cả các thị trường đều yêu cầu công bố thông tin về lệ phí kiểm toán trong các báo cáo của công ty, vì vậy việc sử dụng thước đo phí kiểm toán để đo lường chất lượng kiểm toán khá khó khăn. Một thước đo được sử dụng rộng rãi là kích thước, uy tín của công ty kiểm toán, như được sử dụng trong các nghiên cứu như DeAngelo (1981), Palmrose (1988). Những nghiên cứu này thường lập luận rằng các công ty kiểm toán lớn hơn hoặc có uy tín có thể cung cấp các dịch vụ kiểm toán chất lượng cao hơn so với các công ty kiểm toán nhỏ hơn. Bởi vì công ty kiểm toán lớn hơn có một thị phần lớn hơn, họ có xu hướng duy trì các cuộc kiểm toán chất lượng cao để bảo vệ danh tiếng của họ và tránh chi phí kiện tụng cao, công ty kiểm toán lớn hơn thường có mức độ độc lập và trình độ chuyên mơn cao hơn và có khả năng tốt hơn để phát hiện báo cáo bất thường và những sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính Mansi, Maxwell, và Miller (2004).
Theo Bùi Thị Thủy (2012) đã nghiên cứu các nhân tố hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính tại thị trường trường Việt Nam, nghiên cứu đã chỉ ra 3 nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính báo gồm: nhóm nhân tố thuộc về kiểm toán viên gồm 8 nhân tố: mức độ chuyên sâu, kinh nghiệm, trình độ, độc lập, ý thức tuân thủ chuẩn mực, thái độ thận trọng, chuyên nghiệp, nhân tố khác , nhóm nhân tố thuộc về công ty kiểm toán gồm 5 nhân tố: giá phí kiểm toán, quy mô công ty, phương pháp kiểm toán, hệ thống kiểm soát chất lượng, nhân tố khác, và nhóm nhân tố bên ngoài liên quan đến đặc diểm của từng quốc gia như môi trường pháp lý, khách hàng, kiểm soát bên ngoài. Nghiên cứu có nhấn mạnh, nhóm nhân tố thuộc về công ty kiểm toán được coi là quan trọng để quyết định chất lượng cuộc kiểm toán, trong đó có nhân tố liên quan đến quy mô, danh tiếng của công ty kiểm toán, các công ty kiểm toán có danh tiếng thường có kiểm toán báo cáo tài chính chất lượng hơn. Từ những yếu tố trên, việc lựa chọn công ty kiểm toán cũng góp phần vào việc quyết định chất lượng kiểm toán và tùy vào mục đích quản lý của chủ sở hữu công ty, các công ty sẽ đưa ra quyết định lựa chọn các công ty kiểm toán khác nhau.
Các nghiên cứu trước đây đã nghiên cứu các yếu tố quyết định sự lựa chọn công ty kiểm toán và đề cập đến nhiều yếu tố khác nhau như đặc điểm công bao gồm quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy, và sự phức tạp kinh doanh như Copley và Douthett (2002); Knechel et al (2008). Các nghiên cứu khác kiểm tra ảnh hưởng của việc công bố thông tin và lựa chọn kiểm toán (Lee et al., 2003), hay việc lựa chọn công ty kiểm toán và đặc điểm của ban giám đốc (Beasley và Petroni, 2001; Lin và Liu, 2009 ), Đối với cơ cấu sở hữu là một trong những cơ chế quản trị công ty quan trọng, các nghiên cứu trước đây cũng đã kiểm tra xem các hình thức sở hữu kết hợp với lựa chọn công ty kiểm toán tác động với nhau như thế nào. Ví dụ, nghiên cứu về sự ảnh hưởng của quyền sở hữu Nhà nước về lựa chọn công ty kiểm toán được điều tra bởi Guedhami et al. (2009). Với việc tập trung quyền sở hữu và kiểm soát của gia đình được xem như là một hiện tượng phổ biến trên toàn thế giới thì đã có những nghiên cứu kiểm tra ảnh hưởng của vấn đề sở hữu vào sự lựa chọn công ty kiểm toán, đặc biệt là ở các nền kinh tế đang phát triển như El-Ghoul et al. (2007), và Lin và Liu (2009) và cũng có nghiên cứu về cách kiểm soát gia đình của các công ty có liên quan đến kiểm toán viên lựa chọn đã được kiểm tra bởi Francis et al. (2009), và Niskanen et al. (2010, 2011b).
Tóm lại, xuất phát từ vấn đề đại diện phát sinh giữa chủ sở hữu và nhà quản lý, giữa cổ đông kiểm soát và cổ đông thiểu số đã dẫn đến nhu cầu xác nhận thông tin trên báo cáo tài chính của bên thứ ba là kiểm toán độc lập, giúp giảm thiểu vấn đề bất cân xứng thông tin, giảm chi phí đại diện. Tuy nhiên, tồn tại những khó khăn trong việc quan sát đo lường chất lượng kiểm toán dẫn đến việc các nghiên cứu khác nhau sẽ sử dụng các chỉ số khác nhau, một thước đo được sử dụng rộng rãi là kích thước, uy tín của công ty kiểm toán. Để đảm bảo các yêu cầu liên quan đến chất lượng kiểm toán thì các công ty kiểm toán lớn đặc biệt là Big Four là ưu tiên hàng đầu về kiểm toán chất lượng cao. Vấn đề lựa chọn công ty kiểm toán để phục vụ cho nhu cầu quản trị của công ty còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó tập trung quyền sở hữu và kiểm soát của gia đình được đề cập khá nhiều trong xác định ảnh hưởng đến lựa chọn công ty kiểm toán. Luận văn: Khái quát về kiểm soát GĐ đến lựa chọn Cty kiểm toán
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam