Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc điểm doanh nghiệp niêm yết và mức độ công bố thông tin trên báo cáo thường niên tại Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

3.1. Quy trình nghiên cứu

Luận văn này được thực hiện nhằm nghiên cứu các đặc điểm của công ty và mức độ công bố thông tin trong báo cáo thường niên thông qua phương pháp định tính và định lượng theo các bước như sau: Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

  • Xác định vấn đề nghiên cứu, mục tiêu, phương pháp, phạm vi và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
  • Cơ sở lý thuyết các nghiên cứu trước đây
  • Phân tích, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng sau đó đưa ra giả thuyết nghiên cứu
  • Đưa ra mô hình nghiên cứu
  • Cách thức đo lường các biến
  • Mô tả cách lấy mẫu và cách thức xử lý dữ liệu

Kết quả nghiên cứu:

  • Thống kê mô tả mẫu quan sát phân tích tương quan, phân tích hồi quy, kiểm định tính phù hợp của mô hình nghiên cứu Kiểm định các giả thiết nghiên cứu
  • Đề xuất và hướng nghiên cứu tiếp theo

Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

3.2. Giả thuyết nghiên cứu Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Dựa vào nội dung phân tích về đặc điểm công ty đã trình bày ở phần trên, các nhân tố trên sẽ được xem xét trong bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam, cụ thể là tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đồng thời với việc xác định giả thuyết nghiên cứu và phương pháp đo lường từng nhân tố ảnh hưởng.

3.2.1. Loại ngành

Có nhiều cách tiếp cận về yếu tố ngành, yếu tố ngành được phân loại khác nhau trong từng nghiên cứu. Aljifri and Alzarouni (2013) đã chia yếu tố loại ngành ra làm bốn loại là sản xuất, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ và nghiên cứu đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa mức độ CBTT với lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp mà đặc biệt là ngành ngân hàng.

Nghiên cứu này giới hạn việc lấy mẫu đối với các công ty tài chính, ngân hàng do có đặc thù hoạt động khác biệt so với các ngành nghề khác. Bên cạnh đó, tại Việt Nam, ngành sản xuất đóng một vai trò to lớn trong nền kinh tế vì nó có tính chất chi phối đến các ngành còn lại. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp thường có quy mô, cấu trúc công ty, nhân sự, khách hàng, cơ cấu tổ chức… lớn hơn, đa dạng và chuyên nghiệp hơn các công ty trong lĩnh vực khác. Dựa trên cơ sở đó, trong nghiên cứu này, người nghiên cứu thực hiện phân loại lĩnh vực hoạt động thành hai loại chính là sản xuất và phi sản xuất nhằm mục đích kiểm định có hay không sự khác biệt về CBTT giữa các doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất công nghiệp và các lĩnh vực còn lại. Đồng thời, với mục tiêu năm 2020 hướng đến nền kinh tế công nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất sẽ được nhà nước kiểm soát và quan tâm nhiều hơn. Lý do này hướng tới kỳ vọng cao hơn về CBTT của ngành sản xuất công nghiệp với các ngành khác. Vì vậy, nghiên cứu này tiến hành kiểm tra giả thuyết:

Giả thuyết H1: Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất cung cấp thông tin nhiều hơn các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành khác.

3.2.2. Công ty kiểm toán Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Về quy mô, công ty kiểm toán có thể được chia thành hai loại là nhóm các công ty kiểm toán lớn và nhóm các công ty kiểm toán nhỏ. Công ty kiểm toán lớn được xác định là một trong những công ty Big Four (hoặc Big Five hay Six trước đây), các công ty kiểm toán còn lại là các công ty kiểm toán nhỏ. Nhiều nghiên cứu đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa công ty kiểm toán và mức độ CBTT như Bhayani (2012) và Fathi (2013). Trên cơ sở đó, giả thiết 2 được đưa ra là:

Giả thuyết H2: Nếu được kiểm toán bởi Big4, báo cáo thường niên các doanh nghiệp sẽ công bố nhiều thông tin hơn

3.2.3. Tính thanh khoản

Nandi and Ghosh (2012) đã tìm thấy mối liên hệ tích cực giữa tính thanh khoản và mức độ CBTT. Giả thuyết thứ ba được lập như sau:

Giả thuyết H3: Các công ty trên sàn HOSE với tính thanh khoản cao có xu hướng công bố nhiều thông tin hơn các công ty có tính thanh khoản thấp.

3.2.3. Lợi nhuận Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Nghiên cứu của Fathi (2013), Bahayani (2012), Nandi and Ghosh (2012) … đã tìm thấy mối quan hệ tích cực đáng kể giữa lợi nhuận và mức độ CBTT. Giả thuyết thứ tư nói rằng:

Giả thuyết H4: Các công ty có tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cao có mức độ công bố thông tin nhiều hơn các công ty có lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu thấp.

3.2.5. Thành phần HĐQT

Một mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập và CBTT đã được tìm thấy trong nghiên cứu của Yanesari et al. (2012). Từ những giải thích được trích dẫn ở trên, tác giả đề xuất giả thuyết sau đây:

Giả thuyết H5 : Công ty có tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập càng cao thì mức độ công bố thông tin càng cao.

3.2.6. Tỷ lệ sở hữu của HĐQT

Mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ sở hữu của HĐQT và mức độ CBTT đã được kiểm chứng trong nghiên cứu của Sartawi et al. (2012). Giả thuyết được đưa ra như sau:

Giả thuyết H6: Có mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ sở hữu vốn của HĐQT với mức độ công bố thông tin trên báo cáo tài chính.

3.2.7. Quy mô Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Aljifri and Alzarouni (2013), Bhayani (2012), Nandi and Ghosh (2012) đã chỉ ra rằng DN có quy mô càng lớn thì mức độ CBTT càng cao. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Huỳnh Thị Vân (2013) cũng cho kết quả tương tự. Vì vậy, giả thiết được đưa ra là:

Giả thuyết H7: Các công ty với quy mô lớn có xu hướng công bố nhiều thông tin hơn các công ty có quy mô nhỏ .

3.2.8. Đòn bẩy tài chính

Nghiên cứu của Bhayani (2012) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực đáng kể giữa đòn bẩy mà mức độ CBTT. Giả thuyết H8 được đưa ra như sau:

Giả thuyết H8: Các công ty có đòn bẩy càng cao thì mức độ CBTT càng cao.

3.2.9. Tỷ lệ sở hữu nước ngoài

Theo Sartawi et al. (2012), tỷ lệ sở hữu nước ngoài có mối quan hệ tích cực tới mức độ CBTT. Do đó, nó được đưa ra giả thuyết rằng:

Giả thuyết H9: Các công ty có tỷ lệ quyền sở hữu nước ngoài cao thì công bố nhiều thông tin hơn những công ty có tỷ lệ quyền sở hữu nước ngoài thấp.

3.3. Mô hình nghiên cứu và đo lường các biến

3.3.1. Mô hình nghiên cứu Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Từ những lý thuyết kinh tế đến thực tiễn nghiên cứu cụ thể đã được công bố về nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc điểm công ty và mức độ CBTT của các quốc gia trên thế giới đều đi đến kết luận chung là có sự tác động của đặc điểm công ty lên mức độ CBTT. Từ nền tảng của các lý thuyết và những nghiên cứu trước đây, nghiên cứu đưa ra các kỳ vọng tương quan giữa biến độc lập và biến phụ thuộc. Có rất nhiều đặc điểm doanh nghiệp ảnh hưởng lên mức độ CBTT của các công ty. Tác giả chọn ra 9 loại đặc điểm DN với các lý do như sau:

Thứ nhất, dựa vào nghiên cứu của Aljifri and Alzarouni (2013) đã xem xét sự tác động của đặc điểm công ty lên mức độ CBTT của các quốc gia trong khối UAE. Trong đó, nghiên cứu đã chạy phương trình hồi qui nhằm đo lường sự tác động của đặc điểm công ty đến mức độ CBTT, thông qua các biến như: loại ngành, tình trạng niêm yết, lợi nhuận, tính thanh khoản, quy mô, sở hữu nước ngoài, thành phần HĐQT và ủy ban kiểm toán. Đối với các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi qua nghiên cứu thực nghiệm của Aljifri và Alzarouni thì kết quả có thể chấp nhận được với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam. Do đó, mô hình cho nghiên cứu đề nghị sẽ kế thừa được một số nhân tố của mô hình nghiên cứu trên. Cụ thể, nghiên cứu sẽ xem xét các yếu tố về: loại ngành, lợi nhuận, tính thanh khoản, quy mô, sở hữu nước ngoài, thành phần HĐQT. Ngoài ra, tác giả còn đưa vào trong mô hình một số nhân tố như công ty kiểm toán, đòn bẩy, tỷ lệ sở hữu vốn của HĐQT. Các yếu tố này đưa ra dựa vào các nghiên cứu của Fathi (2013).

Thứ hai, do khả năng thu thập số liệu và thời gian nghiên cứu có hạn cũng như nhằm mục đích nghiên cứu một cách toàn diện nhất về đặc điểm doanh nghiệp ảnh hưởng lên mức độ CBTT nên tác giả tiến hành chọn các biến đặc trưng nhất liên quan đến các nhóm đặc điểm khác nhau như: các biến liên quan đến thị trường, hiệu suất hoạt động, quản trị doanh nghiệp và cấu trúc công ty.

Như vậy, nghiên cứu tiến hành đo lường tác động của chín đặc điểm doanh nghiệp lên mức độ CBTT. Dựa trên các giả thuyết được đưa ra, mô hình hồi quy tổng thể được đề nghị trong nghiên cứu này để kiểm định các giả thuyết nêu trên có dạng như sau: Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

I = β0 + β1 loainganh + β2 kiemtoan + β3 thanhkhoan + β4 loinhuan + β5 tpHĐQT -β6 vonHĐQT + β7 quymo + β8 donbay + β9 sohuuNN + ε

Với ε: sai số ngẫu nhiên

Loại ngành

Công ty kiểm toán

Tính thanh khoản

Lợi nhuận

Thành phần HĐQT

Tỷ lệ sở hữu vốn của HĐQT

Quy mô

Mức độ CBTT

Đòn bẩy tài chính

Tỷ lệ sở hữu nước ngoài

Hình 3.2: Mô hình nghiên cứu.

Mô tả các biến:

3.3.2. Đo lường các biến

3.3.2.1. Đo lường biến độc lập Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Loại ngành

Biến loainganh được đo lường bằng biến giả:

Biến giả = 0 : nếu công ty thuộc lĩnh vực sản xuất

Biến giả = 1 : nếu công ty thuộc các lĩnh vực khác

Công ty kiểm toán

Yếu tố kiểm toán độc lập cũng được đo lường bằng biến giả:

Biến giả = 0 : nếu công ty kiểm toán độc lập thuộc nhóm Big4

Biến giả = 1 : nếu không thuộc nhóm Big4

Big 4 gồm có: Price Waterhouse Coopers (PWC), Deloitte Touche Tohmatsu (Deloitte), Ernst and Young (E&Y), KPMG.

Tính thanh khoản

Mối liên hệ giữa tính thanh khoản và mức độ công bố thông tin được đo bằng chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành (K):

K = Tài sản ngắn hạn / Nợ ngắn hạn

Lợi nhuận

Lợi nhuận trong các nghiên cứu được đo bằng các thước đo khác nhau như thu nhập ròng, tỉ lệ sinh lời trên doanh thu (Lợi nhuận trước thuế/ Doanh thu thuần), lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Trong đó, ROE là thước đo tốt nhất về năng lực của một công ty trong việc tối đa hóa lợi nhuận từ mỗi đồng vốn đầu tư. Do đó, bài viết này sẽ nghiên cứu lợi nhuận dựa trên thước đo: Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

ROE = Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ sở hữu.

Thành phần HĐQT

Thành phần HĐQT trong nghiên cứu được đo lường như sau:

tpHĐQT = Số thành viên HĐQT độc lập / Tổng số thành viên HĐQT

Trong đó, theo thông tư 121/2012/TT-BTC, thành viên HĐQT độc lập là người đáp ứng các điều kiện sau:

Là thành viên Hội đồng quản trị không điều hành và không phải là người có liên quan với Giám đốc (Tổng giám đốc), Phó giám đốc (Phó Tổng giám đốc), Kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác được Hội đồng quản trị bổ nhiệm;

Không phải là thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng giám đốc) của các công ty con, công ty liên kết, công ty do công ty đại chúng nắm quyền kiểm soát;

Không phải là cổ đông lớn hoặc người đại diện của cổ đông lớn hoặc người có liên quan của cổ đông lớn của công ty;

Không làm việc tại các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật, kiểm toán cho công ty trong hai (02) năm gần nhất;

Không phải là đối tác hoặc người liên quan của đối tác có giá trị giao dịch hàng năm với công ty chiếm từ ba mươi phần trăm (30%) trở lên tổng doanh thu hoặc tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào của công ty trong hai (02) năm gần nhất.

Tỷ lệ sở hữu vốn của HĐQT

Tỷ lệ sở hữu vốn của HĐQT (%) tính bằng cách:

vonHĐQT = (Tổng số cổ phiếu phổ thông mà các thành viên HĐQT sở hữu / Tổng số cổ phiếu phổ thông đang lưu hành năm tính toán) x 100

Quy mô

Quy mô doanh nghiệp được xác định qua nhiều chỉ tiêu như tổng tài sản, giá trị vốn hóa thị trường, và doanh thu ròng. Trong đó, thước đo giá trị thị trường được sử dụng để mô tả giá thị trường mà tại mức đó cổ phần phổ thông được chuyển từ người sẵn sàng mua sang người sẵn sàng bán, và cả hai đều có đầy đủ các thông tin liên quan cần thiết. Trong một thị trường chứng khoán hiệu quả, giá thị trường phản ánh đầy đủ mọi yếu tố liên quan tới doanh nghiệp. Bởi vậy, giá thị trường thể hiện giá trị thực của các tài sản cơ sở của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong điều kiện tại Việt Nam, do tâm lý nhà đầu tư theo xu hướng bầy đàn hay nghe “tin đồn” và kiến thức bị hạn chế cho nên họ mua cổ phiếu ào ạt làm cho giá của mỗi cổ phiếu ngày càng tăng vô tình đẩy giá trị thị trường lên cao hơn so với giá trị thực. Vì vậy, thước đo giá trị vốn hóa thị trường tuy khách quan nhưng không phù hợp với môi trường kinh tế tại Việt Nam. Trong nghiên cứu này, quy mô được đo bằng hai thước đo là tổng tài sản và tổng doanh thu. Tuy nhiên, số liệu của chỉ tiêu doanh thu thuần cũng như số liệu của chỉ tiêu giá trị tổng tài sản không theo phân phối chuẩn nên tác giả đã sử dụng hàm logarit để chuyển đổi số liệu của các chỉ tiêu này về phân phối chuẩn.

Tỷ lệ sở hữu nước ngoài

Tỷ lệ sở hữu nước ngoài được đo bằng:

sohuuNN = Số cổ phiếu phổ thông được nắm giữ bởi cổ đông nước ngoài / Tổng số cổ phiếu phổ thông

Đòn bẩy

Đòn bẩy tài chính được đo lường qua chỉ tiêu tỷ suất nợ:

Tỷ suất nợ = Nợ phải trả / Tổng tài sản

3.3.2.2. Đo lường biến phụ thuộc Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Bước 1: Chọn danh sách các mục thông tin công bố (bộ tiêu chí CBTT)

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã đo lường mức độ CBTT, nhưng không có lời giải thích cụ thể hoặc hướng dẫn chung cho việc lựa chọn danh sách các mục CBTT để đo lường mức độ công bố. Nghiên cứu chọn phương pháp chỉ số CBTT để đo lường mức độ CBTT.

Nhìn chung, công bố thông tin được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu của các công ty niêm yết. Với mục đích của nghiên cứu này, CBTT được hiểu là các thông tin tài chính và phi tài chính thông qua báo cáo hàng năm, có thể là các thông tin tự nguyện hoặc bắt buộc. Tại Việt Nam chưa có một danh sách các mục thông tin chính thức để đánh giá, xếp loại mức độ CBTT của các công ty. Các nghiên cứu trước đó đã dựa vào văn bản pháp luật để phát triển một danh sách các mục mà công ty cần công bố để đánh giá mức độ CBTT. Trong nước, chúng ta có nghiên cứu của Phạm Thị Thu Đông và Huỳnh Thị Vân, các tác giả đã lập danh sách các khoản mục thông tin bắt buộc dựa trên yêu cầu về công bố trong các văn bản pháp luật như: Luật kế toán, Điều 29 về BCTC; Thông tư 09/2010/TT-BTC – Hướng dẫn về việc CBTT trên thị trường chứng khoán; Hệ thống chuẩn mực kế toán, Chuẩn mực 21: Trình bày BCTC, Chuẩn mực 24: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Chuẩn mực 26: Thông tin về các bên liên quan, Chuẩn mực 28: Báo cáo bộ phận và “Hệ thống BCTC” trong Quyết định 15/2006/BTC.

Tuy nhiên, việc dựa vào hệ thống pháp luật và chuẩn mực kế toán để thiết lập bộ tiêu chí CBTT còn nhiều vấn đề cần lưu ý. Thứ nhất, bộ tiêu chí CBTT mang tính chủ quan cao của người nghiên cứu. Mỗi người nghiên cứu, khi dựa trên cơ sở đó sẽ đưa ra một danh sách không đồng nhất và chưa được thẩm định. Thứ hai, các thông tin trong bộ tiêu chí CBTT mới chỉ là các thông tin bắt buộc mà chưa nghiên cứu thiết lập danh sách các thông tin tự nguyện.

Vì vậy, cần thiết phải có một bộ tiêu chí CBTT của các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam mà đã được thông qua hội đồng chuyên gia hoặc tổ chức có uy tín trên thế giới. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Nghiên cứu này với mong muốn hạn chế tối thiểu tính chủ quan của tác giả trong thiết lập danh sách các khoản mục CBTT, hệ thống chỉ mục được xây dựng dựa trên tham khảo Báo cáo thẻ điểm quản trị công ty (2012) do IFC-Tổ chức tài chính quốc tế soạn thảo. Các mục thông tin trong bộ tiêu chí này sẽ được nhóm lại trong sáu loại: thông tin tài chính, thông tin về mục tiêu của công ty và cơ cấu sở hữu cổ phần, thông tin về thành viên HĐQT, thông tin về thù lao, thông tin quan trọng khác, thông tin về kiểm toán viên độc lập, hoạt động kiểm toán và thông tin về kênh công bố thông tin như trong Phụ lục 1.

Bước 2: Đánh giá Bộ tiêu chí CBTT qua khảo sát

Sau khi thiết lập được Bộ tiêu chí CBTT, tác giả tiến hành lập bảng câu hỏi để đánh giá lại bộ tiêu chí và gửi đến những đối tượng sử dụng thông tin trên BCTN.

Các đối tượng khảo sát là các công ty niêm yết, công ty kiểm toán và các nhà đầu tư. Bảng câu hỏi khảo sát các đối tượng được trình bày trong Phụ lục 2: Bảng khảo sát tầm quan trọng của các mục thông tin trên báo cáo thường niên. bảng câu hỏi sẽ được gửi đến các đối tượng. Người được khảo sát sẽ đánh giá tầm quan trọng của các mục trên thang điểm từ 1 đến 5: 1 là “hoàn toàn không quan trọng”, 2 là “không quan trọng”, 3 là “trung lập”, 4 là “quan trọng”, và là “hoàn toàn quan trọng”. Sau đó, người nghiên cứu sẽ tính điểm trung bình cho từng khoản mục thông tin để lọc lại các thông tin trong bộ tiêu chí. Những khoản mục thông tin có điểm trung bình nhỏ hơn 3.0, nghĩa là có tầm quan trọng thấp sẽ bị loại khỏi bộ tiêu chí.

Bước 3: Tính chỉ số CBTT

Để tính điểm mức độ CBTT cho các công ty, người nghiên cứu sử dụng phương pháp đo lường không trọng số (phương pháp lưỡng phân). Do đó, phương pháp này xác định mức độ công bố bằng cách cho điểm các mục được công bố dựa trên bộ tiêu chí, mỗi mục thông tin nếu được công bố trên BCTN và các báo cáo kèm theo sẽ được tính và cho 1 điểm còn nếu không được thuyết minh sẽ tính và cho 0 điểm. Cần lưu ý rằng nếu thông tin không thu thập được thông qua BCTN hoặc các báo cáo kèm theo của công ty thì mục thông tin của công ty đó sẽ được chấm điểm là 0. Như đã trình bày ở phần trước, chỉ số CBTT sẽ được tính như sau:

Trong đó:

  • Ij : chỉ số công bố thông tin của công ty j
  • dij = 1 nếu mục thông tin i được công bố, = 0 nếu mục thông tin không được công bố
  • n: Số lượng mục thông tin công ty có thể công bố
  • 0< Ij < 1

Điều quan trọng ở đây là các mục thông tin tham gia vào việc tính chỉ số công bố trên giác độ bình đẳng như nhau để tính ra giá trị trung bình.

Theo cách tính như vậy, chỉ số thông tin cụ thể được tính ra:

  • Chỉ số CBTT dij là số điểm của một mục thông tin cụ thể của một công ty trong bộ tiêu chí CBTT.
  • Chỉ số CBTT Ij bằng tổng số các chỉ mục doanh nghiệp đã công bố chia cho tổng số chỉ mục doanh nghiệp cần công bố.

3.4. Mẫu nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

3.4.1. Mẫu nghiên cứu

Đối tượng của nghiên cứu tập trung vào các doanh nghiệp niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó với yêu cầu chọn mẫu báo cáo thường niên 2013 của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch, các tiêu chí như sau được đưa ra:

Không thuộc lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán (vì những đặc trưng khác biệt của nó so với các loại hình còn lại).

  • Báo cáo thường niên có BCTC đã được kiểm toán
  • Công ty có thể có nhiều hình thức công khai khác BCTN như website, ấn phẩm của công ty, báo cáo nội bộ…Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu này chỉ xét thu thập dữ liệu trên BCTN và các phụ lục đính kèm.

Tính đến 31/12/2013, tại sở, có 303 cổ phiếu công ty được niêm yết với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là khoảng 313 nghìn tỷ đồng. Trong đó có 5 cổ phiếu mới niêm yết trong năm 2013 và 4 cổ phiếu bị hủy niêm yết là PXM, FDG, CNT và CLP. Dựa vào yêu cầu chọn mẫu, chúng ta tiến hành loại bỏ 17 công ty tài chính và 11 công ty phi tài chính chưa nộp BCTC được kiểm toán (tính đến ngày 08/04/2014) còn 275 công ty là tổng thể điều tra. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Mẫu điều tra thu thập được chọn theo phương pháp xác suất (chọn ngẫu nhiên) trong danh sách công ty niêm yết của Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh theo công thức sau:

n = N / (1+N(e)2)

Trong đó:

n: kích thước mẫu

N: Kích thước tổng thể

e: sai số cho phép (+/-3%, 5%, 8%, 10%)

Với e = 8%, kích thước mẫu tính được là 100 công ty. Số lượng này chiếm khoảng 36% của tổng thể doanh nghiệp niêm yết cần điều tra. Mẫu được chọn được mô tả trong bảng 3.1.

Bảng 3.1: Bảng mô tả chọn mẫu

3.4.2. Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu trong nghiên cứu được lấy từ các BCTN cho năm tài chính kết thúc ngày 31/12/2013 của các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán TP.HCM. Người nghiên cứu tải 100 báo cáo thường niên cùng các phụ lục đính kèm của BCTN của các DN niêm yết như báo cáo tình hình quản trị công ty, báo cáo về sở hữu của cổ đông lớn, báo cáo thay đổi sở hữu của cổ đông lớn, báo cáo giao dịch của cổ đông sáng lập…. Sau đó, tác giả lấy dữ liệu của các biến độc lập từ các

BCTN và các phụ lục theo phương pháp đo lường đã nêu bao gồm: loainganh, kiemtoan, thanhkhoan, loinhuan, tpHĐQT, vonHĐQT, quymo (DT thuần), quymo (tổng tài sản), donbay, sohuuNN.

3.5. Phương pháp phân tích số liệu Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để phân tích mô hình, phân tích tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc. Để xử lý số liệu, nghiên cứu thực hiện các phương pháp phân tích sau:

3.5.1. Thống kê mô tả

Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả hoặc suy luận về một tập dữ liệu, hay nói cách khác nó là công cụ để tóm tắt và trình bày dữ liệu. Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) thì các đại lượng thống kê mô tả chỉ được tính đối với các biến định lượng. Nếu tính các đại lượng này đối với các biến định tính thì kết quả sẽ không có ý nghĩa. Trong luận án này, thống kê mô tả được sử dụng để tính toán số quan sát, giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, nhỏ nhất và độ lệch chuẩn của biến phụ thuộc chỉ số CBTT và bảy biến độc lập định lượng bao gồm thanhkhoan, loinhuan, tpHĐQT, vonHĐQT, quymo, donbay, sohuuNN.

3.5.2. Phân tích tương quan

Phân tích tương quan đo lường ảnh hưởng hay liên hệ giữa các biến định lượng trong phương trình hồi quy. Hai biến được coi là có mối tương quan chặt chẽ khi hệ số tương quan từ 0.5 trở lên (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Trong nghiên cứu này, kiểm định Pearson được thực hiện để phát hiện mối tương quan giữa các biến định lượng trong mô hình là thanhkhoan, loinhuan, tpHĐQT, vonHĐQT, quymo, donbay, sohuuNNCBTT. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Luận án này sử dụng hệ số tương quan Pearson không chỉ để kiểm định mối quan hệ giữa các biến, mà còn để phát hiện các vấn đề đa cộng tuyến giữa các biến. Đa cộng tuyến tồn tại khi hai hay nhiều biến độc lập có mối tương quan rất cao với nhau. Nếu đa cộng tuyến tồn tại trong một phương trình, nó có thể gây khó khăn trong việc phân biệt những tác động của từng biến độc lập lên biến phụ thuộc (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Để kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến, chỉ số thường dùng là hệ số phóng đại phương sai VIF (variance inflation factor). Thông thường, nếu VIF của biến độc lập nào đó lớn hơn 5 thì hiện tượng đa cộng tuyến có thể xảy ra (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008).

3.5.3. Kiểm định t-test

Kiểm định t-test được sử dụng để mô tả về giá trị trung bình, độ lệch chuẩn của các biến định tính cũng như đánh giá mức độ giải thích biến phụ thuộc của các biến định tính. Kiểm định t-test giúp phát hiện sự khác biệt về mức độ CBTT trung bình của hai nhóm độc lập trong một biến. Dựa vào kiểm định này, ta có thể biết được hai nhóm của một biến độc lập có giá trị trung bình khác biệt về mức độ CBTT hay không. Nếu khác biệt đó càng lớn thì mức độ ảnh hưởng của biến đó lên mức độ CBTT càng lớn và ngược lại. Nghiên cứu sử dụng t-test để kiểm tra các biến độc lập loainganh, kiemtoan.

3.5.4. Phân tích hồi quy đa biến Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

Phân tích hồi quy là một công cụ thống kê thường được sử dụng để kiểm tra các mối quan hệ tuyến tính giữa một biến phụ thuộc duy nhất và một tập hợp các biến dự báo. Khi sử dụng mô hình hồi quy bội chúng ta cần chú ý sự phù hợp và kiểm tra các giả thuyết của nó. Trong nghiên cứu này, phân tích hồi quy dùng để kiểm tra các giả thuyết H1, H2, H3, H4, H5, H6, H7, H8, H9 đã nêu ở chương hai.

Kết luận chương 3:

Chương 3 cung cấp một mô tả chung về phương pháp tiếp cận nghiên cứu áp dụng cho luận án này.

Mẫu nghiên cứu gồm 100 công ty (chiếm khoảng 35% tổng thể) được chọn theo phương pháp xác suất từ các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán TP.HCM. BCTN của các DN là trọng tâm của nghiên cứu vì vai trò chính của nó trong giao tiếp giữa các doanh nghiệp và các bên liên quan tại Việt Nam.

Người nghiên cứu chọn phương pháp chỉ số CBTT để đo lường mức độ CBTT, căn cứ vào bộ tiêu chí của IFC và có sự khẳng định thông qua khảo sát đối tượng sử dụng thông tin, người nghiên cứu tiến hành thu thập thông tin của nhân tố bị tác động dựa trên phương pháp đo lường không trọng số.

Phương pháp đo lường các nhân tố tác động đã được xây dựng và phục vụ cho công tác thu thập thông tin. Mô hình được phân tích dựa trên các phương pháp như thống kê mô tả, phân tích tương quan, kiểm định t-test và phân tích hồi quy bội.

Chương kế tiếp cung cấp số liệu thống kê mô tả cho biến phụ thuộc và biến độc lập. Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Giải pháp CBTT tại Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x