Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc điểm doanh nghiệp niêm yết và mức độ công bố thông tin trên báo cáo thường niên tại Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Tổng quan về CBTT

2.1.1. Khái niệm

Tính minh bạch và CBTT đại diện cho một trong những trụ cột của quản trị doanh nghiệp. Các bên liên quan khác nhau sử dụng các thông tin công bố trong BCTN của công ty trong quá trình ra quyết định của họ. Theo HNX (2014), CBTT được hiểu là phương thức để thực hiện quy trình minh bạch của doanh nghiệp nhằm đảm bảo các cổ đông và công chúng đầu tư có thể tiếp cận thông tin một cách công bằng và đồng thời. Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Theo Francesca Citro (2013), công bố thông tin bao gồm hai loại là công bố thông tin bắt buộc và công bố thông tin tự nguyện. Công bố thông tin bắt buộc (Madatory disclosure) là những công bố thông tin kế toán theo yêu cầu bởi luật pháp và những quy định của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ. Những công bố này phải được trình bày theo những quy định của Luật Kinh doanh, Ủy ban chứng khoán, các cơ quan quản lý về kế toán và các chuẩn mực kế toán. Công bố tự nguyện (Voluntary disclosure) được hiểu là các thông tin tài chính và phi tài chính được đề cập trên báo cáo thường niên mà không bắt buộc phải công bố, luật pháp không yêu cầu. Việc CBTT tự nguyện bên cạnh các thông tin bắt buộc đã và đang nhận được một lượng ngày càng tăng của sự chú ý trong các nghiên cứu kế toán gần đây. Thông tin tự nguyện là các thông tin được công bố bên cạnh những thông tin tài chính và phi tài chính bắt buộc để nâng cao niềm tin và nhận thức của nhà đầu tư về tương lai của doanh nghiệp. Thông tin tự nguyện giúp cho các nhà đầu tư quyết đoán hơn trong các quyết định của mình. Các thông tin tự nguyện được tiết lộ trong báo cáo hàng năm là một nguồn thông tin tuyệt vời thu hút đối với các nhà nghiên cứu và các bên liên quan (Tufail et al., 2013).

Nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung nghiên cứu của họ về CBTT kế toán bắt buộc như Aljifri and Alzarouni (2013) hay nói cách khác là tập trung vào nghiên cứu mức độ CBTT trên BCTC vì báo cáo tài chính đại diện cho các nguồn thông tin chính thức duy nhất có sẵn cho người sử dụng. Tuy vậy, cách tiếp cận này có thể gây nhiều tranh luận: nếu các DN đều có nghĩa vụ công bố một lượng thông tin nhất định mang tính bắt buộc, vậy lý do tại sao một số công ty lại CBTT bắt buộc nhiều hơn công ty khác? Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã tìm thấy sự khác biệt đáng kể trên mức độ CBTT bắt buộc của các công ty, do các công ty đã linh hoạt trong việc lựa chọn cách thức và mức độ công bố thông tin cần thiết. Một số nhà nghiên cứu khác lại tập trung nghiên cứu của họ về CBTT tự nguyện vì việc công bố các thông tin khác ngoài các yêu cầu tối thiểu có thể làm giảm sự bất đối xứng thông tin cũng như xung đột giữa nhà quản lý và các nhà đầu tư bên ngoài (Healy and Palepu, 2001).

Một BCTN kết hợp cả thông tin bắt buộc và tự nguyện thì chúng liên tục tương tác với nhau. CBTT bắt buộc là nghĩa vụ của một công ty để CBTT trong báo cáo của công ty, trong khi đó tiết lộ tự nguyện là một điều khoản bổ sung thông tin khi CBTT bắt buộc không thể cung cấp một bức tranh trung thực về giá trị của công ty và hoạt động quản lý. CBTT bắt buộc và tự nguyện không nên được xem là các mục khác nhau của báo cáo thường niên, mà chúng tương tác với nhau liên tục và chúng ta cần hiểu rõ tầm quan trọng của mỗi khoản mục thông tin (Popova et al., 2013). Khi yêu cầu CBTT bắt buộc là hạn chế hoặc quy định mơ hồ và khó khăn để giải thích, các công ty có thể bổ sung bằng các thông tin tự nguyện. Một mối quan hệ tích cực giữa CBTT tự nguyện và bắt buộc đã được tìm thấy bởi Naser et al. (2003). Vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu cả CBTT bắt buộc và tự nguyện để có một cái nhìn toàn diện, bao quát nhất về mức độ minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán TP.HCM hiện nay.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

2.1.2. Lý do cho việc lựa chọn Báo cáo thường niên Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Theo sổ tay CBTT mà Bộ tài chính ban hành, các công ty niêm yết có thể CBTT trên hai phương tiện:

  • Báo cáo thường niên: là ấn phẩm thường niên cung cấp thông tin toàn diện về tình hình hoạt động kinh doanh và tài chính của công ty trong năm tài chính liền trước.
  • Trang thông tin điện tử (website): là kênh truyền thông hiệu quả và kinh tế trong thời đại công nghệ cao như hiện nay. Đây được xem là một trong những kênh thông tin chính thống của tổ chức niêm yết.

Hoặc là, có rất nhiều kênh khác nhau mà qua đó công ty có thể phổ biến thông tin của họ cho công chúng như báo cáo thường niên, thông cáo báo chí, các trang web, bản tin công ty và các cuộc họp của công ty.

Trong đó, BCTN được coi là nguồn thông tin quan trọng nhất cho các đối tượng sử dụng khác nhau ( như các nhà quản lý, cổ đông, nhà đầu tư, cơ quan chính phủ, nhà nghiên cứu…). Báo cáo này cung cấp các thông tin định tính và định lượng, tài chính và phi tài chính, hiện tại và tương lai về các đơn vị kinh tế. Có nhiều lý do để lựa chọn BCTN như là một phương tiện thích hợp để nghiên cứu về công bố thông tin. Thứ nhất, BCTN là tài liệu hàm chứa tình hình và kết quả hoạt động toàn diện về một công ty. Thứ hai, các bên liên quan có thể truy cập thông tin trên BCTN một cách dễ dàng và vào bất cứ lúc nào, được công bố thường xuyên. Thứ ba, các thông tin trên báo cáo này đã được kiểm toán hoặc được đảm bảo ở mức đáng tin cậy. Báo cáo thường niên được lập theo quy định tại mẫu BCTN ban hành kèm theo thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012 của Bộ trưởng Bộ tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Nội dung cơ bản gồm:

  • Tóm lược lịch sử hoạt động của công ty;
  • Báo cáo của Hội đồng quản trị;
  • Báo cáo của Ban giám đốc;
  • Báo cáo tài chính;
  • Bản giải trình báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán;
  • Các công ty con và công ty liên quan;
  • Tổ chức và nhân sự của công ty;
  • Thông tin cổ đông, thành viên góp vốn và Quản trị công ty;
  • Các thông tin khác;

2.1.3. Yêu cầu về CBTT đối với các doanh nghiệp niêm yết

Đối với các công ty niêm yết, nhu cầu tìm hiểu thông tin về doanh nghiệp không chỉ dừng ở các chủ sở hữu mà còn là các nhà đầu tư. Chính vì vậy, yêu cầu công bố thông tin đặt ra cho các công ty niêm yết luôn nghiêm ngặt hơn so với các công ty đại chúng. Các quy định chặt chẽ này nhằm ngăn chặn những ảnh hưởng to lớn từ các hành vi che giấu thông tin, gian lận có thể xảy ra và để duy trì cơ chế giám sát hiệu quả từ các bên có liên quan và công chúng đầu tư đối với hoạt động của công ty niêm yết. Việc công bố thông tin chính xác có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo lập và duy trì niềm tin của công chúng đầu tư đối với doanh nghiệp. Sự sụp đổ của những công ty đa quốc gia từng là biểu tượng thành công một thời trong những năm gần đây đã hướng sự chú ý của công chúng đầu tư vào tầm quan trọng của độ tin cậy của thông tin. Các gian lận bị phát hiện sau này trong những vụ việc đó đã cảnh tỉnh giới đầu tư về tầm quan trọng của việc công bố thông tin không chỉ là kịp thời mà còn phải đầy đủ, rõ ràng và chính xác. Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Các yêu cầu của CBTT được quy định tại thông tư 52/2012/TT – BTC ngày 05/04/2012 nhấn mạnh việc CBTT phải đầy đủ, chính xác và kịp thời theo quy định của pháp luật, hoạt động CBTT phải do Giám đốc hoặc người ủy quyền CBTT thực hiện, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do người được ủy quyền.

Tính đầy đủ thể hiện ở các quy định cụ thể về thể loại, nội dung và hình thức công bố, cả thông tin công bố thường niên và mang tính bất thường có khả năng ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng.

Tính chính xác tức là các thông tin phải hàm chứa tính trung thực, khách quan, và đáng tin cậy. Đặc biệt ở đây quy định cụ thể việc công bố phải do người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền công bố thực hiện, chính là nhà quản trị doanh nghiệp.

Ngoài ra, trong thị trường chứng khoán, mọi sự chậm trễ đều làm thông tin mất đi hoặc giảm phần lớn tác dụng. Chính vì thế, yêu cầu về tính kịp thời của thông tin không thể chỉ mang tính tự nguyện từ các doanh nghiệp. Việc quy định chặt chẽ thời gian tối đa để công bố các thông tin trong từng trường hợp, chẳng hạn trong CBTT định kỳ, các công ty đại chúng phải cung cấp BCTC năm đã được kiểm toán chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày tổ chức kiểm toán kí báo cáo kiểm toán, thể hiện yêu cầu về tính kịp thời được đưa lên rất cao.

2.1.4. Đo lường mức độ CBTT Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Đo lường mức độ CBTT đóng một vai trò quan trọng trong các nghiên cứu. Theo Francesca Citro (2013), cho đến nay, có hai cách tiếp cận chính để phát triển một bảng chấm điểm mức độ CBTT của các công ty là: phân tích nội dung và chỉ số CBTT.

2.1.4.1. Phương pháp phân tích nội dung:

Phân tích nội dung là phương pháp sử dụng các kỹ thuật nghiên cứu suy luận từ dữ liệu, nghiên cứu ngôn ngữ để mã hóa chúng và từ đó xếp hạng CBTT. Phân tích nội dung bao gồm hai phạm vi là phân tích từng phần hoặc phân tích toàn diện. Trong đó, phân tích từng phần chỉ tập trung phân tích một vài mục thông tin cụ thể hoặc các từ khóa được lựa chọn, còn phân tích toàn diện xét trên toàn bộ tài liệu. Sau khi lựa chọn được phạm vi phân tích, người nghiên cứu có thể tiến hành phân tích cú pháp hoặc phân tích chuyên đề tùy theo mục tiêu và hướng nghiên cứu của từng đề tài. Phân tích cú pháp tập trung nghiên cứu từng câu, từ mà được sử dụng để mô tả một mục thông tin cụ thể nào đó, bên cạnh đó, phân tích chuyên đề tập trung vào đặc điểm của văn bản và độ dài của mỗi câu.

Mặc dù mang lại độ tin cậy cao, nhưng phân tích nội dung là phương pháp tốn rất nhiều công sức, do vậy số mẫu sẽ không được lớn. Để hạn chế điều này, việc sử dụng phần mềm để phân tích nội dung một cách tự động đã được phát triển. Tuy nhiên, việc phân tích tự động bằng phần mềm sẽ không lưu ý được các cụm từ, từ khóa đồng nghiã hoặc từ có nhiều ý nghĩa.

2.1.4.2. Phương pháp chỉ số CBTT: Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Chỉ số CBTT là một công cụ nghiên cứu để đo lường mức độ thông tin báo cáo trong các tài liệu cụ thể theo một danh sách các mục thông tin đã được lựa chọn. Danh sách này còn được gọi là bộ tiêu chí CBTT. Các loại thông tin được lựa chọn có thể bao gồm thông tin bắt buộc hoặc thông tin tự nguyện. Số lượng các khoản mục thông tin trong bộ tiêu chí có thể từ một vài khoản mục đến vài trăm khoản mục tùy theo từng nghiên cứu. Người nghiên cứu có thể tự xây dựng các khoản mục thông tin đưa vào bộ tiêu chí hoặc dựa vào bộ tiêu chí có sẵn từ các tổ chức chuyên nghiệp như AIMR (Association for Investment Management and Research) hoặc FAF (Financial Analysts Federation).

Khi sử dụng phương pháp này, kết quả phụ thuộc nhiều vào bộ tiêu chí CBTT mà nghiên cứu đó sử dụng, tuy nhiên, phương pháp chỉ số CBTT đã đơn giản hóa được phương pháp phân tích nội dung và có thể nghiên cứu trên số mẫu lớn. Vì vậy, nghiên cứu này chọn phương pháp chỉ số CBTT để tiếp cận đo lường mức độ CBTT.

Bước tiếp theo, để đo lường chỉ số CBTT, có hai phương pháp thường được sử dụng như sau:

Phương pháp đo lường không trọng số (lưỡng phân)

Theo phương pháp này, điều quan trọng là các thông tin có được công bố trên BCTN hay không. Nếu mục thông tin được công bố, sẽ được gán giá trị là 1, ngược lại nếu không được công bố sẽ nhận giá trị là 0. Việc xác định chỉ số CBTT có thể được tóm tắt như sau:

Trong đó:

  • Ij : chỉ số công bố thông tin của công ty j Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán
  • dij = 1 nếu mục thông tin i được công bố, = 0 nếu mục thông tin không được công bố
  • n: Số lượng mục thông tin công ty có thể công bố
  • 0< Ij < 1

Theo đó các chỉ mục thông tin được theo dõi ở giác độ có được trình bày hay không và việc tính chỉ số công bố là trên góc độ bình đẳng như nhau để tính ra giá trị trung bình. Có thể kể đến các nghiên cứu của Aljifri and Alzarouni (2013), Fathi (2013) sử dụng cách tiếp cận này.

Phương pháp đo lường có trọng số

Phương pháp này yêu cầu các mục thông tin được chọn lọc đồng thời với việc đánh giá tầm quan trọng của mỗi chỉ mục theo các mức độ khác nhau từ thấp lên cao, thông thường là năm mức độ. Việc đo lường được thực hiện như cách một, nhưng sau khi gán giá trị chúng được nhân với trọng số đã được xây dựng.

Ngoài ra, một cách tiếp cận có trọng số theo hướng khác đó là trong nghiên cứu của Al-Janadi et al. (2012). Để mở rộng phương pháp đo mức độ CBTT, người nghiên cứu đã gán giá trị cho các mục thông tin theo ba mức độ, mức 1: nếu mục thông tin không được công bố, mức 2: được trao cho các mục nếu được công bố định tính hoặc định lượng và mức 3: được trao cho các mục nếu được công bố bằng cả thông tin định tính và định lượng.

Tuy vậy, hạn chế lớn khi đo lường mức độ CBTT theo phương pháp có trọng số là mỗi cá nhân nghiên cứu sẽ có những quan điểm khác nhau khi đánh giá trọng số của mỗi khoản mục thông tin, dẫn đến kết quả nghiên cứu mang tính chủ quan cao sẽ cho ra những kết quả khác biệt. Các nghiên cứu trước đây cũng cho thấy việc sử dụng phương pháp đo lường có trọng số hay không trọng số cho các khoản mục trình bày trong báo cáo thường niên của các công ty cũng cho ra kết quả không khác biệt lắm (Hossain and hammami, 2009). Vì vậy, để đảm bảo tính khách quan, nghiên cứu này chọn cách đo lường chỉ số CBTT theo phương pháp đo lường không trọng số.

2.2. Các lý thuyết về CBTT

Các lý thuyết thường được sử dụng trong nghiên cứu trước để giải thích CBTT chủ yếu là lý thuyết người đại diện và lý thuyết tín hiệu.

2.2.1. Lý thuyết người đại diện (agency theory) Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Sự phát triển của các công ty hiện đại và sự phân tách giữa sở hữu và quản lý các nước tư bản phương Tây đã là tiền đề vật chất cho việc xuất hiện các lý thuyết về mối quan hệ giữa người chủ và người thừa hành. Trong nửa cuối của thế kỷ 20, nhiều học thuyết về mối quan hệ giữa người chủ và người thừa hành đã xuất hiện và đáng chú ý nhất là học thuyết về vấn đề đại diện (agency theory). Một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên về lý thuyết đại diện xuất phát từ Jensen và Meckling năm 1976, lý thuyết người đại diện tập trung vào mối quan hệ tương tự như một hợp đồng theo đó người chủ thuê người thừa hành (Jensen and Meckling, 1976).

Lý thuyết người đại diện mô tả các mối quan hệ giữa người quản lý và các cổ đông, giữa các cổ đông và chủ nợ. Các nhà cung cấp vốn ủy thác việc ra quyết định, chiến lược và điều hành hoạt động cho các nhà quản lý. Lý tưởng nhất, các nhà quản lý sẽ hành động và đưa ra quyết định tối đa hóa giá trị cổ đông và đảm bảo rằng nợ sẽ được hoàn trả. Tuy nhiên, như lý thuyết người đại diện mô tả, nhà quản lý có động cơ sử dụng các vị trí và quyền lực của họ, vì lợi ích riêng của họ. Vấn đề người đại diện xảy ra bởi vì việc tách bạch giữa quyền sở hữu và kiểm soát công ty và được phóng đại bởi các vấn đề bất đối xứng thông tin từ các nhà quản lý có kiến thức tốt hơn về giá trị tương lai của công ty so với các cổ đông và chủ nợ. Điều này có thể gây ra lựa chọn bất lợi và các vấn đề rủi ro đạo đức bởi vì các nhà cung cấp vốn không chắc chắn liệu các nhà quản lý đang hành động vì lợi ích tốt nhất của họ. Chi phí đại diện xuất phát từ giả định rằng hai bên, người quản lý và cổ đông của công ty có mâu thuẫn về lợi ích. Chi phí giám sát được trả bởi người chủ, các cổ đông để giám sát các hoạt động bất thường của người quản lý. Đồng thời, chi phí ràng buộc thì lại được trả bởi người đại diện, để đảm bảo rằng các hành động và quyết định của nhà quản lý không gây hại đến lợi ích của chủ công ty, các cổ đông. Mâu thuẫn về lợi ích cũng tạo ra những mất mát phụ trội do phúc lợi không được tối đa hóa. Tổng chi phí giám sát, chi phí ràng buộc và mất mát phụ trội được gọi là chi phí đại diện vì chi phí này xuất phát từ mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý (Jensen and Meckling, 1976).

Để hạn chế chi phí đại diện, CBTT được sử dụng như là một phương tiện giảm thiểu các vấn đề đại diện, việc người quản lý CBTT nhiều hơn giúp giảm chi phí đại diện và cũng là để thuyết phục người sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp về tình hình hoạt động của công ty.

2.2.2. Lý thuyết tín hiệu (signaling theory)

Lý thuyết tín hiệu được hình thành vào đầu những năm 1970 và được dựa trên nghiên cứu của Spence năm 1973 để làm rõ sự bất đối xứng thông tin trong thị trường lao động. Lý thuyết cho thấy các vấn đề thông tin bất đối xứng có thể được giảm thiểu nếu các bên báo hiệu thông tin cho nhau.

Nó cũng đã được Ross (1977) sử dụng để giải thích CBTT trên báo cáo của công ty. Theo lý thuyết tín hiệu, các nhà quản lý là những người mong đợi một tín hiệu tăng trưởng cao trong tương lai sẽ có động cơ phát tín hiệu này tới các nhà đầu tư. CBTT là một trong những phương tiện phát tín hiệu, nơi các công ty sẽ công bố nhiều thông tin hơn để báo hiệu cho các nhà đầu tư, để cho thấy rằng họ là tốt hơn so với các công ty khác trên thị trường với mục đích thu hút đầu tư và nâng cao danh tiếng của mình. Cho nên, lý thuyết tín hiệu cũng được xem là nền tảng lý thuyết cho vấn đề công bố thông tin của doanh nghiệp.

2.3. Các đặc điểm của doanh nghiệp ảnh hưởng đến mức độ CBTT Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Theo Lê Trường Vinh (2008), tổng hợp các nghiên cứu trước đây trên thế giới, có hai loại đặc điểm lớn của một doanh nghiệp mà có thể ảnh hưởng đến mức độ của CBTT. Loại thứ nhất bao gồm các đặc điểm thuộc về tài chính của một doanh nghiệp, còn loại thứ hai bao gồm các đặc điểm thuộc về quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả mới chỉ tập trung vào các đặc điểm thuộc về tài chính doanh nghiệp mà bỏ qua tác động của các nhân tố thuộc quản trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của mình, Aljifri và Alzarouni năm 2013 đã phân đặc điểm doanh nghiệp thành bốn loại nhân tố:

  • Các nhân tố liên quan đến thị trường
  • Các nhân tố tiên quan đến hiệu suất hoạt động công ty
  • Các nhân tố tiên quan đến cấu trúc công ty
  • Các nhân tố tiên quan đến quản trị doanh nghiệp

Dựa trên tìm hiểu này, luận văn này sẽ khái quát lại các đặc điểm của công ty thường được các nhà nghiên cứu hay đề cập và nhấn mạnh trong các công trình nghiên cứu. Đặc biệt, nghiên cứu xem xét các đặc điểm của một doanh nghiệp trên nhiều phương diện để có được kết quả toàn diện về mối liên hệ giữa đặc điểm doanh nghiệp và mức độ CBTT. Các đặc điểm này bao gồm:

  • Các nhân tố liên quan đến thị trường như: loại ngành, công ty kiểm toán.
  • Các nhân tố liên quan đến hiệu suất hoạt động công ty như: Tính thanh khoản, Lợi nhuận.
  • Các nhân tố liên quanđến quản trị doanh nghiệp như: Thành phần của HĐQT, Tỷ lệ sở hữu vốn của HĐQT.
  • Các nhân tố liên quan đến cấu trúc công ty như: Quy mô, Tỷ lệ sở hữu nước ngoài, Đòn bẩy.

Từng đặc điểm như trên của công ty sẽ được trình bày chi tiết sau đây:

Các nhân tố liên quan đến thị trường: Các nhân tố liên quan đến thị trường thường gắn liền với yếu tố thời gian và DN có thể không kiểm soát được các nhân tố này. Các nhân tố thị trường được sử dụng trong nghiên cứu này là loại ngành và công ty kiểm toán.

2.3.1. Loại ngành

Tùy theo từng ngành nghề cụ thể mà mỗi doanh nghiệp sẽ áp dụng các chính sách kế toán, hình thức tổ chức công tác kế toán khác nhau. Vì vậy, các công ty trong những ngành khác nhau sẽ có mức độ CBTT khác nhau. Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Phạm vi hoạt động kinh doanh của một ngành cũng ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin của ngành đó. Các công ty sản xuất nhiều loại sản phẩm, quy trình sản xuất phức tạp thì có xu hướng CBTT nhiều hơn. Bên cạnh đó, một công ty chủ đạo trong một ngành nào đó có mức độ CBTT cao thì các công ty còn lại trong ngành có xu hướng học tập theo hay người ta hay gọi đó là “theo chân nhà lãnh đạo” (Aljifri and Alzarouni, 2013).

Ngoài ra các DN trong cùng một ngành có các lợi ích sản xuất như nhau có mức độ CBTT như các DN khác trong cùng ngành để tránh bị đánh giá tiêu cực của thị trường. Lập luận này phù hợp với lý thuyết tín hiệu.

2.3.2. Công ty kiểm toán

Kiểm toán luôn có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin tài chính giữa các doanh nghiệp và người sử dụng, đồng thời đảm bảo cho báo cáo của các doanh nghiệp phù hợp với luật pháp. Hoạt động kiểm toán là yếu tố quan trọng đảm bảo tính trung thực và khách quan của các thông tin tài chính, làm cơ sở cho việc ra các quyết định đầu tư và quản lý kinh doanh.

Lý thuyết đại diện cho rằng kiểm toán độc lập bên ngoài đóng một vai trò trong việc giảm thiểu các xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và các nhà đầu tư. Công ty kiểm toán lớn hoạt động như một cơ chế để giảm chi phí đại diện và phát huy nhiều hơn một vai trò giám sát bằng cách hạn chế hành vi cơ hội của các nhà quản lý (Jensen and Meckling, 1976). Điều này cho thấy các công ty kiểm toán để duy trì danh tiếng của mình đòi hỏi khách hàng phải có mức độ CBTT cao.

Bhayani (2012) cho rằng các công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán lớn chấp hành các yêu cầu, tiêu chuẩn CBTT nghiêm ngặt hơn các công ty khác, bởi vì, có thất bại xảy ra trong việc kiểm toán, các công ty kiểm toán lớn sẽ thiệt hại nhiều hơn các công ty kiểm toán nhỏ. Mặt khác, các công ty kiểm toán nhỏ không có sức ảnh hưởng lớn đến hoạt động công bố thông tin của khách hàng và họ có xu hướng làm vừa lòng các khách hàng hơn là đặt chất lượng CBTT lên hàng đầu. Vì vậy, việc lựa chọn công ty kiểm toán lớn như là một tín hiệu để doanh nghiệp nói với các nhà đầu tư rằng các nội dung của BCTN đảm bảo được tính minh bạch thông tin.

Các nhân tố liên quan đến hiệu suất hoạt động

2.3.3. Tính thanh khoản Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Đánh giá tính thanh khoản của một công ty là một vấn đề quan trọng đối với những người sử dụng báo cáo tài chính để đánh giá khả năng thanh toán của công ty đó. Tính thanh khoản được hiểu là việc chứng khoán hay các khoản nợ, khoản phải thu…có khả năng đổi thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu. Sự bất lực của một công ty để đáp ứng nghĩa vụ hiện tại của nó trong thanh toán lãi và gốc cho các chủ nợ và có thể dẫn đến phá sản. Theo Nandi and Ghosh (2012), thanh khoản là một đặc tính quan trọng của công ty trong đó có ảnh hưởng lớn đến mức độ CBTT của DN. Các khả năng của một công ty để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính ngắn hạn của nó là một yếu tố quan trọng trong đánh giá của công ty bởi có nhiều đối tượng quan tâm đến khả năng thanh toán của một công ty như các nhà đầu tư, người cho vay, cơ quan quản lý…Có thể giải thích bằng lý thuyết tín hiệu rằng một công ty có tính thanh khoản cao có thể phát tín hiệu bằng cách công bố thêm thông tin và tăng niềm tin đối với những nhà đầu tư và ngược lại, một công ty có tính thanh khoản thấp thường kín đáo trong CBTT để hạn chế thông tin yếu kém của mình công bố ra bên ngoài.

2.3.4. Lợi nhuận

Theo lý thuyết đại diện, với khả năng sinh lời cao hơn, nhà quản trị sẵn sàng công bố nhiều thông tin hơn để chứng minh cho các thành quả quản trị của ban giám đốc. Đồng thời, giám đốc các DN hoạt động có lợi nhuận cao thường có xu hướng CBTT nhiều hơn để quảng bá về các thành tích của mình và gây ấn tượng tích cực cho các nhà đầu tư.

Còn theo lý thuyết tín hiệu, các DN có lợi nhuận cao, muốn phân biệt mình với các doanh nghiệp có lợi nhuận thấp, thông qua lý thuyết tín hiệu giúp họ tăng giá trị cổ phiếu và thu hút nhà đầu tư.

Các nhân tố liên quan đến quản trị công ty

2.3.5. Thành phần HĐQT Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Lý thuyết đại diện cho rằng trong các công ty cổ phần luôn tồn tại nguy cơ xung đột về lợi ích giữa một bên là cổ đông với tư cách người sở hữu vốn với một bên là những người quản lý điều hành công ty với tư cách người trực tiếp quản lý sử dụng vốn. Trốn tránh, đặc quyền quá mức và các khoản đầu tư không tối ưu là những ví dụ của các hành động lạm dụng bởi các nhà quản lý (Jensen and Meckling, 1976). Vì vậy, một yếu tố quan trọng của quản trị doanh nghiệp là vai trò của hội đồng quản trị trong việc giám sát quản lý. Chức năng giám sát quản lý của HĐQT là cần thiết vì các nhà quản lý có sở thích riêng của họ và có thể không luôn luôn hành động thay mặt cho các cổ đông. HĐQT có thể làm giảm xung đột theo lý thuyết đại diện do thực hiện quyền lực của mình để theo dõi và kiểm soát quản lý. HĐQT đóng vai trò kiểm soát và ra các quyết định quan trọng đối doanh nghiệp.

Theo Yanesari et al. (2012) vai trò này sẽ bị hạn chế nếu các thành viên HĐQT đều giữ quyền quản lý hoặc có mối quan hệ về nhân thân, quyền sở hữu với công ty. Khi đó, các thành viên HĐQT có thể có khả năng dùng tiền của mình để tác động đến các chính sách và hoạt động của công ty sao cho có lợi cho mình chứ không có lợi cho các cổ đông khác. Do đó, luật về quản trị doanh nghiệp của các quốc gia cũng như những quy định của các thị trường niêm yết Việt Nam yêu cầu trong cơ cấu HĐQT công ty phải có ít nhất 1/3 các thành viên HĐQT là độc lập. Các thành viên này có vai trò rất quan trọng trong việc giám sát, làm giảm nguy cơ lạm dụng quyền hạn của những người quản lý công ty, góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của cổ đông, nhất là những cổ đông nhỏ. Một công ty có tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập cao có thể dẫn đến giám sát tốt hơn về hành vi của nhà quản lý và giảm bớt mâu thuẫn đại diện giữa chủ sở hữu và nhà quản lý. Ngoài ra, các thành viên HĐQT độc lập có xu hướng khuyến khích và hỗ trợ công bố thông tin nhiều hơn cho người sử dụng BCTN. Vì vậy, thành phần HĐQT trong nghiên cứu này được hiểu là tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập.

2.3.6. Tỷ lệ sở hữu của HĐQT

Tỷ lệ sở hữu của HĐQT là một cơ chế gắn lợi ích của các cổ đông và các nhà quản lý với nhau. Lý thuyết đại diện phát biểu rằng nơi có một sự tách biệt quyền sở hữu và quyền kiểm soát của một công ty là tiềm năng cho các chi phí đại diện phát sinh do sự xung đột lợi ích giữa các bên ký kết hợp đồng. Theo đó, các công ty có tỷ lệ sở hữu của HĐQT càng thấp thì nhà quản lý cung cấp thêm thông tin để báo hiệu rằng họ làm việc vì lợi ích tốt nhất của các cổ đông. Ngược lại, nếu các công ty có tỷ lệ sở hữu của HĐQT cao thì có xu hướng có thể tiết lộ ít thông tin vì lúc này quyền quản lý và quyền sở hữu được kết hợp và công ty sẽ không quan tâm trong việc CBTT vì trong trường hợp này chi phí đại diện thấp.

Các nhân tố liên quan đến cấu trúc công ty: Biến cấu trúc giải thích những đặc điểm của công ty được biết đến rộng rãi, được cho là khá ổn định và liên tục theo thời gian.

2.3.7. Quy mô Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Trong hầu hết các nghiên cứu về CBTT, quy mô doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Theo đó, quy mô có tác động đáng kể tới mức độ CBTT vì những lí do sau:

Thứ nhất, việc công bố thông tin cần một khoản chi phí không nhỏ, và do đó có thể không hợp lý cho các công ty nhỏ. Các doanh nghiệp lớn thường đa dạng hơn về phạm vi kinh doanh, các loại sản phẩm và phạm vi địa lý, vì vậy, có đủ nguồn lực và chuyên môn cần thiết để đáp ứng chi phí của việc công bố thông tin trên báo cáo thường niên. Ở các doanh nghiệp lớn, một số lượng đáng kể các thông tin được yêu cầu cho mục đích quản lý và có thể được tạo ra trong nội bộ. Do đó, chi phí biên của công bố thông tin đối với các doanh nghiệp lớn là thấp.

Thứ hai, theo lý thuyết đại diện, chi phí đại diện có liên quan đến sự phân quyền giữa nhà quản lý và người sở hữu. Do đó, chi phí đại diện có xu hướng gia tăng cùng với quy mô của công ty vì các công ty với số lượng cổ đông lớn thường nỗ lực hơn trong việc giám sát người quản lý. Các công ty có quy mô lớn có khả năng sẽ cung cấp thông tin nhiều hơn để làm giảm chi phí này.

Thứ ba, các công ty lớn có xu hướng đến thị trường tài chính để huy động vốn thường xuyên hơn những công ty nhỏ. Dựa trên lý thuyết tín hiệu, các doanh nghiệp lớn nhận thức được rằng việc tăng gía trị cổ phiếu và thu hút nhiều nhà đầu tư phụ thuộc vào phát tín hiệu, công bố thêm thông tin cho người sử dụng. Mặt khác, công bố thông tin chi tiết có thể đặt các công ty nhỏ vào thế bất lợi cạnh tranh với các công ty lớn khác trong cùng ngành. Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

2.3.8. Đòn bẩy tài chính

Đòn bẩy là một biến giải thích mà thường được sử dụng trong các nghiên cứu để rà soát các yếu tố quyết định CBTT của công ty. Nghiên cứu của Bhayani (2012) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực đáng kể giữa đòn bẩy mà mức độ CBTT.

Theo lý thuyết đại diện, các công ty có đòn bấy cao phát sinh chi phí giám sát cao, họ tiết lộ thêm thông tin để giảm chi phí và đáp ứng nhu cầu của các chủ nợ, giảm bất đối xứng thông tin với các chủ nợ. Vì vậy, CBTT giúp giảm chi phí đại diện và tạo điều kiện cho các chủ nợ đánh giá rủi ro của công ty. Các chủ nợ có thể đòi hỏi thêm thông tin để bảo đảm nguồn vốn của họ. Các nhà quản lý nên CBTT thường xuyên hơn và triệt để hơn để đảm bảo cho chủ nợ về khả năng thanh toán nợ của công ty.

2.3.9. Tỷ lệ sở hữu nước ngoài Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

Theo lý thuyết đại diện, sự mâu thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu (cổ đông) và người quản lý của một công ty là tiềm năng cho các chi phí phát sinh. Cổ đông tăng cường giám sát các hành vi quản lý nhằm đảm bảo lợi ích của mình. Chi phí giám sát ảnh hưởng đến lợi nhuận, và do đó các nhà quản lý có thể giảm chi phí giám sát bằng cách cung cấp thêm thông tin cho các cổ đông. Cổ đông, cũng khác nhau về nhu cầu thông tin của họ. Một số cổ đông có thể là quan tâm đến lợi nhuận, một số có thể tìm kiếm thông tin dự báo, trong khi những người khác muốn thông tin về trách nhiệm xã hội. Do vậy, các công ty có số lượng cổ đông lớn thì nhu cầu CBTT có thể cao hơn và theo đó, nhu cầu về thông tin dự kiến cũng sẽ cao hơn từ các nhà đầu tư nước ngoài do sự tách biệt về địa lý giữa nhà quản lý và chủ sở hữu.

Theo Sartawi et al. (2012), phạm vi của quyền sở hữu đã được chứng minh là một biến quan trọng trong việc giải thích sự thay đổi của công khai tài chính của các công ty, và nhu cầu về thông tin dự kiến sẽ lớn hơn khi một tỷ lệ lớn cổ phiếu được tổ chức bởi các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, nó phù hợp với lập luận rằng các công ty có xu hướng công bố thêm thông tin để làm giảm mức độ bất đối xứng thông tin phải đối mặt với các nhà đầu tư nước ngoài và do đó, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài có thể giám sát quản lý một cách hiệu quả và sử dụng quyền bỏ phiếu của mình để tác động đến vấn đề công bố thông tin.

Kết luận chương 2:

Chương 2 trình bày về cơ sở lý thuyết về CBTT và các đặc điểm doanh nghiệp ảnh hưởng tới mức độ CBTT. Các lý thuyết được đưa ra bao gồm tổng quan về CBTT, các lý thuyết có liên quan và các đặc điểm công ty ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Trong đó, các lý thuyết chính làm cơ sở cho việc CBTT gồm: lý thuyết đại diện và lý thuyết tín hiệu.

Có nhiều nhân tố tác động đến mức độ CBTT. Tuy nhiên, nghiên cứu đưa ra chín nhân tố tác động do kế thừa từ các nghiên cứu trước ở những nước mà tình hình kinh tế tương đồng với Việt Nam, đồng thời để thấy được toàn diện nhất các đặc điểm doanh nghiệp ảnh hưởng lên mức độ CBTT. Như vậy, chín đặc điểm DN được nghiên cứu bao gồm: loại ngành, công ty kiểm toán, lợi nhuận, tính thanh khoản, thành phần HĐQT, tỷ lệ sở hữu vốn của HĐQT, quy mô, đòn bẩy, tỷ lệ sở hữu nước ngoài cùng với một nhân tố bị tác động là chỉ số công bố thông tin. Luận văn: Tổng quan về công bố thông tin của chứng khoán

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Thực trạng nghiên cứu thông tin giao dịch chứng khoán

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x