Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.2. Thực tiễn hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay

Sau khi Luật Công chứng có hiệu lực, thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tư pháp, UBND thành phố Hà Nội đã tổ chức hội nghị quán triệt Luật Công chứng, Nghị định 02/2008/NĐ-CP và mới đây là Nghị định 04/2013/NĐ-CP đến cán bộ chủ chốt của thành phố, các Sở, ban, ngành, đoàn thể, UBND các quận, huyện, thị xã và các Phòng công chứng nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đồng thời, thực hiện Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 10/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức HNCC ở Việt Nam đến năm 2020” và Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức HNCC ở Việt Nam đến năm 2020”, để thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng của Luật Công chứng theo lộ trình phù hợp với điều kiện đặc thù của thành phố Hà Nội, UBND thành phố đã xây dựng “Đề án Quy hoạch phát triển tổ chức HNCC ở Hà Nội đến năm 2020” trình Hội đồng thẩm định đề xuất Quy hoạch tổ chức HNCC của Bộ Tư pháp. Sau khi được phê duyệt, ngày 28/10/2013 UBND thành phố đã ra Quyết định số 6454/QĐ-UBND về việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện “Quy hoạch phát triển tổ chức HNCC đến năm 2020” trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đây là cơ sở pháp lý để xác định mục tiêu, các nguyên tắc, định hướng, lộ trình và tổ chức mạng lưới phát triển tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố, tạo điều kiện cho các tổ chức, công dân có yêu cầu công chứng các giao dịch, hợp đồng [51].

Với đặc trưng là thủ đô, là trung tâm kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội của đất nước nên hoạt động công chứng ở Hà Nội có những nét rất đặc thù. Sau đây tác giả sẽ đi vào phân tích các đặc điểm về thành phố Hà Nội để làm rõ hơn về thực tiễn hoạt động của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố hiện nay.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học

2.2.1. Những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

2.2.1.1. Điều kiện kinh tế – xã hội Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

Theo Nghị quyết 15/2008/QH12 của Quốc hội về điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ ngày 01/08/2008, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được nhập về Hà Nội. Từ diện tích gần 1.000 km2 và dân số khoảng 3,4 triệu người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km2 và dân số 6.232.940 người với 29 đơn vị hành chính cấp huyện (bao gồm 10 quận, 19 huyện, 1 thị xã). Theo số liệu thống kê ngày 01/4/2009, dân số Hà Nội vào khoảng 6.448.837 người (chiếm khoảng 7,5% dân số cả nước). Từ năm 2001 đến năm 2009, tại Hà Nội trung bình có hơn 100.000 trẻ em ra đời, tỷ lệ nhập cư về Hà Nội trung bình khoảng 100.000 người/năm. Như vậy, mỗi năm quy mô dân số Hà Nội dự kiến tăng thêm tương đương một dân số huyện lớn. Năm 2009, mặt độ dân số trung bình của Hà Nội là 1926 người/km2, cao gấp 7,4 lần so với cả nước.

Về kinh tế, hiện nay kinh tế thủ đô tăng trưởng theo hướng tích cực, GDP chiếm hơn 10% cả nước, tốc độ tăng trưởng bình quân cả năm đạt 9,5%, cao hơn 1,5 lần mức bình quân cả nước, thu nhập bình quân của người dân nông thôn năm 2012 tăng gấp 2,6 lần so với năm 2008. Với vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi, Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học lớn, đóng góp quan trọng vào tăng cường kinh tế cả nước, là động lực phát triển cho vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng Đồng bằng Sông Hồng, hỗ trợ các tỉnh trong vùng cùng phát triển. Những năm qua kinh tế Thủ đô liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, thị trường tín dụng, thị trường bất động sản trong các năm từ 2007, 2008, 2009, 2010 phát triển nóng. Những điều đó mang đến lượng việc và nguồn thu lớn cho công chứng Thủ đô, tạo sức hút cho việc thành lập các tổ chức HNCC, đặc biệt tại các quận trung tâm thành phố.

Kinh tế phát triển, các giao dịch mua bán động sản, bất động sản, thế chấp cầm cố, cho vay … của người dân và tổ chức diễn ra liên tục và thường xuyên, đặc biệt trong các năm 2008, 2009 nên nhu cầu công chứng là rất lớn. Đây là môi trường vô cùng thuận lợi cho tổ chức HNCC phát triển. Cùng với sự ra đời của Luật công chứng với chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng được triển khai rộng rãi trên phạm vi toàn thành phố Hà Nội đã góp phần tích cực cho sự phát triển của hệ thống công chứng trên địa bàn. Sự phát triển nhanh chóng của các VPCC đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, bảo đảm tính pháp lý cho các quan hệ dân sự, tạo môi trường tin cậy cũng như góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách hành chính. Tuy nhiên, vấn đề nào cũng có mặt tích cực và tiêu cực. Chính vì sự phát triển quá nóng của hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố đã dẫn đến rất nhiều những hệ lụy kéo theo sẽ được phân tích làm rõ ở phần sau.

2.2.1.2. Điều kiện về hệ thống cơ quan quản lý, về nguồn nhân lực

Cơ quan quản lý: Các cơ quan quản lý của thành phố, đặc biệt là UBND thành phố luôn quan tâm sát sao đến hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố. Sau khi Luật công chứng có hiệu lực, UBND thành phố đã chỉ đạo tăng cường phối hợp công tác giữa Sở Tư pháp, các tổ chức HNCC với Sở Tài nguyên và Môi trường, các Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố để hoạt động công chứng phát triển bền vững dưới sự quản lý của nhà nước. UBND thành phố Hà Nội đã tăng cường đẩy mạnh xã hội hóa công chứng để huy động một lực lượng đông đảo các CCV tham gia vào hoạt động công chứng, đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá nhân có nhu cầu công chứng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô; luôn quan tâm hỗ trợ địa điểm làm việc, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho các Phòng Công chứng để hoạt động có hiệu quả. Các vấn đề vướng mắc, bất cập về thể chế liên quan đến công chứng, UBND thành phố giao Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND các quận, huyện, thị xã, Hội Công chứng thành phố Hà Nội tổng hợp để báo cáo Bộ Tư pháp kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ.

Đặc biệt, UBND thành phố đã tổ chức nhiều hội thảo, xây dựng Quy chế phối hợp công tác giữa Sở Tư pháp, các tổ chức HNCC với Sở Tài nguyên và Môi trường, các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố, tạo điều kiện hoạt động tốt nhất cho các tổ chức HNCC.

Nguồn nhân lực: Hà Nội là nơi tập trung các trường đại học về chuyên ngành luật cùng Học viện tư pháp đào tạo chức danh công chứng, nên số lượng các CCV cùng đội ngũ cử nhân luật ở Hà Nội là rất lớn. Theo thống kê tại Báo cáo tổng kết năm năm thi hành luật công chứng của UBND TP Hà Nội, đến cuối năm 2012 toàn thành phố có 282 CCV, sang năm 2013 đã là 300 CCV. Số lượng CCV không ngừng tăng qua các năm, là nguồn nhân lực dồi dào đáp ứng cho hoạt động công chứng trên địa bàn phát triển [51].

2.2.2. Thực tiễn hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

Theo Điều 23 LCC 2006 về Hình thức tổ chức HNCC thì có hai hình thức tổ chức HNCC đó là Phòng công chứng và VPCC. Sau đây, tác giả sẽ đi vào phân tích về hoạt động của Phòng công chứng và VPCC trên địa bàn Hà Nội trong thời gian qua.

2.2.2.1. Hoạt động của Phòng công chứng:

Trong những năm qua hoạt động công chứng của các Phòng công chứng diễn ra sôi nổi trên khắp địa bàn cả nước, nhất là các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… Theo thống kê của Bộ tư pháp tại Báo cáo tổng kết năm năm thi hành Luật công chứng thì trên cả nước tính tới năm 2012 có 138 Phòng công chứng, các thành phố lớn số lượng các Phòng công chứng được thống kê lại như sau: Hà Nội có 10 Phòng công chứng, thành phố Hồ Chí Minh có 7 Phòng công chứng, thành phố Đà Nẵng có 3 Phòng công chứng, Hải phòng có 5 Phòng công chứng, thành phố Cần Thơ có 2 Phòng công chứng được thành lập và cấp phép hoạt động [3].

Trước khi có Luật công chứng, Phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo Nghị định số 75/NĐ-CP của Chính phủ. Cụ thể, Phòng công chứng là cơ quan hành chính Nhà nước thuộc Sở tư pháp có trụ sở riêng, tài khoản riêng và có con dấu riêng. CCV làm việc trong Phòng công chứng được hưởng lương theo hệ số ngạch, bậc mà không phụ thuộc vào khối lượng công việc của CCV đó thực hiện. LCC 2006 ra đời là bước ngoặt trong hoạt động công chứng, mở ra thời kỳ xã hội hóa hoạt động công chứng, chức năng, nhiệm vụ của các Phòng công chứng cũng thay đổi. Các việc chứng nhận bản sao, bản dịch, chứng nhận chữ ký của Phòng công chứng không còn nữa, chứng thực bản sao được phân cấp về cho cấp xã thực hiện, Phòng tư pháp cấp huyện thực hiện việc chứng thực chữ ký của người dịch và chứng thực bản sao bằng tiếng nước ngoài. Tổ chức HNCC theo Luật công chứng chỉ chứng nhận các Hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật và theo yêu cầu của người công chứng.

Sau khi Luật công chứng có hiệu lực thi hành, tháng 9/2011, trước yêu cầu bức thiết về công chứng tại các huyện ngoại thành UBND thành phố Hà Nội đã chỉ đạo Sở Tư pháp xin ý kiến Bộ Tư pháp cho phép thành lập các tổ chức HNCC ở các huyện ngoại thành nơi chưa có tổ chức HNCC. Riêng tại huyện Ba Vì, một huyện xa trung tâm thành phố, có diện tích lớn, UBND thành phố đã quyết định cho phép thành lập Phòng Công chứng số 10 để kịp thời đáp ứng nhu cầu công chứng của người dân. Theo thống kê mới nhất, đến cuối năm 2012, thành phố Hà Nội có 10 Phòng Công chứng, với tổng số 62 CCV [51].

Theo quy định của LCC 2006 và các văn bản hướng dẫn, các Phòng công chứng trên địa bàn thành phố chuyển sang đơn vị sự nghiệp. Về tài chính, được thực hiện theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính Phủ quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị công lập và Thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 09/08/2006 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP. Các Phòng công chứng phải thực hiện tự chủ về tài chính, lấy thu bù chi. Việc chi tiêu như trả lương cho cán bộ, viên chức, chi thường xuyên như trả tiền điện nước, văn phòng phẩm, lập các quỹ… đều phụ thuộc vào nguồn thu phí của phòng, nếu thu không đủ bù chi thì nhà nước sẽ xem xét cấp bù cho một phần kinh phí để hoạt động, nếu số thu đã đủ để chi phí cho các hoạt động thì nhà nước không cấp kinh phí nữa (gọi là đơn vị tự chủ hoạt động). Đồng thời, do không còn chức năng chứng nhận bản sao, bản dịch như trước đây nên công việc đã giảm hẳn đối với Phòng công chứng. Nếu như trước đây bình quân hàng ngày, các phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội phải tiếp và chứng nhận hàng trăm lượt người thì nay chỉ còn tiếp và giải quyết với số lượng rất ít, khoảng vài chục người một ngày. Các yêu cầu công chứng ngày nay hầu hết là hợp đồng giao dịch, tuy số lượng ít nhưng đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu, xác minh hồ sơ một cách thận trọng, lượng công việc phải làm cho một hợp đồng, giao dịch sẽ nhiều hơn so với thời gian chứng nhận bản sao, bản dịch. Cán bộ công chứng đòi hỏi phải chuyên sâu hơn trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình mới có thể thực hiện tốt công việc. Với những đặc điểm nêu trên các Phòng công chứng đã tổ chức, sắp xếp lại công tác tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất lẫn chế độ tài chính để hoạt động của Phòng được vận hành một cách tốt nhất [31]. Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

Điển hình trong số các Phòng công chứng ở trên địa bàn Hà Nội là Phòng công chứng số 1. Thành lập năm 1989, là Phòng công chứng đầu tiên được thành lập tại thành phố Hà Nội. Trước khi LCC 2006 ra đời, Phòng phải tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu công chứng với số lượng rất lớn, nhất là chứng nhận bản sao, bản dịch… với số lượng 700 đến 800 lượt người một ngày đã dẫn đến tình trạng quá tải cho hoạt động công chứng. Sau khi LCC 2006 có hiệu lực, Phòng công chứng số 1 đã chuyển sang đơn vị sự nghiệp theo Quyết định số 1639/QĐ-UBND ngày 08/08/2008 của UBND thành phố Hà Nội. Do không còn chức năng chứng nhận bản sao, bản dịch như trước nên Phòng công chứng số 1 chỉ còn tiếp và giải quyết với số lượng rất ít, chỉ vài chục người một ngày. Đáp ứng xu hướng xã hội hóa hoạt động công chứng, Phòng công chứng số 1 đã có những cải cách trong bộ máy quản lý, trong chế độ tài chính để phù hợp với yêu cầu của hoạt động công chứng. Cụ thể:

  • Về công tác tổ chức cán bộ, Phòng đã phát triển được đội ngũ nhân viên đều có trình độ cử nhân luật và thạc sỹ, có thâm niên công tác lâu năm.
  • Cơ sở vật chất được đầu tư, các trang thiết bị như máy vi tính, máy in, máy fax, máy photo, bàn ghế làm việc tương đối đầy đủ và rất thuận tiện cho việc soạn thảo, công chứng hợp đồng giao dịch theo đề nghị của người công chứng.
  • Về chế độ tài chính, đáp ứng yêu cầu của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 và Thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 09/08/2006, sau khi chuyển sang đơn vị sự nghiệp Phòng công chứng số 1 đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ để thực hiện các vấn đề liên quan đến tài chính, nhằm công khai, công bằng trong chi trả lương và các khoản phí khác theo quy định trên nguyên tắc: người nào làm nhiều, đóng góp nhiều trong việc tạo nguồn thu, người chịu trách nhiệm cao trong hoạt động công chứng được hưởng lợi ích nhiều hơn. Nhờ đó mà tất cả các thành viên trong phòng đều xác định được mình cần phải làm tốt việc công chứng để có thêm thu nhập. Tất cả nhằm mục đích nâng cao chất lượng dịch vụ công chứng đối với khách hàng của mình [31].

Cùng với quá trình xã hội hóa công chứng, trên địa bàn Hà Nội ngày càng nhiều VPCC được thành lập mới. Với sức cạnh tranh lớn về chất lượng phục vụ từ các VPCC, các Phòng Công chứng đều chủ động rà soát, đơn giản hóa một số thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng nhằm phục vụ người dân tốt hơn, giảm bớt được vấn đề quan liêu, cửa quyền như trước đây. Các giấy tờ, quy trình giải quyết cũng như phí, thù lao đối với từng loại việc công chứng được niêm yết công khai. Các Phòng đều ban hành nội quy, quy chế làm việc, chủ động ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết công việc. Với đội ngũ CCV nhiều kinh nghiệm cộng với uy tín đã được tích lũy qua nhiều năm, các Phòng công chứng vẫn giữ được số lượng hợp đồng, giao dịch đều đặn, đặc biệt là các hợp đồng có giá trị lớn như chuyển nhượng mua bán bất động sản, thế chấp bảo lãnh …; bảo đảm giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật đáp ứng kịp thời yêu cầu công chứng hợp pháp, chính đáng của tổ chức và công dân.

Qua thực tiễn hoạt động, có thể nhận thấy những yếu tố khách quan ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động công chứng của các Phòng công chứng trên địa bàn Hà Nội hiện nay bao gồm:

  • Các giao dịch kinh doanh thương mại sụt giảm: Khủng hoảng tài chính toàn cầu trong những năm qua làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế thế giới, Việt nam cũng không nằm ngoài ảnh hưởng đó, trong đó ngành Tài chính ngân hàng chịu ảnh hưởng lớn khi hàng loạt Ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm trên toàn thế giới sụp đổ, tình hình lạm phát gia tăng, lãi suất ngân hàng tăng quá cao, nhu cầu vay vốn để kinh doanh, đầu tư vào chứng khoán, bất động sản giảm sút, khả năng giải ngân của các ngân hàng trong nước giảm đáng kể dẫn đến nhu cầu công chứng các hợp đồng thế chấp để vay vốn ngân hàng, các hợp đồng mua bán, chuyển nhượng liên quan đến bất động sản cũng giảm theo.
  • Tính cạnh tranh cao trong nội bộ ngành công chứng: Thực hiện xã hội hóa công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội, đến đầu năm 2013, UBND thành phố Hà Nội đã cho phép thành lập và cấp phép hoạt động cho 90 VPCC, điều này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các Phòng công chứng. Các VPCC lại rất “mạnh tay” chi cho các hoạt động ngoại giao, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút khách hàng cũng đã gây khó khăn cho hoạt động của các phòng công chứng. Các phòng công chứng so với trước đây, công việc đã giảm đi rất nhiều, nhưng số cán bộ lại chưa thể giảm, mà càng nhiều cán bộ thì việc tăng thu nhập cho cán bộ lại càng gặp khó khăn. Nếu đời sống của CCV không bảo đảm thì CCV có kinh nghiệm cũng không thể gắn bó mãi với Phòng mà sẽ tìm hướng ra mở VPCC, lúc đó chất lượng dịch vụ đối với khách hàng sẽ giảm, uy tín của Phòng công chứng cũng sẽ giảm theo.

Trước đây chỉ có các Phòng công chứng hoạt động thì người dân, tổ chức kinh tế không có nhiều sự lựa chọn nơi công chứng theo ý muốn của mình, tuy nhiên hiện nay, khách hàng có thể đến bất kỳ tổ chức HNCC nào mà họ muốn. Rõ ràng, về phía người yêu cầu công chứng, họ có lợi thế hơn, họ được phục vụ tốt hơn; còn về phía tổ chức HNCC cần phải thay đổi phong cách làm việc để chuyên nghiệp hơn, lịch sự hơn, vui vẻ hơn trong giao tiếp với khách hàng.

Thực tế, các số liệu nêu trên cho thấy rằng, nhiều người dân vẫn tin tưởng vào “Phòng công chứng nhà nước”, nhiều tổ chức, đặc biệt là các tổ chức tín dụng vẫn đặt niềm tin vào các Phòng công chứng, nên đã yêu cầu phải công chứng các Hợp đồng thế chấp, cầm cố tại các Phòng công chứng. Các tổ chức tín dụng này cho rằng, tại các Phòng công chứng, CCV có kinh nghiệm, có trách nhiệm và thường kiểm tra, “phản bác” lại các hồ sơ của tổ chức tín dụng cho vay khi thấy hồ sơ chưa rõ ràng, không đảm bảo pháp lý trước khi công chứng hợp đồng, đồng thời, với suy nghĩ “Phòng công chứng là của Nhà nước, nên khả năng rủi ro thấp, và nếu có phát sinh tranh chấp thì cũng có Nhà nước đảm bảo”. Do đó, các tổ chức tín dụng cũng như người dân vẫn tin tưởng vào các Phòng công chứng trong thời điểm hiện nay là điều dễ hiểu.

Sự tồn tại của các Phòng công chứng trong thời điểm hiện nay là không thể phủ nhận được đặc biệt là với tâm lý của người dân ở Việt Nam. Việc đến các cơ quan nhà nước thường đem đến cho người dân một sự an tâm, tin tưởng. Với cơ chế, chính sách tài chính như hiện nay, các Phòng công chứng đã chuyển sang đơn vị sự nghiệp cần có những thay đổi tích cực hơn nữa về tác phong, về thái độ làm việc, nâng cao đạo đức nghề nghiệp thì chắc chắn người yêu cầu công chứng vẫn sẽ tin tưởng vào các Phòng công chứng [31].

2.2.2.2. Hoạt động công chứng của VPCC Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

Luật Công chứng với ý nghĩa to lớn là thực hiện chủ trương xã hội hóa và trả lại đúng tính chất của hoạt động công chứng, nên ngay từ khi triển khai thi hành luật đã thu hút được sự quan tâm rất lớn của xã hội. Ban đầu cũng có hai luồng ý kiến khác nhau. Một luồng ý kiến thận trọng muốn hạn chế tốc độ phát triển về số lượng của các VPCC vì lo ngại về chất lượng và hậu quả từ các văn bản công chứng kém chất lượng. Một luồng ý kiến khác mong muốn các quy định và tinh thần thông thoáng của Luật Công chứng được sớm đi vào cuộc sống. Trước tình hình đó, sau những cân nhắc đầy trách nhiệm, đồng thời, có tham khảo mô hình tổ chức, hoạt động công chứng của một số nước phát triển về công chứng trên thế giới, cộng với yêu cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô, UBND thành phố đã chỉ đạo Sở Tư pháp thống nhất nhận thức về việc triển khai thực thi Luật Công chứng với phương châm là phát triển bền vững phải đi đôi với hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức HNCC [51].

Sau khi Luật Công chứng có hiệu lực thi hành với chủ trương xã hội hóa, cùng với tốc độ phát triển kinh tế xã hội, tốc độ đô thị hóa và việc chuyển giao chứng thực từ UBND sang công chứng, nhu cầu thành lập các VPCC trên địa bàn thành phố Hà Nội rất lớn. UBND thành phố đã giao Sở Tư pháp thực hiện việc tiếp nhận, thẩm định hồ sơ, kiểm tra thực tế, trình các hồ sơ đủ điều kiện để UBND thành phố xem xét, quyết định cho phép thành lập VPCC. Số lượng tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố tăng nhanh qua các năm, cụ thể là: năm 2007 có 9 tổ chức, năm 2008 có 26 tổ chức, năm 2009 có 51 tổ chức, năm 2010 có 50 tổ chức, năm 2011 có 68 tổ chức, năm 2012 có 96 tổ chức. Tính đến ngày 01/11/2012, toàn thành phố có 86 VPCC, trong đó 80 văn phòng tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh, 06 văn phòng tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Tổng số CCV đang hành nghề công chứng tại các VPCC là 220. Và đến tháng 4 năm 2013, số lượng các VPCC đã tăng lên là 90 Văn phòng với gần 300 CCV [51].

Việc thành lập một loạt các VPCC đã góp phần giải quyết triệt để tình trạng chen lấn, xô đẩy, xếp hàng chờ đến lượt công chứng tại các Phòng công chứng trước đây. Tuy các VPCC khi mới thành lập cũng gặp một số khó khăn về vốn, trụ sở, nhân viên, khách hàng, xây dựng thương hiệu, chuyên môn nghiệp vụ … nhưng hầu hết đều đã cố gắng khắc phục những khó khăn, trở ngại ban đầu. Đến nay, đa số VPCC đã dần khẳng định được vị trí, vai trò của mình, hoạt động theo hướng ngày càng chuyên nghiệp, đảm bảo cho các giao dịch của người dân được nhanh chóng, thuận tiện. Người yêu cầu công chứng được hướng dẫn, phục vụ công chứng tận tình, nhiều VPCC đã đưa ra những dịch vụ hỗ trợ như công chứng ngoài trụ sở khi khách hàng ốm đau, hay phối hợp cùng Ngân hàng trực tiếp đi kiểm tra tính xác thực, tính hợp pháp của tài sản bảo đảm.., giảm tải đáng kể cho các Phòng công chứng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, tổ chức khi có nhu cầu công chứng.

Tuy nhiên do quá trình phát triển “nóng” nên hiện nay chất lương̣ hoạt động của một số Văn phòng còn haṇ chế . Thời gian vừa qua, qua công tác thanh tra của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp Hà Nội với một số tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố cho thấy còn có một số vi phạm như: Không tuân thủ nghiêm túc trình tự, thủ tục, thời gian, địa điểm công chứng; bố trí điểm tiếp nhận hồ sơ công chứng, yêu cầu công chứng ở các địa bàn ngoài trụ sở của tổ chức mình; không niêm yết lịch làm việc; thu phí công chứng, thù lao công chứng cao hơn quy định; thu phí không ghi biên lai, hóa đơn hoặc thu cao hơn nhưng hóa đơn chỉ ghi bằng mức phí niêm yết; trích lại phần trăm phí và thù lao công chứng cho người yêu cầu công chứng để cạnh tranh không lành mạnh; thiếu một số giấy tờ trong thành phần hồ sơ theo quy định của pháp luật [41] … Những vi phạm trên đây không chỉ xuất hiện ở các VPCC mới thành lập, mà ở các VPCC lâu năm, có uy tín, lẫn các Phòng công chứng đều gặp phải. Điều này một phần do số lượng tổ chức HNCC trên địa bàn Hà Nội hiện nay khá đông, đặc biệt ở các quận nội thành, nên việc các tổ chức phải cạnh tranh nhau để tìm kiếm, giữ chân khách hàng dẫn đến trái luật, lách luật là không thể tránh khỏi.

2.2.3. Các kết quả đạt được sau hơn sáu năm thực thi Luật công chứng Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

Sau hơn sáu năm Luật công chứng có hiệu lực, kết quả mà thành phố Hà Nội và các tổ chức HNCC trên địa bàn đạt được là rất đáng ghi nhận. Cụ thể:

2.2.3.1. Kết quả đạt được của các tổ chức hành nghề công chứng

Theo Bảng thống kê kết quả thực hiện công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội từ ngày 01/7/2007 đến 01/7/2012 của UBND thành phố Hà Nội.

Như vậy, sau năm năm từ khi Luật công chứng có hiệu lực, các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố đã công chứng được 825 nghìn việc, thu phí công chứng là 466 tỷ đồng, thù lao công chứng thu được là 72 tỷ đồng, đóng góp cho ngân sách nhà nước 120 tỷ đồng. Đặc biệt trong 2 năm 2010 và 2011, là hai năm phát triển “nóng” của thị trường bất động sản, nên các giao dịch chuyển nhượng, mua bán, thế chấp … diễn ra liên tục, tổng số việc đã công chứng trong 2 năm nay tăng vọt lên 216 nghìn việc và 220 nghìn việc, thu về cho ngân sách nhà nước 76 tỷ đồng. Đến năm 2012, kinh tế thế giới suy thoái, ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam, nên số lượng Hợp đồng giao dịch công chứng cũng giảm nhiều, tính đến hết tháng 7/2012, số việc đã công chứng là 92 nghìn việc.

Đồng thời, theo Báo cáo kết quả công tác Bổ trợ tư pháp năm 2012 và nhiệm vụ công tác năm 2013 của UBND thành phố Hà Nội, đến tháng 4 năm 2013, toàn thành phố có 100 tổ chức HNCC bao gồm 10 Phòng công chứng và 90 VPCC. Năm 2012, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, thị trường bất động sản suy giảm, tín dụng bị thắt chặt các tổ chức HNCC cũng đã thực hiện công chứng được hơn 200.000 hợp đồng, giao dịch, thu phí công chứng hơn 100 tỷ đồng, thu thù lao công chứng hơn 20 tỷ đồng, nộp ngân sách hơn 25 tỷ đồng [49].

Các tổ chức HNCC đã chủ động có những giải pháp để triển khai thực hiện Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành, hoạt động công chứng từng bước được xã hội hóa trên địa bàn thành phố, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, phục vụ kịp thời nhu cầu hợp pháp, chính đáng của tổ chức và người dân, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô. Người dân khi đến công chứng các hợp đồng giao dịch đã thấy hài lòng và tin tưởng hơn. Nạn sách nhiễu, quan liêu, cửa quyền của một số cán bộ được thay bằng sự tận tình, chu đáo, bởi với chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng thì thu nhập chính của công chứng viên phụ thuộc vào lượng khách hàng. Hoạt động công chứng trên địa bàn

Thủ đô sáu năm qua có được kết quả đáng ghi nhận trước hết là nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện của Bộ Tư pháp, của Thành Ủy, Hội đồng nhân dân Thành phố và sự nỗ lực, phấn đấu của cán bộ, công chức UBND, Sở Tư pháp, Hội công chứng Hà Nội và các tổ chức HNCC.

Theo thống kê, tính trên phạm vi cả nước sau sáu năm thi hành Luật công chứng, các tổ chức hành nghề công chứng trên cả nước đã công chứng được khoảng 7 triệu việc, tổng số phí công chứng thu được là gần 2600 tỷ đồng, tổng số thù lao công chứng thu được 180 tỷ đồng, tổng số tiền nộp thuế và nộp ngân sách nhà nước gần 1000 tỷ đồng. Hoạt động công chứng đã góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, góp phần tạo môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại, đồng thời giảm thiểu công việc cho Tòa án và các cơ quan nhà nước trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện, thông qua đó bảo đảm trật tự an toàn và tiết kiệm chi phí cho xã hội [41].

2.2.3.2. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

Thời gian qua, công tác triển khai, áp dụng Luật công chứng và quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng của UBND thành phố Hà Nội đã đạt được rất nhiều kết quả tích cực:

Thành phố đã thực hiện được chương trình quản lý thông tin ngăn chặn và thông tin về hợp đồng, giao dịch đã công chứng. UBND thành phố đã chỉ đạo Sở Tư pháp, Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND các quận, huyện, thị xã tăng cường phối hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu, chia sẻ thông tin nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hạn chế tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến giao dịch nhà đất. Trên cơ sở đó, Sở Tư pháp tổ chức Hội thảo tăng cường phối hợp công tác giữa Sở Tư pháp, các tổ chức HNCC với Sở Tài nguyên và Môi trường, các Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố; xây dựng và phát hành Danh bạ các tổ chức HNCC, các văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất để các bên liên hệ công tác khi cần thiết. Phối hợp cùng với Hội Công chứng thành phố Hà Nội và các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố Hà Nội xây dựng Chương trình quản lý thông tin ngăn chặn và thông tin về hợp đồng, giao dịch đã công chứng thường được gọi là mạng UCHI. Mục đích của Chương trình là hạn chế việc thực hiện đồng thời nhiều giao dịch đối với một tài sản, hạn chế việc công chứng đối với Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất đã có Quyết định thu hồi, đã bị hủy, đã bị mất…, hạn chế việc sử dụng văn bản công chứng giả tham gia giao dịch, đăng ký biến động, đăng ký giao dịch bảo đảm…

Thông tin trong Chương trình bao gồm: Thông tin ngăn chặn do các cơ quan có thẩm quyền gửi đến như: UBND, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất các quận, huyện, thị xã, cơ quan cảnh sát điều tra, cơ quan thi hành án, tòa án …, thông tin tham khảo do công dân gửi đến và thông tin hợp đồng, giao dịch đã công chứng do các tổ chức HNCC nhập vào.

Hiện nay, Sở Tư pháp đang quản lý và vận hành Chương trình quản lý thông tin ngăn chặn và thông tin về hợp đồng, giao dịch đã công chứng với 95/100 tổ chức HNCC tham gia, đã nhập hơn 11.000 thông tin ngăn chặn, thông tin tham khảo và hơn 1.100.000 thông tin về hợp đồng, giao dịch đã công chứng vào Chương trình. Sở Tư pháp đã phối hợp với UBND các quận, huyện, thị xã để thống kê, cập nhật các trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã có Quyết định thu hồi nhưng không thể thu hồi được, đã bị hủy, đã bị mất vào Chương trình. Hiện tại Chương trình đã có dữ liệu của 22/29 quận, huyện, thị xã bao gồm: Từ Liêm, Long Biên, Phúc Thọ, Đông Anh, Gia Lâm, Mê Linh, Hai Bà Trưng, Thanh Trì, Ứng Hòa, Sơn Tây, Thạch Thất, Hoài Đức, Hà Đông, Phú Xuyên, Thường Tín, Ba Vì, Thanh Oai, Thanh Xuân, Hoàng Mai, Cầu Giấy, Tây Hồ, Đan Phượng, …, đồng thời đã tổ chức tập huấn kỹ năng sử dụng Chương trình và cung cấp tài khoản để các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trên địa bàn Thành phố có thể tham gia [18]. Đến nay, chương trình đã hoạt động được hơn 2 năm, đã phát huy hiệu quả rất lớn đối với hoạt động công chứng, đặc biệt giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức HNCC, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý. Sau quá trình hoạt động thử nghiệm, Sở Tư pháp đã ban hành “Quy chế quản lý, vận hành, sử dụng Chương trình quản lý thông tin ngăn chặn và thông tin về hợp đồng, giao dịch đã công chứng” có hiệu lực từ ngày 01/10/2012, đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, quản lý, vận hành và sử dụng chương trình một cách tốt nhất [41]. Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

Ngay sau khi Luật Công chứng có hiệu lực thi hành, UBND thành phố đã tập trung tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng thông qua các cơ quan thông tấn, báo chí. Bên cạnh đó, UBND Thành phố giao Sở Tư pháp – Thường trực Hội đồng phối hợp công tác phổ biến và giáo dục pháp luật biên soạn Cuốn “Hỏi – Đáp pháp luật về công chứng, chứng thực” phát hành đến các Sở, ban, ngành của Thành phố và các quận, huyện, thị xã; tổ chức các lớp Tập huấn về pháp luật, nghiệp vụ công chứng cho hàng trăm lượt CCV, nhân viên nghiệp vụ, kế toán, thủ quỹ của các tổ chức HNCC; đặc biệt là các VPCC mới được thành lập. Báo cáo viên là các chuyên gia về pháp luật của Bộ Tư pháp, các CCV có trình độ, kinh nghiệm, uy tín nghề nghiệp của các Phòng Công chứng trên địa bàn thành phố. Cùng với sự tuyên truyền thường xuyên, liên tục, chất lượng hoạt động ngày càng được nâng cao của đa số các VPCC dẫn đến những nhận xét, đánh giá tích cực của xã hội về chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng.

Trong hơn sáu năm qua, trên địa bàn thành phố Hà Nội, nhờ có công tác quản lý nhà nước mà hoạt động công chứng ngày càng đi vào nề nếp, việc xã hội hóa tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần tạo sự phát triển lành mạnh của các tổ chức HNCC, bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, phục vụ ngày một tốt hơn nhu cầu hợp pháp, chính đáng của người dân, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô. UBND thành phố luôn chủ động bám sát các Chương trình, Kế hoạch công tác của Bộ Tư pháp để ban hành các văn bản nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công chứng; chỉ đạo và tạo điều kiện để Sở Tư pháp đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, điều hành tại Sở Tư pháp và tại các tổ chức HNCC; chỉ đạo Sở Tư pháp ban hành các văn bản, kế hoạch công tác, tăng cường công tác nắm bắt tình hình, trao đổi, hướng dẫn nghiệp vụ, lề lối, cách thức làm việc tại các tổ chức hành hành nghề công chứng tạo tiền đề quan trọng cho việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; giao Sở Tư pháp tổ chức các buổi tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề để nâng cao kiến thức, kỹ năng hành nghề cho CCV và thư ký giúp việc cho CCV, như tập huấn, bồi dưỡng kiến thức nhận diện giấy tờ giả, người giả, tập huấn công tác lưu trữ trong hoạt động công chứng, tập huấn cách sử dụng chương trình thông tin ngăn chặn….Giải đáp các vướng mắc, khó khăn trong nghiệp vụ công chứng cho CCV bằng hình thức trả lời bằng văn bản hoặc qua điện thoại.

Công tác kiểm tra, xử lý vi phạm: UBND thành phố đã thành lập các Đoàn Kiểm tra liên ngành để kiểm tra việc chấp hành pháp luật công chứng, pháp luật thuế, pháp luật lao động tại các tổ chức HNCC. Ngoài ra, thực hiện sự chỉ đạo của UBND thành phố, Sở Tư pháp đã tiến hành kiểm tra đột xuất để kịp thời phát hiện các trường hợp CCV, VPCC vi phạm các quy định của pháp luật. Sở Tư pháp đã trình Bộ Tư pháp xem xét, miễn nhiệm 02 công chứng do bị kết án bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật. Sở Tư pháp tổ chức tiếp công dân, giải quyết và trả lời bằng văn bản đối với các trường hợp khiếu nại, tố cáo liên quan đến CCV và tổ chức HNCC có tham khảo ý kiến chuyên môn của Hội Công chứng thành phố Hà Nội. Qua thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Sở Tư pháp tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm, thông báo rộng rãi đến các CCV, các tổ chức HNCC khác để hạn chế mắc phải [41].2.3.3. Kết quả về việc thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp của CCV

Sự phát triển ngày càng lớn mạnh về số lượng CCV hành nghề công chứng trên địa bàn Hà Nội đã đặt ra một vấn đề hết sức cấp thiết là cần có một tổ chức thống nhất quản lý, liên kết hoạt động của các CCV lại với nhau để đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các CCV. Trước yêu cầu đó, ngày 21/6/2011, Ban Vận động thành lập Hội Công chứng thành phố Hà Nội được thành lập. Ban Vận động đã vận động các CCV đang hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố tham gia Hội.

Ngày 28/9/2011, UBND thành phố ban hành Quyết định số 4498/QĐ-UBND cho phép thành lập Hội Công chứng thành phố Hà Nội. Ngày 22/10/2012 Đại hội Hội công chứng thành phố Hà Nội lần thứ I với 179/183 CCV tham dự đã diễn ra thành công tốt đẹp [51].

Qua hơn hai năm hoạt động, Hội đã triển khai được một số hoạt động như: Tổ chức tập huấn cho các CCV, Trưởng VPCC, đặc biệt là các văn phòng mới thành lập về nghiệp vụ công chứng, kỹ năng quản lý VPCC. Phối hợp với Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an Hà Nội tổ chức tập huấn kỹ năng phát hiện giấy tờ giả cho hơn 300 lượt CCV. Hội cũng đã có những ý kiến đóng góp đối với một số văn bản liên quan đến công chứng do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Hội đã cử lãnh đạo Hội, một số CCV có trình độ, kinh nghiệm tham gia vào các tổ soạn thảo Bộ luật Dân sự, Luật Công chứng sửa đổi; Tổ chức triển khai một số hoạt động hợp tác giữa Hội công chứng Hà Nội và Hội đồng công chứng Paris – Nước Cộng hòa Pháp, Công chứng Thủ đô Viên Chăn – Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Hội Công chứng thành phố Hà Nội đã phát huy tốt vai trò của mình, tích cực tham gia quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng như: Phối hợp với Sở Tư pháp tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho CCV, tham gia Đoàn kiểm tra định kỳ về hoạt động của các tổ chức HNCC, đề xuất khen thưởng các tổ chức và cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động công chứng. Việc triển khai Thỏa thuận hợp tác giữa Hội công chứng thành phố Hà Nội với Hội đồng công chứng Paris mở ra nhiều cơ hội giao lưu, trao đổi, học hỏi nâng cao trình độ của công chứng Thủ đô.

Hoạt động của Hội công chứng Thành phố bước đầu đi vào nề nếp, phát huy vai trò tự quản, góp phần tích cực vào hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

2.2.3.4. Hợp tác quốc tế về công chứng

Hội công chứng của thành phố Hà Nội đã có sự giao lưu, trao đổi kinh nghiệm với công chứng một số nước như Hội đồng công chứng Paris, Công chứng Thủ đô Viên chăn [19]. Các bên đã ký các thỏa thuận hợp tác như: Trao đổi thường xuyên, thông tin, tư liệu về sự phát triển nghề công chứng; các văn bản về tổ chức và hoạt động, các tài liệu về lý luận và thực tiễn hoạt động nghề nghiệp công chứng; quan điểm, kiến thức đối với những vấn đề nghiệp vụ công chứng mà hai bên cùng quan tâm.

2.3. Một số bất cập trong hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn Hà Nội hiện nay

Là địa bàn thuận lợi cho hoạt động công chứng phát triển, với sự ra đời của hàng loạt tổ chức HNCC tại thành phố Hà Nội trong những năm qua đã giúp giảm thiểu sự quá tải tại các Phòng Công chứng Nhà nước trước đây, góp phần vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và các quan hệ xã hội khác, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, do phát triển quá “nóng” và ồ ạt, trong khi hệ thống pháp luật điều chỉnh còn nhiều lỗ hổng như đã phân tích ở trên, cộng với cơ chế quản lý còn lỏng lẻo nên hoạt động công chứng trên địa bàn Hà Nội đã phát sinh một số vấn đề bất cập.

2.3.1. Có nhiều vi phạm trong hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

Đội ngũ CCV trên địa bàn thành phố những năm qua phát triển nhanh về số lượng nhưng do quy định LCC 2006 về đào tạo, bổ nhiệm CCV còn chưa chặt chẽ nên chất lượng và đạo đức hành nghề của một số CCV còn thấp.

Trong quá trình hoạt động, thông thường thư ký của CCV (nhân viên của tổ chức HNCC) sẽ là người tiếp nhận yêu cầu công chứng, hướng dẫn khách hàng làm thủ tục, nhận hồ sơ, soạn thảo văn bản … sau đó CCV sẽ kiểm tra lại tính hợp pháp hồ sơ và hướng dẫn khách hàng ký vào văn bản.

Tuy nhiên do một số CCV của tổ chức HNCC thiếu kinh nghiệm, thiếu thận trọng trong tra cứu thông tin về tài sản, dữ liệu phục vụ giải quyết hồ sơ của người yêu cầu công chứng, chưa thực hiện đúng trình tự, thủ tục công chứng, chưa giải thích rõ quyền và nghĩa vụ cũng như hậu quả pháp lý cho người yêu cầu công chứng, có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, thậm chí bớt đi một số giấy tờ và thủ tục cần thiết để thu hút khách hàng dẫn đến phát sinh tranh chấp, khiếu kiện, gây tổn hại đến uy tín của cá nhân và tổ chức HNCC.

Theo số liệu báo cáo của các Sở tư pháp và thanh tra Bộ tư pháp từ năm 2007 đến hết tháng 7 năm 2012, tính trên phạm vi cả nước, các Sở tư pháp đã phát hiện và xử lý bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo đối với 24 trường hợp cán bộ, công chức, viên chức vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công chứng; Thanh tra Bộ tổ chức 07 cuộc thanh tra đối với 66 tổ chức hành nghề, ban hành 29 quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 20 tổ chức và cá nhân với số tiền là 63.000.000 đồng [23].

Cũng theo số liệu báo cáo, các hành vi sai phạm và bị xử lý trong lĩnh vực công chứng bao gồm:

  • Vi phạm quy tắc đạo đức hành nghề công chứng;
  • Nhũng nhiễu trong thi hành công vụ;
  • Vi phạm quy trình thực hiện công chứng;
  • Công chứng hợp đồng trái pháp luật;
  • Mạo danh để công chứng hợp đồng ủy quyền;
  • Thực hiện công chứng ngoài trụ sở không đúng quy định;
  • Thực hiện sửa lỗi kỹ thuật hợp đồng, văn bản không đúng quy định;
  • Không niêm yết phí công chứng tại trụ sở;
  • Thực hiện công chứng hợp đồng không đúng thẩm quyền;
  • Thực hiện công chứng hợp đồng, giấy ủy quyền, văn bản phân chia di sản không đúng quy định;
  • Sử dụng giấy tờ giả mạo để công chứng;
  • Công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng vi phạm pháp luật;
  • Không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV.
  • Thu lệ phí không đúng quy định. Một số VPCC chưa thực hiện đúng các quy định của pháp luật thuế, có hiện tượng trốn thuế.
  • Không lập, quản lý, sử dụng các loại sổ sách theo quy định.
  • Đa số các tổ chức HNCC thực hiện chưa đúng quy định về lời chứng.
  • Nhiều tổ chức HNCC vẫn thực hiện công chứng các hợp đồng giao dịch trong trường hợp Chứng minh nhân dân của người yêu cầu công chứng đã quá hạn sử dụng.
  • Một số hồ sơ công chứng của nhiều tổ chức HNCC thiếu bản sao giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hoặc giấy tờ để chứng minh quyền sở hữu riêng, sử dụng riêng tài sản.
  • CCV thực hiện công chứng đối với các hợp đồng mà đối tượng của hợp đồng là quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình nhưng hồ sơ công chứng chỉ có bản sao trang hộ khẩu của vợ, chồng mà không có các trang hộ khẩu của các con, hoặc thiếu văn bản xác nhận của Cơ quan công an, UBND xã phường về các thành viên hộ gia đình tại thời điểm được giao đất, do đó chưa có căn cứ để xác định đầy đủ các thành viên hộ gia đình ký kết hợp đồng theo quy định tại Điều 109 Bộ luật Dân sự và các quy định của pháp luật về đất đai. Hoặc đối tượng là hộ gia đình nhưng không đầy đủ các thành viên trong hộ, điều này dễ dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu khi tranh chấp xảy ra, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng.
  • Theo quy định tại Khoản 6, Điều 35, Khoản 3 Điều 36 và Khoản 1 Điều 41 Luật công chứng thì người yêu cầu công chứng phải ký vào từng trang hợp đồng, giao dịch. Tuy nhiên, nhiều hồ sơ của CCV thiếu chữ ký của Ngân hàng vào từng trang hợp đồng thế chấp tài sản; CCV ở một số tổ chức HNCC thực hiện ký tắt vào các trang hợp đồng trong hồ sơ công chứng và không đăng ký chữ ký này theo quy định. Do đó, việc ký tắt của CCV là không thực hiện đúng theo quy định của Luật công chứng [23].
  • Số lượng tổ chức HNCC tuy đã phủ khắp các quận, huyện, thị xã nhưng chất lượng và tính chuyên nghiệp chưa cao; còn hiện tượng một số tổ chức HNCC do quá chú trọng đến việc thu hút khách hàng, nên còn giản đơn trong trình tự, thủ tục công chứng hoặc thực hiện công chứng không phù hợp với quy định, không bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch; vẫn còn tình trạng “cạnh tranh” không lành mạnh của một số VPCC.

Có thể nói, các thiếu sót trong quy định của pháp luật và cơ chế quản lý lỏng lẻo là nguyên nhân chính dẫn đến các bất cập trong hoạt động công chứng trên địa bàn Hà Nội hiện nay. Ví dụ: theo quy định tại Ðiều 57, Luật Công chứng, thù lao công chứng do người yêu cầu công chứng và tổ chức HNCC thỏa thuận. Do đó, việc thu thù lao công chứng mỗi nơi một khác. Ðơn cử như, cùng là công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhu cầu công chứng tại nhà, Văn phòng công chứng Ðại Việt (địa chỉ: số 335 phố Kim Mã, Ba Ðình, Hà Nội) đưa ra mức phí là 800 nghìn đồng, trong khi Văn phòng công chứng Hồng Hà (địa chỉ: 11 Huỳnh Thúc Kháng, Ðống Ða, Hà Nội) có mức phí là 1,4 triệu đồng (bao gồm: phí công chứng tại nhà 650 nghìn đồng, phí công chứng ngoài giờ 350 nghìn đồng; phí soạn thảo, đánh máy hồ sơ 400 nghìn đồng) [23].

Việc cho phép thu phí dịch vụ theo thỏa thuận như kể trên đã dẫn tới tình trạng “loạn phí” trong hoạt động công chứng, nơi thì thu quá cao, nơi lại thu rất thấp. Ðây chính là “lỗ hổng” pháp lý, tạo kẽ hở cho việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng, làm méo mó, thiếu đi sự minh bạch trong hoạt động này.

2.3.2. Hoạt động quản lý nhà nước về công chứng còn bị buông lỏng Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

Các quy định về quản lý nhà nước còn có những sơ hở, lỏng lẻo, thiếu những chế tài mạnh để xử lý các hành vi vi phạm của CCV, tổ chức HNCC, người yêu cầu công chứng, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội còn chưa cao.

Sự phối hợp giữa Sở Tư pháp với Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND các quận, huyện, thị xã còn hạn chế, có những lúc chưa kịp thời bàn bạc, trao đổi, thống nhất để giải quyết các khó khăn, vướng mắc dẫn đến tình trạng Văn bản công chứng khi đi đăng ký bị chậm chễ, trả đi trả lại nhiều lần.

Việc xã hội hóa công chứng một cách mạnh mẽ trên địa bàn thành phố Hà Nội góp phần thuận lợi cho người dân khi có nhu cầu giải quyết công việc. Tuy nhiên, khi lực lượng thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra còn quá mỏng so với yêu cầu công việc cộng với số lượng, trình độ, năng lực cán bộ, công chức viên chức, các chức danh tư pháp còn chưa đáp ứng yêu cầu công việc thì việc xảy ra các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công chứng rất dễ xảy ra. Việc quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng chưa theo kịp tình hình mới dẫn đến phát sinh những hiện tượng vi phạm, cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức HNCC.

2.3.3. Nhận thức của người dân về công chứng còn chưa đầy đủ

Nhận thức của người dân hiện nay về tính chất, tầm quan trọng của hoạt động công chứng trong đảm bảo an toàn giao dịch nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung còn chưa đầy đủ. Một bộ phận nhân dân, thậm chí là cả những người đã, đang học luật còn chưa phân biệt được tính chất của hoạt động công chứng của tổ chức công chứng với hoạt động chứng thực của Uỷ ban xã phường, quận huyện dù Luật công chứng đã có hiệu lực được hơn sáu năm. Công tác tuyên truyền, quán triệt thực hiện Luật công chứng nhiều nơi thực hiện hình thức, chưa đi vào chiều sâu, điều này dẫn đến việc áp dụng Luật công chứng chưa thật sự hiệu quả.

Tiểu kết chương 2

Sau sáu năm thi hành Luật công chứng, những kết quả bước đầu đạt được đã khẳng định chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng đắn, tạo điều kiện cho việc phát triển tổ chức và hoạt động công chứng của Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp hóa và trở thành một trong những dịch vụ công có vai trò tăng cường sự bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thu hút đầu tư nước ngoài, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ của hoạt động công chứng trong khu vực và thế giới. Nhờ đó, đội ngũ CCV và tổ chức HNCC nước ta đã và đang phát triển nhanh về số lượng, tính chuyên nghiệp của hoạt động hành nghề cũng từng bước được nâng cao. Sau khi Luật công chứng được ban hành, số lượng CCV và tổ chức HNCC ở nước ta đã tăng nhanh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, tổ chức và hoạt động công chứng hiện nay vẫn còn một số hạn chế, bất cập, rất cần những định hướng và giải pháp tích cực, đặc biệt là việc sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật công chứng nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập về thể chế để thúc đẩy hoạt động công chứng phát triển là rất cần thiết. Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY   

===>>> Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Hà Nội

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x