Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Quy định của pháp luật công chứng hiện hành về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng
2.1.1. Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
Trước khi LCC 2006 được ban hành, pháp luật công chứng nước ta quan niệm công chứng là hoạt động của Nhà nước, các văn bản pháp luật về công chứng đều quy định chủ thể của hoạt động này phải là cơ quan nhà nước, trong đó các CCV là công chức, được hưởng lương từ ngân sách. Thời kỳ này, các Phòng công chứng đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, khẳng định ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò của công chứng trong đời sống xã hội. Chỉ tính trong năm năm, kể từ khi ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng chứng thực, các Phòng công chứng trên cả nước đã công chứng hơn một triệu hợp đồng, giao dịch, qua đó đảm bảo an toàn pháp lý cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, góp phần phục vụ quản lý nhà nước hiệu quả.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, với xu hướng của công chứng thế giới là chuyển đổi tổ chức công chứng từ chỗ là cơ quan nhà nước sang các tổ chức dịch vụ công, cùng với đó là sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế thì việc duy trì mô hình công chứng nhà nước ở nước ta là không còn phù hợp. Bởi vậy, việc chuyển đổi mô hình công chứng theo hướng từng bước xã hội hóa – CCV không nhất thiết phải là công chức, tổ chức HNCC không nhất thiết phải là cơ quan nhà nước là việc làm cần thiết. Qua đó, một mặt có thể huy động nguồn lực to lớn của xã hội để phát triển đội ngũ CCV và tổ chức HNCC đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao, mặt khác tạo ra sự “cạnh tranh lành mạnh” giữa những người làm nghề công chứng, giữa các tổ chức HNCC nhằm nâng cao chất lượng phục vụ. Đây là một đòi hỏi khách quan, không những góp phần giảm bớt gánh nặng về biên chế và kinh phí của Nhà nước mà còn phù hợp với thông lệ công chứng trên thế giới [15, tr.120]. Cùng với chủ trương xã hội hóa công chứng, LCC 2006 tại Chương III – Tổ chức hành nghề công chứng đã quy định hai hình thức tổ chức HNCC đó là Phòng công chứng và VPCC.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2.1.1.1. Phòng công chứng Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
Phòng công chứng là hình thức tổ chức HNCC do Nhà nước thành lập. Hình thức tổ chức HNCC này đã tồn tại từ kể từ khi hệ thống công chứng nước ta được hình thành và tiếp tục được quy định trong Luật công chứng theo hướng duy trì những mặt tích cực của hình thức tổ chức hành nghề này, đồng thời khắc phục những mặt hạn chế, qua đó bảo đảm tính ổn định của hoạt động công chứng phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Thành lập Phòng công chứng
Việc thành lập Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định. Trình tự để thành lập một
Phòng công chứng được thực hiện theo các bước sau:
- Trên cơ sở nhu cầu công chứng tại địa phương, Sở Tư pháp xây dựng Đề án thành lập Phòng công chứng trình UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định. Đề án nêu rõ về sự cần thiết thành lập, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện (Điều 25, LCC 2006).
- Sau khi đề án được hoàn chỉnh, Sở Tư pháp gửi UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định. Trong trường hợp để cơ quan này quyết định thành lập Phòng công chứng thì trong thời hạn 30 ngày kể từ khi có quyết định thành lập Phòng công chứng, Sở Tư pháp phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi quyết định thành lập trong ba số liên tiếp. Nội dung đăng báo gồm các thông tin như: tên gọi, địa chỉ trụ sở của Phòng công chứng; số, ngày, tháng, năm quyết định thành lập và ngày bắt đầu hoạt động của Phòng công chứng. Trong trường hợp UBND cấp tỉnh quyết định thay đổi tên gọi hoặc trụ sở của Phòng công chứng thì Sở Tư pháp phải đăng báo những nội dung thay đổi đó tương tự như đối với việc đăng báo về việc thành lập Phòng công chứng để các tổ chức, cá nhân biết.
Một điểm cần lưu ý khi thành lập Phòng công chứng đó là vấn đề tên gọi của Phòng công chứng. Theo quy định, tên gọi của tổ chức HNCC này phải bao gồm cụm từ Phòng công chứng, số thứ tự thành lập và tên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Phòng công chứng được thành lập. (Ví dụ: Phòng công chứng số 1 thành phố Hà Nội, Phòng công chứng số 2 tỉnh Hà Tĩnh…).
Cơ cấu tổ chức và chế độ tài chính
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 24 LCC 2006 thì: “Phòng công chứng là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng”. So sánh với các quy định trước đây của pháp luật thì cũng không có sự thay đổi quá lớn về địa vị pháp lý của Phòng công chứng. Tại điểm 1, Phần I, Công văn số 554/CV-CC ngày 10/07/1989 của Bộ Tư pháp về việc bổ sung một số điểm trong việc triển khai thực hiện Thông tư số 574/QLTPK và Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng, đã ghi nhận: “Phòng công chứng nhà nước là cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh, có tư cách pháp nhân và không nằm trong cơ cấu của Sở tư pháp. Trường hợp được UBND tỉnh ủy quyền thì Giám đốc Sở tư pháp trực tiếp quản lý Phòng công chứng Nhà nước” và một nội dung như vậy cũng được quy định tại Điều 11, Nghị định số 45/HĐBT, cụ thể: “Phòng công chứng nhà nước là cơ quan thuộc UBND tỉnh, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng ở ngân hàng, có con dấu mang hình quốc huy”. Tuy nhiên, đến Nghị định số 31/CP thì: “Phòng công chứng nhà nước thuộc Sở tư pháp có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng và có con dấu riêng theo quy định của Chính phủ” (Điều 12, Nghị định 31/CP) trong khi Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định: “Phòng công chứng đặt dưới sự quản lý của Giám đốc Sở tư pháp, có tư cách pháp nhân, có trụ sở riêng, tài khoản riêng và con dấu theo quy định của pháp luật về con dấu”. Như vậy, từ các điều luật trên, chúng ta thấy cơ cấu của Phòng công chứng không có mấy thay đổi qua từng thời kỳ nếu như chúng vẫn nằm trong khối cơ quan hành chính sự nghiệp. Nội dung cụ thể của các quy định có khác nhau nhưng thay đổi chủ yếu chỉ xoay quanh Phòng công chứng có hay không có tư cách pháp nhân, chịu sự quản lý trực tiếp của UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hay Sở tư pháp … Đến quy định của Luật công chứng thì đã khẳng định rõ Phòng công chứng do UBND tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp nhân, có trụ sở riêng, tài khoản riêng và con dấu theo quy định của pháp luật về con dấu. Bằng quy định này, một mặt Nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các Phòng công chứng trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sư dụng lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao; mặt khác đây cũng là một biện pháp nhằm thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ công cho xã hôi, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước. Như vậy có thể khẳng định Phòng công chứng cũng là một tổ chức hành chính nhưng “là một cơ quan tương đối độc lập” và “được Nhà nước giao cho thực hiện một quyền năng nhất định là quyền năng công chứng” Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
Cơ cấu tổ chức
Theo Điều 24 Luật công chứng thì hiện nay , Phòng Công chứng gồm có Trưởng phòng , Phó trưởng phòng, CCV, nhân viên nghiêp̣ vụ , bô ̣phâṇ kế toán, bô ̣phâṇ lưu trữvà bộ phận hành chinh́ . Trưởng phòng Công chứng điều hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của phòng cũng là người đại diện theo pháp luật của phòng công chứng. Ngoài ra, trưởng phòng công chứng còn có nhiệm vụ giải quyết các khiếu nại, tố cáo, quy hoạch, phát triển tổ chức HNCC. Trưởng phòng công chứng phải là CCV và do Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. CCV trong các phòng công chứng là viên chức Nhà nước và họ không phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với người yêu cầu công chứng, trong trường hợp gây ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng. Tại các phòng công chứng, Nhà nước vừa quản lý chuyên môn nghiệp vụ của CCV vừa quản lý nhân sự đối với các CCV. CCV hành nghề tại phòng công chứng phải tuân thủ quy định tại Luật công chứng và các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động hành nghề công chứng.
Chế độ tài chính
Theo quy định của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính phủ về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp của đơn vị, các Phòng công chứng được phân loại để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính như sau:
Loại thứ nhất: Phòng công chứng tự bảo đảm chi phí hoạt động là Phòng công chứng có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên bằng hoặc lớn hơn 100%.
Loại thứ hai: Phòng công chứng tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động là Phòng công chứng có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên từ trên 10% đến dưới 100%, phần còn lại được ngân sách nhà nước cấp.
Loại thứ ba: Phòng công chứng do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động là Phòng công chứng có nguồn thu sự nghiệp thấp (mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên từ 10% trở xuống).
Trên cơ sở phân loại như trên, các Phòng công chứng thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mình tương ứng với loại đơn vị sự nghiệp đã được xác định trong thời gian 3 năm sao cho vừa đảm bảo phát huy mọi khả năng của Phòng để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội, đồng thời tăng nguồn thu nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động. Sau thời hạn 3 năm, Phòng công chứng sẽ được xem xét phân loại lại cho phù hợp [15, tr.122-123].
Quyền và nghĩa vụ của Phòng công chứng
Theo quy định tại Điều 31 và 32 của Luật công chứng, Phòng công chứng có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
Có quyền thuê nhân viên làm việc: đây là quyền cơ bản của tổ chức HNCC nói chung và của Phòng công chứng nói riêng. Hoạt động công chứng là một hoạt động khá phức tạp, đòi hỏi nhiều kỹ năng như nghiên cứu áp dụng pháp luật; hướng dẫn khách hàng về thủ tục; kiểm tra giấy tờ về nhân thân, tài sản; soạn thảo hợp đồng; lưu trữ hồ sơ… Những công việc này cần được tiến hành nhanh chóng, chính xác để đảm bảo cho hoạt động công chứng luôn được trôi chảy, không bị ùn tắc. Do đó, bên cạnh CCV là người đóng vai trò trung tâm, chỉ đạo, điều hành và phối hợp các hoạt động, Luật công chứng cho phép các tổ chức HNCC được thuê nhân viên để làm việc cho tổ chức của mình. Những nhân viên này sẽ hỗ trợ CCV trong từng hoạt động cụ thể, qua đó giúp hoạt động công chứng đạt hiệu quả cao nhất.
Đối với Phòng công chứng, ngoài CCV và nhân viên trong biên chế được duyệt, Trưởng phòng công chứng được quyết định ký hợp đồng thuê lao động, khoán công việc đối với những công việc không cần thiết bố trí biên chế thường xuyên; ký hợp đồng và các hình thức hợp tác khác với chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu chuyên môn của Phòng công chứng.
Có quyền thu phí công chứng, thù lao công chứng, chi phí khác
Phí công chứng, thù lao công chứng và các chi phí khác được coi là nguồn thu phát sinh từ hoạt động sự nghiệp của Phòng công chứng.
Đối với phí công chứng, mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng do pháp luật quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC- BTP Hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng. Mức thu phí công chứng được áp dụng thống nhất đối với Phòng công chứng và VPCC.
Thù lao công chứng bao gồm thù lao soạn thảo hợp đồng, giao dịch, đánh máy, sao chụp và các việc khác có liên quan đến việc công chứng (Ví dụ như đề nghị xác minh, giám định, đề nghị công chứng ngoài trụ sở của khách hàng đối với tổ chức HNCC …). Mức thù lao đối với từng loại việc nêu trên do tổ chức HNCC xác định hoặc do người yêu cầu công chứng và tổ chức HNCC thỏa thuận với nhau.
Ngoài các quyền trên, Phòng công chứng còn có các quyền khác theo quy định của Luật công chứng và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Đồng thời, Phòng công chứng còn có các nghĩa vụ như:
- Niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, phí công chứng, thù lao công chứng, nội quy tiếp người yêu cầu công chứng tại trụ sở của tổ chức HNCC.
- Thực hiện chế độ làm việc theo ngày, giờ của cơ quan hành chính nhà nước.
- Chấp hành các quy định cả pháp luật về lao động, thuế, tài chính, thống kê.
- Chấp hành yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra.
- Bồi thường thiệt hại do lỗi mà CCV của Phòng công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng: Khi CCV của Phòng công chứng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng thì Phòng công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng trên nguyên tắc toàn bộ và kịp thời. Đây là quy định mới của Luật công chứng phù hợp với các nguyên tắc chung của pháp luật về trách nhiệm dân sự.
- Lưu trữ hồ sơ công chứng: Hồ sơ công chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng nên pháp luật các nước nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng đều rất chú trọng đến vấn đề lưu trữ hồ sơ công chứng. Theo pháp luật công chứng của Pháp, bản chính văn bản công chứng và các hồ sơ liên quan phải được lưu trữ trong thời hạn 100 năm. Luật công chứng nước ta quy định tổ chức HNCC phải bảo quản chặt chẽ, thực hiện biện pháp an toàn đối với hồ sơ công chứng, bản chính văn bản công chứng phải được lưu trữ ít nhất là hai mươi năm, các giấy tờ khác trong hồ sơ công chứng phải được lưu trữ ít nhất trong thời hạn năm năm [15, tr.126].
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Giải thể phòng công chứng
Theo quy định của Điều 33 Luật công chứng, trong trường hợp không cần thiết duy trì Phòng công chứng thì Sở tư pháp lập đề án giải thể Phòng công chứng, báo cáo UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày UBND cấp tỉnh quyết định giải thể Phòng công chứng, Sở Tư pháp phải đăng báo Trung ương hoặc báo địa phương trong hai số liên tiếp về việc giải thể Phòng công chứng.
Để duy trì sự ổn định trong hoạt động công chứng, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích của các tổ chức, cá nhân có liên quan, pháp luật quy định việc giải thể Phòng công chứng chỉ được thực hiện sau khi thanh toán xong các khoản nợ, làm xong thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với người lao động, thực hiện xong các yêu cầu công chứng đã tiếp nhận. Đối với hồ sơ do Phòng công chứng đang lưu giữ phải được chuyển cho một Phòng công chứng khác hoặc một VPCC do Sở tư pháp chỉ định.
2.1.1.2. Văn phòng công chứng Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
Ngoài mô hình mang tính truyền thống là Phòng công chứng, LCC 2006 còn quy định thêm một mô hình nữa của tổ chức HNCC, đó chính là VPCC. VPCC là kiểu tổ chức HNCC do CCV thành lập, xuất hiện kể từ khi chúng ta chủ trương sắp xếp lại thiết chế công chứng bằng việc ban hành LCC 2006. Việc quy định hình thức tổ chức HNCC này là một trong những quan điểm tiến bộ nhất từ trước đến nay trong các văn bản quy phạm pháp luật về công chứng, là bước bứt phá khỏi sự ràng buộc và quan niệm công chứng phải do cơ quan công quyền tổ chức thành lập và thực hiện. Về lý thuyết, địa vị pháp lý của mọi tổ chức HNCC là ngang nhau cho dù nó là VPCC hay phòng công chứng. VPCC được quy định trong Luật công chứng thể hiện được định hướng xã hội hóa công chứng và về lâu dài đây sẽ là hình thức tổ chức HNCC phổ biến ở nước ta.
Thành lập và đăng ký hoạt động VPCC
Khác với việc thành lập một văn phòng luật sư hay một doanh nghiệp, do công chứng là một dịch vụ công mà ở đó tính an toàn pháp lý luôn được đặt ra như một yêu cầu tối thượng, nên đòi hỏi các tổ chức HNCC phải hoạt động ổn định và bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững. Chính vì vậy, để thành lập và đưa một VPCC đi vào hoạt động, các sáng lập viên của một VPCC một mặt phải đáp ứng đủ các điều kiện về nhân sự, cơ sở vật chất cho Văn phòng, đồng thời phải tiến hành một số thủ tục tương đối chặt chẽ bao gồm hai bước thành lập VPCC và Đăng ký hoạt động VPCC (Điều 27 LCC 2006).
Thành lập VPCC
Theo Điều 27, LCC 2006 để thành lập VPCC, CCV phải có hồ sơ đề nghị thành lập VPCC gửi UBND cấp tỉnh. Hồ sơ đề nghị gồm có: đơn đề nghị thành lập VPCC (theo mẫu); đề án thành lập VPCC nêu rõ sự cần thiết thành lập, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện; bản sao quyết định bổ nhiệm CCV. Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thành lập VPCC, UBND cấp tỉnh sẽ xem xét, quyết định cho phép thành lập VPCC. Trong trường hợp từ chối thì UBND cấp tỉnh sẽ thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người đề nghị thành lập.
Nghị định số 04/2013/NĐ-CP của Chính phủ cũng quy định thêm về việc thành lập tổ chức HNCC. Trong đó nhấn mạnh, việc thành lập tổ chức HNCC, bao gồm Phòng công chứng và VPCC phải tuân theo Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức HNCC được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Khuyến khích thành lập các VPCC, chỉ thành lập Phòng công chứng trong trường hợp không phát triển được VPCC. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tạo điều kiện và hỗ trợ cho việc thành lập và phát triển các VPCC những địa bàn khó khăn. Căn cứ quy định của Luật công chứng, Nghị định số 04/2013/NĐ-CP và Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức HNCC đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trên cơ sở nhu cầu thành lập tổ chức HNCC địa phương, UBND cấp tỉnh xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập VPCC. Việc xét duyệt hồ sơ phải bảo đảm sự công khai, minh bạch, phù hợp với quy hoạch, khuyến khích phát triển các VPCC có nhiều CCV, có cơ sở vật chất, bộ máy hoạt động và đội ngũ CCV, nhân viên lành nghề (Điều 7 Nghị định số 04/2013/NĐ-CP).
Đăng ký hoạt động VPCC
Theo Khoản 2, Điều 27 Luật công chứng, sau khi nhận được quyết định cho phép thành lập VPCC, các CCV phải tiến hành đăng ký hoạt động VPCC tại Sở tư pháp của địa phương cho phép thành lập trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định cho phép thành lập. Khi đăng ký hoạt động, VPCC phải có Đơn đăng ký hoạt động theo mẫu và giấy tờ chứng minh về trụ sở ở địa phương nơi quyết định cho phép thành lập. Trong đơn đăng ký hoạt động VPCC phải ghi rõ tên đầy đủ của VPCC do các CCV lựa chọn, trong đó phải bao gồm cụm từ VPCC và không được trùng, gây nhầm lẫn với tên của tổ chức HNCC khác, không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày nhận được các giấy tờ đăng ký hoạt động, Sở Tư pháp cấp giấy đăng ký hoạt động của VPCC; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật. VPCC được hoạt động kể từ ngày Sở Tư pháp cấp giấy đăng ký hoạt động.
Khi VPCC đi vào hoạt động, trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày được cấp giấy đăng ký hoạt động, VPCC phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi đăng ký hoạt động trong ba số liên tiếp về những nội dung theo quy định như: tên gọi, địa chỉ trụ sở của VPCC; họ tên, số quyết định bổ nhiệm CCV của CCV hành nghề trong VPCC; số, ngày, tháng, năm cấp giấy đăng ký hoạt động, nơi đăng ký hoạt động và ngày bắt đầu hoạt động (Điều 30 LCC 2006).
Để đảm bảo tính liên tục trong hoạt động của VPCC, Luật công chứng quy định trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày được cấp giấy đăng ký hoạt động, nếu VPCC không hoạt động hoặc trong trường hợp không hoạt động liên tục từ ba tháng trở lên thì sẽ bị Sở Tư pháp thu hồi giấy đăng ký hoạt động. Đối với VPCC được cho phép thành lập, nếu trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định cho phép thành lập mà không đăng ký hoạt động thì UBND cấp tỉnh thu hồi quyết định cho phép thành lập VPCC. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 28, Điều 29 LCC 2006 thì khi thay đổi trụ sở, tên gọi hoặc danh sách CCV, VPCC phải có thông báo ngay bằng văn bản cho Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động.Việc cấp lại giấy đăng ký hoạt động được thực hiện trong trường hợp VPCC thay đổi trụ sở hoặc tên gọi. Trong trường hợp được cấp lại giấy đăng ký hoạt động, VPCC phải đăng báo những nội dung giấy đăng ký hoạt động được cấp lại như khi được cấp giấy chứng nhận hoạt động ( Điều 30, LCC 2006).
Cơ cấu tổ chức và chế độ tài chính
Cơ cấu tổ chức
Theo quy định của Luật công chứng, CCV có thể tự mình hoặc liên kết với CCV khác để tổ chức hoạt động nghề nghiệp của mình. VPCC được tổ chức dưới hai dạng khác nhau, đó là doanh nghiệp tư nhân đối với VPCC do một CCV thành lập và công ty hợp danh với VPCC do hai CCV trở lên thành lập. Có thể thấy rằng, trong giai đoạn hiện nay, chủ thể công chứng được pháp luật xác định là cá nhân CCV nên quy định về mô hình VPCC được quy định khá đơn giản, không được quy định riêng biệt trong LCC 2006 mà được dẫn chiếu từ Luật doanh nghiệp 2005. Giữa hai dạng của VPCC nói trên, thì chỉ có mô hình VPCC được tổ chức dưới dang công ty hợp danh mới có tư cách pháp nhân trong khi VPCC do một CCV thành lập được tổ chức theo mô hình doanh nghiệp tư nhân thì không có tư cách pháp nhân. Như vậy, cơ cấu tổ chức HNCC được thiết kế tương tự như một công ty dân sự, vốn chỉ tồn tại ở các quốc gia có mô hình tổ chức công chứng hành nghề tự do, nay đã được chế định công chứng Việt Nam ghi nhận.
Trong VPCC, CCV được coi là chủ văn phòng, có vị trí tương tự như chủ doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật của VPCC là Trưởng văn phòng, Trưởng VPCC bắt buộc phải là CCV.
Khác với Phòng công chứng do Nhà nước thành lập còn phần nào bị phụ thuộc vào biên chế và ngân sách nhà nước, đối với VPCC, trưởng văn phòng và các CCV sáng lập có quyền tổ chức bộ máy, bố trí nhân sự của VPCC theo cách riêng của mình sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất.
Chế độ tài chính
Không chỉ có quyền tự chủ về mặt tổ chức nhân sự, các VPCC còn được tự chủ hoàn toàn về mặt tài chính. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 của Luật công chứng, VPCC có tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ kinh phí đóng góp của CCV, phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp khác. Các nguồn thu từ phí, thù lao công chứng … được coi là doanh thu của VPCC. VPCC có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật đối với doanh thu của mình và có quyền quản lý, sử dụng số tiền đó sau khi đã nộp thuế.
Quyền – nghĩa vụ của VPCC
Cũng giống như Phòng công chứng, VPCC là một hình thức tổ chức HNCC nên cũng có các quyền và nghĩa vụ tương tự theo quy định tại Điều 32 Luật công chứng. Tuy nhiên, với đặc thù là hình thức tổ chức HNCC do các CCV thành lập, được tổ chức và hoạt động theo các loại hình doanh nghiệp nên nội dung các quyền, nghĩa vụ của VPCC cũng có những điểm khác biệt, cụ thể:
Quyền thuê nhân viên làm việc: khác với Phòng công chứng chỉ được thuê nhân viên làm việc đối với các vị trí công việc không cần thiết bố trí biên chế thường xuyên, VPCC không bị giới hạn trong việc tuyển dụng, bố trí nhân sự và có quyền quyết định mức lương, thưởng đối với các nhân viên của
Văn phòng mình tương ứng với tính chất và mức độ công việc của từng người phù hợp. Hiện nay Dự thảo bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật công chứng cũng có bổ sung thêm về quyền thuê nhân viên làm việc cho tổ chức HNCC, đặc biệt trường hợp tổ chức HNCC là VPCC thì còn được thuê CCV làm việc theo hợp đồng.
Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do lỗi mà CCV của VPCC gây ra cho người yêu cầu công chứng: được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh nên nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của VPCC đối với người yêu cầu công chứng được xác định tương ứng với từng loại hình. Trong trường hợp VPCC được tổ chức theo loại hình doanh nghiệp tư nhân, CCV là chủ Văn phòng phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng toàn bộ tài sản của mình (trách nhiệm vô hạn), trong trường hợp VPCC đươc tổ chức theo loại hình công ty hợp danh thì các CCV hợp danh phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng trong trường hợp tài sản của VPCC không đủ để bồi thường thiệt hại đó.
VPCC có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV của tổ chức mình: Luật công chứng không quy định Phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV mà đây là nghĩa vụ riêng của VPCC. Xuất phát từ tính chất bảo đảm của nghề công chứng, theo đó chức năng của công chứng là bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, trong trường hợp CCV có lỗi gây ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng thì quyền lợi của người yêu cầu công chứng được bảo đảm thông qua nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp tài sản của VPCC, CCV cũng đủ để bồi thường thiệt hại. Do đó, để chia sẻ rủi ro có thể gặp phải qua đó bảo đảm quyền, lợi ích của người yêu cầu công chứng, các VPCC có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV của tổ chức mình theo quy định của pháp luật nhiều nước, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp không chỉ bảo vệ tốt quyền lợi của khách hàng, của người có liên quan mà còn giúp người hành nghề yên tâm hơn trong nghề nghiệp có nhiều bất trắc. Đặc biệt, đối với các tổ chức HNCC, việc bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với CCV là một điều cần thiết. Giả sử hợp đồng chuyển nhượng bất động sản đã được công chứng nhưng nội dung đó trái luật mà CCV không phát hiện được (có thể do sơ suất hay do nhận thức pháp lý hạn chế) thì theo Luật, VPCC hoặc CCV tùy theo loại hình hoạt động có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho khách hàng. Còn đối với VPCC đã tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV, khoản bồi thường này sẽ do công ty bảo hiểm chi trả. Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
Trên thực tế, vấn đề mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV còn rất nhiều bất cập. Khoản 7 Điều 32 Luật Công chứng đã quy định rất rõ ràng, các VPCC phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV của mình. Do vậy, phải hiểu việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là bắt buộc đối với các VPCC. Nhưng theo Luật Kinh doanh bảo hiểm, bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội và cũng chỉ mới quy định loại hình bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp bắt buộc đối với hoạt động tư vấn pháp luật chứ chưa quy định bắt buộc đối với bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV. Đồng thời, vì chưa có những hướng dẫn cụ thể nên các tổ chức HNCC, các Sở Tư pháp và kể cả doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đều gặp không ít lúng túng trong việc triển khai mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV. Theo số liệu đến tháng 9/2013, cả nước hiện mới chỉ có 425/564 VPCC mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV [12]. Thiết nghĩ, đã đến lúc các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng cần có những hướng dẫn kịp thời việc mua bảo hiểm nghề nghiệp công chứng nhằm bảo đảm an toàn cho CCV khi hành nghề và bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Chấm dứt hoạt động của VPCC
LCC 2006 quy định VPCC chấm dứt hoạt động trong hai trường hợp: Tự chấm dứt hoạt động; hoặc Bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động do VPCC vi phạm pháp luật hoặc không còn CCV do bị miễn nhiệm ( Khoản 1 Điều 34).
Đồng thời Nghị định 04/2013/NĐ-CP đã bổ sung thêm trường hợp chấm dứt hoạt động của VPCC là khi Trưởng VPCC do một CCV thành lập chết (điểm c, khoản 1, điều 15 Nghị định 04/2013/NĐ-CP).
Đối với trường hợp tự chấm dứt hoạt động thì chậm nhất trong vòng ba mươi ngày trước thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động, VPCC phải có báo cáo bằng văn bản gửi Sở Tư pháp nơi đăng ký hoạt động. Sở Tư pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt hoạt động VPCC với các cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan công an cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân huyện quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, UBND xã, phường, thị trấn nơi VPCC đặt trụ sở. Trong trường hợp bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động do VPCC vi phạm pháp luật hoặc không còn CCV do bị miễn nhiệm cùng trường hợp Trưởng VPCC do một CCV thành lập chết thì trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động, Sở Tư pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho các cơ quan nêu trên. VPCC có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ, làm thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với người lao động; thực hiện công chứng đối với các yêu cầu công chứng đã tiếp nhận (trong trường hợp Tự chấm dứt hoạt động), trong trường hợp Bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động do VPCC vi phạm pháp luật hoặc không còn CCV do bị miễn nhiệm thì với yêu cầu công chứng đã tiếp nhận mà chưa công chứng thì phải trả lại hồ sơ yêu cầu công chứng cho người yêu cầu công chứng. Các VPCC phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương trong hai số liên tiếp về việc chấm dứt hoạt động.
Trong cả hai trường hợp chấm dứt hoạt động nêu trên, VPCC phải thỏa thuận với một VPCC khác về việc tiếp nhận hồ sơ công chứng; nếu không thỏa thuận được thì báo cáo Sở tư pháp chỉ định một Phòng công chứng hoặc VPCC khác tiếp nhận hồ sơ công chứng (Khoản 2, 3 Điều 34 Luật công chứng; Điều 15 Nghị định 04/2013/NĐ-CP).
Sau một thời gian LCC 2006 có hiệu lực, bắt đầu phát sinh những vấn đề mà LCC 2006 không quy định như việc chuyển đổi loại hình VPCC từ doanh nghiệp tư nhân thành công ty hợp danh, thay đổi danh sách CCV là thành viên hợp danh, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng cho VPCC, tạm ngừng hoạt động VPCC… Bởi vậy ngày 07/01/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định 04/2013/NĐ-CP bổ sung thêm quy định về các vấn đề trên. Nghị định 04/2013/NĐ-CP đã kịp thời giải quyết các vướng mắc trong hoạt động công chứng, tuy nhiên Dự thảo Luật công chứng sửa đổi bổ sung cần tiếp tục nghiên cứu thêm các vướng mắc, bất cập từ quá trình thực thi LCC 2006 để bổ sung thêm các quy định hợp lý hơn.
Qua các quy định của pháp luật công chứng về tổ chức HNCC, có thể thấy được điểm khác biệt cơ bản giữa hai hình thức tổ chức HNCC đó là: Phòng công chứng do Nhà nước thành lập, CCV và một số nhân viên là viên chức nhà nước, Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho Phòng công chứng nếu không tự trang trải được. Còn VPCC do CCV thành lập, tự đăng ký hoạt động, tự đầu tư cở sở vật chất, trụ sở làm việc, tự trang trải trả lương cho CCV, nhân viên phục vụ, phải mua bảo hiểm trách nhiệm cho CCV và nộp thuế theo quy định của pháp luật. VPCC còn có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV của tổ chức mình.
Theo “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020”, Thủ tướng đã có quy định từ nay đến 2015, hạn chế việc thành lập các phòng công chứng Nhà nước. Đến năm 2020, các phòng công chứng phải chuyển đổi thành các tổ chức hành nghề công chứng. Đồng thời, các phòng công chứng Nhà nước phải dần chuyển sang tự chủ về tài chính theo đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp. Bên cạnh việc quán triệt các quan điểm chỉ đạo về xã hội hóa công chứng, việc nâng cao chất lượng dịch vụ công chứng thông qua việc chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cũng là một trong những mục tiêu quan trọng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các tổ chức HNCC của nước ta trong thời gian tới.
2.1.2. Pháp luật về công chứng viên Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
Có một thời gian dài, pháp luật về công chứng Việt Nam tỏ ra khá lúng túng khi xác định chủ thể thực hiện hành vi công chứng. Tùy từng thời điểm lịch sử cụ thể, các nhà làm luật coi CCV, những người được UBND giao nhiệm vụ thực hiện các việc công chứng, Phòng công chứng hoặc UBND các cấp có thẩm quyền… là chủ thể thực hiện hành vi công chứng hoặc thậm chí không đề cập đến vấn đề chủ thể thực hiện hành vi công chứng trong một số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bổ trợ tư pháp này. Tuy nhiên, kể từ khi LCC 2006 có hiệu lực, CCV đã được khẳng định chính thức là chủ thể duy nhất thực hiện hành vi công chứng, trực tiếp giải quyết yêu cầu công chứng cho đương sự [44, tr.233]. Có thể nói rằng, tổ chức HNCC là “cái vỏ”, là “địa điểm”, nơi cung cấp cơ sở vật chất cần thiết để CCV có thể hành nghề. Nếu không có CCV thì hoạt động công chứng không thể tiến hành được. LCC 2006 quy định về CCV trong Chương II với 10 điều luật. Sau đây tác giả xin đề cập tới một số vấn đề quan trọng của quy định về CCV.
2.1.2.1. Vị trí, vai trò và tính chất hành nghề của CCV
Tại các nước thuộc hệ thống công chứng La tinh (Đức, Áo, Bỉ, Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha và Cộng hòa Séc), CCV vừa là công chức, vừa là người hành nghề tự do. Tính chất nghề nghiệp này không chỉ đúng với CCV dân luật ở các nước phương Tây mà còn được áp dụng với CCV của Trung Quốc, Mông Cổ và nhiều nước Châu Á khác. Nói cách khác, tính chất chung của nghề nghiệp công chứng là hoạt động công vụ chứ không phải là hoạt động kinh doanh. Do vậy, CCV tại một số nước được sử dụng con dấu công vụ, con dấu có hình quốc huy (Ba Lan). Tại Ba Lan, CCV được hưởng chế độ như các viên chức công khác, được gọi là “công chức làm chứng” [30].
Việt Nam, một người có đủ các tiêu chuẩn theo quy định sau khi đã qua khóa đào tạo về công chứng, trải qua thời gian tập sự hành nghề công chứng thì có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm CCV. CCV do
Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm; có thể là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước hoạt động tại Phòng công chứng hoặc là CCV hoạt động tự do, hoạt động tại các VPCC dưới sự quản lý trực tiếp của Sở Tư pháp. Với tư cách là cán bộ, công chức, viên chức thì thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật cán bộ công chức 2008, Luật viên chức 2010. Với tư cách người hành nghề tự do, CCV có thể lựa chọn địa điểm thành lập văn phòng của mình, tuyển dụng nhân viên cũng như mua sắm các trang thiết bị cần thiết. Họ được khách hàng trả tiền phí, thù lao công chứng và trích lại một phần để nộp thuế cho nhà nước. Dù làm việc ở tổ chức HNCC nào, có là công chức viên chức nhà nước hay không thì địa vị pháp lý của các CCV trong hành nghề công chứng là hoàn toàn như nhau. Họ đều có quyền công chứng các loại hợp đồng, giao dịch như nhau, và các văn bản do họ chứng nhận có giá trị pháp lý như nhau.
Theo quy định tại Nghị định 04/2013/NĐ-CP, CCV phải hành nghề chuyên trách; không được đồng thời hành nghề khác, không được kiêm nhiệm các chức danh tư pháp như luật sư, đấu giá viên, trọng tài viên, thừa phát lại hoặc các chức danh tư pháp khác. Là chủ thể duy nhất và trực tiếp tiến hành hoạt động công chứng – chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; có thể nói CCV đóng vai trò trung tâm trong hoạt động công chứng. Tuy nhiên, hiện nay LCC 2006 còn chưa xác định rõ vị trí pháp lý của CCV, còn nhiều bất cập trong quy định về vị trí vai trò của CCV.
2.1.2.2. Tiêu chuẩn CCV Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
Hiện nay, tuy có những điểm khác nhau về thể chế, hầu hết các nước đều công nhận công chứng là một nghề rất khó. CCV đều là những nhà luật học giỏi, những chuyên gia pháp luật có kiến thức pháp lý sâu rộng và áp dụng pháp luật nhuần nhuyễn, linh hoạt. Do vậy, việc gia nhập đội ngũ CCV là một quy trình có tính cạnh tranh rất cao, được lựa chọn theo các tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt (Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc…).
Tiêu chuẩn chung: Pháp luật các nước có khá nhiều điểm tương đồng trong quy định về tiêu chuẩn CCV. Cụ thể, CCV phải là công dân của nước đó, không thuộc trường hợp mất năng lực hoặc không có khả năng thực hiện vai trò của CCV, là tiến sĩ hoặc người tốt nghiệp luật, có nhân cách và năng lực phù hợp với chức danh, đã trải qua khóa đào tạo nghề dài và chuyên sâu, hoàn thành thời gian tập sự hành nghề công chứng và vượt qua kỳ thi tuyển CCV.
Tiêu chuẩn về trình độ: Để khẳng định vị trí của chức danh CCV, một số nước quy định tất cả các CCV phải đủ điều kiện chuyên môn làm thẩm phán và luật sư (Đức) hoặc đã làm CCV dự bị với một thời gian nhất định (ít nhất 2 năm theo Luật của Ba Lan) hoặc phải là người đã được bổ nhiệm trong hơn 10 năm vào các công việc được quy định theo Luật (Hàn Quốc)… Với một số đối tượng như giáo sư, tiến sỹ luật học, thẩm phán, luật sư, tư vấn pháp luật có thâm niên ít nhất 3 năm… thì một số tiêu chuẩn có thể được xem xét giảm bớt, ví dụ như tiêu chuẩn về thời gian làm CCV dự bị hoặc được miễn khóa đào tạo nghề, miễn thời gian tập sự hành nghề (Ba Lan, Trung Quốc).
Tiêu chuẩn về tuổi: Về tuổi bổ nhiệm, theo thông lệ phương Tây, lợi thế về độ tuổi được xem xét vì nghề này đòi hỏi phải có một nền tảng vững chắc và kinh nghiệm đáng kể. Ví dụ như: CCV tại Đức phải là người ít nhất 35 tuổi và không quá 70 tuổi khi bổ nhiệm lần đầu. Tại Ba Lan thì ít nhất 26 tuổi mới được bổ nhiệm. Tại Tây Ban Nha độ tuổi trung bình thấp nhất để được bổ nhiệm CCV từ 27 đến 28 tuổi. Còn tại Nhật Bản, nhiều CCV được bổ nhiệm khi họ khoảng 58 đến 62 tuổi và làm CCV trong vòng 8 đến 10 năm. Tại Hàn Quốc, chỉ những người ở độ tuổi trung niên mới được bổ nhiệm làm CCV. Về tuổi hành nghề, đa số các nước đều quy định độ tuổi tối đa là 65 hoặc 70 (Trung Quốc, Tây Ban Nha, Đức, Nhật Bản).
Tại Việt Nam, tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, tiêu chuẩn về CCV đã được pháp luật về công chứng ghi nhận qua từng thời kỳ và ngày càng được hoàn thiện.
Tại Phần II, Thông tư số 574/QLTPK, lần đầu tiên hệ tiêu chuẩn CCV được đề cập đến: “CCV phải là công dân Việt Nam có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có năng lực và tinh thần trách nhiệm cao, công minh, liêm khiết, có trình độ đại học pháp lý và tương đương, đã được bồi dưỡng về nghiệp vụ công chứng”. Sau này, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực công chứng đã đưa ra những tiêu chí cụ thể hơn, dễ xác định hơn cho chức danh CCV. Tại Điều 14, Nghị định số 45/HĐBT, để được bổ nhiệm làm CCV thì phải thỏa mãn các tiêu chuẩn sau:
- Là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;
- Tốt nghiệp đại học pháp lý;
- Đã làm công tác pháp luật từ năm năm trở lên và được huấn luyện nghiệp vụ công chứng”.
Các tiêu chuẩn này hầu như không thay đổi đối với các văn bản pháp luật sau này. Ngoài ra, đến Nghị định 75/2000/NĐ-CP còn đòi hỏi CCV được bổ nhiệm phải có chứng chỉ tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng và quy định cụ thể ba trường hợp không được bổ nhiệm CCV. LCC 2006 đã có sự kế thừa và phát triển các quy định trước đây về tiêu chuẩn CCV. Khoản 1 Điều 13 về Tiêu chuẩn CCV quy định:
Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm làm CCV:
- Có bằng cử nhân luật;
- Có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức;
- Có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng;
- Đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng;
- Có sức khỏe đảm bảo hành nghề công chứng.
Như vậy, cũng tương tự như quy định của các nước trên thế giới, Luật công chứng Việt Nam cũng quy định các tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn về trình độ đối với CCV. Ngoài các điều kiện đã được nêu tại các văn bản pháp luật trước đây, một người để được bổ nhiệm làm CCV theo quy định của LCC 2006 thì phải qua thời gian tập sự hành nghề công chứng, thời gian tập sự hành nghề công chứng là mười hai tháng (Điều 16, LCC 2006). Dự thảo sửa đổi Luật công chứng cũng quy định thêm, sau thời gian tập sự hành nghề công chứng phải đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng thì mới được đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm CCV.
LCC 2006 không quy định về độ tuổi của CCV, tuy nhiên, Dự thảo Luật công chứng sửa đổi đã bổ sung thêm quy định này vào Điều 13 về tiêu chuẩn CCV, đó là: “Không quá 65 tuổi đối với nam và không quá 60 tuổi đối với nữ vào thời điểm nộp hồ sơ đề nghị bổ nhiệm CCV”. Hiện nay vấn đề này còn nhiều tranh cãi bởi vì mặc dù quy định như thế phù hợp với thông lệ của các nước trên thế giới nhưng lại mâu thuẫn với quy định Luật viên chức cũng như Luật bảo hiểm xã hội, Bộ luật lao động, chưa phù hợp với trình độ phát triển của nước ta hiện nay. Đồng thời với trường hợp CCV làm việc tại các VPCC thì đây là tổ chức ngoài nhà nước. Theo quy định của pháp luật hiện hành những người làm việc ở các tổ chức, đơn vị ngoài công lập như trong lĩnh vực y tế, giáo dục hiện nay pháp luật không quy định độ tuổi làm việc bao lâu. Vấn đề độ tuổi hành nghề của CCV đang được Quốc hội thảo luận và sẽ thông qua trong thời gian tới.
2.1.2.3. Đào tạo – Tập sự – Bổ nhiệm CCV Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
LCC 2006 quy định về Đào tạo nghề công chứng tại Điều 14. Trong đó, người có bằng cử nhân luật được đăng ký tham dự khóa đào tạo nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công chứng, thời gian của khóa đào tạo là sáu tháng. Sau khi hoàn thành chương trình đào tạo nghề công chứng thì được cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng. Chương trình khung của khóa đào tạo nghề công chứng và việc công nhận đào tạo nghề công chứng ở nước ngoài do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định. Tuy nhiên, không phải bất kỳ ai muốn trở thành CCV đều phải trải qua khóa đào tạo này, Luật công chứng quy định những trường hợp có thâm niên hoạt động trong ngành luật hoặc có trình độ chuyên môn cao thì được miễn đào tạo nghề công chứng. Các trường hợp này bao gồm: Những người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư đã hành nghề từ ba năm trở lên; Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sỹ luật; Những người đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát, chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật (Điều 15, LCC 2006).
Sau khi có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng thì Tập sự hành nghề công chứng tại một tổ chức HNCC. Những người được miễn đào tạo nghề công chứng thì được miễn tập sự hành nghề công chứng (Điều 17, LCC 2006). Người tập sự có thể tự liên hệ với tổ chức HNCC hoặc đề nghị Sở Tư pháp bố trí tập sự tại một tổ chức HNCC. Việc tập sự hành nghề công chứng phải được đăng ký tại Sở tư pháp nơi có tổ chức HNCC mà mình tập sự, thời gian tập sự là mười hai tháng.
Trong thời gian tập sự, người tập sự hành nghề công chứng được thực hiện các công việc liên quan đến công chứng do CCV hướng dẫn phân công và chịu trách nhiệm trước CCV hướng dẫn về những công việc có, không được ký văn bản công chứng. Sau khi hết thời gian tập sự, người tập sự hành nghề công chứng phải báo cáo kết quả tập sự bằng văn bản có nhận xét của CCV hướng dẫn về năng lực chuyên môn, tư cách đạo đức gửi Sở Tư pháp nơi đăng ký tập sự.
Người hoàn thành tập sự hành nghề công chứng có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm CCV, hồ sơ đề nghị bổ nhiệm CCV được gửi Sở Tư pháp ở địa phương nơi đăng ký tập sự. Người được miễn đào tạo nghề công chứng, người được miễn tập sự hành nghề công chứng có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm CCV, hồ sơ đề nghị bổ nhiệm CCV được gửi trực tiếp cho Bộ Tư pháp. Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm CCV phải bao gồm các giấy tờ theo quy định tại Điều 18 Luật công chứng. Người được bổ nhiệm CCV thì được Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp thẻ CCV.
Ngoài ra tại Nghị định 04/2013/NĐ-CP quy định thêm về việc bổ nhiệm CCV đối với cán bộ, công chức, viên chức đã nghỉ hưu hoặc thôi việc theo nguyện vọng và việc hành nghề công chứng đối với luật sư được bổ nhiệm CCV (Điều 4, Điều 5 Nghị định 04/2013/NĐ-CP).
Người hành nghề công chứng hàng năm phải tham dự lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng, sau khi hoàn thành lớp bồi dưỡng thì được cấp giấy chứng nhận (Điều 3, Nghị định 04/2013/NĐ-CP).
2.1.2.4. Trách nhiệm pháp lý của CCV
Nếu như sát nhập hai hệ thống tổ chức HNCC và thống nhất hai đội ngũ CCV là một mục tiêu lâu dài thì trong giai đoạn hiện nay, tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng giữa Phòng công chứng và VPCC, giữa CCV là cán bộ, công chứng, viên chức nhà nước và CCV không phải là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước lại là vấn đề được ưu tiên hàng đầu. Hiện nay mặc dù chúng ta có hai loại CCV nhưng những CCV này hành nghề với một trình độ chuyên môn được quy định như nhau, thẩm quyền theo luật quy định ngang nhau và hệ lụy tất yếu là cũng phải gánh chịu một loại trách nhiệm pháp lý. Điều 58, LCC 2006 quy định: “CCV vi phạm quy định của Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Như vậy, khi thi hành nhiệm vụ, CCV có thể là đối tượng chịu xử lý về mặt kỷ luật, xử phạt hành chính, chịu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Xử phạt vi phạm hành chính: hiện nay việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng được điều chỉnh bởi Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tại Mục 3, từ Điều 11 đến
Điều 15 đã quy định cụ thể về các hành vi vi phạm hành chính, các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trong hoạt động công chứng. Các chế tài này đã góp phần phát huy vai trò răn đe, phòng ngừa mọi biểu hiện vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công chứng, cùng với công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên của cơ quan nhà nước sẽ đảm bảo được thiết chế công chứng vận hành theo đúng quy định của pháp luật. Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại: nhìn một cách tổng thể, bồi thường thiệt hại là một trách nhiệm pháp lý mang tính truyền thống đã tồn tại khá lâu trong các quy định về công chứng nước ta. Ngay từ những văn bản đầu tiên của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực công chứng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã được nhắc đến. Điều thứ 2, Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành ấn định thể lệ về việc thực thi các giấy tờ đã có quy định: “Nếu xảy ra thiệt hại đến tư nhân vì sự thị thực không đúng, công quỹ của làng hay là của thành phố phải bồi thường”. Theo Điều 36, Nghị định số 31/CP: “Người nào phạm pháp luật trong khi thi hành nhiệm vụ về công chứng thì tùy theo mức độ nặng hoặc nhẹ mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại về vật chất thì phải bồi thường” [44, tr.299].
Hiện nay do pháp luật công chứng Việt Nam đang quy định hai loại CCV nên việc bồi thường thiệt hại cũng được quy định khác nhau.
Đối với CCV là cán bộ, công chức, viên chức đang hoạt động tại các Phòng công chứng cũng có các luồng ý kiến khác nhau về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV. Một ý kiến cho rằng Nhà nước sẽ có trách nhiệm bồi thường đối với những thiệt hại do CCV hành nghề tại Phòng công chứng gây ra dù đó là cán bộ, công chức hay viên chức. Ý kiến thứ hai lại khẳng định hoạt động công chứng không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật trách nhiệm Bồi thường của Nhà nước 2009 nên cho dù có là cán bộ, công chức, viên chức thì CCV cũng không được Nhà nước bồi thường trong trường hợp gây ra thiệt hại [15,tr.302]. Cho tới thời điểm hiện nay, chúng ta vẫn chưa có đáp án thỏa đáng cho các mẫu thuẫn nêu trên. Hiển nhiên, nếu thiệt hại do CCV hành nghề tại Phòng công chứng gây ra không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật trách nhiệm Bồi thường của Nhà nước 2009 thì cách thức bồi thường vẫn là một câu hỏi lớn. Bởi LCC 2006, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 đã được sửa đổi bổ sung năm 2010 không quy định Phòng công chứng phải có trách nhiệm mua bảo hiểm nghề nghiệp cho CCV.
Đối với CCV đang hoạt động tại VPCC thì cơ chế bồi thường lại được xây dựng theo một quan điểm hoàn toàn khác. Khoản 7, Điều 32 Luật công chứng khẳng định: “VPCC có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV của tổ chức mình”, trong khi đó Khoản 1, Điều 26 Luật công chứng cũng nêu rõ: “VPCC do một CCV thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. VPCC do hai CCV trở lên thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh”. Đối chiếu sang quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 về công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thì: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” (Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005), “Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty”, “Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty” (Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005). Căn cứ vào các quy định trên, có thể thấy rằng cơ chế bồi thường thiệt hại do CCV của VPCC gây ra khác hẳn với do CCV là cán bộ, công chức, viên chức tại Phòng công chứng gây ra. Đầu tiên, các thiệt hại do CCV tại các VPCC gây ra sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường theo quy định tại Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi 2010. Ngoài ra, với tư cách là khoản nợ của công ty hay của doanh nghiệp, thiệt hại đó còn được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, và thậm chí là bằng tài sản cá nhân của thành viên công ty hay chủ doanh nghiệp tư nhân [44, tr.302,303].
Như vậy, có thể khẳng định rằng mặc dù quyền và nghĩa vụ của CCV hành nghề tại Phòng công chứng cũng như CCV hoạt động tại VPCC được quy định về cơ bản là như nhau, văn bản công chứng có giá trị pháp lý như nhau nhưng cách thức đảm bảo trách nhiệm bồi thường thì lại khác nhau. Những vấn đề này cần được sửa đổi để đảm bảo cho hoạt động công chứng trở nên bình đẳng, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh hơn giữa các CCV và tổ chức HNCC.
Trách nhiệm hình sự: Khi thi hành chức nghiệp của mình, CCV nếu xâm phạm tới các khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ thì cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu như đối với trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính thì cả hai loại chủ thể có liên quan mật thiết tới hoạt động công chứng là CCV và tổ chức HNCC đều có thể trở thành đối tượng của những loại trách nhiệm này thì riêng với trách nhiệm hình sự, chỉ có CCV mới phải gánh chịu loại trách nhiệm mang tính cưỡng chế rất cao này. Mọi hình thức xử phạt hình sự không được quy định riêng trong văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực công chứng mà được quy định chung trong Bộ luật hình sự 1999, được sửa đổi bổ sung ngày 19/06/2009.
Trên thực tế những vụ việc CCV bị xử lý hình sự dù rất ít nhưng cũng đã xảy ra. Với tình trạng hoạt động công chứng phát triển nóng như hiện nay, nếu Bộ Tư pháp không có những biện pháp triệt để thì chắc chắn việc xử lý hình sự với CCV sẽ còn gia tăng. Điển hình là tháng 11/2011, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã đưa ra xét xử Nguyễn Thu Hợp và Vũ Thị Minh Hòa về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong vụ án này, Hoàng Văn Sự, nguyên CCV Phòng công chứng số 5 Hà Nội khi tiến hành công chứng đã bỏ qua nguyên tắc xác định nhân thân, công chứng không đúng với người ủy quyền, hợp đồng giao kết không đúng người yêu cầu công chứng nên đã tạo điều kiện cho Nguyễn Thu Hợp và Vũ Thị Minh Hòa chiếm đoạt hàng tỷ đồng của các cá nhân. Hoàng Văn Sự đã bị tòa tuyên án 42 tháng tù giam về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là một bài học đắt giá cho các CCV trong quá trình hành nghề. Với tính chất công việc là chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền – lợi ích của người dân nên vấn đề năng lực chuyên môn lẫn tư cách đạo đức của các CCV luôn luôn phải được đặt lên hàng đầu, không thể vì lợi ích cá nhân mà vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật nghiêm trị.
2.1.3. Các bất cập trong quy định của pháp luật về công chứng Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
Sự ra đời của LCC 2006 đã đánh dấu một sự thay đổi sâu sắc trong hoạt động công chứng: công chứng được tách ra khỏi chứng thực, cơ quan công chứng được chuyên sâu vào lĩnh vực chứng nhận các hợp đồng, giao dịch, hoạt động công chứng bắt đầu được xã hội hóa, việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch từng bước được chuyển giao từ UBND sang các tổ chức hành nghề công chứng để quy về một mối. Qua sáu năm triển khai thực hiện, LCC 2006 đã chứng tỏ được nhiều ưu điểm tích cực, làm cho hoạt động công chứng được thay đổi mạnh mẽ về chất và lượng, được đông đảo người dân đánh giá tốt. Từ khi có Luật công chứng, tình trạng quá tải công chứng tại các thành phố lớn chấm dứt, mạng lưới các tổ chức HNCC được phát triển nhanh chóng do bên cạnh các Phòng công chứng còn có các VPCC. Chất lượng dịch vụ ngày càng được cải thiện do các tổ chức HNCC được thành lập ngày càng nhiều, dần phủ khắp các địa bàn dân cư làm cho người dân dễ dàng tiếp cận với dịch vụ công chứng. Đi công chứng, người dân không còn phải vất vả xếp hàng chờ đợi như trước đây nữa mà đã được nhân viên công chứng đón tiếp chu đáo.
Bên cạnh những ưu điểm đã mang lại cho hoạt động công chứng như trên, pháp luật công chứng còn có một số bất cập:
Thứ nhất, Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công chứng như Luật Đất đai, Luật doanh nghiệp, Luật Nhà ở do ban hành trước LCC 2006 hoặc chậm sửa đổi, bổ sung nên các quy định chưa đồng bộ, thiếu thống nhất dẫn đến thực tiễn triển khai Luật công chứng đã phát sinh những vấn đề mà Luật chưa dự liệu, chưa quy định hết.
Cụ thể là Luật đất đai 2003, Luật doanh nghiệp 2005 và Luật nhà ở còn có các quy định mâu thuẫn với nhau, thậm chí mâu thuẫn với Luật công chứng. Trong Luật đất đai 2003 quy định một số hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của “công chứng nhà nước” hoặc lựa chọn “công chứng nhà nước”, vì vậy một số cá nhân, tổ chức không công nhận hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất do CCV của VPCC chứng nhận. Điều này dẫn đến tình trạng CCV của các tổ chức HNCC, các cơ quan có thẩm quyền quản lý công chứng và người yêu cầu công chứng lúng túng, cách hiểu khác nhau. Trong nhiều trường hợp các tổ chức HNCC có thể lợi dụng để gây khó dễ cho người dân, cho doanh nghiệp, dẫn tới sự sách nhiễu, phiền hà, thậm chí là lợi dụng để tham ô, tham nhũng.
Thứ hai, một số quy định của LCC 2006 và NĐ 04/2013/NĐ-CP còn chưa phù hợp:
Về cơ cấu tổ chức HNCC: Hiện nay theo quy định của pháp luật và trên thực tế đang tồn tại những VPCC chỉ có một CCV. Khi một CCV đó tạm dừng việc công chứng do một nguyên nhân bất kỳ thì hoạt động công chứng tại văn phòng sẽ bị gián đoạn. Mặc dù hiện nay mỗi địa phương đã có nhiều tổ chức HNCC được thành lập để san sẻ công việc cho nhau. Tuy nhiên theo quy định pháp luật, có những việc các tổ chức HNCC không thể san sẻ công việc cho nhau được như sửa lỗi kỹ thuật, sửa đổi nội dung hợp đồng, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng, cấp bản sao từ hồ sơ công chứng. Trong trường hợp có sự gián đoạn hoạt động công chứng, yêu cầu chính đáng của người yêu cầu công chứng không được đáp ứng kịp thời sẽ dẫn đến quyền, lợi ích bị tổn hại. Ngoài ra, hiện đang tồn tại 2 hình thức tổ chức HNCC là Phòng công chứng và VPCC, tuy nhiên, Luật chưa có quy định về việc chuyển đổi các Phòng công chứng thành VPCC khi đủ điều kiện để tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng.
Nghị định 04/2013/NĐ-CP đã bổ sung một số quy định mà LCC 2006 không đề cập tới như chuyển đổi loại hình VPCC từ doanh nghiệp tư nhân thành công ty hợp danh, thay đổi danh sách CCV là thành viên hợp danh, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng cho VPCC, tạm ngừng hoạt động VPCC…, tuy nhiên các quy định này vẫn còn chưa đáp ứng được với thực tiễn. Các VPCC là một doanh nghiệp đặc thù, bởi vậy, Luật công chứng sửa đổi bổ sung cần nghiên cứu đưa thêm các quy định mới phù hợp hơn.
Về tiêu chuẩn bổ nhiệm CCV: CCV là một chức danh tư pháp do Nhà nước bổ nhiệm, được Nhà nước ủy quyền chứng nhận các hợp đồng giao dịch. Đây là một đội ngũ đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín và bản lĩnh nghề nghiệp. Tuy nhiên, với tinh thần xã hội hóa “vội vàng”, các quy định của Luật công chứng về tiêu chuẩn CCV còn quá rộng và dễ dãi, nhiều quy định không phù hợp như: tiêu chuẩn bổ nhiệm CCV; đối tượng được miễn đào tạo, miễn tập sự hành nghề công chứng, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng, vấn đề đào tạo CCV, tập sự hành nghề công chứng, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ CCV đã được bổ nhiệm… dẫn đến chất lượng đội ngũ CCV hiện nay còn thấp; một bộ phận CCV, nhất là các CCV được miễn đào tạo, miễn tập sự hành nghề công chứng còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức, tính chuyên nghiệp chưa cao.
Về việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp: Hiện nay, quy định về việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp còn chưa có chế tài và chưa có những quy định rõ ràng như mức bảo hiểm thế nào, bồi thường bao nhiêu, đồng thời chưa thống nhất với Luật bảo hiểm và các luật liên quan nên thực tế rất nhiều VPCC không thực hiện việc mua bảo hiểm cho CCV. Nguyên nhân một phần cũng xuất phát từ phía cơ quan bảo hiểm. Do rủi ro từ hoạt động công chứng là rất khó đánh giá, nên các cơ quan bảo hiểm cũng có sự lưỡng lự khi đầu tư vào lĩnh vực này. Theo kinh nghiệm quốc tế thì hiệp hội công chứng đứng ra mua bảo hiểm nghề nghiệp cho các CCV, khi có rủi ro xảy ra thì bảo hiểm chịu trách nhiệm một phần còn CCV sẽ chịu trách nhiệm vật chất về phần còn lại. Tuy nhiên, ở nước ta chưa có hiệp hội công chứng toàn quốc để đứng ra giải quyết vấn đề đó với cơ quan bảo hiểm. Do các nguyên nhân trên nên thực tế hiện nay dù Luật quy định là bắt buộc mới chỉ có 74% văn phòng mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV.
Đồng thời, như mục 2.1.1 đã phân tích, quy định của LCC 2006 chỉ có VPCC phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV là chưa phù hợp với thực tế, cần có những sửa đổi trong quy định của pháp luật.
Về Hiệp hội công chứng: Sự tồn tại của hiệp hội công chứng là một nhu cầu khách quan để điều hành, phối hợp hoạt động của các tổ chức HNCC, đặc biệt trong điều kiện hoạt động công chứng được xã hội hóa thì vai trò tự quản của CCV, tổ chức xã hội – nghề nghiệp CCV (Hội công chứng) là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, Luật công chứng không quy định và đề cập vấn đề này nên việc thành lập và hoạt động của Hội công chứng không có cơ sở pháp lý để điều chỉnh. Công chứng là một nghề đặc thù, vì vậy, việc áp dụng các quy định của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/04/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội cùng Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/04/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP vào việc thành lập tổ chức xã hội – nghề nghiệp CCV có nhiều điểm chưa phù hợp, khó khăn cho việc thành lập và hoạt động của tổ chức này.
Quy định về thù lao công chứng, về công chứng ngoài trụ sở: còn chưa rõ ràng đầy đủ nên các tổ chức HNCC còn thu thù lao, thu phí ký ngoài với các mức chênh lệch khác nhau để cạnh tranh, việc ký ngoài trụ sở còn bị thực hiện trái quy định rất nhiều.
Các quy định trong Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành được xem là tương đối thông thoáng. Trong khi đó, các quy định hướng dẫn cụ thể về quản lý nhà nước, về tổ chức, hoạt động của VPCC còn thiếu và chưa cụ thể. Các văn bản về công chứng chưa được ban hành một cách kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, nên có những lúc chưa kịp thời đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi bức xúc của thực tế đặt ra, ảnh hưởng đến việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách, giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Trong nhiều trường hợp, Luật và Nghị Định phải chờ Thông tư hướng dẫn, dẫn dến tình trạng nhiều việc không được giải quyết với lý do chưa có văn bản hướng dẫn hoặc được giải quyết một cách tùy tiện, theo ý chí chủ quan.
Chế tài để xử lý vi phạm trong lĩnh vực công chứng còn thiếu và chưa đủ mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý công chứng còn thiếu về số lượng và chưa chủ động trong triển khai công việc.
Vì những lý do trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật công chứng và các Văn bản pháp luật liên quan (Luật đất đai, Luật Doanh nghiệp …) nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập về thể chế để thúc đẩy hoạt động công chứng phát triển là rất cần thiết. Luận văn: Khái quát tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Thực trạng hoạt động nghề công chứng tại Hà Nội