Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Hà Nội hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật về thành lập và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực tiễn thực thi trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật công chứng và quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng
3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật công chứng Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Hà Nội
Theo Báo cáo chi tiết về định hướng xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật công chứng do Thường trực tổ biên tập Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật công chứng soạn thảo và Báo cáo những định hướng lớn về sửa đổi, bổ sung Luật công chứng tại Hội thảo “Định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng” ngày 14/7/2012 của Vụ Bổ trợ tư pháp – Bộ Tư pháp, phương hướng sửa đổi LCC 2006 như sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về công chứng, tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng, phát triển mạng lưới tổ chức HNCC, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng dịch vụ công chứng, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp, phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.
Hai là, nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động công chứng, xây dựng đội ngũ CCV đủ về số lượng, vững về chuyên môn, có đạo đức và uy tín nghề nghiệp, quy định chặt chẽ tiêu chuẩn bổ nhiệm CCV, cách thức tổ chức của tổ chức HNCC trong điều kiện tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động công chứng.
Ba là, nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về công chứng, có các quy định, phân cấp hợp lý trong quản lý nhà nước về hoạt động công chứng, đồng thời có những điều chỉnh nhất định để bảo đảm sự điều hành thông suốt từ trung ương đến cơ sở. Quy định cơ chế liên thông, phối hợp giữa tổ chức HNCC với các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Bốn là, tạo điều kiện để đẩy mạnh việc thành lập và hoạt động của tổ chức xã hội nghề nghiệp CCV trong phạm vi cả nước, nâng cao vai trò của tổ chức này đối với hoạt động công chứng nhằm chia sẻ gánh nặng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực công chứng.
Năm là, kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật công chứng hiện hành, kết hợp với việc tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài để sửa đổi, bổ sung những quy định thực sự cấp bách và cần thiết mà chưa được Luật công chứng hiện nay quy định hoặc quy định mà không còn phù hợp [20]. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Hà Nội
Hiện nay, Dự thảo Luật sửa đổi một số điều của LCC 2006 đang trong quá trình lấy ý kiến hoàn thiện, trình Quốc hội xem xét và sẽ có hiệu lực trong thời gian không xa. Cũng theo Báo cáo những định hướng lớn về sửa đổi, bổ sung Luật công chứng tại Hội thảo “Định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng” ngày 14/7/2012 của Vụ Bổ trợ tư pháp – Bộ Tư pháp thì với mục đích bổ sung hệ thống pháp luật công chứng nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập về thể chế để thúc đẩy hoạt động công chứng phát triển, Luật sửa đổi một số điều của LCC 2006 được định hướng sửa đổi các vấn đề chính sau:
- Công chứng viên
- Tập trung nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn CCV bảo đảm những người được xem xét bổ nhiệm CCV phải đáp ứng các điều kiện theo quy định về phẩm chất đạo đức, văn bằng chứng chỉ, sức khoẻ hành nghề, tiêu chuẩn chuyên môn và phải qua đào tạo nghề công chứng, tập sự hành nghề công chứng.
- Nghiên cứu bước đầu việc quy hoạch đội ngũ CCV, kiểm tra sát hạch trước khi bổ nhiệm CCV, bổ sung, nâng cao tiêu chuẩn CCV cho phù hợp với tầm quan trọng của nghề công chứng liên quan đến tài sản và nhân thân của người yêu cầu công chứng, hạn chế các đối tượng được miễn đào tạo, miễn tập sự hành nghề công chứng, quy định việc bồi dưỡng và sát hạch bắt buộc đối với người được miễn đào tạo, miễn tập sự trước khi bổ nhiệm CCV, quy định chế độ bồi dưỡng bắt buộc hàng năm đối với CCV đang hành nghề, nghiên cứu bước đầu về cơ chế phân loại và đánh giá CCV… nhằm nâng cao một bước rõ rệt về chất lượng đội ngũ CCV.
- Nghiên cứu, làm rõ các căn cứ từ chối bổ nhiệm CCV, tạo sự minh bạch đồng thời trao thẩm quyền rõ ràng cho cơ quan Nhà nước trong việc xem xét, từ chối bổ nhiệm đối với các trường hợp không đủ tiêu chuẩn hoặc không phù hợp quy hoạch.
- Bổ sung quy định cơ chế quản lý đối với đội ngũ CCV đã được bổ nhiệm đang hành nghề công chứng tại các tổ chức HNCC.
Tổ chức HNCC
- Quy định thành lập tổ chức HNCC theo hướng tăng cường xã hội hoá hoạt động công chứng và phù hợp với quy hoạch phát triển các tổ chức HNCC. Quy định mang tính nguyên tắc để dự báo việc chuyển đổi mô hình Phòng công chứng sang VPCC (cổ phần hoá) khi điều kiện chín muồi;
- Quy định chặt chẽ hơn các điều kiện, thủ tục thành lập VPCC (tiêu chí về CCV, trụ sở, quy hoạch …);
- Quy định quyền, nghĩa vụ của tổ chức HNCC liên đới với quyền, nghĩa vụ của CCV;
- Nghiên cứu một bước thực hiện cơ chế liên thông giữa tổ chức HNCC với cơ quan đăng ký bất động sản (đăng ký quyền sử dụng đất, đăng ký quyền sở hữu nhà, đăng ký giao dịch bảo đảm) trong hoạt động công chứng;
- Bổ sung quy định trách nhiệm và nghĩa vụ chia sẻ và cung cấp thông tin hợp đồng, giao dịch đã được công chứng giữa các tổ chức HNCC với nhau và giữa các tổ chức HNCC với các cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định và phù hợp với tính chất của nghề công chứng bảo đảm nguyên tắc bảo mật hoạt động công chứng.
Trình tự, thủ tục công chứng
Rà soát, sửa đổi bổ sung trình tự, thủ tục công chứng các hợp đồng, giao dịch theo hướng đầy đủ, chặt chẽ, khắc phục các sơ hở trong trình tự, thủ tục công chứng các hợp đồng, giao dịch
Quản lý nhà nước về công chứng
Sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng: Rà soát, quy định rõ ràng, cụ thể những nội dung quản lý nhằm xác định rõ trách nhiệm quản lý tổ chức và hoạt động công chứng của cơ quan quản lý Nhà nước; phân cấp hợp lý trong quản lý nhà nước về hoạt động công chứng, bảo đảm sự điều hành thông suốt từ trung ương đến cơ sở.
- Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của CCV
- Việc thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp CCV, các tiêu chí thành lập, cơ cấu, tổ chức của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của CCV ở Trung ương và ở địa phương;
- Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của CCV;
- Nghiên cứu vấn đề tư cách thành viên tổ chức xã hội nghề nghiệp CCV (thành viên bắt buộc/tự nguyện), quan hệ nội bộ của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của CCV; mối quan hệ giữa tổ chức xã hội – nghề nghiệp của CCV ở Trung ương với tổ chức xã hội – nghề nghiệp của CCV ở Trung ương; giữa cơ quan quản lý nhà nước với tổ chức xã hội – nghề nghiệp của CCV.
Nghiên cứu đổi mới một số quy định về thủ tục, quy trình bổ nhiệm CCV, quyết định và cho phép thành lập tổ chức HNCC, đăng ký hoạt động của VPCC:
Nghiên cứu các vấn đề này theo hướng:
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm CCV. Quyết định bổ nhiệm có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc. Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi CCV cư trú thực hiện việc đăng ký hành nghề công chứng và đăng ký thay đổi khi CCV thay đổi nơi hành nghề.
- Nghiên cứu về thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập tổ chức HNCC và bổ nhiệm CCV theo hướng: Việc ra quyết định thành lập, cho phép thành lập tổ chức HNCC do địa phương thực hiện nhưng trước khi cho phép thành lập phải có ý kiến bằng văn bản của người có thẩm quyền bổ nhiệm CCV nhằm bảo đảm tính khoa học, gắn với quy hoạch phát triển công chứng và phát triển nguồn nhân lực đội ngũ CCV [40].
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
3.1.2. Phương hướng quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Hà Nội
Có thể khẳng định quy hoạch mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng là yếu tố tiên quyết đảm bảo thực hiện thành công các quy định của pháp luật công chứng. Nhận thức được vấn đề này, tại Khoản 1, Điều 2, Nghị định số 02/2008/NĐ-CP các nhà làm luật đã khẳng định: “Xây dựng đề án phát triển tổ chức HNCC tại địa phương để đáp ứng nhu cầu công chứng của tổ chức, cá nhân trình UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt; tổ chức thực hiện đề án đó sau khi được phê duyệt”, đồng thời Nghị định 04/2013/NĐ-CP cũng đã nhấn mạnh lại điều này tại Khoản 2, Điều 23: “Sở Tư pháp giúp UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công chứng tại địa phương, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Xây dựng và trình UBND cấp tỉnh ban hành kế hoạch tổ chức thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức HNCC được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại địa phương; tham mưu cho UBND cấp tỉnh tổ chức thực hiện kế hoạch đó sau khi được ban hành”.
Trên cơ sở những kết quả đạt được bước đầu, cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển tổ chức HNCC ở Việt Nam đến năm 2020 theo hướng ngày càng chuyên nghiệp, phục vụ tốt các nhu cầu của người dân và xã hội, là công cụ quan trọng bảo đảm an toàn cho các hợp đồng, giao dịch và phòng ngừa các tranh chấp, trở thành một thiết chế không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã có những định hướng sau đây:
Một là, quy hoạch phát triển tổ chức HNCC trên cơ sở bám sát Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng kịp thời các yêu cầu công chứng ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức, bảo đảm công chứng là hoạt động mang tính dịch vụ công; tiến tới thực hiện việc chuyển giao toàn bộ các hợp đồng giao dịch từ UBND cho các tổ chức HNCC thực hiện nhằm bảo vệ tốt quyền, lợi ích hợp pháp, an toàn pháp lý cho các giao dịch, góp phần tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xác định công chứng là một dịch vụ công đặc biệt, CCV được Nhà nước ủy quyền để chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của hợp đồng, giao dịch để tạo ra những bảo đảm pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, ngăn ngừa rủi ro, tranh chấp. Tổ chức và hoạt động công chứng cần có tính ổn định và tính bền vững cao, cần sự quản lý, định hướng, điều tiết chặt chẽ của Nhà nước trong một quy hoạch tổng thể của quốc gia và được triển khai thực hiện theo đúng quy hoạch ở từng địa phương bảo đảm việc xã hội hóa hoạt động công chứng có bước đi phù hợp, theo quy hoạch và lộ trình cụ thể.
Ba là, phát triển tổ chức HNCC gắn với tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng. Việc xã hội hóa hoạt động công chứng – dịch vụ công đặc biệt phải có bước đi phù hợp, theo quy hoạch và lộ trình cụ thể nhằm bảo đảm cho sự pháo triển hoạt động công chứng trên toàn quốc đạt hiệu quả cao, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường số lượng tổ chức HNCC có quy mô lớn, có tính chuyên nghiệp cao; tăng cường về số lượng, chất lượng và đạo đức nghề nghiệp của CCV. Xây dựng đội ngũ CCV giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp. Nâng cao chất lượng, uy tín của hoạt động công chứng để yêu cầu công chứng trở thành một nhu cầu tự nguyện của nhân dân.
Cụ thể hóa Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 10/02/2010 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 250/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án “Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020” và ngày 17/02/2011 ban hành Quyết định số 240/QĐ-TTg về Tiêu chí Quy hoạch phát triển tổ chức HNCC ở Việt Nam đến năm 2020 trong đó, đã đưa ra 4 tiêu chí cơ bản để quy hoạch mạng lưới tổ chức HNCC đến năm 2020 bao gồm:
- Đơn vị quy hoạch;
- Diện tích, điều kiện địa lý, số lượng dân cư và sự phân bố dân cư;
- Sự tác động chính sách và pháp luật đến hoạt động công chứng;
- Nhu cầu công chứng của xã hội.
- Quy hoạch ít nhất 1 tổ chức HNCC trên một địa bàn cấp huyện;
- Quy hoạch tối đa không quá 2 tổ chức HNCC đối với những địa bàn cấp huyện có nhu cầu công chứng trung bình (dưới 6.000 hợp đồng, giao dịch/năm);
- Quy hoạch tối đa không quá 4 tổ chức HNCC đối với những địa bàn cấp huyện có nhu cầu công chứng cao (từ 6.000 hợp đồng, giao dịch đến dưới 12.000 hợp đồng, giao dịch/năm);
- Quy hoạch tối đa không quá 5 tổ chức HNCC đối với những địa bàn cấp huyện có nhu cầu công chứng rất cao (trên 12.000 hợp đồng, giao dịch/năm).
- Bảo đảm tính phát triển bền vững, hiệu quả và bình đẳng trong hoạt động công chứng; tránh xu hướng phát triển lệch lạc, cạnh tranh không lành mạnh. Kết hợp việc quy hoạch số lượng tổ chức HNCC với phát triển quy mô, chất lượng tổ chức HNCC và phát triển số lượng CCV để đáp ứng đầy đủ yêu cầu công chứng trên địa bàn.
- Trong những trường hợp đặc biệt cần phát triển thêm tổ chức HNCC so với mức tối đa đã quy định, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần giải trình rõ về căn cứ trong đề xuất Quy hoạch gửi về Bộ Tư pháp để Bộ Tư pháp xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định trong Quy hoạch tổng thể.
Với các tiêu chí nêu trên, việc quy hoạch mạng lưới tổ chức HNCC cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đánh giá đúng thực trạng tổ chức, hoạt động công chứng, sự phân bố mạng lưới các tổ chức HNCC, số lượng, năng lực của các tổ chức HNCC, nhu cầu công chứng hiện tại và dự báo nhu cầu công chứng các giai đoạn tiếp theo địa phương.
- Bám sát Tiêu chí Quy hoạch để vận dụng cụ thể vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương; kết hợp đầy đủ, hài hòa, hợp lý tất cả các tiêu chí quy hoạch khi xây dựng quy hoạch, phát triển các tổ chức HNCC ở địa phương.
- Quy hoạch tổ chức HNCC phải hình thành được “bản đồ” mạng lưới tổ chức HNCC trên địa bàn về số lượng quy hoạch, vị trí quy hoạch các tổ chức HNCC gắn với lộ trình phát triển cụ thể, tránh việc phát triển “nóng” các tổ chức HNCC cũng như kìm hãm sự phát triển hợp lý của các tổ chức HNCC; phát triển đồng bộ về số lượng và chất lượng dịch vụ của các tổ chức HNCC.
- Phù hợp với chủ trương và định hướng xã hội hóa hoạt động công chứng, chủ yếu phát triển VPCC; những nơi khó khăn chưa có điều kiện xã hội hóa hoạt động công chứng có thể thành lập phòng công chứng để đáp ứng yêu cầu công chứng của nhân dân, có tính đến lộ trình chuyển đổi các phòng công chứng sang hoạt động theo cơ chế tự chủ hoàn toàn hoặc một phần về tài chính.
- Bảo đảm sự quản lý của Nhà nước, sự phát triển ổn định, bền vững của hoạt động công chứng, góp phần vào sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế và yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Bộ tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính và một số Bộ, ngành liên quan; phối hợp với hoạt động của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Sở tư pháp, các tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng, các tổ chức HNCC thì Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức HNCC ở Việt Na sẽ được thực hiện một cách triệt để, làm cơ sở cho việc phát triển mạng lưới các tổ chức HNCC rộng khắp và phân bố hợp lý trên cả nước, đáp ứng nhu cầu công chứng toàn bộ các hợp đồng, giao dịch của tổ chức, cá nhân trong xã hội.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động công chứng Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Hà Nội
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
3.2.1.1. Hoàn thiện Luật công chứng 2006
Hiện nay Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng đang được Quốc hội thảo luận với rất nhiều ý kiến trái chiều nhau. Dự thảo Luật công chứng đã theo các định hướng như trong Báo cáo những định hướng lớn về sửa đổi, bổ sung Luật công chứng tại Hội thảo “Định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng” ngày 14/7/2012 của Vụ Bổ trợ tư pháp – Bộ Tư pháp.
Từ việc tìm hiểu hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội với những bất cập trong hệ thống pháp luật, theo ý kiến cá nhân tác giả, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật công chứng cần sửa đổi các vấn đề sau:
- Bổ sung các quy định nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng. Vai trò quản lý của Nhà nước là vô cùng quan trọng, góp phần điều tiết, điều chỉnh hoạt động công chứng phát triển lành mạnh, bảo đảm an toàn pháp lý cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công chứng trong điều kiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp. Luật công chứng Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của một số nước phát triển (Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Ba Lan, Trung Quốc, Nhật Bản…). Từ quá trình phát triển hệ thống công chứng của các nước này cho thấy, chủ trương tự do hóa nghề công chứng đã được thực hiện từ lâu để xây dựng đội ngũ “thẩm phán hợp đồng” độc lập, đáng tin cậy và công bằng. Mặc dù không can thiệp trực tiếp vào hoạt động công chứng nhưng Nhà nước vẫn có những cách thức quản lý rất hiệu quả thông qua việc tổ chức cơ quan quản lý, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với loại hình hoạt động mang tính đặc thù này.
- Cần có quy định để “bình đẳng hóa” hoạt động của Phòng công chứng và VPCC và có lộ trình để trong tương lai chỉ có duy nhất một tổ chức HNCC là VPCC.
Hiện nay, Luật công chứng đang quy định hai hình thức tổ chức HNCC, kèm theo đó là có hai loại CCV. Một là cán bộ, công chức, viên chức nếu là CCV hoạt động tại Phòng công chứng và một là CCV bình thường hoạt động tại VPCC. Sự khác biệt này cũng dẫn đến các quy định về việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV, trách nhiệm bồi thường của CCV là khác nhau. Do điều kiện trình độ phát triển của các vùng miền trên cả nước chưa đồng đều, nhận thức và nhu cầu về hoạt động công chứng trong dân cư có sự khác biệt, ngoài ra các địa bàn nông thôn xa trung tâm, vùng núi, hải đảo khó có điều kiện phát triển thêm các VPCC như hiện nay thì việc quy định hai hình thức tổ chức HNCC vẫn là cần thiết. Tuy nhiên, với định hướng lâu dài thì cần có thêm các quy định tạo sự bình đẳng giữa hai loại hình thức tổ chức HNCC này để hoạt động công chứng phát triển trong sự cạnh tranh lành mạnh hơn, dần dần chỉ quy định một hình thức tổ chức HNCC duy nhất là VPCC.
Luật công chứng cần bỏ quy định VPCC do một CCV thành lập. Sở dĩ như vậy là từ thực tế hoạt động của các VPCC do một CCV thành lập khi CCV đó chết, mất tích thì không có CCV khác thay thế để điều hành hoạt động của văn phòng, các giao dịch sửa đổi, bổ sung, hủy hợp đồng… của khách hàng không giải quyết được, trong khi đó việc chuyển giao các hợp đồng, giao dịch cho văn phòng khác tiếp tục quản lý là rất phức tạp. Trên địa bàn thành phố Hà Nội đã từng xảy ra vụ việc ở VPCC Việt Tín, khi trưởng văn phòng chết thì hoạt động của văn phòng ngưng trệ, gây hoang mang cho dư luận, đặc biệt là những người đã từng công chứng tại văn phòng, vì vậy hướng sửa đổi của dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật công chứng như trên là hoàn toàn phù hợp.
Hiện nay, Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật công chứng cũng đang định hướng sửa đổi Khoản 1, Điều 26 như sau:
“VPCC do CCV thành lập và phải có từ hai CCV trở lên, bao gồm cả CCV làm việc theo hợp đồng.
VPCC do một CCV thành lập được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này; chế độ tài chính được thực hiện theo quy định đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân.
VPCC do hai CCV trở lên thành lập được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này; chế độ tài chính được thực hiện theo quy định đối với loại hình công ty hợp danh. VPCC tổ chức theo loại hình công ty hợp danh chỉ có CCV hợp danh, không có thành viên góp vốn”.
Theo hướng sửa đổi này, bắt buộc VPCC dù thành lập, hoạt động theo hình thức nào cũng phải có từ hai CCV trở lên (có thể bao gồm CCV làm việc theo hợp đồng).
Quy định chặt chẽ tiêu chuẩn của CCV, điều kiện miễn đào tạo, miễn tập sự hành nghề công chứng, độ tuổi hành nghề của CCV để nâng cao chất lượng đội ngũ CCV.
Luật công chứng cần xác định rõ nâng cao chất lượng công chứng phải bắt đầu từ “siết” tiêu chuẩn CCV. Bởi hiện nay một bộ phận CCV còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề dẫn đến những sai sót trong hoạt động, ảnh hưởng tới chất lượng văn bản công chứng. Bên cạnh đó, một số CCV vi phạm đạo đức nghề nghiệp, còn có hiện tượng CCV cố ý làm trái, không tuân thủ đúng trình tự, thủ tục công chứng theo quy định pháp luật, cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi nhuận gây ảnh hưởng tới uy tín nghề công chứng trong xã hội. Luật công chứng nên quy định thêm về tư cách đạo đức của CCV, bổ sung thêm quy định về thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp của CCV, sau khi tổ chức xã hội nghề nghiệp của CCV ra đời, tổ chức này cần xây dựng một bộ quy tắc đạo đức CCV. Quy tắc đạo đức sẽ lấp bớt những khoảng hở pháp luật chưa với tới. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Hà Nội
LCC 2006 quy định về các trường hợp được miễn đào tạo và miễn tập sự hành nghề công chứng ở Điều 15 và Điều 17. Tuy nhiên, cũng như các nghề khác, thời gian đào tạo và thời gian tập sự là rất cần thiết. Mỗi ngành nghề có những đặc trưng riêng, không thể bỏ hoàn toàn không cần đào tạo và tập sự với các đối tượng ở Điều 15 được. Hiện nay, vấn đề khiến người làm công tác quản lý nhà nước và cả các chuyên gia “ái ngại” từ sự phát triển của đội ngũ CCV là thiếu sự “chắc chắn” khi có đến 67% CCV thuộc những đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng, và phần lớn các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công chứng là từ các CCV được miễn đào tạo [36]. Trong khi đó, nghề công chứng ngoài kiến thức pháp lý còn rất nhiều kỹ năng đòi hỏi phải được đào tạo, mà không phải cứ người từng làm việc hay nắm các chức vụ cao ở các cơ quan tư pháp là có thể biết. Theo ý kiến của tác giả, nên quy định giảm thời gian đào tạo và giảm thời gian tập sự chứ không nên miễn hoàn toàn như hiện nay.
Độ tuổi hành nghề của CCV: Dự thảo Luật công chứng sửa đổi đã bổ sung thêm quy định này vào Điều 13 về tiêu chuẩn CCV, đó là: “Không quá 65 tuổi đối với nam và không quá 60 tuổi đối với nữ vào thời điểm nộp hồ sơ đề nghị bổ nhiệm CCV”.
Mặc dù quy định như thế phù hợp với thông lệ của các nước trên thế giới nhưng lại mâu thuẫn, không thống nhất với quy định Luật viên chức cũng như Luật bảo hiểm xã hội, Bộ luật lao động, chưa phù hợp với trình độ phát triển của nước ta hiện nay. Đồng thời với trường hợp CCV làm việc tại các VPCC thì đây là tổ chức ngoài nhà nước, hiện nay pháp luật không quy định độ tuổi làm việc bao lâu. Một số đại biểu sợ rằng quy định như thế thì những cán bộ công chức đã về hưu, thuộc diện miễn đào tạo, miễn tập sự lại tiếp tục được bổ nhiệm làm CCV, nếu cứ để cán bộ về hưu chuyển sang làm CCV thì khó có đội ngũ CCV chuyên nghiệp.
Để giải quyết được triệt để vấn đề này, Luật công chứng cần định hướng trong tương lai chỉ có duy nhất một tổ chức HNCC là VPCC, quy định chặt chẽ về đào tạo và tập sự hành nghề, có chế độ kiểm tra đánh giá CCV thường xuyên để nâng cao chất lượng đội ngũ CCV. Độ tuổi được hành nghề cần xét tổng quan trong chiến lược phát triển hệ thống công chứng nhưng quan trọng nhất vẫn là phải nâng cao hơn nữa chất lượng của đội ngũ CCV và hoạt động công chứng.
Sửa đổi, bổ sung một số quy định về thành lập, hoạt động của tổ chức HNCC nhằm đẩy mạnh quá trình xã hội hóa hoạt động công chứng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của VPCC trong thời gian tới. Trong đó cần quy định thêm chế tài đối với VPCC không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV, quy định cụ thể hơn về thù lao công chứng, công chứng ngoài trụ sở.
3.2.1.2. Các quy định pháp luật liên quan
Sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật ban hành trước khi Luật Công chứng có hiệu lực vì trong quá trình triển khai thực hiện Luật Công chứng có những nội dung liên quan đến các văn bản này còn chưa đồng bộ, mâu thuẫn, thiếu thống nhất (đặc biệt là các mâu thuẫn giữa Luật Công chứng với Luật Đất đai 2003 sửa đổi năm 2009, Luật Nhà ở 2006 và Luật Doanh nghiệp 2005) gây khó khăn cho người áp dụng. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật này cần phải theo kịp, phù hợp và đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn và xã hội, để đáp ứng được tốt nhất yêu cầu chính đáng của công dân và tổ chức, giảm thiểu được các kẽ hở của pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chế độ công vụ, quy định công chức, quy định thẩm quyền, trách nhiệm, chế độ thưởng, phạt của từng loại công chức, của từng thứ bậc, cấp bậc, chức danh. Từ đó có thể tạo ra trật tự mới trong hoạt động và trong quan hệ công chức, góp phần ngăn ngừa tệ quan liêu vô trách nhiệm của công chức, ngăn ngừa các tội phạm chức vụ, tội phạm tham nhũng.
Có cơ chế chính sách để bảo đảm đời sống của đội ngũ cán bộ, công chức, không ngừng nâng cao trách nhiệm công vụ cũng như đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ này; xây dựng hệ tiêu chí đánh giá, tôn vinh danh hiệu và trao giải thưởng cho các CCV, tổ chức HNCC.
Luật công chứng cần làm rõ cơ chế liên thông giữa công chứng và giao dịch bảo đảm; quy định các lĩnh vực bắt buộc công chứng; Quy định cụ thể trong Luật các cơ sở để thành lập và chức năng, nhiệm vụ của tổ chức xã hội – nghề nghiệp công chứng, thành lập Quỹ bảo đảm hành nghề công chứng …
3.2.1.3. Quy định về Hội công chứng Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Hà Nội
Hiện nay, các Hội Công chứng trên địa bàn cả nước được thành lập và hoạt động theo quy định của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/04/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/04/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP.
Theo Điều 2 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP thì Hội là tổ chức tự nguyện của các công dân, tổ chức có cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới tính, có chung mục đích tập hợp đoàn kết hội viên hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên… Như vậy, việc gia nhập Hội Công chứng hay không là theo sự tự nguyện của cá nhân CCV. Gia nhập Hội hay không là quyền của mỗi công dân, việc đó là bình thường đối với các Hội mà hoạt động của từng hội viên không ảnh hưởng đến người khác và không ảnh hưởng đến an toàn xã hội, ví dụ, Hội Người cao tuổi, Hội Làm vườn, Hội Nhiếp ảnh… Trong khi đó, hoạt động công chứng do có tính đặc thù như đã nói ở trên, còn có một yêu cầu cao hơn đối với từng CCV là phải có trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao và đạo đức nghề nghiệp vững vàng. Đồng thời, sẽ gặp khó khăn để triển khai đầy đủ ý nghĩa của mục đích và tôn chỉ của Hội Công chứng, nếu như có CCV nào đó không tự nguyện gia nhập Hội Công chứng và không là hội viên của Hội Công chứng. Cũng như sẽ khó khăn để hỗ trợ nghề nghiệp, nâng cao trình độ nghiệp vụ, bồi dưỡng đạo đức nghề công chứng, nếu có CCV nào đó không gia nhập Hội Công chứng mà tự mình đứng bên ngoài sinh hoạt của Hội.
Như vậy, khi sửa đổi Luật công chứng phải đưa vai trò của tổ chức xã hội nghề nghiệp Công chứng vào đúng vị trí của nó trong Luật công chứng sửa đổi, mà cụ thể là nên quy định:
- Việc gia nhập Hội công chứng là nghĩa vụ bắt buộc của CCV, nói cách khác, nếu CCV không phải là Hội viên của Hội công chứng thì không được hành nghề công chứng;
- Mặt khác, Hội là đại diện cho tập thể các CCV nên Hội cần được tham gia vào các phần việc có liên quan đến CCV, như việc xem xét thành lập các tổ chức HNCC, khen thưởng, kỷ luật CCV, tham gia vào công tác thanh tra, kiểm tra có liên quan đến CCV để vừa tăng sự công khai và minh bạch của các hoạt động này, vừa rút kinh nghiệm cho các công việc của hội viên. Hội công chứng có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ pháp luật, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, việc tập sự hành nghề công chứng và thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành nghề công chứng theo quy định của luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
3.2.2. Giải pháp hỗ trợ khác Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Hà Nội
a/ Công tác đào tạo nguồn nhân lực
- Trong thời gian tới, để tăng cường Công tác củng cố, kiện toàn tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, Sở tư pháp cần đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các Lớp Tập huấn, Tọa đàm, đối thoại, giao lưu để cán bộ, công chức ngành Tư pháp nói chung và CCV của các tổ chức HNCC trên địa bàn thành phố có cơ hội học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm với cán bộ, công chức quản lý nhà nước về công chứng, CCV của các tỉnh, thành phố khác để nâng cao trình độ, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm trong triển khai thi hành Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Công tác đào tạo nghiệp vụ công chứng ở Học viện tư pháp cần được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao hơn nữa của Bộ tư pháp vì đây là nơi tạo nguồn cho hoạt động công chứng. Nâng cao chất lượng dạy và học, nâng cao thức đạo đức nghề nghiệp của các CCV tương lai nhằm tạo ra một đội ngũ CCV có trình độ và đạo đức tư cách tốt.
b/ Bảo đảm các điều kiện thi hành Luật Công chứng về nguồn tài chính, nguồn nhân lực và tổ chức bộ máy
- Hiện nay, kinh phí để xã hội hóa công chứng đến từ sự đóng góp của các CCV và của những người góp vốn khác. Bên cạnh việc xã hội hóa nguồn tài chính từ các tổ chức và cá nhân bên ngoài, UBND thành phố Hà Nội nói riêng và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác cần phân bổ những nguồn tài chính cần thiết để tạo điều kiện cho việc thi hành Luật Công chứng trên địa bàn, tận dụng và thực hiện tốt việc kết hợp giữa nguồn tài chính công và tư để thi hành Luật Công chứng. Đồng thời, đổi mới, kiện toàn, nâng cao năng lực, nhân lực của đội ngũ cán bộ tư pháp, bộ máy cơ quan quản lý nhà nước về công chứng và hành nghề công chứng; tăng cường cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết khác để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng và hành nghề công chứng ở địa phương.
- Đồng thời, để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động công chứng trên địa bàn các tỉnh, thành phố thì UBND tỉnh, thành phố cần ban hành Quy chế phối hợp công tác giữa Sở Tư pháp với Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND các quận, huyện, thị xã để phối hợp, tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động công chứng. Hoàn thiện các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động công chứng như cơ quan đăng ký quản lý bất động sản, đăng ký hộ tịch…, thiết lập cơ chế phối hợp liên thông giữa các cơ quan với nhau.
- Trong thời gian tới, sau khi đã áp dụng hiệu quả Chương trình quản lý thông tin ngăn chặn và thông tin về hợp đồng giao dịch đã công chứng ở trên địa bàn thành phố Hà Nội, Bộ Tư pháp cần chỉ đạo áp dụng Chương trình trên quy mô cả nước. UBND tỉnh các tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Thông tin Truyền thông, Sở Tài chính, UBND các quận, huyện, thị xã duy trì, mở rộng hoạt động, phát huy hiệu quả của Chương trình quản lý thông tin, đẩy mạnh việc chia sẻ thông tin giữa tổ chức HNCC và các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất để để đảm bảo an toàn cho các hợp đồng, giao dịch công chứng.
c/ Công tác kiểm tra, giám sát
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của UBND cấp tỉnh, thành phố trung ương, Sở Tư pháp và Hội công chứng đối với hoạt động của các tổ chức HNCC. Đồng thời, xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, CCV có hành vi vi phạm. Việc vi phạm ngoài việc xử phạt theo quy định thì phải đưa lên mạng quản lý hệ thống công chứng Uchi, ghi rõ tên tổ chức HNCC, CCV vi phạm để có tính chất răn đe các tổ chức HNCC khác. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác phòng ngừa vi phạm để công chức, viên chức, CCV thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng, tính cấp thiết của công tác phòng chống vi phạm.
Quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng:
Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp các tỉnh cần có quy hoạch phát triển tổ chức HNCC hợp lý với điều kiện của đất nước cũng như từng địa phương hiện nay. Trong đó phải chú trọng phát triển đồng đều các tổ chức HNCC tại các vùng miền. Tránh tình trạng ở những địa bàn trung tâm thì phát triển nóng, ồ ạt, còn các vùng sâu vùng xa thì lại thiếu vắng gây khó khăn cho người dân.
d/ Hợp tác, giao lưu để học hỏi kinh nghiệm trong lĩnh vực công chứng:
Bộ Tư pháp cùng Sở Tư pháp các tỉnh cần thúc đẩy sự hợp tác, giao lưu giữa các tổ chức HNCC Việt Nam với tổ chức HNCC của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước theo mô hình công chứng tự do như Pháp, Hy Lạp, Bồ Đào Nha… và các nước trong khu vực có công chứng phát triển. Hoạt động này nhằm trao đổi, học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của các nước trong việc quản lý hoạt động công chứng, hoàn thiện hệ thống pháp luật công chứng góp phần cho hoạt động công chứng của nước ta ngày một phát triển.
KẾT LUẬN
Thế giới luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, xu hướng toàn cầu hóa đang là cơ hội và cũng là thách thức cho tất cả các quốc gia trong đó có Việt Nam. Sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới đã làm thay đổi nhận thức của Đảng và nhà nước ta, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế nước ta đã có những bước phát triển cả kinh tế trong nước lẫn kinh tế đối ngoại. Với sự phát triển của kinh tế, hoạt động công chứng cũng từng bước phát triển và tạo điều kiện mạnh mẽ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Sự ra đời của LCC 2006 là một bước ngoặt trong hoạt động công chứng, đưa hoạt động công chứng ở Việt Nam phát triển theo mô hình ngày càng lớn mạnh, phù hợp với mô hình công chứng của các nước tiên tiến trên thế giới. Với phương hướng phát triển phù hợp và đúng đắn, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước; thì đến năm 2020 sẽ hình thành và xây dựng được một mạng lưới tổ chức HNCC rộng khắp và phân bố hợp lý trên toàn quốc, tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ CCV, bảo đảm công chứng toàn bộ các hợp đồng giao dịch để tăng cường an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch cuản người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng các mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp và chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế./. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Hà Nội
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Hoạt động của tổ công chứng trên địa bàn Hà Nội