Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics cho các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam trên thị trường miền Nam Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GNVT VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

2.2.1. Thực trạng về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp GNVT Việt Nam trên thị trường miền Nam Việt Nam Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam

Theo thống kê VIFFAS hiện có khoảng hơn 800 công ty giao nhận vận tải (GNVT) chính thức đang hoạt động, trong đó có khoảng 18% là công ty Nhà nước; 70% là công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân; 10% các doanh nghiệp GNVT chưa có giấy phép và 2% công ty logistics do nước ngoài đầu tư vốn. Ước tính thống kê sơ bộ thì số lượng doanh nghiệp hoạt động logistics trên thị trường miền Nam khoảng 600-700 đơn vị. Tính đến 6/2011 có 158 là công ty thành viên của Hiệp hội giao nhận Việt Nam (VIFFAS), trong đó 137 hội viên chính thức và 18 hội viên liên kết. Đa số các công ty đều có qui mô nhỏ và vừa, vốn đăng ký bình quân 1,5 tỷ đồng, chỉ có vài công ty Nhà nước có vốn đăng ký là tương đối lớn. …

Trên thị trường miền Nam từ sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành, dịch vụ vận tải giao nhận trở thành nhu cầu thiết yếu đối với hàng hoá xuất nhập khẩu kể cả của các cá nhân, tổ chức, công ty khác nhau. Mặt khác, kinh doanh không phải bỏ vốn lớn đầu tư ban đầu vật chất như các ngành khác, mà lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh nên hàng loạt các công ty kinh doanh dịch vụ vận tải nước ngoài đã xâm nhập hoạt động tại thị trường này. Hiện nay, ở thành phố Hồ Chí Minh các công ty logistics đa số tập trung vào các lĩnh vực vận chuyển hàng công trình (Project Cargo) và các mặt hàng gia công xuất khẩu…Cùng với sự phát triển của các công ty logistics, các hãng tàu cũng mở ra bộ phận logistics hoạt động tại thị trường TP. HCM như NYK Logistics, Mearsk Logistics, APL Logistics, MOL Logistics,…

Trên thực tế, một số các doanh nghiệp GNVT Việt Nam trên thị trường miền Nam thường trở thành đại lý cho các doanh nghiệp logistics nước ngoài. Lý do là một số công ty giao nhận nước ngoài khi mới đi vào hoạt động tại Việt Nam, do chưa quen thuộc với thị trường, chưa biết nhiều luật lệ… thường nhờ một công ty vận tải nhà nước làm đại lý. Sau một thời gian khi đã ổn định và đi vào hoạt động tốt, các công ty này đã tách ra hoạt động độc lập (thông qua việc cho người quen mở công ty Việt Nam để làm đại lý).

Các công ty GNVT Việt Nam khu vực phía Nam thực sự cung cấp dịch vụ logistics theo đúng nghĩa vẫn còn khá ít. Nhiều công ty vẫn cung cấp những dịch vụ giao nhận truyền thống, họ chỉ chọn một số tuyến chính để phát triển kinh doanh. Các công ty GNVT Việt Nam trên thị trường miền Nam cũng áp dụng CNTT vào hoạt động kinh doanh logistics nhưng vẫn chỉ dừng lại ở website giới thiệu về công ty, hoạt động và tin tức nội bộ ngành, hoặc giao dịch với khách hàng thông qua internet như mail, fax…mà không hề có các tiện ích mà khách hàng cần như: công cụ theo dõi đơn hàng (Track and Trade), lịch tàu, e-booking, theo dõi chứng từ…Khả năng nhìn thấy và kiểm soát đơn hàng (Visibility) là yếu tố khách hàng quan tâm hàng đầu. Trên thế giới, một số ông trùm lớn trong lĩnh vực logistics như APL Logitics, Mearsk Logistics có hệ thống thông tin hiện đại và hoạt động hiệu quả và có lợi thế cạnh tranh trên thế giới.

Thực tế, vài năm trở lại đây, dịch vụ logistics theo hướng 3PL đã xâm nhập, đã và đang phát triển tại Việt Nam. Bản thân các công ty trong nước cũng như các công ty hoạt động trên thị trường miền Nam tuy thị phần không lớn, trình độ dịch vụ chưa cao nhưng biết tận dụng các ưu thế trong nước và một phần vào hệ thống đại lý nước ngoài đã phát triển, gặt hái nhiều kinh nghiệm và trở thành các công ty giao nhận vận tải đa phương thức, các công ty giao nhận dự án, công trình, các công ty gom hàng… Tuy nhiên để thực sự là nhà cung cấp 3PL như xu hướng phát triển của thế giới thì chưa có công ty GNVT Việt Nam nào. Các công ty GNVT Việt Nam khu vực miền Nam hầu hết đang tham gia hoạt động kinh doanh một phần trong chuỗi cung cấp dịch vụ logistics. Dịch vụ logistics theo hướng 3PL có nhiều tiềm năng phát triển tại Việt Nam. Do đó, nếu chỉ cung cấp các dịch vụ kho vận đơn giản, thuần túy… mà không tích hợp chúng thành quá trình, chuỗi dịch vụ, người cung ứng dịch vụ khó có thể thỏa mãn khách hàng về mặt giảm chi phí cũng như tính đáp ứng nhanh (Quick Responsiveness). Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam

Ví dụ một kho hàng tại khu công nghiệp VSIP Bình Dương đã thiết lập dịch vụ 3PL chính trong kho hàng 4.000 m2 này. Khả năng cung ứng cho khách hàng của kho này, từ việc tiếp nhận các phụ tùng, bán thành phẩm, sau đó phân loại, theo dõi, kiểm tra, đóng gói và chuyển đến các nhà máy tại Việt Nam hoặc gửi đi nước ngoài đều theo phương thức cung ứng JIT (đúng thời điểm). Các thiết bị phục vụ trong quá trình đó, ngoài thiết bị bốc dỡ, vận chuyển còn có hệ thống thông tin, áp dụng công nghệ mã vạch (Bar Coding) và nhận diện bằng sóng (RFID). Quá trình dịch vụ 3PL này đã giúp khách hàng kiểm soát và nhìn rõ bằng một hệ thống thông tin trao đổi dữ liệu (EDI), nắm bắt chính xác dòng chảy nguyên liệu, hàng hóa của mình, kiểm soát được tồn kho và đảm bảo đưa nguyên liệu kịp lịch trình sản xuất tại nhà máy.

Nhìn chung, xét về mức độ phát triển và hoạt động có thể thấy các công ty GNVT Việt Nam đang kinh doanh trên thị trường miền Nam có thể chia thành 4 cấp độ sau:

  • Cấp độ 1: Là các đại lý giao nhận truyền thống – chỉ thuần túy cung cấp các dịch vụ do khách hàng yêu cầu. Thông thường các dịch vụ đó là: vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ, thay mặt khách hàng làm thủ tục hải quan, làm các chứng từ, lưu kho bãi, giao nhận. Ở cấp độ này, 80% các công ty GNVT phải thuê lại kho bãi và dịch vụ vận tải và đa phần là các công ty nhỏ: Unilink Jsc., Orient Jsc., Pac Co.,Ltd……..
  • Cấp độ 2: Các đại lý giao nhận đóng vai trò người gom hàng và cấp vận đơn nhà (House Bill of Lading). Nguyên tắc hoạt động của họ là dựa trên đại lý độc quyền tại các cảng lớn để thực hiện việc đóng/ rút hàng xuất nhập khẩu. Chỉ có khoảng 10% doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cung cấp dịch vụ gom hàng CFS của chính họ hoặc do họ thuê của nhà thầu. Các công ty này sử dụng vận đơn nhà như vận đơn của hãng tàu nhưng chỉ có một số mua bảo hiểm trách nhiệm giao nhận vận tải: Thamico, Bee Logistics, Oversea, OFC, Vinatrans…..
  • Cấp độ 3: Đại lý giao nhận đóng vai trò là nhà vận tải đa phương thức (MTO). Trong vai trò này, một số công ty đã phối hợp với công ty nước ngoài tại các cảng dỡ hàng bằng một hợp đồng phụ để tự động thu xếp vận tải hàng hóa tới điểm cuối cùng theo vận đơn. Hiện nay, có hơn 50% các đại lý GNVT Việt Nam hoạt động như đại lý MTO nối với mạng lưới ở khắp các nước trên thế giới: Thamico, Mekong, Sagawa, Yusen Sea and Air Services Co., Ltd….
  • Cấp độ 4: Đại lý giao nhận trở thành nhà cung cấp dịch vụ logistics. Đây là kết quả tất yếu của quá trình hội nhập, một số tập đoàn lớn trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam đã hoạt động rất hiệu quả dịch vụ logistics như: Kuehne & Nagel, Schenker, Bikart, Ikea, APL, TNT, NYK, Maersk……và các liên doanh hoạt động trong lĩnh vực này như: First Logistics.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Doanh Nghiệp

2.2.2. Một số doanh nghiệp GNVT Việt Nam tham gia kinh doanh dịch vụ logistics trên thị trường miền Nam

2.2.2.1. Công ty cổ phần Dịch vụ Vận tải Sài Gòn (Tranaco) Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam

Tiền thân của Công ty là Công ty Dịch vụ Vận tải Sài Gòn, chính thức thành lập năm 1976 theo Quyết định số: 1310/QĐ-BGTVT của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Số vốn ban đầu được Nhà nước giao tại thời điểm thành lập là 7,2 triệu đồng. Trước thời kỳ đổi mới (mốc thời gian năm 1986) Tranaco là đơn vị đầu ngành trong lĩnh vực giao thông vận tải, độc quyền quản lý giao thông vận tại tuyến Bắc – Nam. Sau thời kỳ đổi mới do bị ảnh hưởng bởi cơ chế làm việc thời kỳ bao cấp của ban lãnh đạo cũ để lại cho nên hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã bị sụt giảm đáng kể. Ngày 27 tháng 10 năm 2005 Công ty Dịch vụ Vận tải Sài Gòn đã cổ phần hóa thành công chuyển mô hình doanh nghiệp nhà nước sang thành Công ty Cổ Phần Dịch vụ Vận tải Sài Gòn (tên viết tắt: Tranaco) với vốn điều lệ là hơn 14,9 tỷ VNĐ theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4103003977 ngày 27 tháng 10 năm 2005 (Quyết định cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần số 3257/QĐ-BGTVT ngày 28 tháng 10 năm 2004 của Bộ giao thông vận tải). Hoạt động theo mô hình Công ty Cổ phần, Tranaco đã có quyền tự quyết trong kế hoạch sản xuất kinh doanh, và cùng với định hướng đúng đắn của Hội đồng quản trị đã đưa Tranaco phát triển và khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường, được cải cách cả về chất và lượng cho nên lợi nhuận sau thuế hàng năm tăng lên đáng kể, đạt khoảng 8 tỷ VNĐ năm 2010, quy mô cũng được mở rộng, lĩnh vực vận tải hàng hóa siêu trường siêu trọng đang được mở rộng mạng lưới trên toàn quốc. Để đáp ứng cho việc phát triển Công ty đã nâng vốn điều lệ từ 14,9 tỷ VNĐ lên hơn 27,6 tỷ VNĐ theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thay đổi lần thứ hai 14/9/2010 do Sở kế hoạch đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp.

Các lĩnh vực hoạt động chính của Công ty ngay từ khi thành lập là: Vận tải đa phương thức quốc tế. Vận tải hàng hóa thông thường, hàng siêu trường, siêu trọng, vận tải hàng hóa bằng container, hàng hóa quá cảnh cho Lào, Campuchia và các nước trong khu vực; Vận tải đường thủy; Vận tải đường bộ, đường ống; Dịch vụ vận tải giao nhận hành hóa trong và ngoài nước. Kinh doanh khai thác cảng biển, dịch vụ bốc dỡ hàng hóa tại cảng biển; hoạt động kho bãi…

Hiện nay Tranaco được bạn hàng trên cả nước đánh giá là đơn vị chuyên nghiệp trong ngành vận tải hàng hóa siêu trường, siêu trọng. Tranaco là một đơn vị chuyên nghiệp trong ngành nghề giao nhận, vận chuyển, bốc xếp thiết bị, hàng hóa thông thường, hàng hóa siêu trường, siêu trọng cho các công trình trọng điểm Quốc gia, công tác đảm bảo an toàn tuyệt đối đúng tiến độ. Với những nỗ lực của Công ty và những thành tựu đã đạt được trong quá trình hoạt động, phát triển, Công ty không chỉ vinh dự được Nhà nước trao tặng nhiều danh hiệu cao quý mà còn được các tổ chức trong nước trao tặng nhiều giải thưởng về hoạt động kinh doanh hiệu quả.

Có thể nói, Tranaco là một doanh nghiệp Nhà nước điển hình hoạt động trong lĩnh vực logistics với qui mô không nhỏ, đã tạo được uy tín trên thị trường nội địa. Tuy nhiên, cũng giống như các công ty GNVT khác là Tranaco mạnh ở thị trường nội địa, phạm vi cung cấp dịch vụ chủ yếu vận tải hàng nội địa đa phương thức đặc biệt là tập trung vận chuyển hàng công trình xây dựng và các dịch vụ giao nhận truyền thống. Phạm vi bao phủ cung cấp các khâu của chu trình luân chuyển của hàng hóa chưa rộng khắp theo tiêu chuẩn của một 3PL. Vì vậy, Tranaco vẫn cần có tầm nhìn chiến lược kinh doanh lâu dài và đột phá để phát triển toàn diện cả về qui mô, số lượng, chất lượng để

2.2.2.2. Công ty cổ phần Kho vận Giao nhận Ngoại thương (Transimex – Sài Gòn) Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam

Công ty Cổ phần Kho vận Giao nhận Ngoại thương (Transimex – Sài Gòn) là một trong những Công ty hàng đầu trong lĩnh vực giao nhận hàng hóa XNK trên thị trường miền Nam. Gần 30 năm họat động, vượt qua nhiều thăng trầm và thử thách trên thương trường, Transimex – Sài Gòn không ngừng lớn mạnh cả về quy mô lẫn chất lượng, ngày càng được khách hàng trong và ngoài nước tín nhiệm. Đánh giá về quy mô kinh doanh cũng như kinh nghiệm thực tiễn hiện tại Transimex–Saigon đang nằm trong top 3 doanh nghiệp hàng đầu, hoạt động trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam. Khả năng cạnh tranh cao nhờ quá trình dịch vụ được tổ chức khép kín từ khâu Tiếp nhận – Vận chuyển – Lưu kho bãi – Thu gom hàng hóa. Lợi thế diện tích kho bãi lớn, địa bàn thuận lợi. Công ty có một mạng lưới chi nhánh ở các khu vực và cảng biển quan trọng của Việt nam (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, …) và các văn phòng đại diện ở các Khu công nghiệp, Khu chế xuất (Đồng Nai, Bình Dương, TP.HCM, …), có hệ thống đối tác trên toàn thế giới. Có chất lượng dịch vụ cao. Áp dụng quy trình công nghệ, phương tiện vận tải tiên tiến, áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Có hệ thống khách hàng và thị trường ổn định, giàu tiềm năng phát triển. Giá dịch vụ ICD của Công ty rất linh hoạt và có tính cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành. Công ty có 06 đơn vị thành viên và công ty liên doanh:

Bảng 2-4: Kết quả hoạt động kinh doanh của Transimex – Sài Gòn năm 2010

Bảng 2-5: Các công ty thành viên và liên doanh của Transimex – Sài Gòn

Transimex – Sài Gòn là một trong những doanh nghiệp đã có tên tuổi trên thị trường Việt Nam, với lợi thế về vốn nên cơ sở hạ tầng được đầu tư tương đối đồng bộ phục vụ cho khai thác kinh doanh như: tàu biển, kho bãi, xe kéo, các trang thiết bị kho bãi…Đây là nền tảng cho sự phát triển dịch vụ GNVT liên thông, khép kín từ khâu Tiếp nhận – Vận chuyển – Lưu kho bãi – Thu gom hàng hóa. Thêm vào đó với kinh nghiệm bề dày trong hoạt động GNVT đã giúp cho Transimex – Sài Gòn có được mô hình quản lý, tổ chức hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao so với các doanh nghiệp cùng ngành khác trên thị trường. Công ty đã phát triển và mở rộng được qui mô kinh doanh của mình bằng các hình thức hoạt động liên doanh, liên kết, thành lập mới các công ty thành viên đặt trên các địa bàn mục tiêu của mình. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, với tiềm năng và kinh nghiệm sẵn có, Transimex đang kỳ vọng và định hướng phát triển để trở thành một trong những doanh nghiệp logistics Việt Nam theo đúng xu hướng phát triển của thị trường.

2.2.2.3. Công ty Cổ phần Giao nhận Vận tải và Thương mại (Vinalink)

Công ty cổ phần Giao nhận Vận tải và Thương mại (tên gọi tắt là Vinalink) được thành lập theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Thương mại trên cơ sở cổ phần hóa một phần Công ty Giao nhận Kho vận ngoại thương TP.Hồ Chí Minh (Vinatrans) và chính thức họat động theo mô hình công ty cổ phần từ ngày 01/9/1999. Kế thừa 25 năm kinh nghiệm của một doanh nghiệp Giao nhận Kho vận hàng đầu Việt Nam, Công ty Vinalink đã nhanh chóng phát huy ưu thế chủ động của mô hình mới và sự năng động của đội ngũ cán bộ nhân viên vừa có kinh nghiệm vừa có sức trẻ, liên tục phát triển có sự tăng trưởng cao đều đặn hàng năm cả về quy mô và phạm vi họat động, chất lượng dịch vụ. Vốn điều lệ đã tăng từ 8 tỷ khi thành lập lên 90 tỷ vào đầu năm 2007, trong đó hơn một nửa số vốn tăng thêm là do tích lũy từ lợi nhuận kinh doanh. Là hội viên của VCCI, VIFFAS, FIATA. Hoạt động kinh doanh: Giao nhận đường biển và đường hàng không, dịch vụ vận tải đa phương thức, dịch vụ logistics, giao nhận nội địa, dịch vụ kho ngoại quan và lưu kho bảo quản hàng hóa, đại lý tàu biển, tổng đại lý bán cước, đại lý bán vé máy bay, kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và kinh doanh nhà. Với hơn 160 nhân viên có kinh nghiệm và được đào tạo có hệ thống đang làm việc tại công ty. Doanh thu Vinalink năm 2009 là 239 tỷ VNĐ, lợi nhuận sau thuế 23,7 tỷ VNĐ; Doanh thu năm 2010 là 250 tỷ VNĐ, lợi nhuận trước thuế 23,5 tỷ VNĐ. Cùng với các đối tác nước ngoài liên doanh thành lập: Công ty Liên doanh TNHH Freight Consolidators (Việt Nam), Công ty Liên doanh TNHH RCL (Việt Nam), Công ty Liên doanh TNHH Hapag-Lloyd (Việt Nam) …Là cổ đông của nhiều công ty cổ phần và TNHH nhiều thành viên hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau.

Vinalink là doanh nghiệp trẻ được kế thừa thị phần sẵn có của một doanh nghiệp GNVT hàng đầu Việt Nam. Phát huy tiềm năng tư duy và sức trẻ, bên cạnh việc duy trì phát triển kinh doanh sẵn có, Vinalink có chiến lược phát triển bắt kịp với xu thế phát triển của thị trường. Đây thực sự là một doanh nghiệp đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, với xu thế phát triển tiến tới cung cấp dịch vụ logitics 3PL, 4PL ..trên thế giới thì đòi hỏi Vinalink cần có những cải cách mang tính đột phá về: công nghệ thông tin, qui mô cơ sở hạ tầng, và đặc biệt mô hình quản lý vận hành mang tính chuyên nghiệp hơn nữa.

2.2.2.4. Nhóm các công ty GNVT vừa và nhỏ Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam

Gần 3/4 số lượng doanh nghiệp GNVT khu vực miền Nam nói riêng và Việt Nam nói chung có qui mô vừa và nhỏ. Các công ty này cũng đang rất tích cực tham gia vào thị trường logistics. Hầu hết theo đăng ký lĩnh vực kinh doanh của các đơn vị vận tải này là toàn bộ các hình thức, loại hình dịch vụ trong hoạt động logistics. Các dịch vụ kinh doanh chính gồm: Vận tải đa phương thức; Đại lí & Môi giới hàng hải; Gom hàng lẻ; Khai thuê hải quan & XNK; Vận tải hàng không, đường biển; vận chuyển nội địa……Tuy nhiên, thực tế phát triển hoạt động của từng đơn vị

GNVT lại tập trung vào mỗi thế mạnh của đơn vị đó. Có doanh nghiệp mạnh trong hướng phát triển dịch vụ hàng xuất nhập khẩu, làm đại lý vận tải cho các hãng tàu trên thế giới, có doanh nghiệp tập trung vào vận tải nội địa với đầu tư đội xe container….

Công ty TNHH DVVT Quốc tế Thiên Hải trụ sở tại TP.HCM, là đại lý giao nhận vận tải cung cấp cho khách hàng lựa chọn dịch vụ linh hoạt như: đại lý vận tải quốc tế, giao nhận vận tải đường biển, đường hàng không, dịch vụ kho bãi tại Hải

Phòng hoặc TP HCM, LCL & FCL. Công ty đã ký hơp đồng vận tải với các hãng tàu uy tín (Hanjin, Evergreen Line…vv.v) mạnh về các tuyến đi Shanghai, NewYork, Vancouver, Hamburg

Công ty CP đại lý vận tải SAFI đã nhanh chóng phát triển được dịch vụ đại lý vận tải đường biển, đường hàng không và gây dựng tiếng tăm trên thị trường trong nước cũng như tại các quốc gia trên thế giới với sự hỗ trợ đắc lực của mạng lưới đối tác toàn cầu. Mỗi năm, SAFI vận chuyển khoảng 10,000 TEUS và 2,200 lô hàng lẻ, xuất và nhập qua cảng Hải Phòng và cảng tại thành phố Hồ Chí Minh. Tổng hợp kinh doanh quý IV năm 2010, tổng lãi ròng đạt 3,66 tỷ đồng, lũy kế cả năm công ty mẹ thu về 20,35 tỷ đồng. Phần lớn các mặt hàng được vận chuyển sang thị trường chính là Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu Á. Miền Trung Việt Nam ngày càng trở thành địa điểm trọng yếu khi đóng vai trò là cửa ngõ lưu thông cho không chỉ hàng hóa xuất đi từ các tỉnh miền Trung mà còn cho hàng hóa quá cảnh từ Lào, quốc gia láng giềng của chúng ta. Thông qua chi nhánh tại Đà Nẵng, SAFI thực hiện tốt việc vận chuyển hàng hóa thông qua cửa ngõ miền Trung này. Nhằm tạo ra nhiều phương án lựa chọn cho khách hàng trong mùa cao điểm và giúp họ không phải tốn quá nhiều chi phí khi vận chuyển bằng đường không cũng như mất thời gian dài khi vận chuyển bằng đường biển, SAFI còn cung cấp dịch vụ vận tải kết hợp đường biển – đường không qua Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất và Singapore.

Công ty CP Giao nhận Vận tải Mỹ Á (ASL): Công ty vận chuyển hàng hóa đi các cảng chính trên thế giới với nhiều hình thức vận chuyển khác nhau. Công ty kinh doanh các dịch vụ chủ yếu như: Vận Chuyển đường hàng không và đường biển; Vận chuyển hàng lẻ đi Mỹ, Úc, Singapore, Châu Âu và các nước khác; Dịch vụ khai báo Hải quan; Dịch vụ đóng gói, đóng kiện, kho bãi và hậu cần; Khai thác xuất nhập khẩu và thương mại. Công ty đặt chi nhánh ở : Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương và Mỹ. Với sự hợp tác chặc chẽ với các đối tác tại Hoa Kỳ, ASL với mục tiêu trở thành một công ty chuyên cung cấp chuỗi dịch vụ vận chuyển chuyên nghiệp, luôn bắt kịp nhịp phát triển của nền kinh tế năng động trong nước và quốc tế. Công ty là hội viên của VCCI, VIFFAS, FIATA. Hiện nay công ty đã xây dựng xong hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000. Trên nền tảng này, tất cả các họat động tác nghiệp và quản lý dịch vụ của công ty đều được kiểm sóat bằng hệ thống quản lý chất lượng.

2.2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics của các doanh nghiệp GNVT Việt Nam trên thị trường miền Nam Việt Nam

2.2.3.1. Điểm mạnh Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam

Tư duy kinh doanh dịch vụ logistics đổi mới. Các doanh nghiệp GNVT Việt Nam trên thị trường miền Nam, trong những năm trở lại đây đều đã có những bước tiến đáng kể và tư duy đổi mới trong việc cung cấp các dịch vụ logistics. Điển hình trong ngành vận tải hàng hóa bằng đường biển, hàng không đều do phần lớn các doanh nghiệp trong nước đảm nhận. Nhiều khách hàng là các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp nước ngoài đã lựa chọn các doanh nghiệp logistics Việt Nam là nhà cung cấp dịch vụ.

Nguồn nhân lực trẻ, năng động. Đa phần các doanh nghiệp GNVT Việt Nam khu vực phía Nam là doanh nghiệp trẻ, do vậy nguồn nhân lực của các doanh nghiệp có điểm mạnh tuyết đối là nguồn nhân lực trẻ, năng động, ưa thích mạo hiểm và sẵn sàng chịu đựng thử thách cũng như rủi ro. Thị trường lao động trẻ mang lại tiềm năng nhân lực lớn nếu được đào tạo quy củ và bài bản. Về mặt trình độ, phần lớn khối nhân viên văn phòng làm trong các công ty dịch vụ logistics đều tốt nghiệp đại học, đây cũng là một thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực cho khối dịch vụ này.

Có sự quan tâm, hỗ trợ kịp thời của Nhà nước cho các doanh nghiệp GNVT Việt Nam. Trong việc cải tạo môi trường kinh doanh ngày càng phát triển như: cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật, các chính sách chế độ liên quan; hệ thống thông tin quốc gia;… Các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế phù hợp, nhất quán, đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hợp lý, linh hoạt sẽ tiếp tục được Chính phủ đưa ra. Trong vòng 5 năm gần đây, hàng loạt các dự án được Chính phủ phê duyệt như: Qui hoạch chi tiết nhóm cảng biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long (nhóm 6) theo Quyết định số 1024/QĐ-TTg ngày 27/9/2005 (vẫn còn hiệu lực); Quyết định phê duyệt Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội các tỉnh miền Đông Nam Bộ…; tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp vào khu vực.

Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Là vùng duy nhất hiện nay hội tụ đủ các điều kiện và lợi thế để phát triển công nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH); đặc biệt phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, tin học, công nghiệp dầu khí và sản phẩm hóa dầu; phát triển dịch vụ cao cấp, dịch vụ du lịch, dịch vụ viễn thông, tài chính, ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao. Vùng có hệ thống kết cấu hạ tầng khá đồng bộ; nguồn nhân lực dồi dào và có kỹ năng khá nhất, do đó là địa bàn có môi trường đầu tư hấp dẫn nổi trội. Đây là trung tâm đầu mối dịch vụ và thương mại tầm cỡ khu vực và quốc tế, đặc biệt là dịch vụ du lịch, dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, dịch vụ cảng…. Đã hình thành mạng lưới đô thị vệ tinh phát triển xung quanh thành phố Hồ Chí Minh, liên kết bởi các tuyến trục và vành đai thông thoáng. Vùng kinh tế phía

Nam là một vùng phát triển công nghiệp trọng yếu lớn nhất của cả nước, đã hình thành và liên kết mạng lưới các KCN tập trung và phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn và cơ bản như: khai thác và chế biến dầu khí, luyện cán thép, năng lượng điện, công nghệ tin học, hóa chất cơ bản, phân bón và vật liệu… làm nền tảng công nghiệp hóa của vùng và của cả nước. Đây là Vùng duy nhất hiện nay của cả nước hội tủ đủ điều kiện và lợi thế cho phát triển công nghiệp và dịch vụ để có tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững.

2.2.3.2. Điểm yếu Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam

Khó khăn về nguồn vốn đầu tư để phát triển logistics. Hầu hết các doanh nghiệp giao nhận vận tải miền Nam đều là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có tiềm lực hạn chế, chỉ có khả năng cung cấp các dịch vụ logistics đơn lẻ nên chưa đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn logistics nước ngoài. Trong khi đó, một trong những yếu tố quan trọng để phát triển logistics, đặc biệt là logistics toàn cầu là phải có tiềm lực tài chính để xây dựng hệ thống kho, bến bãi, mua sắm trang thiết bị, phương tiện vận chuyển, đầu tư xây dựng mạng lưới. Chính vì thế, đa số các công ty giao nhận vận tải Việt Nam chưa thực sự có tiềm lực mạnh để phát triển logistics.

Các doanh nghiệp kinh doanh logistics rời rạc, nhỏ lẻ. Doanh nghiệp GNVT Việt Nam nào cũng chỉ biết lợi ích của doanh nghiệp đó, thiếu sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Có nhiều khi, nhiều dịch vụ còn cạnh tranh với nhau một cách không lành mạnh. Những nguyên nhân này đã làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp GNVT Việt Nam với các đối tác nước ngoài ngay trên thị trường trong nước.

Mạng lưới hoạt động chủ yếu bó hẹp ở thị trường nội địa. Hầu hết các doanh nghiệp hiện chưa có văn phòng đại diện tại nước ngoài. Việc khai thác nguồn hàng hay việc gửi và nhận hàng từ nước ngoài về, các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam chủ yếu thông qua mối quan hệ đại lý với các tập đoàn logistics quốc tế. Điều này sẽ là trở ngại cho việc phát triển logistics của các công ty định hướng kinh doanh dịch vụ logistics toàn cầu. Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam

Việc nhận thức đúng, đủ về logistics của các doanh nghiệp GNVT Việt Nam trên thị trường miền Nam chưa cao. Phần lớn các doanh nghiệp cho rằng đơn thuần nghiệp vụ logistics chỉ là vận chuyển hàng hóa, lưu kho bãi hoặc các dịch vụ hải quan mà không tích hợp các dịch vụ giá trị gia tăng của chuỗi cung ứng. Chưa thấy hết ý nghĩa của logistics là đảm bảo cho các ngành kinh tế khác về thời gian, chất lượng hàng hóa, chi phí vận chuyển, bảo quản, phân phối hàng hóa, bởi vì nó tối ưu hóa các khâu trong chuỗi cung ứng, mang lại giá trị kinh tế cho các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics. Chính vì chưa có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng cũng như nguồn lợi nên các doanh nghiệp cũng như ngành chưa chú trọng đầu tư để phát triển nguồn nhân lực.

Thiếu nguồn nhân lực được đào tạo bài bản về giao nhận vận tải và logistics. Đội ngũ cán bộ quản lý hầu hết đã đạt trình độ đại học và đang được đào tạo hoặc tái đào tạo để dáp ứng nhu cầu quản lý. Tuy nhiên họ vẫn còn tồn tại phong cách quản lý cũ, lạc hậu, chưa thích ứng kịp điều kiện kinh doanh mới, chưa được trang bị toàn diện kiến thức về logistics cũng như quản trị logistics. Đội ngũ nhân viên nghiệp vụ phần lớn đã có bằng cấp, nhưng chưa được đào tạo chuyên sâu về logistics, tất cả đều phải tự nâng cao trình độ. Đội ngũ lao động trực tiếp trình độ học vấn còn thấp nên họ rất mơ hồ với hoạt động logistics. Công việc của họ đơn thuần chỉ là bốc xếp, kiểm đếm, lái xe, giao nhận hàng hóa và sử dụng sức người nhiều hơn máy móc. Hiện tại, chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng còn yếu, thiếu các kiến thức chuyên sâu về logistics. Đào tạo về logistics chưa thành một chuyên ngành mà chủ yếu là một vài học phần giới thiệu về dịch vụ vận tải và giao nhận đường biển hoặc dịch vụ khai quan đơn giản trong nghiệp vụ xuất nhập khẩu.

Hạ tầng cơ sở logistics của miền Nam còn nghèo nàn và bố trí bất hợp lý.

Nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng mới, có qui hoạch, đồng bộ, tất cả vẫn đều đang là các dự án vừa triển khai nhưng chưa đi vào hoạt động, hoặc đang xây dựng hoặc đang chờ được phê duyệt….phải mất một khoảng thời gian dài hơi nữa có thể 5 năm – 10 năm…. Việt Nam nói chung và thị trường miền Nam nói riêng có cơ sở hạ tầng kém, bất cập và đang xuống cấp nghiêm trọng là do tần suất sử dụng quá lớn. Hiện tại chỉ có một số cảng cảng biển có thể tham gia vào việc vận chuyển hàng hóa quốc tế, các cảng đang trong quá trình container hóa nhưng chưa được trang bị các phương tiện xếp dỡ hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm điều hành xếp dõ container nên chỉ có thể tiếp nhận các tàu loại nhỏ. Đường hàng không hiện cũng không đủ phương tiện để chở hàng vào mùa cao điểm. Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất chưa có nhà ga hàng hóa và khu vực dành riêng cho các công ty logistics gom hàng và khai quan với đầy đủ tiện nghi như Singapore và Thái Lan. Vận tải bộ và đường sắt còn rất nhiều bất cập. Về chất lượng tính riêng quốc lộ chỉ có 47% là đường chất lượng cao và trung bình còn 53% là đường cấp thấp. Nhiều tuyến đường liên tỉnh, liên huyện đang ở tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Đường sắt Việt Nam vẫn đang đồng thời sử dụng hai loại khổ đường ray khác nhau (1m và 1,435 m) với tải trọng thấp. Chuyến tàu nhanh nhất Hà Nội – Hồ Chí Minh (1.630 km) hiện vẫn chạy mất 32 giờ. Đường sắt Việt Nam mới chú trọng chỉ vận chuyển hành khách, vẫn còn hiện tượng tàu chạy không có hàng. Hệ thống kho bãi cũng rất thiếu về lượng và yếu về chất.

Hệ thống thông tin logistics còn lạc hậu và kém hiệu quả. Có thể nói hệ thống thông tin là mạch máu tim của hoạt động logistics. Quản trị logistics bao gồm cả quản trị dòng vật lý lẫn dòng thông tin và nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì chưa phải là hoạt động logistics thực sự. Hiện nay, hầu hết các công ty giao nhận vận tải Việt Nam trên thị trường miền Nam Việt Nam vẫn chủ yếu sử dụng hệ thống thông tin truyền thống (điện thoại, fax, email) để trao đổi thông tin, gửi và nhận chứng từ, và rất ít công ty có phần mềm hay hệ thống thông tin kết nối với các đối tác của riêng mình.

Cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Logistics là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt, có thể mang lại lợi nhuận siêu ngạch, nên thời gian gần đây ở Việt Nam lượng đăng ký kinh doanh lĩnh vực này gia tăng ngày càng nhiều. Tỷ lệ nghịch với sự gia tăng đó là qui mô hoạt động và phát triển phần lớn các doanh nghiệp là nhỏ, hoạt động rời rạc, đơn lẻ, mỗi doanh nghiệp chỉ biết đến lợi ích của riêng mình, thiếu hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau tạo nên cuộc cạnh tranh khốc liệt chủ yếu cạnh tranh về giá. Gia nhập WTO, cuộc cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn.

Thể chế, chính sách Nhà nước với ngành logistics chưa rõ ràng, còn thiếu và chưa đồng bộ. Không đồng bộ, bất cập, chưa tạo điều kiện hỗ trợ ngành logistics non trẻ phát triển. Những năm qua nước ta đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và các bộ luật. Cho nên hành lang pháp lý qui định về phát triển dịch vụ logistics chưa hoàn thiện.

Hàng loạt bất cập trong hoạt động logistics tại Việt Nam vẫn là bài toán chưa có lời giải từ lâu: hoạt động thông quan hàng hoá tại Hải quan kém hiệu quả, thủ tục giấy tờ hải quan rườm rà …là những khó khăn “cố hữu” và là rào cản đối với Việt Nam trong lộ trình hội nhập khu vực logistics ASEAN”. Do vậy, sự nhất quán về luật pháp, hài hoà hoá và tiêu chuẩn hoá các quy định, thủ tục sẽ rất quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dịch vụ logistics Việt Nam phát triển.

Bảng 2-6: Tổng hợp điểm mạnh và điểm yếu về dịch vụ logistics cho các doanh nghiệp GNVT Việt Nam trên thị trường miền Nam

Tóm lại, với 4 điểm mạnh và 9 điểm yếu được nêu trên có thể thấy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp GNVT Việt Nam tham gia chuỗi dịch vụ logistics trên thị trường miền Nam Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Việc đánh giá năng lực, qui mô và tiềm lực của các doanh nghiệp GNVT Việt Nam trên thị trường miền Nam Việt Nam là cơ sở để tìm ra các giải pháp quan trọng mang tính khả thi nhằm giúp các doanh nghiệp phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ logistics của mình trên thị trường quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, qua đó góp phần phát triển kinh tế – xã hội khu vực và cả nước.

Chương 2, Luận văn đã tập trung phân tích và đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế – xã hội khu vực miền Nam và thực trạng tham gia kinh doanh dịch vụ logistics của các công ty GNVT trên thị trường miền Nam Việt Nam thông qua xem xét tổng quan một số doanh nghiệp điển hình trên địa bàn. Qua đó chỉ ra được những điểm mạnh và điểm yếu còn tồn tại trong thực tế hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics trên thị trường miền Nam. Đây là những cơ sở quan trọng để đề xuất những giải pháp cho sự phát triển dịch vụ logistics cho các doanh nghiệp GNVT Việt Nam trên thị trường miền Nam trong Chương 3. Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của GNVT Việt Nam

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Luận văn: Giải pháp phát triển kinh doanh dịch vụ logistics

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x