Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang – Thực trạng và giải pháp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.2. Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
2.2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Bắc Giang có tác động đến hoạt động công chứng
2.2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang nằm ở toạ độ địa lý từ 21007’ đến 21037’ vĩ độ bắc; từ 105053’ đến 107002’ kinh độ đông; nằm chuyển tiếp giữa các tỉnh phía Đông Bắc với các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Thủ đô Hà Nội. Phía Nam giáp các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Tây giáp Thủ đô Hà Nội và tỉnh Thái Nguyên. Tỉnh có 9 huyện và thành phố Bắc Giang, trong đó có 6 huyện miền núi và 1 huyện vùng cao, với 230 xã, phường, thị trấn. Vị trí của tỉnh nằm trên hành lang kinh tế Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, cạnh tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh) rất thuận lợi cho việc phát triển và liên kết vùng. Thành phố Bắc Giang (thủ phủ của tỉnh) cách Thủ đô Hà Nội 50km; cách cửa khẩu Hữu Nghị Quan sang Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 110 km; cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km; cách cảng biển Hải Phòng và cảng biển nước sâu Cái Lân – Quảng Ninh 130 km. Từ đây có thể dễ dàng thông thương với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Những đặc điểm do điều kiện tự nhiên mang lại có tác động nhất định đến sự phát triển kinh – tế xã hội và đến hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh. Với vị trí địa lý nằm cách thủ đô Hà Nội – trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của cả nước không xa, khoảng 50 km, nên Bắc Giang có điều kiện thuận lợi trong việc cử cán bộ, công chức tham gia các buổi tọa đàm, thảo luận, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức học hỏi, trao đổi kinh nghiệm; thuận lợi cho việc cử công chức, viên chức hoặc các cá nhân tự tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn công chứng viên, phát triển tổ chức hành nghề công chứng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2.2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế – xã hội của tỉnh Bắc Giang Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang là một tỉnh miền núi nhưng có cả vùng trung du, đồng bằng xen kẽ. Lợi thế kinh tế của tỉnh là nông, lâm nghiệp, thương mại, dịch vụ, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp. Nông, lâm nghiệp đang có sự chuyển dịch cơ cấu một cách tích cực. Tiến bộ khoa học kỹ thuật không ngừng được ứng dụng, nhất là việc đưa giống mới, phương pháp canh tác mới. Tốc độ tăng tỷ trọng nông sản hàng hoá mỗi năm đều tăng. Những cây trồng có giá trị kinh tế cao đã được phát triển, mở rộng ngày một nhanh hơn. Chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp cùng với nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục có những bước phát triển rất khả quan. Dịch vụ nông nghiệp không ngừng phát triển đến tận các thôn bản, xóm làng vùng cao, hẻo lánh. Thương mại dịch vụ phát triển nhanh trong nền kinh tế thị trường, nhiều chợ nông thôn đã được khôi phục, mở rộng hoặc nhanh chóng hình thành. Các thị trấn, thị tứ ngày càng sầm uất thêm. Công nghiệp là ngành kinh tế có nhiều tiềm năng của tỉnh. Khu công nghiệp Đình Trám rộng hơn 100 ha đã được các nhà đầu tư vào gần kín, ngoài ra còn gần 10 cụm công nghiệp tại các huyện, thị xã đã và đang đi vào hoạt động hoặc đang thiết kế quy hoạch hoàn chỉnh. Từ khi tỉnh có văn bản khuyến khích ưu đãi đầu tư trên địa bàn, sau một năm đã có 114 nhà đầu tư đăng ký với tổng số vốn hơn 1.187 tỷ đồng, trong đó 57 dự án đầu tư đã được chấp thuận. Các làng nghề truyền thống ngày càng được khôi phục và phát triển như: mây tre đan Tăng Tiến, tơ tằm Song Mai, bún Đa Mai, rượu làng Vân, mì Chũ, bánh đa Kế…
Về điều kiện xã hội: Hiện Bắc Giang có dân số hơn 1,6 triệu người, có trên 20 dân tộc, trong đó: Dân tộc kinh chiếm đa số (88%), còn lại các dân tộc thiểu số khác chiếm 12%, gồm: Nùng (4,96%), Tày (2,57%), Sán dìu (1,77%), Hoa (1,2%), Sán cháy (1,67%)… Lực lượng lao động có khoảng một triệu người, chiếm 70 % dân số, đây là tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Cơ cấu nhân lực theo trình độ chuyên môn kỹ thuật chuyển dịch theo hướng tích cực phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, tỷ trọng người lao động chưa qua đào tạo trong thành phần lao động tham gia các ngành kinh tế quốc dân giảm dần, người lao động qua đào tạo các trình độ và đặc biệt là người lao động có trình độ từ đại học trở lên tăng cao với tốc độ tương đối nhanh. Bắc Giang được đánh giá là địa phương có hoạt động giáo dục phát triển vào loại khá trong cả nước. Nằm trong vùng Kinh Bắc giàu truyền thống văn hoá, Bắc Giang được đánh giá là địa danh có nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể. Hai di sản hát Quan họ và Ca trù trên địa bàn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá Thế giới. Có 341 điểm di tích văn hoá được xếp hạng như: khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám, chùa Đức La, chùa Bổ Đà, khu di tích Đình chùa Tiên Lục và cây Dã Hương ngàn năm tuổi, v.v. những điểm này rất hấp dẫn khách tham quan và nghiên cứu. Hàng năm có hàng trăm lễ hội dân gian diễn ra trên địa bàn, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Con người Bắc Giang hiền hậu, mến khách, trọng nghĩa tình, luôn khát khao phát triển.
Kinh tế là yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng, trong mối quan hệ với kiến trúc thượng tầng, kinh tế luôn giữ vai trò quyết định. Nằm trong mối quan hệ đó, các yếu tố thuộc về điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương cũng luôn có sự tác động qua lại và ảnh hưởng lớn đến hoạt động công chứng. Sự ảnh hưởng đó thể hiện ở chỗ: Để đẩy mạnh phát triển kinh tế, các cá nhân, tổ chức phải tăng cường các hoạt động giao dịch về các mặt dân sự, kinh tế, thương mại…, từ đó phát sinh ra các hợp đồng, giao dịch cần phải công chứng. Ngược lại, việc tăng cường các hoạt động giao lưu kinh tế sẽ tạo đà thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Thực tế trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, các quan hệ xã hội của cá nhân, cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cũng được mở rộng. Số lượng hợp đồng, giao dịch được công chứng cũng tăng theo từng năm. Điều đó chứng tỏ rằng, kinh tế xã hội phát triển thì số lượng việc công chứng cũng tăng và việc công chứng tăng cũng góp phần tích cực vào sự phát triển của các hoạt động kinh tế, xã hội.
Bảng 2.1: Diện tích, dân số, tốc độ tăng trưởng kinh tế các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
2.2.2. Thực trạng về công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
Trong thời gian qua, hoạt động công chứng trên cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng đã có những bước phát triển, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, khẳng định ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò quan trọng của công chứng trong đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về công chứng của tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời là công cụ đắc lực phục vụ quản lý nhà nước có hiệu quả, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch, góp phần tích cực vào việc phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói việc phát triển tổ chức hành nghề công chứng và đội ngũ công chứng viên là kết quả nổi bật nhất của việc thực hiện Luật Công chứng từ năm 2007 đến nay. Trước khi Luật Công chứng ra đời, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang chỉ có 02 Phòng Công chứng. Thực hiện chủ trương xã hội hóa công chứng, tỉnh đã có nhiều biện pháp khuyến khích nhằm thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức hành nghề công chứng. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 13 tổ chức hành nghề công chứng (gồm 02 Phòng công chứng và 11 Văn phòng công chứng). Có 07/10 huyện, thành phố đã có tổ chức hành nghề công chứng là thành phố Bắc Giang (06 tổ chức, gồm Phòng công chứng số 1 và 05 Văn phòng công chứng), huyện Lục Ngạn (02 tổ chức, gồm Phòng công chứng số 2 và 01 Văn phòng công chứng), huyện Lục Nam (01 Văn phòng công chứng), huyện Tân Yên (01 Văn phòng công chứng), huyện Việt Yên (01 Văn phòng công chứng), huyện Hiệp Hoà (01 Văn phòng công chứng), huyện Lạng Giang (01 Văn phòng công chứng).
Cùng với việc phát triển về số lượng, các Văn phòng công chứng đã chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ. Tại trụ sở các Văn phòng công chứng đều thực hiện việc niêm yết các danh mục, quy định hồ sơ yêu cầu công chứng và công khai, minh bạch mức thu phí công chứng để khách hàng có thể thực hiện giao dịch dễ dàng. Các tổ chức hành nghề công chứng có đội ngũ chuyên viên giúp việc được đào tạo bài bản, có trình độ cử nhân chuyên ngành luật, vì vậy việc công chứng các giao dịch, hợp đồng được thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng có tính chuyên nghiệp cao, đảm bảo tính chính xác, tuân thủ pháp luật, hồ sơ văn bản công chứng được lưu giữ khoa học, đầy đủ. Thông qua quá trình tác nghiệp, các tổ chức hành nghề công chứng đã tích cực tuyên truyền, tư vấn cho cá nhân, tổ chức những quy định của pháp luật, nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật cho người dân. Nhìn chung, hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng đã đáp ứng được nhu cầu công chứng của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, quy mô tổ chức và hoạt động công chứng cũng từng bước phát triển theo hướng chuyên nghiệp.
Việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng trong thời gian qua đã từng bước hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa công chứng, việc phát triển đúng lộ trình được phê duyệt đã giảm áp lực lên bộ máy chính quyền cơ sở, tạo điều kiện cho người dân có thêm sự lựa chọn trong việc thực hiện yêu cầu công chứng, tính an toàn pháp lý trong các hợp đồng, giao dịch được đảm bảo cao hơn. Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
Về đội ngũ công chứng viên, trước khi Luật Công chứng năm 2006 có hiệu lực, tỉnh Bắc Giang có 06 công chứng viên. Để chuẩn bị cho việc phát triển đội ngũ công chứng viên đáp ứng yêu cầu xã hội hóa công chứng, Ủy ban nhân dân tỉnh đã thực hiện các biện pháp tăng cường đội ngũ công chứng viên như cử cán bộ tham gia khóa đào tạo nghiệp vụ công chứng, khuyến khích, tạo điều kiện cho những người thuộc đối tượng được miễn đào tạo, đề nghị bổ nhiệm công chứng viên theo quy định. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 27 công chứng viên, trong đó có 06 công chứng viên hoạt động tại các Phòng công chứng số 1 và số 2; 21 công chứng viên hoạt động tại các Văn phòng công chứng, mỗi Văn phòng công chứng có từ 01 đến 03 công chứng viên. Trong số 27 công chứng viên thì có 15 người đã qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng, 12 người thuộc diện được miễn đào tạo nghề công chứng theo quy định tại Điều 15 Luật Công chứng năm 2006; những công chứng viên này là các thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên và luật sư, sau khi nghỉ công tác hoặc thôi làm luật sư chuyển sang hoạt động hành nghề công chứng và được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Với những điều kiện như trên và những biện pháp khuyến khích phát triển đội ngũ công chứng viên của tỉnh đã góp phần nâng cao số lượng đội ngũ công chứng viên, đáp ứng yêu cầu của tổ chức, cá nhân ở những địa bàn có tổ chức hành nghề công chứng.
2.2.3. Thực trạng, kết quả thực hiện các thủ tục công chứng
Tính từ khi Luật Công chứng năm 2006 có hiệu lực (ngày 01/7/2007) đến hết tháng tháng 12/2014, các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh đã công chứng 105.429 hợp đồng, giao dịch; thu phí 19.943.967.000 đồng; nộp ngân sách nhà nước 4.547.017.000 đồng.
Với sự phát triển của các tổ chức hành nghề công chứng trải đều trên các địa bàn, việc công chứng của tổ chức, công dân được thực hiện nhanh chóng, thuận lợi hơn. Các văn phòng công chứng với nhiệm vụ thực hiện dịch vụ hành chính công đã tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức. Nếu như trước đây, việc xác nhận các hợp đồng, giao dịch chủ yếu do UBND cấp xã thực hiện, với số lượng cán bộ ít, trình độ còn hạn chế, tính chuyên nghiệp không cao, thì nay việc xác nhận do công chứng viên, những người được đào tạo bài bản, thực hiện hoạt động công chứng một cách chuyên nghiệp, do vậy chất lượng của việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch được nâng lên, quyền, nghĩa vụ của người tham gia hợp đồng giao dịch được bảo đảm hơn.
Bảng 2.3: Số hợp đồng, giao dịch đã công chứng
2.2.4. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về công chứng Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
2.2.4.1. Công tác chỉ đạo, triển khai các văn bản pháp luật về công chứng
Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành
Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động công chứng, sau khi Luật Công chứng có hiệu lực, ngày 20/3/2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã tổ chức Hội nghị triển khai thi hành Luật Công chứng đến đối tượng là lãnh đạo các Sở, ngành cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và các tổ chức, cá nhân có liên quan, đồng thời chỉ đạo các cơ quan tích cực tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng những nội dung cơ bản của Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành bằng nhiều hình thức phong phú, hiệu quả nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân đối với hoạt động công chứng. Qua đó Luật Công chứng đã được triển khai đồng bộ và sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh và được các cơ quan, tổ chức liên quan triển khai thực hiện có hiệu quả, nhận thức của các cơ quan, tổ chức và nhân dân về ý nghĩa, vai trò của hoạt động công chứng đã có sự chuyển biến tích cực.
Công tác ban hành các văn bản triển khai Luật Công chứng và văn bản liên quan
Nhằm triển khai thi hành đồng bộ và hiệu quả pháp luật tại địa phương, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã chỉ đạo các cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp triển khai sâu rộng các nội dung theo quy định của Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành tại địa phương.
Theo đó, để chuẩn bị tiếp nhận việc chuyển giao chứng thực hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp lập kế hoạch và chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất và con người cho các Phòng Công chứng; xây dựng trụ sở Phòng công chứng số 1; phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện Lục Ngạn bố trí nơi làm việc cho Phòng công chứng số 2 ở vị trí thuận tiện và trang bị đầy đủ điều kiện cơ sở vật chất để đáp ứng đủ yêu cầu công chứng của tổ chức, cá nhân.
Nhằm tạo cơ sở cho việc xã hội hóa hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, căn cứ tình hình thực tiễn của địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 09/4/2009 phê duyệt Đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009-2020 làm cơ sở cho việc thành lập các tổ chức hành nghề công chứng và từng bước chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã cho các tổ chức hành nghề công chứng. Mục tiêu của Đề án là xây dựng và phát triển mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng mang tính ổn định và bền vững, đáp ứng yêu cầu xã hội hoá hoạt động công chứng, đảm bảo sự phát triển hài hoà, hợp lý, vừa đáp ứng yêu cầu công chứng của tổ chức, công dân, vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động công chứng, nâng cao chất lượng hoạt động công chứng, bảo vệ tốt quyền, lợi ích hợp pháp, an toàn pháp lý cho các giao dịch, góp phần tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2015 toàn tỉnh có 16 tổ chức hành nghề công chứng; đến năm 2020 có 30 tổ chức hành nghề công chứng, mỗi huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã có ít nhất 02 tổ chức hành nghề công chứng. Kết hợp việc phát triển tổ chức hành nghề công chứng với phát triển số lượng công chứng viên, phát triển quy mô, nâng cao chất lượng tổ chức hành nghề công chứng.
Để đảm bảo Quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đến năm 2020 phù hợp với Quyết định số 2140/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang đã chỉ đạo tổng kết thực hiện Đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ban hành theo Quyết định số 27/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh, đồng thời chỉ đạo rà soát, chỉnh sửa quy hoạch của tỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm thực hiện tốt quy định của Chính phủ về phát triển tổ chức hành nghề công chứng, đảm bảo sự phát triển ổn định bền vững của các tổ chức hành nghề công chứng.
2.2.4.2. Một số kết quả trong hoạt động quản lý nhà nước về công chứng Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
Về xây dựng hệ thống cơ quan quản lý, người làm công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng
Theo quy định của Luật Công chứng, cơ quan có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng ở địa phương là Ủy ban nhân dân tỉnh và Sở Tư pháp. Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng, theo các nội dung trên và theo sự chỉ đạo của UBND tỉnh.
Ngoài ra, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan như: Hội Đồng nhân dân thực hiện chức năng giám sát, Công an tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân tỉnh thực hiện chức năng tố tụng liên quan đến hoạt động công chứng…
Về người làm công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng: Để tham mưu, giúp Giám đốc Sở Tư pháp quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng trên địa bàn tỉnh, ngày 19/10/2009 Sở Tư pháp Bắc Giang đã thành lập Phòng Bổ trợ tư pháp. Phòng Bổ trợ tư pháp được thành lập trên cơ sở chia tách từ Phòng Hành chính tư pháp và Bổ trợ tư pháp thuộc Sở Tư pháp. Phòng Bổ trợ Tư pháp hiện có 03 biên chế gồm 01 Trưởng phòng và 02 chuyên viên. Các công chức thuộc Phòng Bổ trợ tư pháp đều có trình độ cử nhân luật, 02/03 công chức đã qua khóa bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng để có thể hiểu sâu về hoạt động công chứng và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng. Bên cạnh đó, Thanh tra Sở Tư pháp là đơn vị thanh tra chuyên ngành, giúp lãnh đạo Sở thực hiện nhiệm vụ thanh tra lĩnh vực tư pháp, trong đó có hoạt động công chứng. Thanh tra Sở Tư pháp hiện nay có 02 công chức đều là thanh tra viên. Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
Việc chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
Hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ là hoạt động quan trọng trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng. Hàng năm, Sở Tư pháp đều tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chứng viên, đồng thời phối hợp với Học viên Tư pháp tổ chức cho các chuyên viên tham gia các lớp đào tạo nghiệp vụ công chứng. Trong hơn bảy năm từ khi Luật Công chứng có hiệu lực đã tổ chức được 07 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, cử và giới thiệu 30 lượt cán bộ, chuyên viên pháp luật tham gia lớp đào tạo nghiệp vụ công chứng do Học viện Tư pháp tổ chức. Bên cạnh đó, định kỳ mỗi quý một lần, Sở Tư pháp tổ chức giao ban với các tổ chức hành nghề công chứng nhằm nắm bắt tình hình hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, phổ biến những thông tin, kiến thức, văn bản pháp luật mới, nắm bắt và kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động công chứng, đảm bảo hoạt động công chứng tuân thủ đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, giao dịch. Trên cơ sở nắm bắt thực tế hoạt động công chứng cũng như qua thanh tra, kiểm tra, Sở Tư pháp cũng ban hành các văn bản hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp, giải đáp những vướng mắc liên quan đến tổ chức và hoạt động công chứng.
Về thực hiện chủ trương chuyển giao các hợp đồng, giao dịch từ Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng
Trên cơ sở tình hình phát triển các tổ chức hành nghề công chứng, Sở Tư pháp đã chủ động tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang các tổ chức hành nghề công chứng theo nguyên tắc: ở đâu có tổ chức hành nghề công chứng và tổ chức hành nghề công chứng đảm đương được nhiệm vụ công chứng thì thực hiện chuyển giao. Trên cơ sở đó, ngày 09/4/2009 Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 27/QĐ-UBND phê duyệt Đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định chuyển giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân thành phố Bắc Giang, Ủy ban nhân dân huyện Lục Ngạn và toàn bộ các xã, phường trên địa bàn thành phố Bắc Giang; 07 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Lục Ngạn, gồm: thị trấn Chũ và các xã: Trù Hựu, Thanh Hải, Nghĩa Hồ, Hồng Giang, Quý Sơn, Phượng Sơn sang các tổ chức hành nghề công chứng. Căn cứ tình hình phát triển và khả năng đáp ứng nhu cầu công chứng của các tổ chức hành nghề công chứng, ngày 03/7/2014 Ủy ban nhân dân tỉnh tiếp tục ban hành Quyết định số 404/QĐ-UBND và ngày 28/8/2014 ban hành Quyết định số 567/QĐ-UBND về việc chuyển giao thẩm quyền công chứng, chứng thực, theo đó việc chứng thực hợp đồng, giao dịch của Ủy ban nhân dân các huyện Việt Yên, Lạng Giang, Lục Nam và Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn: Nếnh, Bích Sơn, Trung Sơn, Quang Châu (huyện Việt Yên); Vôi, Phi Mô, Yên Mỹ (huyện Lạng Giang); Đồi Ngô, Tiên Hưng, Chu Điện (huyện Lục Nam) được chuyển sang cho các tổ chức hành nghề công chứng. Để đảm bảo hoạt động công chứng diễn ra ổn định, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân, việc chuyển giao thẩm quyền công chứng, chứng thực thực hiện trên nguyên tắc chỉ chuyển giao đối với những địa bàn cấp huyện có ít nhất 02 tổ chức hành nghề công chứng, hoặc tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn có ít nhất 02 công chứng viên, như vậy việc thực hiện công chứng sẽ đảm bảo tuân thủ quy định và theo lộ trình phù hợp với tình hình của địa phương, đảm bảo quyền lợi của người có nhu cầu công chứng. Đối với những địa bàn còn lại, cá nhân, tổ chức có nhu cầu công chứng có quyền lựa chọn chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã hoặc công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh.
Để đảm bảo cho việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện đối với địa bàn các huyện còn lại, Ủy ban nhân dân tỉnh cũng chỉ đạo các Văn phòng công chứng tiếp tục kiện toàn tổ chức, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc đạt mức tối thiểu theo quy định tại Nghị định số 04/2012/NĐ-CP của Chính phủ, mỗi Văn phòng công chứng có ít nhất 02 công chứng viên trở lên.
Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động công chứng Thanh tra và kiểm tra là những hoạt động thiết yếu, thường xuyên của công tác quản lý Nhà nước, ở đâu có quản lý thì ở đó có thanh tra, kiểm tra. Đối với hoạt động công chứng, công tác thanh tra, kiểm tra được triển khai thường xuyên nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai phạm, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động công chứng. Với trách nhiệm là cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động công chứng, hàng năm, Sở Tư pháp đều xây dựng các kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đảm bảo 100% các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh đều được thanh tra, kiểm tra. Yêu cầu về thanh tra, kiểm tra được xác định tập trung vào các nội dung như: việc đảm bảo các điều kiện về trụ sở, cơ sở vật chất cho hoạt động công chứng; việc bố trí nhân sự, thực hiện các quy định của pháp luật về lao động đối với người lao động của tổ chức hành nghề công chứng; việc niêm yết và tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục, phí công chứng; việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước…
Từ năm 2007 đến nay, Sở Tư pháp đã tổ chức 45 đợt thanh tra, kiểm tra đối với tổ chức hành nghề công chứng. Qua thanh tra, kiểm tra cho thấy, nhìn chung các Văn phòng công chứng đã có trụ sở, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thực hiện công chứng; thực hiện mở sổ sách tài chính – kế toán, đăng ký mã số thuế, sử dụng hóa đơn tài chính và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước theo quy định của pháp luật. Các Văn phòng công chứng đã được hoàn thiện về tổ chức, bộ máy, cũng như đầu tư cơ sở vật chất và giải quyết một lượng lớn các yêu cầu công chứng của công dân, tổ chức. Đội ngũ nhân viên của các Văn phòng công chứng cơ bản đều có trình độ chuyên môn phù hợp, được tuyển chọn và sử dụng trên cơ sở hiệu quả làm việc thực tế. Trình tự, thủ tục thực hiện công chứng cơ bản tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì hoạt động công chứng cũng còn những tồn tại, hạn chế như: việc thực hiện công chứng ngoài trụ sở không đúng đối tượng theo quy định của pháp luật; một số trường hợp công chứng hợp đồng, giao dịch chưa tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục công chứng; thu phí và thu lao công chứng không đúng quy định; thực hiện công chứng trong trường hợp nội dung của hợp đồng, giao dịch vi phạm pháp luật…
Trên cơ sở kết quả thanh tra, kiểm tra, Sở Tư pháp Bắc Giang đã thu hồi giấy đăng ký hoạt động đối với 01 văn phòng công chứng, tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với một số văn phòng công chứng có vi phạm theo quy định của pháp luật, đồng thời kiến nghị các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với tổ chức hành nghề công chứng. Với những kết quả đã đạt được, công tác thanh tra, kiểm tra đã góp phần chấn chỉnh hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, đảm bảo cho hoạt động này tuân thủ các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch.
2.2.5. Đánh giá chung về hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
2.2.5.1. Ưu điểm
Để các văn bản pháp luật về công chứng có thể đến được với người dân, công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được triển khai mạnh mẽ. Cùng với các văn bản pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương, tỉnh Bắc Giang cũng ban hành nhiều văn bản nhằm triển khai thi hành Luật Công chứng. Đặc biệt Đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2009 – 2020 và các quyết định chuyển giao thẩm quyền chứng thực từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng đã là những cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện chủ trương xã hội hóa công chứng, đảm bảo cho việc thực hiện chủ trương phát triển tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên.
Xã hội hóa hoạt động công chứng cơ bản đã được tích cực triển khai thực hiện tại địa phương. Mô hình Phòng công chứng do Nhà nước thành lập, hoạt động vẫn được tiếp tục duy trì, củng cố và phát triển, hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp công, việc phát triển Văn phòng công chứng do công chứng viên thành lập được đẩy mạnh, đã góp phần phục vụ kịp thời nhu cầu công chứng của nhân dân, trong khi không đòi hỏi sự đầu tư về nhân lực và tài lực của nhà nước, hiện tượng ùn tắc, quá tải, “cò” công chứng không còn. Việc cho phép thành lập các Văn phòng công chứng góp phần giảm bớt gánh nặng cho biên chế và ngân sách nhà nước, tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương, giải quyết công việc cho nhiều lao động, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, góp phần nâng cao nghiệp vụ, chất lượng phục vụ người dân của các công chứng viên.
Sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức hành nghề công chứng phụ thuộc vào chất lượng công chứng văn bản, sự nhanh chóng, thuận tiện, chính xác trong hoạt động công chứng của mình, do đó đã khơi dậy tính chủ động, tích cực và ý thức trách nhiệm của công chứng viên khi thực hiện nhiệm vụ. Các tổ chức hành nghề công chứng đều lấy yếu tố “phục vụ khách hàng” là tiêu chí hàng đầu và là một trong những yếu tố để cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động công chứng.
Hoạt động công chứng được phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa. Hoạt động công chứng có tác động tích cực đến kinh tế – xã hội. Những kết quả bước đầu thu được từ chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng đã tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp. Việc xã hội hóa công chứng đã tạo điều kiện thuận tiện cho người dân trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt, hoạt động công chứng đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, nhà ở – lĩnh vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp. Với việc xã hội hóa, công chứng trở thành lá chắn hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiểu gánh nặng pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Kết quả hoạt động công chứng trong thời gian vừa qua đã khẳng định rõ vai trò của công chứng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp công dân, tổ chức góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bằng việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, công chứng đã góp phần tích cực vào việc quản lý các hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa, hạn chế các tranh chấp, vi phạm pháp luật, tạo sự ổn định cho các hoạt động giao dịch, hạn chế tối đa hậu quả đáng tiếc và không đáng có xảy ra trong các quan hệ dân sự, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, bảo đảm dân chủ, công bằng, giữ vững ổn định trong giao lưu dân sự, đồng thời bảo đảm cho các tranh chấp phát sinh có cơ sở pháp lý để giải quyết theo hướng tích cực và tạo lối ra an toàn cho các tranh chấp đó. Các cơ quan xét xử lấy đó làm cơ sở pháp lý để giải quyết vụ tranh chấp được an toàn, nhanh chóng.
Thực tiễn triển khai xã hội hóa hoạt động công chứng đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương này. Hệ thống pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng đã bước đầu biểu hiện tính phù hợp, được đồng tình, đón nhận, thước đo của sự phù hợp này chính là mức độ hài lòng của người dân, sự đóng góp vào quá trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, sự phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ hội nhập.
Những kết quả nêu trên thể hiện sự tích cực, chủ động của các chủ thể pháp luật công chứng trong đó có các cơ quan quản lý nhà nước, công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng và đông đảo tổ chức, cá nhân trong việc triển khai thực hiện pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng. Đồng thời cũng thể hiện sự phù hợp tương đối của hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về xã hội hóa hoạt động công chứng và thực tiễn ở địa phương.
Nguyên nhân của ưu điểm
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động công chứng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, đồng thời quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng. Trước hết phải kể đến đó là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó đã chỉ rõ: Hoàn thiện chế định công chứng, xác định rõ phạm của công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, xây dựng mô hình quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa hoạt động công chứng. Thể chế hóa định hướng nêu trên, ngày 29/11/2006 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật công chứng là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động công chứng. Và để triển khai thi hành Luật Công chứng, Chính phủ, các cơ quan ngang bộ đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện Luật Công chứng. Với sự định hướng của Đảng và việc hoàn thiện các quy định pháp luật về công chứng nêu trên là một trong những nguyên nhân quan trọng mang đến cho hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh nói riêng và toàn quốc nói chung những chuyển biến mạnh mẽ, tạo cơ sở cho sự phát triển của tổ chức và hoạt động công chứng.
Sự tích cực của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương trong việc triển khai Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng là một yếu tố đảm bảo sự triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật về công chứng. Ngay sau khi Luật công chứng được ban hành, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện, đồng thời đẩy mạnh việc tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của chính quyền và nhân dân đối với hoạt động công chứng. Với các biện pháp khuyến khích phù hợp đã góp phần phát triển số lượng các tổ chức hành nghề công chứng và đội ngũ công chứng viên. Hoạt động thanh tra, kiểm tra được đẩy mạnh góp phần làm lành mạnh hóa hoạt động công chứng, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng.
2.2.5.2. Tồn tại, hạn chế Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang còn một số tồn tại, hạn chế như sau:
Về tổ chức hành nghề công chứng
Việc triển khai thi hành pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng chưa đồng bộ, có tình trạng phát triển nhanh, nóng về số lượng Văn phòng công chứng, cá biệt ở thành phố Bắc Giang phát triển 06 tổ chức hành nghề công chứng trên một địa bàn cấp huyện. Ngược lại, một số địa phương lại chưa phát triển được Văn phòng công chứng. Nhìn chung, nhận thức về xã hội hóa công chứng gắn với quản lý việc thành lập, phát triển tổ chức hành nghề công chứng theo quy hoạch còn bất cập. Hiện nay sự phân bố các tổ chức hành nghề công chứng tại một số địa bàn còn chưa đồng đều, các Văn phòng công chứng chủ yếu phát triển ở các đô thị hoặc nơi có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển, trong khi đó các địa bàn có điều kiện kinh tế kém phát triển thì số lượng tổ chức hành nghề công chứng rất ít. Điều này chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch.
Hoạt động của một số tổ chức hành nghề công chứng thiếu tính chuyên nghiệp, chưa có sự liên kết trong hành nghề, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu, trình độ quản lý còn bất cập. Tình trạng “cạnh tranh” không lành mạnh giữa các Văn phòng công chứng diễn biến phức tạp. Hiện tượng không tuân thủ nghiêm túc về trình tự, thủ tục, thời gian, địa điểm công chứng vẫn xảy ra. Một số Văn phòng công chứng bố trí điểm tiếp nhận hồ sơ công chứng ở các địa bàn ngoài trụ sở tổ chức mình để tiếp nhận yêu cầu công chứng, không niêm yết lịch làm việc, thu phí công chứng, thù lao công chứng cao hơn quy định, thu phí không ghi biên lai, hóa đơn hoặc thu cao hơn nhưng khi ghi hóa đơn chỉ ghi lại phần trăm phí và thù lao công chứng cho người yêu cầu công chứng để thu hút người này sử dụng dịch vụ công chứng của tổ chức mình, đầu tư vốn vào các Văn phòng công chứng khác…Điều này ảnh hưởng đến uy tín và sự phát triển lành mạnh của hoạt động công chứng.
Về đội ngũ công chứng viên
Hiện nay, ở địa phương số lượng công chứng viên còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển tổ chức hành nghề công chứng do không có nguồn để bổ nhiệm khiến chủ trương xã hội hóa chậm được thực hiện. Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chứng viên đã được bổ nhiệm chưa được thực hiện thường xuyên, dẫn đến chất lượng của một bộ phận công chứng viên đang hành nghề chưa theo kịp yêu cầu công việc.
Nhìn chung, chất lượng đội ngũ công chứng viên còn nhiều bất cập, hạn chế, bên cạnh các công chứng viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có tâm với nghề, còn nhiều công chứng viên hạn chế về năng lực chuyên môn, kỹ năng hành nghề, chưa tuân thủ quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, thậm chí một số công chứng viên có hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp như quảng cáo hoạt động dịch vụ công chứng vượt ra ngoài quy định của pháp luật, thiếu sự hợp tác trong chia sẻ thông tin công chứng…
Về việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng thì đến năm 2020, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang được phát triển tối đa 20 tổ chức hành nghề công chứng, trong đó, tại thành phố Bắc Giang là 05 tổ chức, các huyện còn lại có từ 01 đến 02 tổ chức và phân bổ tại trung tâm các huyện. Việc phân bổ như vậy không thuận tiện cho người dân vì phải đi lại xa hơn trong khi tổ chức hành nghề công chứng chỉ có 01 công chứng viên thực hiện công chứng nên không đáp ứng được nhu cầu công chứng ngày càng nhiều của người dân.
Nhận thức về chủ trương chuyển giao của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân còn hạn chế, do đó, việc chuyển giao ở địa phương tiến hành chậm, có địa phương cho rằng việc “chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng…” là trái với Luật Đất đai, Luật Nhà ở, không thuận tiện cho nhân dân (do nhân dân phải đi lại xa và phí công chứng cao hơn lệ phí chứng thực…).
Một số huyện chưa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến quán triệt về công tác chuyển giao nên còn hiện tượng phối hợp chưa tốt, gây khó khăn cho người dân.
Về công tác quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động công chứng Việc cho phép thành lập, đăng ký hoạt động các Văn phòng công chứng chưa được thực hiện một cách bài bản, chưa tạo ra được cơ chế khuyến khích các tổ chức hành nghề công chứng tập trung đầu tư cơ sở vật chất, con người ngay từ ban đầu để đáp ứng nhiệm vụ.
Chưa xây dựng được cơ chế phối hợp nghiệp vụ và chia sẻ thông tin giữa các tổ chức hành nghề công chứng và Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất về tài sản giao dịch; chưa tạo được cơ chế liên thông giữa các tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan thuế, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và nhà khi thực hiện các thủ tục hành chính đối với các giao dịch về bất động sản. Điều này dễ dẫn đến tình trạng rủi ro trong hoạt động công chứng như: Một số tài sản giao dịch nhiều lần được công chứng ở nhiều tổ chức hành nghề công chứng khác nhau. Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về công chứng với các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, các cơ quan, tổ chức hữu quan chưa chặt chẽ dẫn đến việc quản lý nhà nước thiếu thông tin và hiệu quả chưa cao.
Công tác kiểm tra, thanh tra về tình hình tổ chức, hoạt động công chứng còn chưa chặt chẽ, thường xuyên nên dẫn đến việc tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, phát hiện, chấn chỉnh những hành vi vi phạm pháp luật, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đôi khi còn chưa hiệu quả.
Về tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên
Việc thành lập tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên chưa được thực hiện.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
Nguyên nhân khách quan
Như đã phân tích ở trên, do hệ thống pháp luật về công chứng ngày càng được hoàn thiện song vẫn còn nhiều bất cập khiến hoạt động công chứng vận hành chưa thông suốt. Các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức hành nghề công chứng và các công chứng viên đôi khi còn lúng túng trong việc triển khai thi hành quy định của pháp luật về công chứng.
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt pháp luật về công chứng, về vai trò của công chứng còn chưa đi vào chiều sâu nên chưa thực sự phát huy hiệu quả cao nhất, chưa ngấm, thấm sâu vào nhận thức của đông đảo cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, nhận thức về chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; về bản chất của hoạt động công chứng; về chủ trương tách bạch giữa công chứng và chứng thực của bộ phận cơ quan, cán bộ quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng, của người dân còn chưa đầy đủ. Thời gian qua đã xuất hiện tâm lý phân biệt công chứng giữa Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. Tại một số nơi, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất từ chối cung cấp thông tin địa chính cho Văn phòng công chứng; Ủy ban nhân dân cấp xã không phối hợp với Văn phòng công chứng trong việc niêm yết văn bản liên quan đến việc công chứng các giao dịch về thừa kế. Thậm chí còn một số quan điểm cho rằng không cần thiết phải quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng khi tiến hành xã hội hóa hoạt động công chứng…
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra tuy đạt được một số kết quả nhất định, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình xã hội hóa hoạt động công chứng. Công tác theo dõi, giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp công chứng chưa thực sự hiệu quả, việc phát hiện, xử lý vi phạm còn chưa kịp thời, chưa nghiêm minh.
Thứ tư, công tác hướng dẫn trong việc thi hành, áp dụng pháp luật về công chứng chưa kịp thời nên cơ sở còn lúng túng trong quá trình thực hiện.
Thứ năm, công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng còn lỏng lẻo, một số cơ quan quản lý nhà nước chưa phát huy hết trách nhiệm trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng; chưa xác lập được những giải pháp mang tính chiến lược nhằm đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước. Vai trò của Sở Tư pháp chưa được phát huy đúng tầm. Một số địa phương chưa thể hiện được vai trò, trách nhiệm trong việc quản lý hoạt động công chứng tại địa bàn. Một bộ phận cán bộ làm công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng còn yếu kém về năng lực chuyên môn và đạo đức dẫn đến hiện tượng tiêu cực trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng.
Thứ sáu, chất lượng công chứng viên còn nhiều bất cập, hạn chế. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các công chứng viên chưa được thực hiện thường xuyên cũng là nguyên nhân dẫn đến chất lượng đội ngũ công chứng viện chưa thực sự bảo đảm.
Thứ bảy, một số Văn phòng công chứng còn chạy theo lợi nhuận nên thực hiện công chứng chưa theo đúng quy định của pháp luật gây nên một số rủi ro trong hoạt động công chứng làm ảnh hưởng đến uy tín của nghề công chứng. Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng ở tỉnh Bắc Giang