Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang – Thực trạng và giải pháp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Thực trạng pháp luật về công chứng

Sau 8 năm triển khai thực hiện, không thể phủ nhận vai trò của Luật Công chứng năm 2006 [46] trong việc cụ thể hóa chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các tổ chức hành nghề công chứng và các quan hệ liên quan đến hoạt động công chứng, Luật Công chứng năm 2006 đã bộc lộ những điểm bất cập, hạn chế cần sửa đổi, bổ sung. Do vậy, ngày 20/6/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Công chứng năm 2014 [47]. Luật công chứng năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015.

Để triển khai thi hành Luật Công chứng 2014, Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó phải kể đến Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng ; Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 của Bộ Tư pháp Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng [7]; Thông tư số 04/2015/TT-BTP ngày 15/4/2015 của Bộ Tư pháp Hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng [40]; Thông tư liên tịch số 115/2015/TTLT-BTC-BTP ngày 11/8/2015 của liên bộ Tài chính, Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên lịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 19/01/2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng [9]; Thông tư số 54/2015/TT-BTC ngày 21/4/2015 của Bộ Tài chính Quy định thu phí sát hạch bổ nhiệm công chứng viên; lệ phí cấp thẻ công chứng viên, cấp giấy đăng ký hoạt động Văn phòng Công chứng [12].

Qua nghiên cứu quá trình triển khai thực hiện, có thể nhận thấy thực trạng hệ thống pháp luật về công chứng như sau:

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học

2.1.1. Quy định pháp luật về công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang

2.1.1.1. Quy định pháp luật về công chứng viên

Hiện nay, khi thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động công chứng ở nước ta đang tồn tại hai loại hình công chứng viên: công chứng viên làm việc trong các Phòng Công chứng nhà nước thì họ là viên chức nhà nước và công chứng viên làm việc trong các Văn phòng Công chứng thì họ không phải là công chức hay viên chức nhà nước. Mặc dù có hai loại hình công chứng viên làm việc ở hai loại tổ chức hành nghề công chứng khác nhau nhưng về điều kiện bổ nhiệm, địa vị pháp lý, quyền, nghĩa vụ của họ trong hành nghề công chứng hoàn toàn không khác nhau.

Công chứng viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. So với Luật Công chứng năm 2006 [46], Luật Công chứng năm 2014 [47] Luật công chứng quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên. Nếu như Luật Công chứng năm 2006 [46] quy định tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân luật; có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức; có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng (6 tháng); đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng (12 tháng); có sức khoẻ bảo đảm hành nghề công chứng (Điều 13, Luật Công chứng năm 2006) thì đối với Luật Công chứng năm 2014 [47] ngoài các tiêu chuẩn tương tự như Luật Công chứng năm 2006 [46] như phải có bằng cử nhân luật, có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên thì người muốn được bổ nhiệm công chứng viên phải qua thời gian đào tạo nghề công chứng là 12 tháng. Đối với những trường hợp được miễn đào tạo nghề công chứng, Luật Công chứng 2006 [46] không quy định phải qua khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và được miễn tập sự hành nghề công chứng nhưng đến Luật Công chứng năm 2014 [47], các trường hợp này nếu muốn được bổ nhiệm công chứng viên phải tham gia và hoàn thành khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng trong thời gian 03 tháng; đồng thời vẫn phải tập sự hành nghề công chứng trong thời gian 06 tháng.

Như vậy, so với quy định trước đây: “Công chứng viên là công chức do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm…” tại Khoản 1 Điều 29 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thì rõ ràng nguồn công chứng viên đã được mở rộng hơn rất nhiều. Công chứng viên không cần phải là công chức nhà nước, chỉ cần đáp ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện luật định, do đó khắc phục được tình trạng thiếu biên chế, thiếu kinh phí đào tạo, tạo điều kiện cho việc phát triển công chứng viên nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình xã hội hóa. Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang

Bên cạnh đó, Luật Công chứng năm 2014 [46] bổ sung quy định về bổ nhiệm lại công chứng viên mà Luật Công chứng năm 2006 [46] không có quy định. Quy định rõ hơn về địa vị pháp lý, quyền, trách nhiệm nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội của công chứng viên nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên, cụ thể: Luật Công chứng năm 2006 [46] quy định quyền của công chứng viên là được lựa chọn nơi để hành nghề công chứng, trừ công chứng viên của Phòng công chứng; đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện việc công chứng và một số quyền khác được quy định trong Luật. Đồng thời Luật quy định công chứng viên có các nghĩa vụ tuân thủ nguyên tắc hành nghề công chứng; tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng; giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng. (Điều 22, Luật Công chứng năm 2006) [46]. Đến Luật Công chứng năm 2014 [47] quy định công chứng viên có quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công chứng; tham gia thành lập Văn phòng công chứng hoặc làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng; được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật này; đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện việc công chứng; được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; các quyền khác theo quy định của Luật công chứng 2014 [47] và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Công chứng viên có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc hành nghề công chứng; hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng; tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng; giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng; giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm; chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng công chứng mà mình là công chứng viên hợp danh; tham gia tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên; chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của tổ chức hành nghề công chứng mà mình làm công chứng viên và tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên mà mình là thành viên; các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật công chứng năm 2014 [47] và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Như vậy, rõ ràng so với Luật Công chứng năm 2006 [47], Luật Công chứng 2014 [47] quy định một cách cụ thể hơn, rõ ràng hơn về địa vị pháp lý, quyền, trách nhiệm nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội của công chứng viên.

Bên cạnh các nội dung trên, Luật công chứng 2014 cũng đã mở rộng phạm vi công chứng: Bên cạnh nhiệm vụ chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, Luật công chứng năm 2014 giao lại cho công chứng viên quyền công chứng bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và ngược lại (Khoản 1 Điều 2), công chứng viên cũng được giao nhiệm vụ chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản; việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng thực (Điều 77).

2.1.1.2. Quy định pháp luật về các tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang

Luật công chứng 2014 quy định 02 loại hình tổ chức hành nghề công chứng là Phòng Công chứng và Văn phòng Công chứng. Việc thành lập các tổ chức hành nghề công chứng phải phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Khuyến khích phát triển Văn phòng công chứng theo định hướng xã hội hóa, văn phòng công chứng thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của Chính phủ còn Phòng công chứng chỉ được thành lập mới tại những địa bàn chưa có điều kiện phát triển được Văn phòng công chứng.

Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập; là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng là Trưởng phòng. Trưởng phòng công chứng phải là công chứng viên, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Tên gọi của Phòng công chứng bao gồm cụm từ “Phòng công chứng” kèm theo số thứ tự thành lập và tên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Phòng công chứng được thành lập.

Phòng công chứng sử dụng con dấu không có hình quốc huy. Phòng công chứng được khắc và sử dụng con dấu sau khi có quyết định thành lập.

Đối với Văn phòng công chứng, phải do hai công chứng viên trở lên thành lập, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Công chứng năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh. Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là Trưởng Văn phòng. Trưởng Văn phòng công chứng phải là công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. Tên gọi của Văn phòng công chứng phải bao gồm cụm từ “Văn phòng công chứng” kèm theo họ tên của Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh khác của Văn phòng công chứng do các công chứng viên hợp danh thỏa thuận, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác, không được vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Văn phòng công chứng phải có trụ sở đáp ứng các điều kiện theo quy định. Văn phòng công chứng có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp khác. Văn phòng công chứng sử dụng con dấu không có hình quốc huy. Văn phòng công chứng được thay đổi nội dung đăng ký hoạt động, thay đổi thành viên hợp danh, chuyển nhượng, hợp nhất, sáp nhập…

Được thành lập, tổ chức theo 02 mô hình khác nhau, tuy nhiên, Phòng Công chứng và Văn phòng Công chứng đều có các quyền, nghĩa vụ cơ bản sau:

Điều 32. Quyền của tổ chức hành nghề công chứng

  • Ký hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động với công chứng viên quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều 34 của Luật này và các nhân viên làm việc cho tổ chức mình.
  • Thu phí công chứng, thù lao công chứng, chi phí khác.
  • Cung cấp dịch vụ công chứng ngoài ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước để đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân dân.
  • Được khai thác, sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu công chứng quy định tại Điều 62 của Luật này.
  • Các quyền khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

Điều 33. Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng

  • Quản lý công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình trong việc tuân thủ pháp luật và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.
  • Chấp hành quy định của pháp luật về lao động, thuế, tài chính, thống kê.
  • Thực hiện chế độ làm việc theo ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước.
  • Niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, nội quy tiếp người yêu cầu công chứng, phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác tại trụ sở của tổ chức mình.
  • Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình theo quy định tại Điều 37 của Luật này và bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 38 của Luật này.
  • Tiếp nhận, tạo điều kiện thuận lợi và quản lý người tập sự hành nghề công chứng trong quá trình tập sự tại tổ chức mình.
  • Tạo điều kiện cho công chứng viên của tổ chức mình tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hằng năm.
  • Thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra, cung cấp thông tin về hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã công chứng.
  • Lập sổ công chứng và lưu trữ hồ sơ công chứng.
  • Chia sẻ thông tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin khác về biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch do công chứng viên của tổ chức mình thực hiện công chứng để đưa vào cơ sở dữ liệu công chứng quy định tại Điều 62 của Luật này.
  • Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan [47].

Điểm mới của Luật Công chứng năm 2014 so với Luật Công chứng năm 2006 đó là quy định việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng, trong trường hợp không chuyển đổi được thì mới giải thể Phòng công chứng. Quy định này nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước và công chứng viên, viên chức, người lao động làm việc tại Phòng công chứng được chuyển đổi.

Phòng công chứng được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định chuyển đổi thành văn phòng công chứng theo đề nghị của Sở Tư pháp trong các trường hợp: Các địa bàn cấp huyện đã thành lập đủ số tổ chức hành nghề công chứng theo Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và số lượng Văn phòng công chứng nhiều hơn số lượng Phòng công chứng. Các địa bàn cấp huyện chưa thành lập đủ số tổ chức hành nghề công chứng theo Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhưng có ít nhất 02 Văn phòng công chứng đã hoạt động ổn định từ 02 năm trở lên, kể từ ngày đăng ký hoạt động.

Việc chuyển đổi được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc Văn phòng công chứng được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và tiếp nhận toàn bộ hồ sơ công chứng của Phòng công chứng đó. Bảo đảm chế độ, chính sách đối với công chứng viên, viên chức, người lao động sau khi Phòng công chứng chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật về viên chức và pháp luật về lao động. Văn phòng công chứng được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải ký hợp đồng lao động với công chứng viên, viên chức, người lao động của Phòng công chứng đó, trừ trường hợp những người này không có nhu cầu tiếp tục làm việc tại Văn phòng công chứng. Bảo đảm tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước đang do Phòng công chứng quản lý, sử dụng được xử lý theo đúng quy định của pháp luật, không bị thất thoát trong quá trình chuyển đổi.

2.1.2. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thực hiện công chứng Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang

Luật Công chứng năm 2014 cơ bản kế thừa các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện công chứng trong Luật Công chứng năm 2006. Luật dành 01 Chương V quy định thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch. Trong đó mục I, Chương V quy định về thủ tục chung về công chứng. Một số điểm lưu ý trong mục này đó là Luật quy định phạm vi công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản: Công chứng viên của tổ chức hành, nghề công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản.

Thời hạn công chứng được xác định kể từ ngày thụ lý hồ sơ yêu cầu công chứng đến ngày trả kết quả công chứng. Thời gian xác minh, giám định nội dung liên quan đến hợp đồng, giao dịch, niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản, dịch giấy tờ, văn bản không tính vào thời hạn công chứng. Thời hạn công chứng không quá 02 ngày làm việc; đối với hợp đồng, giao dịch có nội dung phức tạp thì thời hạn công chứng có thể kéo dài hơn nhưng không quá 10 ngày làm việc.

Đối với địa điểm công chứng, việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ các trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu, không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng thì việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.

Luật quy định chữ viết trong văn bản công chứng phải rõ ràng, dễ đọc, không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, không được viết xen dòng, viết đè dòng, không được tẩy xoá, không được để trống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Thời điểm công chứng phải được ghi cả ngày, tháng, năm; có thể ghi giờ, phút nếu người yêu cầu công chứng đề nghị hoặc công chứng viên thấy cần thiết. Các con số phải được ghi cả bằng số và chữ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Đối với quy định về lời chứng của công chứng viên, lời chứng của công chứng viên đối với hợp đồng, giao dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ, tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng; chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ trong hợp đồng, giao dịch đúng là chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của người tham gia hợp đồng, giao dịch; trách nhiệm của công chứng viên đối với lời chứng; có chữ ký của công chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. Lời chứng là một bộ phận cấu thành của văn bản công chứng (Điều 22, Thông tư số 06/2015/TT-BTP).

Cùng với đó, Luật quy định về người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch. Người yêu cầu công chứng là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự. Trường hợp người yêu cầu công chứng là tổ chức thì việc yêu cầu công chứng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức đó. Người yêu cầu công chứng phải xuất trình đủ giấy tờ cần thiết liên quan đến việc công chứng và chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của các giấy tờ đó. Trường hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng. Người làm chứng phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng. Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ định. Trường hợp người yêu cầu công chứng không thông thạo tiếng Việt thì họ phải có người phiên dịch. Người phiên dịch phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thông thạo tiếng Việt và ngôn ngữ mà người yêu cầu công chứng sử dụng. Người phiên dịch do người yêu cầu công chứng mời và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc phiên dịch của mình.

Việc ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng, việc ghi trang, tờ trong văn bản công chứng, sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng, công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch cũng được quy định rõ trong Luật.

Ngoài các quy định chung, mục 1, Chương V quy định cụ thể thủ tục công chứng một số hợp đồng, giao dịch, công chứng bản dịch, nhận lưu giữ di chúc như: công chứng hợp đồng thế chấp bất động sản, công chứng hợp đồng ủy quyền, công chứng di chúc, công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, công chứng văn bản khai nhận di sản, công chứng văn bản từ chối nhận di sản, công chứng bản dịch…

2.1.3. Quy định của pháp luật về công tác quản lý nhà nước về công chứng

2.1.3.1. Về hệ thống cơ quan quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang

Thứ nhất, Chính phủ: Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa là cơ quan chấp hành vừa là cơ quan điều hành cao nhất của nước

cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về mọi mặt đời sống xã hội. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công chứng, tuy nhiên Chính phủ chỉ là chủ thể mang tính đại diện cao nhất, điều hành ở tầm vĩ mô bằng các chính sách, pháp luật, không trực tiếp thực hiện các quyền cụ thể mà giao cho Bộ Tư pháp thực hiện.

Thứ hai, Bộ Tư pháp: Bộ Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công chứng có nhiệm vụ, quyền hạn như: Xây dựng và trình Chính phủ chính sách phát triển công chứng; ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về công chứng; quy định chương trình khung đào tạo nghề công chứng; ban hành quy chế tập sự nghề công chứng; ban hành quy tắc đạo đức nghề công chứng; bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên; cấp thẻ công chứng viên; hướng dẫn nghiệp vụ công chứng, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về công chứng, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về công chứng; tổng kết, báo cáo Chính phủ về công chứng; quản lý về thực hiện hợp tác quốc tế về công chứng.

Như vậy, chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp về công chứng đã được Chính phủ phân cấp, trao quyền bằng quy định tương đối rõ ràng. Tuy nhiên, trên phương diện khoa học hành chính công, trong bối cảnh “xã hội hoá” hoạt động cung ứng dịch vụ công, kết hợp với việc vận dụng của mô hình “quản lý công mới” vào nền hành chính nước ta thì việc quy định một số chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước cho Bộ Tư pháp phải thực hiện như: quy định chương trình khung đào tạo nghề công chứng; Ban hành quy chế tập sự nghề công chứng; ban hành quy tắc đạo đức nghề công chứng; hướng dẫn nghiệp vụ công chứng, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về công chứng vẫn mang tính “bao cấp” của Nhà nước. Trong thời gian tới nên đẩy nhanh việc thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng và trao chức năng này cho nó, Nhà nước không can thiệp sâu vào các công việc cụ thể này.

Thứ ba, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh: Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện việc quản lý nhà nước về công chứng tại địa phương và có các nhiệm vụ quyền hạn như: thực hiện các biện pháp phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở đại phương để đáp ứng nhu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng; thành lập, giải thể Phòng Công chứng; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Trưởng phòng Phòng Công chứng; Quyết định thu hồi, cho phép thành lập Văn phòng Công chứng; Tổ chức việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của Văn phòng Công chứng; đảo đảm các cơ sở vật chất và phương tiện ban đầu cho Phòng Công chứng; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại tố cáo về công chứng; tổng hợp tình hình và thống kê về công chứng trong địa phương gửi về Bộ Tư pháp.

Thứ tư, Sở Tư pháp: Sở Tư pháp là cơ quan tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý nhà nước về công chứng, có các nhiệm vụ:

Xây dựng, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt đề án phát triển các tổ chức hành nghề công chứng tại địa phương và tổ chức thực hiện đề án đó sau khi được phê duyệt; tiếp nhận xem xét, kiểm tra hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng Công chứng trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định cho phép thành lập; yêu cầu các tổ chức hành nghề công chứng báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động theo quy định của pháp luật; tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các biện pháp hỗ trợ phát triển tổ chức hành nghề công chứng; thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức, hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng theo quy định của pháp luật hoặc theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

2.1.3.2. Quy định về các hoạt động quản lý nhà nước về công chứng Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang

Thứ nhất, về hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về công chứng

Bộ Tư pháp với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công chứng có trách nhiệm xây dựng và trình Chính phủ chính sách phát triển công chứng; ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về công chứng; thời gian qua, Bộ Tư pháp đã chủ động ban hành, tham mưu Chính phủ ban hành, trình Quốc hội ban hành hệ thống các văn bản liên quan đến hoạt động công chứng.

Thứ hai, về hoạt động tuyên truyền các văn bản về công chứng

Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (trực tiếp là Sở Tư pháp) có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến về nội dung, tinh thần của Luật công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó nhấn mạnh những quy định pháp luật về xã hội hóa hoạt động công chứng tới cán bộ, nhân dân và các đối tượng có liên quan trên địa bàn địa phương mình quản lý để mọi người nhận thức chính xác, đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của việc xã hội hóa hoạt động công chứng, từ đó, mỗi chủ thể sẽ tự quyết định hành vi của mình, tự giác thực hiện.

Thứ ba, về chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ Thông tư số 06/2015/TT-BTP quy định cụ thể về bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm. Theo đó, thời gian tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm tối thiểu là 03 ngày làm việc/năm (24 giờ/năm). Học viện Tư pháp, Hội công chứng viên, trường hợp địa phương chưa thành lập Hội công chứng viên thì Sở Tư pháp thực hiện bồi dưỡng là tổ chức thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng. Hàng năm, tổ chức thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng có trách nhiệm xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch bồi dưỡng. Nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm tập trung vào việc cập nhật, bổ sung kiến thức pháp luật về công chứng và các quy định pháp luật khác có liên quan.Bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng hành nghề công chứng; cách thức giải quyết các vấn đề vướng mắc trong quá trình hành nghề công chứng.

Thứ tư, về thực hiện chủ trương chuyển giao các hợp đồng, giao dịch từ Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng Luật công chứng quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước. Thực hiện nhiệm vụ trên, Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 250/QĐ-TTg ngày 10/02/2010 phê duyệt Đề án “Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020” [52]; Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 17/02/2011 ban hành tiêu chí quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020 [53]. Trên cơ sở đó, ngày 29/12/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2104/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020” [54] trong đó xác định mục tiêu quy hoạch đến năm 2020, phát triển mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng rộng khắp và phân bố hợp lý gắn với địa bàn dân cư trên toàn quốc, đáp ứng đầy đủ nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch của tổ chức, cá nhân trong xã hội, tăng cường tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng giao dịch, bảo đảm các hợp đồng, giao dịch liên quan hoặc có khả năng liên quan đến chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản đều phải được công chứng. Từ việc phát triển mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng sẽ tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh chuyển giao việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng đối với những địa bàn cấp huyện có tổ chức hành nghề công chứng đảm đương được nhiệm vụ chứng nhận hợp đồng, giao dịch trên địa bàn theo Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất [17]. Tiến tới thực hiện việc chuyển giao toàn bộ các hợp đồng, giao dịch do Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã đang chứng thực liên quan hoặc có khả năng liên quan đến chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản sang cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện nhằm bảo vệ tốt quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch, góp phần tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, về sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng.

Sau mỗi khoảng thời gian thực hiện, các cơ quan quản lý nhà nước tiến hành các hoạt động sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu quả việc thực hiện nhằm tổng hợp, tiếp thu những phản biện, kiến nghị phù hợp để việc thực hiện pháp luật về công chứng đạt hiệu quả cao hơn hoặc cung cấp thông tin cần thiết cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động công chứng.

Việc sơ kết, tổng kết, đánh giá công tác quản lý nhà nước đối với công chứng nhằm đạt được những mục đích cơ bản sau:

  • Nắm bắt thông tin, số liệu thực tế về tổ chức và hoạt động công chứng, giúp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng nhiệm vụ trong lĩnh vực này kịp thời xây dựng, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trong thời gian tới.
  • Đánh giá cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật đối với hiệu quả về tổ chức và hoạt động công chứng của mỗi địa phương và trên cả nước.

Thứ sáu, về công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động công chứng

Công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về công chứng là một khâu không thể thiếu trong quản lý nhà nước. Thông qua kiểm tra, thanh tra, chủ thể quản lý sẽ kịp thời phát hiện hành vi vi phạm pháp luật để áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp nhằm khôi phục lại tối đa trật tự quản lý bị xâm phạm; phát hiện những yếu kém, bất cập để đề ra các biện pháp khắc phục, hoàn thiện thể chế, xây dựng các biện pháp nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục những thiếu sót, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện… Kiểm tra việc thực hiện thể chế công chứng là một biện pháp quan trọng để bảo đảm việc tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về công chứng, khắc phục và phòng ngừa những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, gắn hoạt động thanh tra, kiểm tra là giải quyết khiếu nại tố cáo về hoạt động công chứng.

Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra về tổ chức và hoạt động công chứng. Qua thanh tra, kiểm tra phát hiện vi phạm sẽ có biện pháp xử lý đối với công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng vi phạm, đối với người có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng; đối với cá nhân, tổ chức hành nghề công chứng bất hợp pháp; đối với người yêu cầu công chứng có hành vi vi phạm.

2.1.4. Đánh giá chung thực trạng pháp luật về công chứng Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang

2.1.4.1. Ưu điểm

Sự ra đời của Luật Công chứng năm 2006 đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về công chứng. Lần đầu tiên, các quan hệ công chứng được điều chỉnh trong văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao là “Luật”. Từ khi Luật Công chứng năm 2006 ra đời cho đến nay là Luật Công chứng năm 2014, hệ thống pháp luật về công chứng dần được củng cố, hoàn thiện. Hệ thống pháp luật công chứng đã khẳng định vai trò là công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu nhất đối với tổ chức và hoạt động công chứng. Sự có mặt của các văn bản quản lý trong hoạt động của các cơ quan quản lý có thể được hiểu như sự “tập trung quyền lực của nhà nước, nhằm điều hành có hiệu quả nhất hoạt động quản lý bằng pháp luật”. Nhà nước đã có một hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến các tổ chức hành nghề công chứng và các hoạt động công chứng. Các văn bản pháp luật, luật nội dung là khung pháp lý mà công chứng viên phải tuân thủ để hợp đồng giao dịch công chứng có hiệu lực pháp luật.

Một trong những điểm đổi mới căn bản, quan trọng của Luật công chứng là đã tách bạch và phân biệt rõ về bản chất, chức năng, nhiệm vụ, đối tượng và nguyên tắc hoạt động của công chứng so chứng thực. Theo đó, công chứng từ chỗ bị hiểu như là một hoạt động mang tính chất thủ tục hành chính đơn thuần thì nay được coi là một nghề, một ngành chuyên môn sâu đã tạo điều kiện cho các tổ chức hành nghề công chứng tập trung thực hiện đúng chức năng của mình theo hướng chuyên nghiệp hóa; nhiệm vụ chứng nhận hợp đồng, giao dịch giờ đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu của các tổ chức hành nghề công chứng. Giá trị của hoạt động công chứng trong xã hội được nâng cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, tạo tiền đề quan trọng cho việc đưa hoạt động công chứng phát triển theo xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới.

Các quy định về công chứng viên vừa siết chặt các quy định về điều kiện bổ nhiệm công chứng viên vừa mở rộng đối tượng được bổ nhiệm công chứng viên nhằm nâng cao số lượng, chất lượng hoạt động của công chứng viên.

Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng theo quy định của Luật công chứng, ngoài việc tiếp tục duy trì, củng cố và phát triển mô hình Phòng công chứng do Nhà nước thành lập, hoạt động theo cơ chế đơn vị sự nghiệp công, việc phát triển các Văn phòng công chứng trong thời gian qua tại một số địa phương đã góp phần phục vụ kịp thời nhu cầu công chứng của nhân dân trong khi không đòi hỏi sự đầu tư về nhân lực và tài lực của nhà nước, không còn hiện tại ùn tắc, quá tải, “cò” công chứng. Việc cho phép thành lập các Văn phòng công chứng (thay vì thành lập thêm các Phòng công chứng) góp phần giảm bớt gánh nặng cho biên chế và ngân sách nhà nước, tăng nguồn thu ngân sách của các địa phương, giải quyết công việc cho nhiều người lao động, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, góp phần nâng cao nghiệp vụ, chất lượng phục vụ người dân của các công chứng viên. Sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức hành nghề công chứng phụ thuộc vào chất lượng công chứng các văn bản, sự nhanh chóng, thuận tiện, chính xác trong hoạt động công chứng của mình, do đó đã khơi dậy tính chủ động, tích cực và ý thức trách nhiệm của công chứng viên khi thực hiện nhiệm vụ. Các tổ chức hành nghề công chứng đều lấy yếu tố “phục vụ khách hàng” là tiêu chí phục vụ hàng đầu và là một trong những yếu tố để cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động công chứng.

Quy định về trình tự, thủ tục công chứng đảm bảo rõ ràng, chặt chẽ, tạo thuận lợi cho công chứng viên trong quá trình tác nghiệp.

Luật công chứng năm 2014 phân định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng phù hợp với nhiệm vụ được giao trong các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành. Nhiệm vụ quản lý được phân cấp phù hợp cho địa phương, tăng cường trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Sở Tư pháp trong việc giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý hoạt động công chứng trên địa bàn.

Việc xã hội hóa công chứng đã tạo điều kiện thuận tiện cho người dân trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, tổ chức, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt, hoạt động công chứng đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa các tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, nhà ở – lĩnh vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp. Không thể phủ nhận công chứng là “lá chắn” phòng ngừa hữu hiệu, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm thiểu “gánh nặng” pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự.

Thực tiễn đã chứng minh chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là chủ trương đúng đắn. Luật công chứng với chủ trương xã hội hóa đã được nhân dân đồng tình, đón nhận. Sự hài lòng và thuận tiện của nhân dân về công chứng chính là thước đo sự thành công của Luật công chứng.

2.1.4.2. Hạn chế Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang

Hệ thống pháp luật về công chứng ngày càng được hoàn thiện song vẫn còn nhiều bất cập khiến hoạt động công chứng vận hành chưa thông suốt, cụ thể:

Thứ nhất, việc mở chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức hành nghề công chứng: Luật Công chứng năm 2006 và Luật Công chứng năm 2014 đều không đề cập đến vấn đề chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức hành nghề công chứng, điều này gây khó khăn trong quá trình tổ chức áp dụng pháp luật cho địa phương.

Thứ hai, Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định cụ thể về những trường hợp được phép công chứng ngoài trụ sở tổ chức hành nghề công chứng. Pháp luật về công chứng quy định việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng nhằm bảo đảm tính pháp lý chặt chẽ của văn bản công chứng. Tuy nhiên, Luật Công chứng năm 2014 cho phép có thể thực hiện công chứng ngoài trụ sở tổ chức hành nghề đối với một số trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu, không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng. Thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề cho quy định “lý do chính đáng khác”. Lý do này chưa được giải thích cụ thể, dẫn đến cách hiểu sai về nguyên tắc thực hiện công chứng là không nhất thiết phải ở tổ chức hành nghề công chứng nên các văn phòng công chứng đã thực hiện số lượng lớn các việc công chứng ngoài trụ sở với lý do là đương sự muốn giữ bí mật, đương sự không muốn xếp hàng chờ đợi, đương sự muốn công chứng tại nhà… và sẵn sàng trả khoản thù lao công chứng theo thỏa thuận với văn phòng công chứng. Việc công chứng ngoài trụ sở một cách “dễ dàng” dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng, làm giảm uy tín của các tổ chức hành nghề công chứng. Ngược lại, các Phòng công chứng chỉ thực hiện công chứng ngoài trụ sở khi khách hàng có giấy tờ chứng minh thuộc trường hợp được công chứng ngoài trụ sở và có đơn yêu cầu công chứng ngoài trụ sở kèm theo.

Thứ ba, một số quy định của Luật Công chứng vẫn còn chung chung hoặc chưa dự liệu được hết một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn thi hành như: về khiếu nại, tố cáo trong hoạt động công chứng; về trách nhiệm bồi thường của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng; về xử lý vi phạm trong hoạt động công chứng.

Thứ tư, các quy định liên quan đến vấn đề chuyển giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch cho tổ chức hành nghề công chứng, thẩm quyền chứng nhận các hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã công chứng trong Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở và các văn bản hướng dẫn thi hành có điểm chưa đồng bộ với Luật Công chứng. Liên quan đến vấn đề này, Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo phải “đẩy mạnh chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch từ Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng”, đồng thời Bộ Tư pháp cũng ban hành nhiều văn bản chỉ đạo việc chuyển giao, tuy nhiên, ngày 22/10/2014 Bộ Tài nguyên và Môi trường lại có văn bản số 4591/TNMT-PC trong đó yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành, tổ chức, cá nhân liên quan tạo điều kiện cho người sử dụng đất được lựa chọn công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải về công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất, ngày 29/6/2015, Bộ Tư pháp cũng đã có Công văn số 2271/BTP-BTTP đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn Sở Tư pháp, các sở, ban, ngành, tổ chức có liên quan thực hiện quy định thẩm quyền công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo đúng quy định của Luật đất đai năm 2013, đảm bảo người dân có quyền lựa chọn công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Công văn số 2271/BTP-BTTP cũng nhấn mạnh, đối với các địa bàn đã thực hiện việc chuyển giao chứng thực, hợp đồng, văn bản từ Ủy ban nhân dân cấp xã sang các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã có quyết định chuyển giao xem xét những nơi mà việc chuyển giao đã ổn định, tổ chức hành nghề công chứng hoạt động tốt, đáp ứng được nhu cầu thì xem xét, quyết định giữ nguyên việc chuyển giao để tránh gây xáo trộn, khó khăn cho người dân. Việc chỉ đạo thiếu thống nhất như trên đã gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật về công chứng ở địa phương, làm ảnh hưởng đến sự tin tưởng của nhân dân vào công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước.

Một số quy định pháp luật nội dung trong Bộ luật Dân sự và các văn bản có liên quan chưa cụ thể cũng dẫn đến khó khăn trong hoạt động chuyên môn, nghiệp cụ công chứng, ví dụ như: Quy định về hộ gia đình (cách thức xác định các thành viên của hộ gia đình), quy định về tài sản hình thành trong tương lai… Luận văn: Khái quát về luật công chứng tại tỉnh Bắc Giang

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY   

===>>> Luận văn: Thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh Bắc Giang

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x