Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.3 Thực trạng trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng theo pháp luật Việt Nam đất từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

2.3.1 Phát triển tổ chức hành nghề công chứng nói chung và công chứng viên nói riêng tại tỉnh Bắc Ninh

Triển khai thực hiện Kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, thời gian qua Sở Tư pháp đã tích cực đề ra các giải pháp triển khai thực hiện phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương; tổ chức tuyên truyền, phổ biến các nội dung của Luật Công chứng, vị trí, vai trò của công chứng và các văn bản pháp luật có liên quan dưới nhiều hình thức khác nhau đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân trên địa bàn tỉnh nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về bản chất, vai trò, ý nghĩa của hoạt động công chứng đối với công tác cải cách tư pháp, sự ổn định và phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với công tác công chứng.

Công tác phát triển đội ngũ Công chứng viên cũng được Sở Tư pháp quan tâm thực hiện, khi nhận được thông báo của Bộ Tư pháp về việc mở lớp đào tạo nghề công chứng tại tỉnh Bắc Ninh, Sở Tư pháp đã thực hiện thông báo công khai rộng rãi cho toàn thể cán bộ, công chức trong ngành và những người có nhu cầu trên địa bàn tỉnh tham gia. Công tác bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, kiến thức pháp luật mới, kỹ năng hành nghề công chứng, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng cho Công chứng viên cũng được Sở Tư pháp quan tâm thực hiện nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển đội ngũ Công chứng viên giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp và nâng cao chất lượng, uy tín của hoạt động công chứng để công chứng trở thành nhu cầu tự nguyện của nhân dân.

Ngoài ra, Sở Tư pháp đã chủ động tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định thực hiện chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch từ Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã sang tổ chức hành nghề công chứng đối với địa bàn cấp huyện có tổ chức hành nghề công chứng; Quyết định ban hành quy định tiêu chí và cách thức thẩm định hồ sơ thành lập Văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nhằm bảo đảm việc cho phép thành lập Văn phòng công chứng được phù hợp với quy hoạch, công khai và minh bạch và ban hành quy chế phối hợp trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nhằm đẩy mạnh mối quan hệ phối hợp giữa các tổ chức hành nghề công chứng với cơ quan đăng ký nhà, đất, tạo tiền đề cho cơ chế liên thông trong việc thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến giao dịch về bất động sản.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Kinh Tế

2.3.2 Thực hiện pháp luật của Công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

Việc thực hiện pháp luật của Công chứng viên tại Bắc Ninh vẫn còn gặp một số vướng mắc như:

Vướng mắc trong việc xác định số lượng và tư cách tham gia ý kiến của thành viên hộ gia đình sử dụng đất.

Khái niệm hộ gia đình sử dụng đất theo khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 có nội hàm khác biệt so với khái niệm “gia đình” theo pháp luật hôn nhân và gia đình, cũng như khái niệm “hộ gia đình” theo Bộ luật Dân sự. Theo đó, không phải bất cứ thành viên nào của gia đình cũng đồng thời là thành viên của hộ gia đình sử dụng đất. Khi hộ gia đình sử dụng đất muốn chuyển quyền sử dụng đất của hộ cho một chủ thể khác thì theo quy định của pháp luật dân sự, giao dịch này phải do người đại diện của hộ trực tiếp giao kết nhưng phải có sự thỏa thuận của tất cả thành viên là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (khoản 2 Điều 212 Bộ luật Dân sự năm 2015) [44]. Điều này cho thấy, trong công chứng giao dịch về quyền sử dụng đất của hộ gia đình sử dụng đất cần phải xác định số lượng thành viên hộ gia đình sử dụng đất được tham gia ý kiến đối với giao dịch và đó là những thành viên cụ thể nào của hộ. Nếu xác định không chính xác vấn đề này, về nguyên tắc giao dịch đó sẽ bị vô hiệu. Nhưng công chứng viên lại thực hiện xem xét, đánh giá vấn đề trong môi trường hồ sơ, do đó, hồ sơ yêu cầu công chứng cần có loại giấy tờ có giá trị pháp lý và đầy đủ thông tin để cho phép xác định vấn đề này. Tuy nhiên, từ trước đến nay, trong các quy định của pháp luật và kể cả trong thực tế, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình chỉ thể hiện tên của một thành viên đại diện mà không có bất kỳ thông tin về các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất. Do vậy, trong thực tiễn, khi công chứng giao dịch về quyền sử dụng đất của hộ gia đình do chủ hộ trực tiếp xác lập, công chứng viên phải xem xét tư cách của các thành viên trong hộ để xác định giao dịch có hội đủ điều kiện có hiệu lực hay không. Việc xem xét này dựa trên thông tin ở sổ hộ khẩu. Vấn đề đặt ra là, việc căn cứ vào sổ hộ khẩu có cho phép người công chứng xác định được chính xác thành viên nào có tư cách được hỏi ý kiến đối với giao dịch hay không? Quy định của khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 đã có thể tạo cơ sở pháp lý cho người công chứng xác định số thành viên của hộ gia đình sử dụng đất tại thời điểm mà hộ nhận chuyển nhượng hay được Nhà nước giao, cho thuê hay công nhận quyền sử dụng đất, căn cứ vào các mốc thời gian mà thành viên đó tách hoặc nhập vào hộ khẩu. Ví dụ, thời điểm được Nhà nước giao đất là năm 1992, nhưng K nhập hộ khẩu năm 2005 thì dù K đã thành niên và có năng lực hành vi dân sự cũng không cần hỏi ý kiến về giao dịch. Tuy nhiên, sổ hộ khẩu với tính chất là loại giấy tờ để quản lý về cư trú, nên nó chỉ có khả năng xác định nơi thường trú hợp pháp của công dân mà không phản ánh, thể hiện được các tiêu chí xác định thành viên của hộ gia đình sử dụng đất. Nơi thường trú thì không cho phép suy luận một cách đương nhiên là công dân đang sống chung với nhau, cùng nhau sản xuất kinh tế (ví dụ là đất nông nghiệp), trong khi “đang sống chung” tại thời điểm được giao đất, cho thuê đất, công nhận, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là điều kiện cơ bản để xem xét tư cách tham gia ý kiến của người này đối với giao dịch do chủ hộ trực tiếp xác lập. Trong thực tế, có trường hợp, một thành viên của gia đình thoát ly khỏi quê hương, gia đình để làm ăn, công tác, học tập lâu dài ở nơi khác rất lâu (trước thời điểm tạo lập quyền sử dụng đất) nhưng chưa tạo lập được nhà ở riêng thì vẫn được coi là có cùng hộ khẩu với gia đình. Trường hợp khác, một người tuy không có tên trên sổ hộ khẩu do bị xóa thường trú sau khi tạo lập quyền sử dụng đất nhưng lại là thành viên sử dụng đất do tại thời điểm tạo lập tài sản đó, người này là thành viên của gia đình và còn sống chung thì vẫn là thành viên của hộ gia đình sử dụng đất.

Vướng mắc trong việc xác định tư cách người ký giao dịch quyền sử dụng đất của hộ gia đình sử dụng đất. Khoản 5 Điều 14 Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27/01/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ (Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT) quy định: “Người có tên trên giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự quy định tại khoản 1 Điều 64 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP chỉ được thực hiện việc ký hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi đã được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật” [17]. Quy định này có sự khác biệt đáng kể so với pháp luật về dân sự. Trong Bộ luật Dân sự năm 2005, việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý mà không nhất thiết phải tất cả các thành viên của hộ đồng ý. Trong Bộ luật Dân sự năm 2015 thì sự khác biệt lại càng lớn hơn: Việc định đoạt tài sản là bất động sản phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Đây, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, chỉ khi có “luật” quy định khác 41 thì mới áp dụng quy định đó. Do vậy, sự tồn tại của khoản 5 Điều 14 Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT không những không cụ thể hóa được các quy định của pháp luật dân sự mà còn có sự mâu thuẫn nhất định, gây ra những vướng mắc, thiếu thống nhất trong công chứng, chứng thực quyền sử dụng đất của hộ gia đình. Ngoài ra, khoản 2 Điều 117 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp luật có quy định”. Như vậy, vấn đề ở đây là ngay trong các quy định của Bộ luật này, cũng như Luật Đất đai năm 2013 đã không đưa ra điều kiện về hình thức đối với giao dịch ủy quyền giữa các thành viên trong hộ gia đình với người trực tiếp ký giao dịch đó, do đó, quy định trên của Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT sẽ tạo ra môi trường thiếu minh bạch, gây lúng túng, vướng mắc trong khi nó lại quy định là bắt buộc phải có công chứng, chứng thực. Trong thực tế, nếu trường hợp người yêu cầu công chứng, chứng thực chứng minh được các thành viên còn lại của hộ gia đình đã ủy quyền cho mình giao dịch về quyền sử dụng đất (như bằng email, bằng video hoặc thông điệp dữ liệu phản ánh chính xác và có khả năng lưu trữ), thì hồ sơ công chứng đó có hợp lệ không? Theo tác giả, trường hợp này cần cho phép công chứng viên được công chứng hợp đồng.

2.3.3. Trách nhiệm pháp lý phải bồi thường thiệt hại khi công chứng viên để xảy ra vi phạm trong các giao dịch về quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh Luật công chứng trao cho công chứng viên nhiệm vụ “chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản”; chứng nhận “tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt” (Điều 2 Luật Công chứng 2014). Trong hệ thống tư pháp của các quốc gia, công chứng viên được coi như những “Thẩm phán phòng ngừa”, là hàng rào quan trọng để bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao dịch dân sự.

Kết quả của việc thực hiện nhiệm vụ đó được thể hiện qua giá trị pháp lý của văn bản công chứng, cụ thể tại Điều 5 Luật công chứng quy định: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan”; “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh”; “Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch”.

Để thực hiện những nhiệm vụ trên, pháp luật quy định những điều kiện khắt khe về đạo đức, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm của công chứng viên. Sau khi có bằng cử nhân Luật, một người cần thêm từ 5 đến 7 năm học tập và tích lũy kinh nghiệm mới đủ tiêu chuẩn trở thành công chứng viên. Thế nhưng để hoạt động công chứng đạt kết quả thì công chứng viên và tổ chức hành nghề cần phải có những công cụ để thực thi nhiệm vụ của mình chứ không thể chỉ dựa vào đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn pháp lý và kinh nghiệm.

Trên thực tế hoạt động công chứng tại tỉnh Bắc Ninh trong các giao dịch về quyền sử dụng đất để xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thật hay giả, thông tin có chính xác hay không thì ngoài việc quan sát, công chứng viên cần tiếp cận được với thông tin từ cơ quan cấp giấy chứng nhận; để xác định nhân thân của một người, ngoài việc kiểm tra giấy tờ tùy thân, công chứng viên cần đối chiếu được thông tin đó với cơ sở dữ liệu công dân; để xác định một bộ hợp đồng mua bán nhà chung cư là thật hay giả, công chứng viên cần phải kiểm tra được thông tin từ chủ đầu tư.

Tuy nhiên, không có bất kỳ quy định nào của pháp luật cho phép công chứng viên có được “đặc quyền” hơn công dân bình thường để có thể tiếp cận với những dữ liệu nêu trên, mặc dù công chứng viên là một chức danh tư pháp và việc tiếp cận thông tin là để bảo đảm cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của công chứng viên, bảo đảm an toàn pháp lý cho công dân, cho xã hội, trong đó có cả các cơ quan quản lý nhà nước.

Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh Công nghệ làm giả giấy tờ đã đạt đến mức tinh xảo, các loại mẫu khó làm giả nhất như tiền hay tem chống hàng giả cũng bị làm giả. Các tài liệu thông thường như con dấu, chữ ký vào bản in trên giấy trắng có thể bị làm giả và dễ dàng qua mặt các công chứng viên lành nghề nhất. Ngay cả Viện Khoa học kỹ thuật hình sự, với các mẫu so sánh và thiết bị hiện đại thì việc phát hiện tài liệu giả cũng khó khăn và mất nhiều thời gian. Vậy mà theo quy định của Luật công chứng, chỉ với thời hạn tối đa 2 ngày, còn trên thực tế thông thường là chỉ vài phút, công chứng viên phải xác định được một hoặc nhiều tài liệu là thật hay giả để thực hiện việc công chứng cho công dân – như vậy thì không thể bảo đảm rằng công chứng viên phân biệt được các tài liệu thật hay giả với độ chính xác tuyệt đối. Rất dễ nhận thấy rằng, trước vấn nạn giấy tờ giả thì các công chứng viên đang phải làm nhiệm vụ trong tình trạng “tay không bắt giặc”.

Luật công chứng quy định rõ trách nhiệm bảo đảm tính chính xác, hợp pháp của hồ sơ, giấy tờ công chứng thuộc về người yêu cầu công chứng (Điều 47) và nhấn mạnh bằng một điều cấm, kèm theo các hình thức chế tài áp dụng cho người yêu cầu công chứng liên quan đến việc cung cấp hồ sơ công chứng, giấy tờ giả.

Thuật ngữ “người yêu cầu công chứng” hiện nay được hiểu bao gồm tất cả các bên tham gia giao dịch dân sự mà công chứng viên sẽ công chứng. Nếu cho rằng các chủ thể trong mối quan hệ cung cấp dịch vụ công chứng chỉ bao gồm bên cung cấp dịch vụ là tổ chức hành nghề công chứng và bên yêu cầu dịch vụ là người yêu cầu công chứng thì người yêu cầu công chứng có thể bao gồm cả bên gây thiệt hại lẫn bên bị thiệt hại.

Do đó, một số ý kiến của công chứng viên tại Bắc Ninh cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng phải được loại trừ nếu công chứng viên tuân thủ đầy đủ quy trình công chứng mà vẫn không phát hiện ra giấy tờ bị làm giả, bởi lỗi lúc này thuộc hoàn toàn về người yêu cầu công chứng. Mặt khác, theo quy định tại Điều 38 Luật công chứng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng chỉ được đặt ra khi có lỗi của công chứng viên hoặc nhân viên của tổ chức hành nghề công chứng, nếu việc làm giả giấy tờ là tinh vi, nằm ngoài khả năng nhận biết của công chứng viên thì không thể cho rằng công chứng viên có lỗi.

Trên thực tế, tại tỉnh Bắc Ninh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên đang được các công chứng viên tại đây hiểu và thực hiện theo một cách khác, rất bất lợi cho công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng. Một số bài viết, phóng sự trên báo chí, truyền hình của tỉnh đã đưa ra quan điểm làm cho người xem hiểu rằng trong mọi trường hợp nếu công chứng viên không phát hiện được giấy tờ, hồ sơ giả dẫn đến thiệt hại cho khách hàng thì tổ chức hành nghề công chứng phải có trách nhiệm bồi thường. Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

Một số bản án đã được xét xử tại Bắc Ninh cũng thể hiện rằng công chứng viên phải chịu một phần trách nhiệm khi bị giấy tờ giả là quyền sử dụng đất. Cơ sở pháp lý của quan điểm này là Điều 584 Bộ luật Dân sự, trong đó quy định: “Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”, nghĩa là chỉ cần có hành vi gây thiệt hại và có thiệt hại thì đã phát sinh trách nhiệm bồi thường chứ chưa cần xét đến yếu tố lỗi (trách nhiệm chỉ được loại trừ khi lỗi hoàn toàn thuộc về bên bị thiệt hại). Cùng với đó, tại Điều 364 Bộ Luật Dân sự nêu rõ “Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”. Quy định này đang tạo ra cách hiểu rằng hành vi công chứng của công chứng viên thỏa mãn các điều kiện cấu thành nên lỗi vô ý.

Cách hiểu này gây ra nỗi hoang mang và bất an cho các công chứng viên tại tỉnh Bắc Ninh, bởi nếu hiểu và thực hiện theo như vậy thì cứ đặt bút ký chứng nhận bất kỳ một giao dịch nào, đặc biệt là các giao dịch về quyền sử dụng đất là thứ tài sản rất lớn cũng đồng nghĩa với việc công chứng viên cấu thành lỗi vô ý và mặc nhiên phát sinh trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra dù công chứng viên có tuân thủ hay không tuân thủ quy định của Luật công chứng. Đây là điều hết sức vô lý, vì đòi hỏi về mức độ bảo đảm trách nhiệm của công chứng viên vượt quá khả năng kiểm soát của họ cho dù họ tuân thủ đúng luật.

Trên thực tế có một số đối tượng lừa đảo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã khai thác triệt để hai điểm yếu trên của hệ thống công chứng và có hàng loạt vụ lừa đảo gây thiệt hại lớn trong thời gian vừa qua cho các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh. Sau khi làm giả giấy tờ một cách tinh vi, qua mặt được hàng loạt công chứng viên, kẻ lừa đảo bỏ trốn, người bị thiệt hại sử dụng các biện pháp gây sức ép đòi bồi thường đối với công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có cả việc sử các băng nhóm xã hội đen gây rối.

Nghiêm trọng hơn, có trường hợp kẻ lừa đảo đóng giả cả bên mua lẫn bên bán, sử dụng giấy tờ nhà đất giả giao dịch, qua mặt công chứng viên và cả Văn phòng đăng ký đất đai tại tỉnh. Một số tổ chức hành nghề công chứng đã phải bồi thường bởi họ lo ngại rằng khi bị khởi kiện thì vẫn phải bồi thường mà công việc, uy tín và chi phí còn lớn hơn. Công chứng viên mặc dù biết là rủi ro, nhưng họ vẫn phải làm công việc của mình mà không có cách khác để lựa chọn.

Công chứng viên gặp rủi ro với vấn nạn giấy tờ giả cũng đồng nghĩa với việc an toàn pháp lý của giao dịch bị đe dọa, quyền lợi của người yêu cầu công chứng và cả các cơ quan quản lý nhà nước có thể bị ảnh hưởng. Có nhiều cách để giảm bớt rủi ro từ những giao dịch liên quan đến giấy tờ giả, và cần được cân nhắc áp dụng càng sớm càng tốt.

Lỗi của công chứng viên khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại tỉnh Bắc Ninh

Khoản 1 điều 46 Luật công chứng 2014 có quy định hợp đồng giao dịch được công chứng phải đóng dấu của văn phòng công chứng. Có trường hợp công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng nhưng không tuân thủ hình thức là sử dụng không đúng con dấu của văn phòng công chứng nên hợp đồng vô hiệu theo quy định tại điều 129 Bộ luật dân sự 2015. Do đó, văn phòng đăng ký đất đai không tiếp nhận hồ sơ đăng ký biến động đất đai. Hai bên phải tiến hành ký lại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tuân thủ đúng hình thức. Tuy nhiên, bên bán lại không đồng ý và làm khó cho bên mua. Hai bên không thể thương lượng và thỏa thuận để ký lại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Như vậy, giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất không thể thực hiện được là do lỗi của công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho theo quy định tại Điều 38 Luật công chứng 2014

Như vậy, văn phòng công chứng phải có biện pháp khắc phục việc giao dịch dân sự của không thực hiện. Việc xác định thiệt hại thực tế mà bên yêu cầu công chứng phải gánh chịu là rất khó và bên yêu cầu thiệt hại phải chứng minh thiệt hại cụ thể của mình. Nếu người yêu cầu công chứng đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại mà bên văn phòng công chứng cho rằng không phù hợp thì hai bên phải nhờ Tòa án có thẩm quyền giải quyết để xác định mức bồi thường thiệt hại hợp lý.

2.3.4 Việc thực hiện bảo hiểm nghề nghiệp của công chứng viên từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

Không quy định một cách rải rác, chưa đầy đủ về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên như Luật công chứng năm 2006, Luật công chứng năm 2014 dành hẳn một điều quy định về vấn đề này, xuất phát từ quan điểm đề cao sự cần thiết, vai trò của bảo hiểm cho trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên đối với tính an toàn cho hoạt động của các công chứng viên và các tổ chức hành nghề công chứng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người yêu cầu công chứng và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Theo đó, tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình thông qua hợp đồng bảo hiểm giữa tổ chức hành nghề công chứng với doanh nghiệp bảo hiểm. Thời điểm mua bảo hiểm được xác định chậm nhất là chín mươi ngày, kể từ ngày Văn phòng công chứng được cấp giấy đăng ký hoạt động hoặc kể từ ngày Phòng công chứng được thành lập và bắt đầu hoạt động. Nguyên tắc duy trì bảo hiểm hoặc nguyên tắc thỏa thuận giữa tổ chức hành nghề công chứng và doanh nghiệp bảo hiểm về các vấn đề có liên quan đến bảo hiểm cũng được Luật công chứng năm 2014 quy định về nguyên tắc.

Theo Nghị định số 29/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/03/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, tổ chức hành nghề công chứng phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên chậm nhất trong vòng 60 ngày, kể từ ngày công chứng viên được đăng ký hành nghề với mức phí theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức hành nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên (trường hợp được ủy quyền mua bảo hiểm), nhưng tối thiểu là 03 triệu đồng/năm đối với mỗi công chứng viên. Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả và bồi thường thiệt hại về vật chất của người tham gia ký kết và cá nhân, tổ chức liên quan trực tiếp đến hợp đồng, giao dịch đã được công chứng. Trong đó, thiệt hại phải do lỗi của công chứng viên gây ra trong thời hạn bảo hiểm; trường hợp công chứng viên câu kết, thông đồng làm sai lệch nội dung của văn bản, hồ sơ công chứng; tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo…, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không phải chi trả và bồi thường thiệt hại.

Một nội dung đáng chú ý khác là quy định về đấu giá chuyển đổi phòng công chứng. Cụ thể, người tham gia đấu giá nhận chuyển đổi phòng công chứng phải là công chứng viên đang hành nghề trên địa bàn cấp tỉnh có phòng công chứng dự kiến chuyển đổi; người dự kiến làm trưởng văn phòng công chứng phải có kinh nghiệm từ 02 năm trở lên. Đặc biệt, công chứng viên đang là trưởng văn phòng công chứng hoặc công chứng viên hợp danh của văn phòng công chứng sẽ không được tham gia đấu giá quyền nhận chuyển đổi văn phòng công chứng.

Cũng theo Nghị định này, văn phòng công chứng thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn sẽ được thuê trụ sở với giá ưu đãi, được cho mượn trụ sở, hỗ trợ về trang thiết bị, phương tiện làm việc trong 03 năm đầu hoạt động và được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật.

2.3.5 Thực tế xử lý vi phạm hoạt động công chứng của công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tại Bắc Ninh hiện tượng sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng không đúng quy định; thiếu chữ ký của công chứng viên hoặc người yêu cầu công chứng vào từng trang của hợp đồng giao dịch về quyền sử dụng đất vẫn xảy ra. Thậm chí, tình trạng treo biển hiệu không đúng quy định, công chứng ngoài trụ sở… là bất cập tái diễn nhiều năm qua nhưng chưa có giải pháp ngăn chặn hiệu quả. Từ năm 2015 đến nay, tại Bắc Ninh, cơ quan chức năng đã tạm đình chỉ hoạt động đối với một văn phòng công chứng, xử phạt vi phạm hành chính đối với 4 văn phòng công chứng và 5 công chứng viên với tổng số tiền 230 triệu đồng… Trong khi đó, từ nguồn tin tố giác của người dân, Bắc Ninh phát hiện một số cá nhân, tổ chức có hành vi hoạt động hành nghề công chứng trái phép, làm giả và sử dụng con dấu của văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Theo Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh, với 19 tổ chức hành nghề công chứng và 46 công chứng viên trên địa bàn, bên cạnh những thuận lợi trong việc góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho cá nhân, tổ chức, đóng góp ngân sách nhà nước thì cũng đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý. Do đó, năm 2019, tỉnh Bắc Ninh sẽ quan tâm xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan để phân định trách nhiệm của các ngành, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực công chứng. Cùng với đó, thành phố đẩy mạnh quản lý khai thác, cập nhật dữ liệu trong lĩnh vực công chứng.

2.4. Những tồn tại, hạn chế thuộc về trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

2.4.1. Tồn tại trong việc phát hiện giả mạo chủ thể và giấy tờ khi tham gia giao dịch về quyền sử dụng đất

Hiện nay việc giả mạo chủ thể và giả mạo giấy tờ trong hoạt động công chứng, không chỉ xảy ra ở các đô thị lớn mà theo phản ánh của các phương tiện truyền thông thì hầu hết các Tỉnh khắp cả nước cũng đều gặp phải. Riêng tỉnh Bắc Ninh, có thể nói, không tổ chức hành nghề công chứng nào hoặc công chứng viên nào mà không gặp phải việc giả mạo trong hoạt động công chứng. Đặc biệt các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất là một tài sản rất lớn nên việc giả mạo rất tinh vi. Giả mạo chủ thể tham gia giao dịch, Giả mạo chủ thể( chủ yếu là giả mạo bên bán, còn bên mua cũng có, nhưng ít gặp hơn). Việc giả mạo, có thể giả mạo 01 người( vợ hoặc chồng bên bán), giả mạo hai người hoặc nhiều người. Giả mạo giấy tờ trong hoạt động công chứng, trong lĩnh việc giả mạo, thì đây là trường hợp xảy ra khá phổ biến, rất thường xuyên, chiếm khoảng 80% vụ giả mạo công chứng tại Bắc Ninh. Giả mạo như: sửa chữa, tẩy xóa, thêm, bớt diện tích, thay tên, đổi họ chủ sở hữu, sử dụng…nhằm làm sai lệch nội dung giấy tờ quyền sử dụng đất; photocopy màu; scan màu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các giấy tờ liên quan, những trường hợp này nếu công chứng viên không để ý thì sẽ không phát hiện được. Ngoài ra, cũng có những trường hợp, tuy giả mạo đơn giản, nhưng cũng rất khó phát hiện, như: dùng chủ quyền cũ đã hết giá trị( vì nhà, đất đó đã được cấp chủ quyền mới, ví dụ báo mất chẳng hạn) để mua bán, thế chấp; hoặc giấy tờ giả, nhưng “ lỗi” ở một số chi tiết như số chứng minh nhân dân đen hoặc đỏ; Chủ quyền nhà đất kèm tờ khai lệ phí trước bạ hay thông báo nộp lệ phí trước bạ; thẩm quyền người ký, cơ quan cấp, thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Những trường hợp này công chứng viên bên cạnh phải có chuyên môn thì phải có sự cập nhật, theo dõi hỗ trợ của công nghệ thông tin, mới có thể phát hiện được. Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

Việc giả mạo trong hoạt động công chứng rất đáng lo ngại và đã gây nên hậu quả nặng nề cho xã hội. Đã có những trường hợp một người dùng một hoặc nhiều tài sản với giấy tờ giả, thủ đoạn khác nhau đã lừa được hàng chục lần, chiếm đoạt tài sản của nhiều cá nhân, tổ chức và đã “qua mặt” được nhiều công chứng viên của các tổ chức hành nghề công chứng khác nhau; Có rất nhiều trường hợp công chứng viên là nạn nhân không phải chỉ riêng các Văn phòng công chứng mà kể cả công chứng viên của các Phòng công chứng nhà nước.

Với thực trạng trên, có thể nói, giả mạo trong hoạt động công chứng lộng hành đến mức báo động! Ngoài thiệt hại về vật chất, các hành vi giả mạo còn gây ra hậu quả bất ổn cho xã hội, mất lòng tin, ảnh hưởng đến uy tín của hệ thống công chứng và đã trở thành “ nỗi ám ánh” của đa phần các công chứng viên. Việc “tiếp tay” của công chứng viên trong việc giả mạo, theo báo chí phản ánh, là có, nhưng chiếm số ít, còn việc giả mạo tinh vi, công chứng viên không thể biết được, vô tình tiếp tay cho việc giả mạo chắc chắn chiếm phần lớn trong các vụ việc đã được phát hiện. Như vậy, việc làm như thế nào để hạn chế tình trạng giả mạo, và làm như thế nào để bảo đảm an toàn pháp lý cho các công chứng viên đang hành nghề là ước vọng lớn nhất của giới công chứng cho đến nay. Tuy nhiên, việc xử phạt theo quy định của luật hình sự và hành chính hiện hành không đủ mức phòng ngừa, răn đe, trừng phạt; cách thức xử lý có khi “ mới hớt phần ngọn, chưa triệt tận gốc” nên tình trạng giả mạo trong hoạt động công chứng dù mới “manh nha” chưa tới 10 năm trở lại đây, nhưng càng ngày càng phát triển theo chiều hướng lây lan, bất lợi cho ngành công chứng nói riêng và bất ổn cho xã hội nói chung. Bởi thực tế, vi phạm trong hoạt động công chứng, thời gian gần đây, tuy xảy ra khá phổ biến, nhưng việc xử lý hình sự đối với người yêu cầu công chứng vi phạm lại rất ít . Nguyên nhân, vì theo quan điểm của cơ quan tiến hành tố tụng thì chỉ khi nào có đầy đủ căn cứ như bắt quả tang đối tượng có dụng cụ, phương tiện in ấn, làm giả con dấu, giấy tờ của cơ quan nhà nước hoặc phải có hậu quả thiệt hại thực tế xảy ra mới xử lý được tội “ Làm giả giấy tờ, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, “ Lừa đảo chiếm đoạt” theo quy định của Bộ luật Hình sự. Khi người yêu cầu công chứng có hành vi giả mạo với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, đây là hành vi trái pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội. Mặc dù hành vi vi phạm được phát hiện, ngăn chặn kịp thời nhưng đây là hành vi gian dối, lợi dụng sự tin tưởng của người dân vào tính chất pháp lý của hoạt động công chứng để chiếm đoạt tài sản và thông thường giá trị mong muốn chiếm đoạt là lớn. Việc phát hiện, ngăn chặn kịp thời là nguyên nhân khách quan làm cho việc chiếm đoạt tài sản của đối tượng có hành vi giả mạo không thực hiện được. Ở đây, nên hiểu cấu thành vật chất đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự không phải là hành vi trái pháp luật này phải gây ra hậu quả trên thực tế mà cần thống nhất hiểu là giá trị vật chất cụ thể mà đối tượng hướng tới với mong muốn chiếm đoạt. Điều này không phải là vấn đề khó chứng minh thông qua nội dung hợp đồng, giá trị tài sản mà các bên đã thỏa thuận khi giao dịch.

2.4.2. Tồn tại trong việc xác định thành viên hộ gia đình trong các giao dịch về quyền sử dụng đất Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

Việc xác định hộ gia đình vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc khiến các công chứng viên vẫn còn lúng túng khi công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất tại tỉnh Bắc Ninh: Khi thực hiện công chứng, chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho “Hộ gia đình” (có thể gọi chung là “Hộ gia đình sử dụng đất” thì một trong những vấn đề còn tranh luận khá gay gắt hiện nay là xác định thành viên của “Hộ gia đình” như thế nào. Có rất nhiều quan điểm đưa ra để xác định thành viên “Hộ gia đình sử dụng đất”. Quan điểm thứ nhất cho rằng: khi công chứng, chứng thực liên quan đến “Hộ gia đình sử dụng đất” thì chỉ cần yêu cầu người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được uỷ quyền ký tên. Quan điểm thứ hai cho rằng: người thực hiện công chứng, chứng thực căn cứ trên sổ hộ khẩu của chủ hộ gia đình đứng tên trong giấy chứng nhận để xác định những thành viên trong “Hộ gia đình” còn lại và yêu cầu những thành viên từ đủ 15 tuổi cùng ký tên trong hợp đồng, giao dịch. Quan điểm thứ ba cho rằng: để xác định thành viên “Hộ gia đình sử dụng đất” thì bên cạnh việc căn cứ sổ hộ khẩu gia đình phải có văn bản xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã để xác định những thành viên “Hộ gia đình” tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận và yêu cầu những thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên tại thời điểm ký công chứng, chứng thực cùng ký tên. Chính vì có rất nhiều cách hiểu như vậy nên gây rất nhiều khó khăn, lúng túng cho công chứng viên, cán bộ chứng thực dẫn đến việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản về quyền sử dụng đất của “Hộ gia đình” không thống nhất, khó bảo đảm tính chính xác, đúng pháp luật. Đây là một vấn đề vẫn còn nhiều tranh cãi khi các công chứng viên của tỉnh Bắc Ninh thực hiện việc công chứng về quyền sử dụng đất.

2.4.3 Tồn tại về mặt thể chế, quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng quyền sử dụng đất

Còn tồn tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật cùng quy định về vấn đề công chứng, nhất là công chứng các giao dịch quyền sử dụng đất và quy định về công chứng giữa luật công chứng và các luật có liên quan chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ. Giữa luật Công Chứng và Bộ luật Dân Sự, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành còn quy định khác nhau về thẩm quyền chứng nhận các giao dịch về đất đai. Một số quy định của luật công chứng còn chung chung, chưa dự liệu được hết một số vấn đề hiện đang phát sinh trong thực tiễn thi hành đã khiến hoạt động công chứng nói chung và công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất nói riêng vận hành chưa thông suốt trong thời gian qua. Bên cạnh những quy định chung còn bất cập như công chứng giao dịch về ủy quyền, thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng; Quy định về quản lý Nhà nước còn một số điểm sơ hở, chưa làm rõ được cơ chế trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý hoạt động công chứng.

Việc thiết lập, quản lý và phối hợp khai thác, cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất còn chậm, thiếu liên thông, đồng bộ. Việc cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất đã được công chứng là nhu cầu thiết thực không chỉ của Công chứng viên, các tổ chức hành nghề công chứng mà còn của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Nhưng trên thực tế, tại địa phương mới xây dựng cơ sở dữ liệu về công chứng nhưng còn thiếu thông tin, đặc biệt là chưa thể liên thông giữa các tổ chức hành nghề công chứng với nhau, giữa các tổ chức hành nghề công chứng với cơ quan quản lý nhà nước về quyền sử dụng đất. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công chứng chưa thật sự phù hợp dẫn đến mất cân đối giữa các địa bàn. Thực tiễn cho thấy sự phát triển của các tổ chức hành nghề công chứng, sự phân bố các tổ chức hành nghề công chứng còn chưa đồng đều. Các văn phòng công chứng chủ yếu phát triển ở khu vực thành phố, thị xã và những huyện phát triển, trong khi đó các địa bàn có điều kiện kinh tế kém phát triển thì số lượng tổ chức hành nghề công chứng rất ít. Điều này chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có nhu cầu công chứng các giao dịch nói chung và giao dịch về quyền sử dụng đất nói riêng.

Trong quá trình thi hành các quy định pháp luật về công chứng giao dịch quyền sử dụng đất thì một số tình trạng bất cập vẫn xảy ra như: Cạnh tranh không lành mạnh giữa các văn phòng công chứng; Hiện tượng vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục, thời gian, địa điểm công chứng vẫn còn tồn tại nhiều; Còn không ít các trường hợp văn bản công chứng không chính xác, bị cơ quan chức năng trả lại, không chấp thuận hoặc gây ra tranh chấp trong giao dịch hợp đồng quyền sử dụng đất; Quy định về lệ phí tại các văn phòng công chứng không thống nhất khiến dư luận xã hội và một số cơ quan quản lý nhà nước cho rằng làm tăng chi phí xã hội.

2.4.4. Tồn tại trong việc giải quyết trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của công chứng viên trong vụ việc liên quan đến tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

Luât Công chứng năm 2014 (gọi tắt là Luật Công chứng), được Quốc hội khóa 13 thông qua ngày 20/6/2014, là cơ sở pháp lý quy định về công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, việc hành nghề công chứng, thủ tục công chứng và quản lý nhà nước về công chứng. Trong đó, vấn đề về bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng được quy định cụ thể tại Điều 38:

  • Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.
  • Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.”

Đồng thời, Điều 52 Luật Công chứng cũng quy định về người có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, gồm: Công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về các vụ việc liên quan đến văn bản công chứng vô hiệu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, gồm: Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu (khoản 11 Điều 26) và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu (khoản 6 Điều 27).

Như vậy, pháp luật đã quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng nếu do lỗi của công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch gây ra trong quá trình công chứng. Do đó, nếu trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu mà có lỗi của tổ chức hành nghề công chứng dẫn đến văn bản công chứng bị tuyên bố vô hiệu và gây ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác thì tổ chức hành nghề công chứng phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Tuy nhiên, trên thực tế tại tỉnh Bắc Ninh việc giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu hay cần phải tách ra bằng một vụ việc khác về yêu cầu bồi thường thiệt hại, để vừa giải quyết triệt để yêu cầu của đương sự nhưng cũng không gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án thì hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự 2015 thì “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập; khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả…Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Khi Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thì phải giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Như vậy, nếu chứng minh được lỗi dẫn đến văn bản công chứng vô hiệu là do tổ chức hành nghề công chứng gây ra thì tổ chức hành nghề công chứng phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu, người liên quan bị thiệt hại. Nguyên tắc của bồi thường thiệt hại là ‘thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời”. Bên cạnh đó, để đảm bảo những yêu cầu của đương sự và những vấn đề phát sinh trong vụ án được giải quyết triệt để, toàn diện thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.

Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Không thể giải quyết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu mà phải tách ra bằng một vụ án khác. Bởi lẽ, đa phần tại thời điểm giải quyết vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thì thiệt hại từ hậu quả của văn bản công chứng vô hiệu chưa xảy ra trên thực tế (mặc dù chắc chắn rằng thiệt hại sẽ xảy ra) hoặc có xảy ra thì cũng chưa thể xác định cụ thể về mức độ thiệt hại, hay nói cách khác là chưa có định lượng chính xác về thiệt hại. Bên cạnh đó, khi văn bản công chứng bị tuyên bố vô hiệu, trong một số trường hợp, lỗi không hoàn toàn thuộc về công chứng viên, nhân viên…của tổ chức hành nghề công chứng mà có cả lỗi của người yêu cầu công chứng, người liên quan. Vì thế, nếu giải quyết trách nhiêm bồi thường của tổ chức hành nghề công chứng thì phải xác định phần lỗi của từng đương sự để xác định phần trách nhiệm. Nhưng thiệt hại thực tế chưa xảy ra hoặc chưa thể xác định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, chính xác về thiệt hại là bao nhiêu, như thế nào nên Tòa án cũng không thể buộc từng đương sự phải chịu phần bồi thường là bao nhiêu. Vì thế, để giải quyết việc bồi thường của tổ chức hành nghề công chứng được chính xác thì cần phải chờ khi các bên thi hành bản án của vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, thực hiện nghĩa vụ cho nhau đối với hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì lúc này mới xác định được cụ thể thiệt hại thực tế xảy ra. Do đó, trong trường hợp này Tòa án cần phải giải thích và hướng dẫn cho đương sự rút yêu cầu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng và khởi kiện bằng một vụ án khác khi thiệt hại thực tế đã xảy ra và đã xác định được cụ thể về định lượng. Nếu đương sự vẫn không rút yêu cầu thì Tòa án yêu cầu họ chứng minh về thiệt hại để có căn cứ giải quyết, nếu họ không chứng minh được thì bác và tách yêu cầu này của họ để họ khởi kiện thành một vụ án khác.

Bộ luật Tố tụng dân sự và pháp luật liên quan không có quy định nào quy định về việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu hay tách ra bằng một vụ án dân sự khác. Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

Mặt khác, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm vật chất, do vậy, phải có định lượng về thiệt hại cụ thể để yêu cầu và để có cơ sở buộc bồi thường. Khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp…”. Nói cách khác, nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Đương sự yêu cầu giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng không thuộc trường hợp loại trừ (không có nghĩa vụ chứng minh), nên họ phải có nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho thiệt hại để Tòa án có căn cứ, cơ sở buộc tổ chức hành nghề công chứng bồi thường.

Vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu hay tách ra bằng một vụ án dân sự khác thì phải tùy vào từng trường hợp cụ thể; phụ thuộc vào nội dung, tính chất, kết quả của từng vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; phụ thuộc vào tài liệu, chứng cứ chứng minh cho thiệt hại. Nếu trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, người yêu cầu chứng minh được đầy đủ, rõ ràng, chính xác, có định lượng cụ thể các thiệt hại thực tế xảy ra từ hậu quả của việc văn bản công chứng vô hiệu do lỗi của tổ chức hành nghề công chứng thì Tòa án giải quyết ngay trong vụ việc đó; còn nếu họ không chứng minh được thì Tòa án tách yêu cầu này của họ thành một vụ án khác.

Ví dụ 1: Trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án xác định được phần lỗi của các bên (bên chuyển nhượng và tổ chức hành nghề công chứng) dẫn đến văn bản công chứng đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đất vô hiệu. Đồng thời, xác định được thiệt hại mà bên nhận chuyển nhượng phải gánh chịu do giá trị quyền sử dụng đất tăng lên, khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất và các thiệt hại vật chất khác, thì ngay trong vụ án, cùng với việc giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công vô hiệu, Tòa án có thể giải quyết yêu cầu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng.

Ví dụ 2: Trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng mà có yêu cầu độc lập của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu và yêu cầu của nguyên đơn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng do hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu. Mặc dù Tòa án xác định được phần lỗi của các bên (bên thế chấp và tổ chức hành nghề công chứng) dẫn đến hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu. Đồng thời, Tòa án cũng dự đoán được thiệt hại mà nguyên đơn (tổ chức tín dụng, bên nhận thế chấp) sẽ phải gánh chịu do hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu, đồng nghĩa với việc tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ không còn. Nhưng tại thời điểm giải quyết vụ án, thiệt hại của nguyên đơn chưa xảy ra do nghĩa vụ trả nợ của bị đơn cho nguyên đơn chưa được thực hiện nên chưa biết kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bị đơn cho nguyên đơn như thế nào, do đó không thể xác định thiệt hại của nguyên là bao nhiêu. Vì vậy, Tòa án cũng chưa có định lượng cụ thể về thiệt hại để giải quyết yêu cầu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng.

Trong trường hợp này, để có cơ sở giải quyết về bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng cho nguyên đơn thì cần phải căn cứ vào kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bị đơn cho nguyên đơn theo phán quyết của bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng. Do đó, Tòa án phải tách yêu cầu này của họ để họ khởi kiện thành một vụ án khác.

Thời gian qua, nhận thức của các công chứng viên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh quan điểm về giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng trong vụ việc liên quan đến tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu chưa được thống nhất. Vì vậy, thiết nghĩ, Tòa án nhân dân Tối cao cần sớm có hướng dẫn cụ thể để thống nhất về quan điểm và đường lối xử lý về vấn đề này để Tòa án các cấp vừa giải quyết được toàn diện, triệt để yêu cầu của đương sự nhưng cũng không tự gây khó khăn cho chính mình; để vừa thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nhưng vẫn bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử./.

2.4.5. Tồn tại trong đạo đức hành nghề công chứng của công chứng viên Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, hàng loạt các văn phòng công chứng, công chứng viên được thành lập, đáp ứng tốt các nhu cầu công chứng của người dân, góp phần vào việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng còn những công chứng viên, vì những lý do khác nhau như là sự cạnh tranh, vì thiếu hiểu biết về chuyên môn, nghiệp vụ, hay vì sồ tiền phí thu được… nên đã công chứng những hợp đồng, giao dịch vi phạm các quy định của pháp luật. Trong quá trình thụ lý một hồ sơ công chứng , tôi đã tiếp nhận các hợp đồng đã được công chứng như: một văn phòng công chứng tỉnh Bắc Ninh, có “Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” bên tặng cho điểm chỉ (không đọc được) vào hợp đồng. nhưng tìm người là người làm chứng trong hợp đồng này lại không thấy, trong khi khoản 2 Điều 47, Luật công chứng năm 2014 quy định là : “Trường hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng.”.

Đặc biệt cũng tại một số văn phòng công chứng tại tỉnh, công chứng viên công chứng hợp đồng tặng cho tài sản là quyền sử dụng đất của người bị mất năng lực hành vi dân sự, vi phạm khoản 1 điều 59 của Bộ Luật dân sự năm 2015: “Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ”.

Những văn bản này dù đã được công chứng, người yêu cầu công chứng hợp đồng này vừa mất công, lại tốn của nhưng nhận về một sản phẩm không sử dụng được. Câu hỏi đặt ra tại sao những quy định rất rõ như vậy mà công chứng viên vẫn phạm? Theo tôi những trường hợp này nó thiên về đạo đức của công chứng viên. Biết rằng sản phẩm mình làm ra là không phù hợp pháp luật, không sử dụng được, hoặc sử dụng được nhưng nguy cơ gây thiệt hại gây tranh chấp, rủi do cho những người tham gia giao dịch, nhưng họ vẫn cung cấp cho khách hàng sản phẩm đó. Mục đích theo tôi, có lẽ là vừa thu được phí, thù lao công chứng cho mình, lại vừa có thể tạo ra cho khách hàng cảm nhận văn phòng công chứng của họ thuận lợi, làm được những việc mà các tổ chức hành nghề công chứng khác không làm được, đẩy sự khó khăn, khó dễ cho tổ chức hành nghề công chứng thực hiện đúng quy định, khi từ chối tiếp nhận sản phẩm của họ, để thực hiện các giao dịch tiếp theo. Họ đã góp phần tăng thêm nguy rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch mà họ đã công chứng.

Tiểu kết chương

Thực tiễn thực hiện cho thấy tranh chấp trong xã hội ngày càng tăng, vụ việc càng phức tạp, trong đó có nguyên nhân là do không có chứng cứ xác thực. Do vậy tạo sự ổn định trong quan hệ xã hội, giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại là điều đặc biệt quan trọng nhằm phát triển kinh tế xã hội. Cho nên tuyên truyền phổ biến pháp luật là cần thiết, song tăng cường hơn nữa các biện pháp, công cụ tổ chức thực hiện pháp luật cũng cần thiết không kém. Công chứng là một hoạt động quan trọng, một thể chế không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền. Thông qua hoạt động công chứng và các quy định hướng dẫn, điều chỉnh pháp luật trở thành hiện thực sinh động của đời sống xã hội, thành hành vi xử sự theo đúng pháp luật. Do đó xét trên bình diện công dân, thì văn bản công chứng là một công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của họ, phòng ngừa tranh chấp, tạo ra sự ổn định trong quan hệ dân sự, tài sản. Mặt khác về phương diện Nhà nước thì văn bản công chứng tạo ra một chứng cứ xác thực, kịp thời không ai có thể phản bác, chối cãi, trừ trường hợp bị tòa án tuyên bố là vô hiệu. Bởi vậy, văn bản công chứng là công cụ pháp lý quan trọng hoặc in, mang nội dung là những gì cần được ghi để lưu lại làm bằng. của Nhà nước pháp quyền. Công chứng phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu có giá trị chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Công chứng hợp đồng, giao dịch do cơ quan bổ trợ tư pháp cụ thể là Phòng Công chứng và Văn phòng Công chứng thực hiện. Việc công chứng giúp bảo đảm nội dung của một hợp đồng, một giao dịch, công chứng viên chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đó. Công chứng viên phải đảm bảo và chịu trách nhiệm đối với tính xác thực, tính hợp pháp của các loại giấy tờ trong hồ sơ mà người yêu cầu công chứng cung cấp. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng hồ sơ yêu cầu công chứng có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép hoặc cần được làm rõ thì công chứng viên đề nghị làm rõ hoặc xác minh, yêu cầu giám định theo đề nghị của người yêu cầu công chứng; nếu không làm rõ được thì từ chối công chứng. Các giao dịch về quyền sử dụng đất thường là những hợp đồng có giá trị lớn, mang ý nghĩa thiết thực đối với các chủ thể tham gia. Khi tham gia xác lập hợp đồng, các chủ thể đều mong muốn được công chứng, chứng thực nhanh chóng, thuận tiện để hợp đồng có hiệu lực pháp luật, đảm bảo về mặt pháp lý nếu có tranh chấp xảy ra. Luận văn: Thực trạng công chứng viên trong giao đất tại Bắc Ninh

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Giảp pháp trách nhiện công chứng khi giao dịch đất

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x