Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.2. Các nguyên tắc và yêu cầu đối với việc công chứng văn bản ủy quyền
2.2.1.Các nguyên tắc
Tuân thủ trình tự, thủ tục công chứng và , quy định pháp luật về hợp đồng khi công chứng ủy quyền
Do văn bản ủy quyền thuộc về chế định hợp đồng, giao dịch, cho nên, khi thực hiện công chứng văn bản ủy quyền, không những phải tuân thủ quy định về thủ tục đối với công chứng hợp đồng ủy quyền tại Điều 55 LCC 2014 mà còn phải tuân thủ trình tự, thủ tục chung về công chứng được quy định tại Mục 1 Chương V LCC (từ Điều 40 đến Điều 52) và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Không những thế, còn phải tuân thủ các quy định về hợp đồng ủy quyền tại Mục 13 Chương XVI BLDS 2015 (từ Điều 562 đến Điều 569) và các quy định của pháp luật về giao dịch dân sự và hợp đồng dân sự nói chung. Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Việc tuân thủ chặt chẽ về trình tự, thủ tục và pháp luật nội dung nêu trên xuất phát từ yêu cầu về việc bảo đảm tính xác thực, hợp pháp của văn bản công chứng, tránh tình trạng áp đặt ý chí chủ quan của CCV, giúp người yêu cầu công chứng có điều kiện và căn cứ giám sát, kiểm tra hoạt động công chứng tuân thủ pháp luật hay không. Nói cách khác, chính việc tuân thủ trình tự, thủ tục, tuân thủ quy định pháp luật về hợp đồng ủy quyền, pháp luật về giao dịch dân sự và hợp đồng dân sự nói chung sẽ bảo đảm cho văn bản ủy quyền có và giữ được giá trị chứng cứ, giá trị thi hành như pháp luật công chứng quy định.
Phải khách quan, trung thực khi công chứng văn bản ủy quyền
Khách quan, trung thực sẽ không làm sai lệch sự thỏa thuận của các bên, không làm sai lệch hồ sơ, không thiên lệch về bất cứ bên nào trong quan hệ ủy quyền để có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích cho bên còn lại. Nguyên tắc này đòi hỏi phải bảo đảm tuân thủ trong suốt quá trình công chứng văn bản ủy quyền, từ khi thụ lý yêu cầu công chứng, tư vấn, soạn thảo văn bản ủy quyền, giải thích quyền. nghĩa vụ, ý nghĩa hậu quả pháp lý của nội dung ủy quyền cho đến khi ký chứng nhận văn bản ủy quyền.
Việc ủy quyền không bị hạn chế bởi yếu tố thẩm quyền theo“địa hạt”
Tuy nhiên, đối với trường hợp bên ủy quyền và bên được ủy quyền không thể cùng đến một tổ chức hành nghề công chứng thì CCV cần lưu ý về yếu tố thẩm quyền theo “địa hạt” được quy định tại khoản 2 Điều 55 LCC 2014: “Trong trường hợp bên ủy quyền và bên được ủy quyền không thể cùng đến một tổ chức hành nghề công chứng thì bên ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú công chứng hợp đồng ủy quyền; bên được ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú công chứng tiếp vào bản gốc hợp đồng ủy quyền này, hoàn tất thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền”.
Phải làm rõ các yếu tố, cơ sở pháp lý cho và chứng nhận ủy quyền trong văn bản ủy quyền.
Mục đích của văn bản ủy quyền là để bên được ủy quyền sử dụng nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người ủy quyền. Khi thực thi các công việc này, người được ủy quyền sẽ phải cung cấp cho cá nhân, tổ chức liên quan những cơ sở pháp lý chứng minh quyền của bên ủy quyền đối với nội dung ủy quyền. Đây là những yếu tố đã được kiểm chứng khi xác định tính xác thực, hợp pháp để thực hiện công chứng. Do đó, những yếu tố này cần phải được thể hiện trong nội dung của ủy quyền để một mặt, tạo điều kiện cho người được ủy quyền thực hiện công việc, mặt khác, để cho thấy tính xác thực và hợp pháp của nội dung ủy quyền, ví dụ như những thông tin về tình trạng sở hữu chung/riêng của bên ủy quyền đối với tài sản ủy quyền, tình trạng hôn nhân của bên ủy quyền Những thông tin này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền liên quan và người được ủy quyền tiếp tục xử lý công việc.
Phải thể hiện rõ được yếu tố nhân danh và đại diện của bên được ủy quyền trong văn bản ủy quyền
Đây là tính chất căn bản để phân biệt giao dịch ủy quyền với giao dịch về chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ dân sự được quy định từ Điều 365 đến Điều 371 BLDS 2015, tránh làm văn bản ủy quyền rơi vào tình trạng nhầm lẫn, “biến tướng” với loại giao dịch khác.
Không chứng nhận ủy quyền đối với những trường hợp pháp luật quy định không được phép ủy quyền, hoặc pháp luật quy định phải tự mình xác lập thực hiện giao dịch đây, cần phân biệt việc pháp luật quy định được phép ủy quyền, không để người khác đại diện với việc pháp luật quy định về việc ủy quyền hay với những công việc không thể xuất phát từ thuộc tính tự nhiên của công việc mà nếu thực hiện không thể vì lợi ích của người ủy quyền.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Kinh Tế
2.2.1.Các yêu cầu Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Nắm được đặc điểm, bản chất của văn bản ủy quyền (như về chủ thể, đối tượng, nội dung, thời hạn…) để vận dụng chứng nhận.
Phải xác định được đúng ý chí đích thực của các bên, hạn chế tối đa tình trạng nhầm lẫn, giả tạo khi xác lập quan hệ ủy quyền.
Phải giải thích, tư vấn về những rủi ro, hậu quả cùng với ý nghĩa pháp lý của hình thức ủy quyền do hai bên thiết lập. Khoản 1 Điều 55 LCC 2014 quy định khi công chứng các hợp đồng ủy quyền, CCV có trách nhiệm giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của các bên và hậu quả pháp lý của việc ủy quyền đó cho các bên tham gia. Yêu cầu này giúp các bên lường trước hậu quả của giao dịch ủy quyền để có quyết định đúng đắn, hạn chế đến mức thấp nhất các “lỗ hổng” về quyền, nghĩa vụ trong ủy quyền, hạn chế tối đa các bất đồng có thể phát sinh, từ đó, có tác dụng phòng ngừa vi phạm pháp luật, phòng ngừa và hạn chế tranh chấp có thể xảy ra.
Phải bảo đảm nội dung ủy quyền thỏa thuận không trái với quy định pháp luật, đạo đức xã hội.
Phải bảo đảm chuyển tải chính xác ý chí của các bên về đối tượng và nội dung ủy quyền, phải phân biệt được trách nhiệm của các chủ thể trong văn bản công chứng và ngôn ngữ sử dụng trong văn bản phải đơn nghĩa. Nội dung ủy quyền và phạm vi công việc phải được dự liệu đầy đủ, việc mô tả nội dung công việc phải ở tầm khái quát cao, nhưng phạm vi công việc ủy quyền phải chi tiết, cụ thể, tránh lạm dụng từ, cụm từ hay dấu câu có tính chất suy diễn như dấu “…”, “v/v”. Ví dụ: ủy quyền liên quan đến việc vay nợ và bảo đảm cần làm rõ công việc ủy quyền vay nợ là gì (vay ai, lãi suất bao nhiêu, thời hạn như thế nào, trả lãi ra sao…) và làm rõ việc bảo đảm bằng tài sản như thế nào (thế chấp tài sản nào, phạm vi bảo đảm là gì, bảo đảm cho ai, phương án xử lý tài sản là gì…) đề phân định rõ được phạm vi trách nhiệm của hai bên trong quan hệ ủy quyền. Với ý nghĩa này, việc ghi nhận như sau là chưa rõ ràng “…Trong phạm vi ủy quyền, bên B được ủy quyền lại cho người thứ ba ký văn bản”.
2.3. Công chứng văn bản ủy quyền Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
2.3.1. Công chứng hợp đồng ủy quyền
Căn cứ quy định về trình tự, thủ tục công chứng được quy định tại Điều 40 và Điều 41 LCC 2014, quá trình công chứng hợp đồng ủy quyền được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ và yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền.
CCV thụ lý yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền sẽ tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng bao gồm những loại giấy tờ sau:
Phiếu yêu cầu công chứng, trong đó có thông tin về họ tên, địa chỉ bên ủy quyền và bên được ủy quyền, với nội dung yêu cầu là công chứng hợp đồng ủy quyền, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, thời điểm tiếp nhận hồ sơ;
Dự thảo hợp đồng ủy quyền (trong trường hợp, nêu đương sự yêu cầu CCV Soạn thảo giúp hợp đồng thì không có loại giấy tờ này);
Bản sao giấy tờ tùy thân của người ủy quyền và người được ủy quyền
Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng ủy quyền liên quan đến tài sản đó;
Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng ủy quyền mà pháp luật quy định phải có (chẳng hạn như giấy tờ chứng minh tài sản chung riêng của vợ chồng, giấy tờ về tình trạng hôn nhân bên ủy quyền. Bản sao là bản chụp, bản in hoặc bản đánh máy có nội dung đầy đủ, chính xác như bản chính và không phải chứng thực).
Bước 2: Đánh giá hồ sơ,yêu cầu người yêu cầu công chứng
Tại bước này, CCV kiểm tra, đối chiếu và đánh giá giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền. Trường hợp hồ sơ yêu cầu công chứng đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật vào số công chứng.
Trên cơ sở những nguyên tắc và yêu cầu đặt ra cần tuân thủ đối với quá trình công chứng ủy quyền đã được trình bày nêu trên, CCV phải kiểm tra về chủ thể, đối tượng, nội dung ủy quyền có thực, đối chiếu tất cả các thông tin, dữ liệu của các tài liệu với nhau và với các quy định pháp luật có liên quan lẫn ý chí đích thực của bên ủy quyền và bên được ủy quyền để đánh giá sự phù hợp, chính xác, xác thực của thông tin, tài liệu cũng như của việc giao kết hợp đồng ủy quyền.
Qua đó, CCV hướng dẫn các bên trong quan hệ ủy quyền tuân thủ đúng các quy định về thủ tục công chứng và các quy định pháp luật có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, giao dịch; giải thích cho họ hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc tham gia hợp đồng ủy quyền.
Trong trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng ủy quyền có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của hai bên tham gia hoặc đối tượng của hợp đồng ủy quyền chưa được mô tả cụ thể thì CCV đề nghị các bên làm rõ hoặc theo đề nghị của họ, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng.
Bước 3: Hoàn tất dự thảo hợp đồng ủy quyền
CCV kiểm tra dự thảo hợp đồng ủy quyền; nếu trong dự thảo có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng ủy quyền không phù hợp với quy định của pháp luật thì CCV phải chỉ rõ cho người yêu cầu công chứng để sửa chữa. Trường hợp người yêu cầu công chứng không sửa chữa thì CCV quyền từ chối công chứng. .
Trong bước này, CCV phải bảo đảm tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng ủy quyền nếu sự thỏa thuận đó phù hợp quy định pháp luật, không được ép buộc các bên phải thỏa thuận theo ý chủ quan của mình. Nói cách khác, CCV đóng vai trò là người hướng dẫn, nhắc nhở các bên trong quan hệ ủy quyền thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật cho phép chứ CCV không được làm “méo mó” ý chí các bên.
Đối với nội dung ủy quyền, CCV phải soạn thảo từ ý chí xác thực của các bên (không lừa dối, nhầm lẫn,ép buộc, hay giao dịch giả cách) và trên cơ sở đối chiếu với các quy định pháp luật có liên quan (để ở trái pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội). CCV phải giao tiếp trực tiếp để biết ý muốn đích thực của các bên, hạn chế tối đa việc lấy thông tin gián tiếp từ người thứ ba. Đặc biệt, đối với những người cao tuổi, CCV cần cẩn trọng trong tiếp xúc để hạn chế việc nhầm lẫn, bị lừa dối.
Dự thảo hợp đồng ủy quyền cần phải bảo đảm bố cục, chặt chẽ và đầy đủ, thành phần của văn bản công chứng như phần mở đầu, phần nội dung, phần cuối, phần lời chứng. Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Bên cạnh đó, CCV còn phải chuẩn bị nội dung lời chứng đối với hợp đồng ủy quyền mà mình chứng nhận, bảo đảm nội dung lời chứng phải rõ ràng, chặt chẽ, thể hiện rõ mức độ trách nhiệm của mình và phù hợp với Điều 46 LCC, mẫu lời chứng ban hành kèm theo Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng.
Bước 4: Cho các bên ký và công chứng viên ký chứng nhận
Đây là giai đoạn mà CCV để cho người ủy quyền, người được uỷ quyền tự đọc lại dự thảo hợp đồng ủy quyền. Nếu họ không biết đọc, thì theo yêu cầu của họ, CCV sẽ đọc cho họ nghe trước sự chứng kiến của người làm chứng. Nếu họ không biết tiếng Việt thì phải có người phiên dịch tham gia theo quy định. giai đoạn này, CCV phải tiếp tục giải thích về quyền và nghĩa vụ đối với những nội dung có sửa đổi, bổ sung so với dự thảo ban đầu, hậu quả và ý nghĩa pháp lý của những nội dung trong hợp đồng ủy quyền. Chỉ khi các bên tham gia ủy quyền hoàn toàn hiểu rõ và đồng ý với quyền và nghĩa vụ của mình được ghi nhận trong hợp đồng thì CCV mới được phép công chứng hợp đồng đó. Khi đó, CCV hướng dẫn họ ký vào từng trang và ký, ghi họ tên vào trang cuối của hợp đồng ủy quyền.
CCV yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình bản chính của các giấy tờ mình đã thu thập trong bước 1 để đối chiếu trước khi CCV ký vào từng trang của hợp đồng và lời chứng. Đối với việc công chứng hợp đồng ủy quyền trong trường hợp bên ủy quyền và bên được ủy quyền không thể cùng đến một tổ chức hành nghề công chứng thì các bước thực hiện cũng tương tự như trên, nhưng chỉ có 1 bên hiện diện để thực hiện thủ tục và CCV chỉ cần quan tâm đến ý chí của bên hiện diện mà không cần phải xác minh, làm rõ ý chí của bên còn lại.
Nhìn chung, CCV cần lưu ý tránh một số sai sót sau:
Sai sót về lời chứng do không phù hợp với diễn biến khách quan. Về nguyên tắc, mẫu lời chứng được soạn sẵn cho những tình huống thông thường và CCV chỉ cần điền thêm thông tin về nhân thân các bên, thông tin về tài sản khi chứng nhận. Nhưng nếu xảy ra những tình huống “đặc biệt” như: các bên không ký cùng ngày; CCV ký chứng nhận không cùng ngày với các bên; việc ký hợp đồng được thực hiện ngoài trụ sở; người ký không biết đọc, biết viết cần phải có người làm chứng,.. thì mẫu lời chứng soạn sẵn thường dẫn đến sai sót, vì CCV quên không thể hiện những nội dung “đặc biệt”phát sinh này trong lời chứng.
Do đó, CCV cần lưu ý về thời điểm của các bên trong hợp đồng ủy quyền và của CCV. Những thế này phải được thể hiện chính xác trên hợp đồng, phù hợp với diễn biến thực tế. Trong trường hợp các bên ký không cùng một thời điểm thì CCV phải cụ thể hóa thời điểm ký của từng người, từng bên trong phần lời chứng của mình. Còn trong trường hợp thực hiện việc công chứng ngoài trụ sở, CCV cần lưu ý kiểm tra thông tin về địa điểm thực hiện việc ký hợp đồng trong nội dung hợp đồng cũng như tại phần lời chứng cho phù hợp với diễn biến thực tế. Trong trường hợp các bên ký không cùng địa điểm thì CCV phải cụ thể hóa địa điểm ký của từng người, của từng bên trong phần lời chứng của mình .
Bên cạnh đó, CCV còn phải kiểm tra thông tin dữ liệu tại phần lời chứng với những thông tin, dữ liệu tại phần nội dung hợp đồng ủy quyền (về tên, năm sinh, số giấy tờ tùy thân các bên, địa chỉ tài sản…) xem có sai sót nào hay không. Sai sót thường thấy là: phần hợp đồng thể hiện thông tin bên ủy quyền là “ông”, nhưng phần lời chứng lại ghi thành “bà”, có người làm chứng vì người yêu cầu không đọc được, nhưng lời chứng lại ghi “đã tự đọc trước mặt tôi” và không ghi có sự hiện diện của người làm chứng; tài sản ghi trong hợp đồng là nhà, nhưng phần lời chứng lại ghi thành đất…
Việc trao đổi, giao tiếp giữa CCV với các bên tham gia hợp đồng ủy quyền không chỉ đơn thuần dừng lại ở mục đích trao đổi thông tin về hợp đồng, về việc các bên có biết và hiểu về ủy quyền hay không mà hơn thế nữa, là để cho CCV có thể xác định được ý chí đích thực của các bên khi giao kết ủy quyền, có nhằm che giấu giao dịch khác, xác định được tình trạng về năng lực hành vi dân sự của các bên giao kết. Trong thực tế, có nhiều trường hợp người yêu cầu công chứng vẫn có khả năng tự ký, ghi họ tên vào văn bản, nhưng khả năng nhận thức và hiểu biết đã bị hạn chế. Những vấn đề này chỉ bộc lộ thông qua giao tiếp trực tiếp để CCV nắm bắt. Do đó, thời gian thực hiện công việc này mặc dù diễn ra ngắn, song lại có ý nghĩa quyết định đối với giá trị của văn bản công chứng. Thực tế cho thấy, CCV thường bỏ qua khoảng trắng công việc này cho cán bộ thư ký giúp việc hoặc làm qua loa chiếu lệ.
2.3.2. Công chứng giấy ủy quyền Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Như đã phân tích, xét về mặt bản chất, hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Giấy ủy quyền” là quan hệ hợp đồng, trong đó, chỉ cần bên ủy quyền ký vào văn bản là đủ, còn bên được ủy quyền sẽ thể hiện ý chí thỏa thuận đồng ý của mình thông qua chính hành vi tự nguyện thực hiện ủy quyền.Với cách thức đó, giấy ủy quyền sẽ đơn giản hơn về mặt thủ tục khi chỉ cần một bên có mặt để thực hiện việc chứng nhận, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các bên trong quan hệ ủy quyền.
Tuy nhiên, hiện Luật Công chứng 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành lại không có bất kỳ quy định nào đề cập đến công chứng hình thức văn bản có tên gọi này (ngay cả mẫu lời chứng được ban hành theo Thông tư số 06/2015/TT-BTP cũng không có mẫu lời chứng cho “Giấy ủy quyền”). Trong điều kiện khi chưa có quy định hay hướng dẫn cụ thể của cấp có thẩm quyền về việc công chứng hình thức văn bản ủy quyền dưới dạng “Giấy ủy quyền”, thì để bảo đảm chặt chẽ và hạn chế rủi ro pháp lý, CCV cần cân nhắc thực hiện theo thủ tục công chứng đối với hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Giấy ủy quyền”. Trong tình huống này, phương án lựa chọn phù hợp nhất là chứng nhận văn bản dưới dạng “Hợp đồng ủy quyền” hoặc chứng nhận “Hợp đồng ủy quyền” do một bên ký trước vào văn bản (nếu chỉ có bên ủy quyền đến tổ chức hành nghề công chứng) và bên được ủy quyền sẽ thực hiện thụ ủy sau.
Tuy nhiên, bên cạnh phương án trên, có quan điểm cho rằng: do pháp luật chưa đưa ra bất kỳ khái niệm hay định nghĩa về “Giấy ủy quyền”, đồng thời, dựa trên các quy định hiện hành cho thấy, việc phân biệt giữa “Giấy ủy quyền” và “Hợp đồng ủy quyền” là dựa trên cơ sở bên ký vào văn bản, chứ không dựa vào tiêu đề về tên gọi của văn bản là “Giấy” hay “Hợp đồng”. Nói cách khác, “Giấy ủy quyền” bản chất vẫn thuộc về chế định hợp đồng ủy quyền. Do đó, đối với văn bản ủy quyền dưới dạng “Giấy ủy quyền” vẫn có thể áp dụng Điều 55 Luật Công chứng để tiếp tục chứng nhận việc thụ ủy của bên được ủy quyền và biến nó thành Hợp đồng ủy quyền hoàn chỉnh. Nếu như vậy, trình tự, thủ tục để công chứng “Giấy ủy quyền” cũng không khác với việc công chứng hợp đồng ủy quyền trong trường hợp chỉ có một bên (bên ủy quyền) đến tổ chức hành nghề công chứng để yêu cầu công chứng trước. Trong trường hợp này, các bước và kỹ năng thực hiện công chứng cũng tương tự như công chứng hợp đồng ủy quyền được nêu ở trên. nhưng chỉ có 1 bên hiện diện để thực hiện thủ tục. Theo đó, CCV chỉ cần quan tâm đến ý chí của bên hiện diện mà không cần phải xác minh, làm rõ ý chí của bên còn lại. Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Ngoài ra, hiện chỉ có điểm d khoản 4 Điều 24 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch chính thức đề cập đến loại ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Giấy ủy quyền” và pháp luật cho phép chứng thực chữ ký đối với loại văn bản này (thay vì phải chứng thực theo hình thức giao dịch). Mà theo Điều 77 LCC và khoản 4 Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP thì CCV lại có thẩm quyền chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản.
Mặc dù về nguyên tắc, pháp luật không cho phép chứng thực chữ ký đối với giấy tờ, văn bản có nội dung hợp đồng, giao dịch, nhưng nếu giấy tờ, văn bản giấy ủy quyền không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền và không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản thì người có thẩm quyền lại được phép chứng thực chữ ký trên giấy tờ, văn bản này (khoản 4 Điều 24 và khoản 4 Điều 25 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP). Do đó, đối với yêu cầu công chứng văn bản ủy quyền có nội dung: (1) không có thù lao; (2) không có nghĩa và bồi thường của bên được ủy quyền; (3) không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản thì CCV có thể chuyển thành hình thức chứng thực chữ ký trên giấy ủy quyền theo pháp luật về chứng thực.
Tuy nhiên, đối với trường hợp (3) của giấy ủy quyền, khái niệm “liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản” có thể được hiểu theo nghĩa rộng và hẹp và hiện vẫn chưa có một giải thích hay hướng dẫn chính thức từ cơ quan có thẩm quyền.
Theo nghĩa rộng, bất kỳ công việc nào có liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản (cho dù là trực tiếp hay gián tiếp liên quan, cho dù là hành vi trực tiếp hay là công việc phái sinh từ hành vi này) đều không thể được lập dưới dạng “Giấy ủy quyền” mà phải lập thành hợp đồng và được chứng thực dưới hình thức chứng thực hợp đồng. Còn theo nghĩa hẹp, chỉ có những công việc trực tiếp xác lập giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản mới được coi là có liên quan; còn những công việc gián tiếp, phái sinh từ các giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản (như việc đóng thuế, việc đăng ký biến động…) không được coi là có liên quan và được phép chứng thực dưới dạng chữ ký trên giấy ủy quyền. Đây cũng chính là vấn đề mà CCV cần cân nhắc khi thực hiện dưới dạng chứng thực chữ ký.
2.3.3. Công chứng văn bản ủy quyền lại Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Theo Điều 564 BLDS năm 2015 về ủy quyền lại:
- Bên được ủy quyền được ủy quyền lại cho người khác trong trường hợp sau đây:
- Có sự đồng ý của bên ủy quyền;
- Do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thi. đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền khi thể thực hiện được.
- Việc ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu .
- Hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu”.
Như vậy, về mặt nguyên tắc, “văn bản ủy quyền lại” cũng là một dạng bản ủy quyền, trong đó, bên ủy quyền vốn dĩ đã được người khác ủy quyền thực hiện “quyền” hay “công việc đó, nay giao lại (ủy quyền lại) cho người thứ ba thực hiện “quyền” hay “công việc này trên cơ sở được sự chấp thuận của người ủy quyền ban đầu hoặc do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng uỷ quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được. Lúc này, người thứ ba (bên được ủy quyền trong văn bản ủy quyền lại) sẽ có tư cách thay mặt và nhân danh người có “quyền” thực hiện công việc (chứ không hành động nhân danh người được ủy quyền lại).
Theo đó, việc công chứng văn bản ủy quyền lại cũng tương tự như việc ủy quyền thông thường, tuy nhiên cần lưu ý thêm một số điểm như sau:
- Cơ sở để thực hiện công chứng ủy quyền lại: ngoài những giấy tờ, tài liệu phải có theo quy định của Điều 40, Điều 41 LCC thì trong hồ sơ còn cần phải có văn bản ủy quyền ban đầu và văn bản thể hiện ý chí đồng ý của người ủy quyền ban đầu cho phép người thụ ủy được ủy quyền lại cho người thứ ba (ý chỉ này có thể được thể hiện trong văn bản ủy quyền ban đầu hoặc thể hiện bằng văn bản riêng) hoặc giấy tờ chứng minh do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được…
Đối tượng, nội dung của văn bản ủy quyền lại có thể là một phần hay toàn bộ đối tượng, nội dung của văn bản ủy quyền ban đầu, không được vượt quá phạm vi được ghi nhận trong ủy quyền ban đầu. Chẳng hạn, người ủy quyền lại không thể thỏa thuận về thời hạn ủy quyền cho người thứ ba vượt quá thời hạn ủy quyền được ghi trong ủy quyền ban đầu, không thể thỏa thuận giao cho người thứ ba công việc mà người ủy quyền ban đầu không giao cho mình.
Nội dung văn bản ủy quyền lại phải thể hiện được tư cách của người thứ ba (bên thụ ủy trong văn bản ủy quyền lại) nhân danh và đại diện cho người có quyền (người ủy quyền ban đầu) chứ không phải đại diện và nhân danh cho người giao quyền này lại cho người thứ ba bằng văn bản ủy quyền lại.
Hình thức của văn bản ủy quyền lại cũng phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu. Có nghĩa là, nêu hình thức ủy quyền ban đầu là hợp đồng ủy quyền thì văn bản ủy quyền lại cũng phải là hình thức hợp đồng ủy quyền lại; nếu hợp đồng ủy quyền ban đầu có công chứng thì hợp đồng ủy quyền lại cũng phải được công chứng .
Điều khoản về thù lao, bồi thường thiệt hại; về mặt nguyên tắc, nếu trong hợp đồng ủy quyền ban đầu có hay không có việc bồi thường thiệt hại, trả thù lao thì đây luôn là nội dung ràng buộc trách nhiệm đối với bất kỳ ai nhân danh và thay mặt người có “quyền” nội dung này phải phù hợp với hợp đồng ủy quyền ban nó không thuộc về “phạm vi ủy quyền” mà chỉ là những điều khoản, điều kiện cụ thể của hợp đồng ủy quyền). Bởi lẽ, trách nhiệm của người thứ ba lúc này là trách nhiệm đối với người ủy quyền ban đầu, chứ không phải đối với người ủy quyền lại, việc có thù lao hay không có thù lao sẽ liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện khi đơn phương chấm dứt ủy quyền. Do đó không thể có tình huống việc đơn phương chấm dứt ủy quyền của người ủy quyền ban đầu sẽ khác với việc đơn phương chấm dứt ủy quyền của người thụ ủy trong hợp đồng ủy quyền lại.
Xuất phát từ quy định tại Điều 564 BLDS 2015 thì việc ủy quyền lại chỉ nên được thực hiện một lần và chỉ giới hạn đến người được ủy quyền lần đầu. Nói cách khác, người được ủy quyền trong văn bản ủy quyền lại sẽ không được ủy quyền cho người thứ tư. Nguyên tắc này vẫn đúng khi người ủy quyền ban đầu là tổ chức . Bởi lẽ, khi tổ chức ủy quyền cho người khác thực hiện công việc nào đó thì với tư cách đại diện theo pháp luật, người đứng đầu tổ chức sẽ nhận danh và thay mặt tổ chức để giao kết văn bản ủy quyền (hành động không phải với tư cách đại diện theo ủy quyền ). Lúc này, việc ủy quyền được xem là ủy quyền ban đầu. Nếu trong nội dung ủy quyền này có cho phép người thụ ủy được ủy quyền lại thì người này hoàn toàn có thể ủy quyền cho người thứ ba thực hiện công việc.
2.3.4. Công chứng văn bản liên quan đến việc chấm dứt hiệu lực ủy quyền
Theo nguyên tắc chung thì các bên không được quyền đơn phương thay đổi hay hủy bỏ hợp đồng mà không được sự đồng ý của các bên đối tác. Việc đơn phương chấm dứt hay hủy bỏ hợp đồng được coi là ngoại lệ và phải được pháp luật quy định cụ thể.
Xét dưới khía cạnh công chứng, quan hệ ủy quyền có thể chấm dứt khi hai bên thoả thuận chấm dứt ủy quyền hoặc một trong số các bên đơn phương chấm dứt việc thực hiện hợp đồng ủy quyền theo quy định tại Điều 569 BLDS 2015 (khoản 4 Điều 422 và khoản 3 Điều 140 BLDS 2015). Cụ thể:
Trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền: đơn phương chấm dứt ủy quyền là hành vi pháp lý đơn phương của một bên trong quan hệ ủy quyền để chấm dứt hợp đồng mà không cần phải có sự thỏa thuận hoặc đồng ý của bên còn lại (kể cả trường hợp có thù lao hay không có thù lao). Người muốn đơn phương chấm dứt ủy quyền chỉ cần tuân thủ điều kiện được pháp luật quy định tại Điều 569 BLDS năm 2015 để thực hiện quyền đơn phương chấm dứt của mình. Cụ thể: Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Trường hợp ủy quyền có thù lao, bên ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải trả thù lao cho bên được ủy quyền tương ứng với công việc mà bên được ủy quyền đã thực hiện và bồi thường thiệt hại; nếu ủy quyền không có thù lao thì bên ủy quyền có thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên được ủy quyền một thời gian hợp lý.
Bên ủy quyền phải báo bằng văn bản cho người thứ ba biết về việc bên ủy quyền chấm dứt thực hiện hợp đồng; nếu không báo thì hợp đồng với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết về việc hợp đồng ủy quyền đã bị chấm dứt.
Trường hợp ủy quyền không có thù lao, bên được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên ủy quyền biết một thời gian hợp lý; nếu ủy quyền có thù lao thì bên được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào và phải bồi thường thiệt hại cho bên ủy quyền, nếu có”.
Do đó, khi công chứng cần lưu ý những điều kiện này (báo trước cho bên còn lại, báo cho người thứ ba biết, về thanh toán thù lao, bồi thường thiệt hại) để xây dựng nội dung văn bản cho phù hợp; phải ràng buộc và làm rõ được trách nhiệm của bên đơn phương cũng như làm rõ hiệu lực của văn bản tuyên bố đơn phương chấm dứt ủy quyền tương thích với mức độ thực hiện nghĩa vụ được Điều 569 BLDS 2015 quy định.
Trường hợp chấm dứt hợp đồng ủy quyền theo thỏa thuận: đây là trường hợp có sự thống nhất ý chí của các bên về việc chấm dứt thực hiện Văn bản ủy quyền và là quan hệ hợp đồng. Do đó, hoàn toàn có thể vận dụng các quy định về công chứng hợp đồng để chứng nhận loại thỏa thuận này.
Tuy nhiên, cho dù là đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền hay là thỏa thuận chấm dứt ủy quyền thì cần lưu ý thêm một số vấn đề sau:
- Xác định rõ trong văn bản việc người ủy quyền phải chịu trách nhiệm toàn bộ đối với những hành vi, quyết định do người được ủy quyền đã thực hiện công việc ủy quyền trong phạm vi ủy quyền trước đây. Bởi vì, kể từ thời điểm việc chấm dứt hợp đồng có hiệu lực, các bên trong hợp đồng mới không phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, những gì đã thực hiện giá trị hiệu lực ràng buộc trách nhiệm các bên.
- Việc thu hồi các bản ủy quyền đã được công chứng khi thỏa thuận chấm dứt hay đơn phương chấm dứt là cần thiết, để tránh tình trạng văn bản đã hết hiệu lực nhằm thực hiện các hành vi gian dối. Tuy nhiên, pháp luật hiện chưa có quy định mang tính bắt buộc về vấn đề này, do đó , trong thực tế có nhiều phương án xử lý khi không thể thu hồi đủ các văn bản ủy quyền đã bị chấm dứt hiệu lực, chẳng hạn đưa thông tin về việc văn bản đã bị chấm dứt lên chương trình thông tin về cơ sở dữ liệu công chứng, hay tự bản thân tổ chức hành nghề công chứng thông báo đến các cơ quan liên quan về việc văn bản ủy quyền đã được công chứng chấm dứt thực hiện…
- Về thành phần hồ sơ, thủ tục: phải tuân thủ thủ tục công chứng đối với hợp đồng, giao dịch nói chung được quy định tại Điều 40 và Điều 41 LCC 2014. Do đó, về nguyên tắc người yêu cầu công chứng vẫn phải xuất trình và nộp: phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch theo mẫu; dự thảo hợp đồng, giao dịch; bản sao giấy tờ tuỳ thân; bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó; bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có.
Lưu ý, đối với trường hợp chấm dứt hợp đồng ủy quyền thì đối tượng của loại hợp đồng này không phải là tài sản mà cần phải được xác định là việc chấm dứt công việc ủy quyền đã được thỏa thuận trước đây trong hợp đồng ủy quyền đó. Do vậy, tính xác thực, hợp pháp của đối tượng hợp đồng trong trường hợp này chính là tính xác thực, hợp pháp của việc hủy bỏ công việc đã được ủy quyền. Có thể thấy rằng, tính xác thực, hợp pháp này được xác định dựa trên hợp đồng ủy quyền đối với công việc trước đây đã được các bên giao kết, công chứng là có căn cứ.
2.4. Thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền và các vấn đề liên quan Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
2.4.1. Thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền
Theo quy định tại Điều 55 LCC 2014 thì việc ủy quyền được lập dưới hình thức hợp đồng ủy quyền.
Thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền theo LCC 2014:
- Hồ sơ yêu cầu công chứng được lập thành một bộ, gồm các giấy tờ sau đây: + Phiếu yêu cầu công chứng, trong đó có thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền, nội dung ủy quyền, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công chứng, họ tên ngươi tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền, thời điểm tiếp nhận hồ sơ;
- Dự thảo hợp đồng ủy quyền (nếu có);
- Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền;
- Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sỡ hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng ủy quyền liên quan đến tài sản đó;
- Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng ủy quyền mà pháp luật quy định phải có;
- CCV kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng. Trường hợp hồ sơ yêu cầu công chứng đầy đủ, phù hợp với quy định pháp luật thì thụ lý và ghi vào sổ công chứng.
- CCV hướng dẫn người yêu cầu công chứng tuân thủ đúng các quy định về thủ tục công chứng và các quy định pháp luật có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng ủy quyền; giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc tham gia hợp đồng ủy quyền.
- Trong trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng ủy quyền có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc đối tượng của hợp đồng ủy quyền chưa được mô tả cụ thể thì CCV đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối yêu cầu công chứng.
- CCV kiểm tra dự thảo hợp đồng ủy quyền; nếu trong dự thảo hợp đồng ủy quyền có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng ủy quyền không phù hợp với quy định của pháp luật thì CCV phải chỉ rõ cho người yêu cầu công chứng để sửa chữa. Trường hợp người yêu cầu công chứng không sửa chữa thì CCV có quyền từ chối yêu cầu công chứng.
- Người yêu cầu công chứng tự đọc lại dự thảo hợp đồng ủy quyền hoặc CCV đọc lại cho người yêu cầu công chứng nghe theo đề nghị của người yêu cầu công chứng.
- Người yêu cầu công chứng đồng ý toàn bộ nội dung trong dự thảo hợp đồng ủy quyền thì ký thì ký vào từng trang của hợp đồng ủy quyền. CCV yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình abrn chính của các giấy tờ quy định nêu trên để đối chiếu trước khi ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp đồng ủy quyền.
Trong trường hợp bên ủy quyền và bên được ủy quyền không thể cùng đến một tổ chức hành nghề công chứng thì bên ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú công chứng hợp đồng ủy quyền; bên được ủy quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nơi họ cư trú công chứng tiếp vào bản gốc hợp đồng ủy quyền này, hoàn tất thủ tục công chứng hợp đồng ủy quyền.
2.4.2. Các vấn đề liên quan Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
2.4.2.1. Xác định tư cách pháp lý của bên ủy quyền và bên được ủy quyền
Đối với người ủy quyền:
Ngoài việc xác định năng lực hành vi dân sự của bên ủy quyền là cá nhân, năng lực pháp luật dân sự của tổ chức theo các quy định chung của pháp luật đối với những người tham gia ký kết văn bản ủy quyền, việc xác định tư cách pháp lý của bên ủy quyền cần lưu ý những vấn đề sau: Công việc mà bên ủy quyền ủy quyền giao cho bên kia đại diện thực hiện là có thể thực hiện được, nghĩa là khả năng đã, đang và sẽ diễn ra trong thực tế. Ví dụ: Ông A muốn ủy quyền cho con trai mình là anh B, thay mặt mình để tham gia giải quyết một vụ kiện dân sự trước Tòa án thì CCV phải kiểm tra xác định xem ông A có thực sự là người có quyền tham gia tố tụng hay không (là nguyên đơn, bị đơn, người bị hại,… trong vụ kiện), nếu ông A không phải là người được quyền tham gia tố tụng, thì ông A không thể ủy quyền cho anh B được.
Trường hợp khác, ông X được thừa kế một ngôi nhà, ông X chưa làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Ông X muốn ủy quyền cho ông Y bán (hoặc cho thuê) ngôi nhà đó, thì CCV phải từ chối công chứng việc ủy quyền này vì ông X chưa phải là chủ sở hữu ngôi nhà đó, chỉ khi nào ông X làm xong thủ tục khai nhận di sản thừa kế đối với ngôi nhà này thì mới được ủy quyền cho người khác bán (hoặc cho thuê) ngôi nhà đó.
Đối với người được ủy quyền: Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Ngoài việc xác định năng lực hành vi dấn ự của bên ủy quyền là cá nhân, năng lực pháp luật dân sự của tổ chức, cần phải xác định xem người được ủy quyền có đồng ý nhận sự ủy quyền không, có đủ khả năng thực hiện những công việc mà ngời ủy quyền giao hay không.
2.4.2.2. Một số công việc mà pháp luật yêu cầu phải tự thực hiện không được ủy quyền hoặc pháp luật hạn chế ủy quyền
Đối với các việc như: đăng ký kết hôn, đăng ký lại việc kết hôn, đăng ký việc nhận cha, mẹ, con (Điều 6 Luật Hộ tịch 2014); lập di chúc (Khoản 1 Điều 56 LCC 2014) hoặc đối với việc ly hôn (Khoản 4 Điều 85 BLTTDS 2015) thì pháp luật quy định không được ủy quyền hoặc hạn chế ủy quyền.
Thủ tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 thì không được ủy quyền cho người khác làm thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp (Khoản 2 Điều 46 Luật Lý lịch tư pháp 2009).
Pháp luật cũng quy định những việc mà đương sự phải trực tiếp thực hiện, như việc trực tiếp nuôi con chưa thành niên của cha, mẹ sau khi ly hôn, nếu người nuôi con không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con mà không được ủy quyền cho người khác thực hiện.
2.5. Một số hình thức đại diện theo ủy quyền phát sinh trong thực tiễn Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Ủy quyền giữa các thành viên của hộ gia đình
Điều 106 BLDS 2005 quy định: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”.
Khoản 1 Điều 101 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện”.
Để giao dịch hợp pháp với hộ gia đình, thì vấn đề quan trọng nhất là phải xác định được các thành viên của hộ. Nhưng vì không có quy định thế nào là thành viên của hộ gia định, do đó gần như không thể xác định được đúng tư cách các thành viên của hộ gia đình nói chung cũng như trong một giao dịch cụ thể nói riêng. Điều này đã, đang và sẽ gây ra rất nhiều khó khăn và rủi ro pháp lý đối với các giao dịch mà chủ thể là hộ gia đình.
Theo khoản 5 Điều 141 BLDS 2005 thì chủ hộ gia đình là người đại diện theo pháp luật của hộ gia đình, tuy nhiên nguyên tắc này được pháp luật đất đai thể hiện một góc độ khác khi quy định hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình phải được người có tên trên giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự ký tên (Khoản 1 Điều 64 Nghị định 43/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2014). Vấn đề đặt ra là trường hợp người có tên trên giấy chứng nhận không phải là chủ hộ gia đình thì việc chỉ người có tên này ký vào hợp đồng, giao dịch có bảo đảm sự chặt chẽ hay chưa? Trong khi đó pháp luật dấn ự bỏ ngỏ việc xác định tiêu chí cụ thể ai là thành viên của hộ gia đình. Mặt khác, khoản 2 Điều 109 BLDS 2005 quy định việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý.
Đến BLDS 2015, việc xác định các chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch của hộ gia đình được áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 102: “Việc xác định tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, quyền, nghĩa vụ đối với tài sản này được xác định theo quy định tại Điều 212 của Bộ luật này”.
Điều 212 BLDS 2015 quy định: “Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này”.
Luật Đất đai 2013 đưa ra khái niệm về hộ gia đình không rõ ràng hơn khi thêm vào ba yếu tố là: quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình để xác định tiêu chí của hộ gia đình (Khoản 29 Điều 3 LĐĐ 2013). Nhìn chung các quy định của pháp luật khi đề cập tới hộ gia đình đều đưa ra những tiêu chí rất chung chung và chưa quy định cụ thể những tiêu chí hợp lý, dễ dàng để xác định một cách chính xác những ai là thành viên của một hộ gia đình. Tuy nhiên các quy định của pháp luật đều dẫn đến việc là khi giao dịch liên quan đến tài sản chung như quyền sử dụng đất của hộ gia đình thì đều phải cần sự đồng ý hoặc ủy quyền của thành viên trong hộ gia đình. Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Cha mẹ đại diện cho con trong việc quản lý, định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên và ủy quyền cho người khác thực hiện việc quản lý, định đoạt này BLDS 2015 quy định người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện (Theo Điều 21 BLDS 2015). Tại khoản 2 Điều 22 BLDS 2015 cũng quy định giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Như vậy theo tinh thần của các điều luật này suy ra trường hợp cha mẹ đại diện cho con chủa đủ 6 tuổi hoặc người giám hộ đại diện cho người được giám hộ (mất năng lực hành vi dân sự) phải tự mình thực hiện giao dịch dân sự mà không được ủy quyền. Suy rộng ra thì trường hợp cha mẹ đại diện cho con trên 6 tuổi và dưới 15 tuổi khi định đoạt tài sản của con theo khoản 1 Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có thê rủy quyền cho người khác thực hiện việc định đoạt tài sản, pháp luật không hạn chế trường hợp này. Nhưng thực tế các CCV thường từ chối yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền này.
Ủy quyền khởi kiện
Điều 161 BLTTDS 2004 và Điều 186 BLTTDS 2015 đều quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Theo quy định của BLDS thì người đại diện có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Rõ ràng BLTTDS đã mở ra khả năng cho đương sự ủy quyền cho người tham gia tố tụng ngay từ khâu đầu tiên là khởi kiện, kể cả lập đơn khởi kiện và ký vào đơn khởi kiện.
Ủy quyền thi hành án
Khoản 6 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định: “Có điều kiện thi hành án là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án”. Điều 283 BLDS 2015 quy định: “Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Một trong những thắc mắc pháp lý mà ít có lời giải cặn kẽ là nếu như vậy thì các nghĩa vụ về tài sản trong vụ án dân sự hay vụ án hình sự, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ ba thực hiện hay không. Các quy định của pháp luật không cấm những thực tiễn pháp lý hầu như không có loại ủy quyền này và các CCV trên thực tế không công chứng những hợp đồng ủy quyền có nội dung này.
Ủy quyền trong khiếu nại
Nằm rải rác ở một số văn bản như pháp luật về khiếu nại, tố cáo cũng đề cập đến văn bản ủy quyền khiếu nại. Điều 12 Luật Khiếu nại 2011 quy định:
Người khiếu nại có các quyền sau đây:
Tự mình khiếu nại.
Trường hợp người khiếu nại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện việc khiếu nại;
Trường hợp người khiếu nại ốm đau, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được ủy quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực hiện việc khiếu nại;
Nhờ luật sư tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Trường hợp người khiếu nại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật thì được nhờ trợ giúp viên pháp lý tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho trợ giúp viên pháp lý khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình;
Đại diện theo ủy quyền của người chưa đủ 18 tuổi
Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập, thực hiện (Theo Điều 138 BLDS 2015).
2.6. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hợp đồng uỷ quyền Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
2.6.1. Kết quả thực hiện công chứng hợp đồng uỷ quyền tại các tổ chức hành nghề công chứng
Trong thời gian gần đây, cùng với việc mở cửa nền kinh tế, các giao dịch về dân sự, thương mại diễn ra ngày càng nhiều. Trong đó, những giao dịch thông qua người đại diện chiếm một số lượng lớn. Hợp đồng ủy quyền có công chứng, chứng thực tăng cả về số lượng và quy mô. Theo báo cáo tổng kết của các tổ chức hành nghề công chứng vài năm gần đây cho thấy, số lượng người yêu cầu công chứng hợp đồng uỷ quyền ngày càng tăng và chiếm số lượng cao hơn so với các hợp đồng, giao dịch khác. Điều này đã chứng tỏ một thực tế là những giao dịch do những thông qua người đại diện đang ngày càng phổ biến và chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Đại diện theo ủy quyền đang dần trở thành một nghề trong xã hội. Đa số các quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền đã tạo điều kiện để tất cả người dân có thể tham gia vào loại giao dịch này, từ việc vận dụng các quy định về hợp đồng ủy quyền để giải quyết các công việc trong đời sống sinh hoạt, trong nội bộ của các cơ quan, tổ chức cho đến việc áp dụng để thực hiện các hoạt động kinh doanh, giao dịch dân sự,…
2.6.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong áp dụng quy định của pháp luật về hợp đồng uỷ quyền Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Tình trạng nêu trên hiện trở nên báo động, từ đó, thậm chí có nhiều quan điểm cho rằng cần phải hạn chế giao dịch ủy quyền, chỉ cho phép thực hiện ủy quyền nếu người được ủy quyền là họ hàng thân thích của người ủy quyền hoặc cần phải thu thuế chuyển nhượng đối với hình thức ủy quyền (vì cho đây là việc chuyển nhượng tài sản trá hình). Tuy nhiên, cách nhìn nhận này đã làm méo mó, đi ngược lại bản chất của giao dịch ủy quyền cần phải tránh.
Nhìn vào kết quả thống kê số lượng hợp đồng ủy quyền được công chứng tại một số tổ chức hành nghề công chứng cho thấy, số lượng hợp đồng uỷ quyền ngày càng tăng, điều này chứng tỏ những giao dịch do người đại diện xác lập ngày càng nhiều. Điều này cũng chứng tỏ, người dân đã nhận thức được ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của hợp đồng uỷ quyền đời sống xã hội. Tuy nhiên, do sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế – xã hội những quy định của pháp luật nói chung và những quy định về hợp đồng ủy quyền nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội cộng thêm đó là những yếu tố khác như con người, cơ sở vật chất, ý thức của người dân,…. điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động công chứng hợp đồng ủy quyền cũng như đảm bảo quyền chủ thể khi giao kết hợp đồng ủy quyền. Để khắc phục những hạn chế trên, về phía Nhà nước trước hết cần ban hành những văn bản pháp luật để hướng dẫn những quy định về hợp đồng ủy quyền trong BLDS năm 2015. Ngoài ra, cần có những cơ chế chính sách để đảm bảo cho hoạt động công chứng nói chung và hợp đồng ủy quyền nói riêng thực sự có hiệu quả thúc đẩy giao dịch dân sự phát triển.
Quá trình thực hiện công chứng hợp đồng uỷ quyền tại các tổ chức hành nghề công chứng cho thấy, những quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền có nhiều điểm bất cập. Những bất cập này, không chỉ gây khó khăn cho người ủy quyền, người được ủy quyền mà còn gây ra những khó khăn cho CCV khi công chứng hợp đồng ủy quyền. Những bất cập của pháp luật về hợp đồng ủy quyền được thể hiện ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, liên quan về hình thức xác lập uỷ quyền bằng hợp đồng uỷ quyền hay giấy uỷ quyền.
Ngày 03/03/2020, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư 01/2020/TT-BTP hướng dẫn Nghị định 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Thông tư có hiệu lực thi hành ngày 20/4/2020.
Thông tư 01/2020/TT-BTP ngày 03/03/2020 của Bộ Tư pháp là Thông tư hướng dẫn Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Trong khi Nghị định 23/2015/NĐ-CP cho phép chứng thực chữ ký trong Giấy ủy quyền tham gia tố tụng nếu thuộc trường hợp ủy quyền không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền và không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản thì Thông tư 01/2020/TT-BTP lại bó hẹp phạm vi của Nghị định 23/2015/NĐ-CP, chỉ cho phép chứng thực chữ ký trên Giấy uỷ quyền trong 4 trường hợp nêu tại Điều 14 Thông tư này.
Rõ ràng, Điều 14 Thông tư 01/2020/TT-BTP không những trái với BLTTDS 2015 mà còn thiếu thống nhất với văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành có hiệu lực pháp lý cao hơn là Nghị định 23/2015/NĐ-CP. Theo nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật thì trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Trong trường hợp này, Nghị định 23/2015/NĐ-CP phải được ưu tiên áp dụng, đương sự được quyền chứng thực chữ ký trên Giấy uỷ quyền để uỷ quyền tham gia tố tụng nếu có nhu cầu chứng thực.
Tuy nhiên, trên thực tế các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực lại không đủ “dũng cảm” để chứng thực chữ ký trên Giấy uỷ quyền tham gia tố tụng do tâm lý sợ sai – sai với Thông tư hướng dẫn chuyên ngành của Bộ Tư pháp. Vướng mắt này đến nay vẫn chưa được tháo gỡ. Điều này dẫn đến một bất cập là Tòa án vẫn chấp nhận Giấy ủy quyền tham gia tố tụng, nhưng các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực lại không thực hiện thủ tục chứng thực chữ ký trên Giấy ủy quyền tham gia tố tụng..
Thứ hai, liên quan đến vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền
Điều 588 BLDS 2005 và Điều 569 BLDS 2015 quy định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền, theo đó việc chấm dứt hợp đồng ủy quyền được chia ra trong hai trường hợp: Trường hợp ủy quyền có thù lao và trường hợp ủy quyền không có thù lao. Trong cả hai trường hợp, bên ủy quyền và bên nhận ủy quyền đều có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền bất cứ lúc nào nhưng kèm theo các điều kiện khác nhau. Trường hợp hợp đồng ủy quyền có thù lao mà bên ủy quyền đơn phương chấm dứt thì bên ủy quyền phải trả thù lao cho bên nhận ủy quyền tương ứng với công việc mà bên nhận ủy quyền đã thực hiện và bồi thường thiệt hại, bên ủy quyền phải báo bằng văn bản cho người thứ ba biết về việc bên ủy quyền chấm dứt thực hiện hợp đồng; Nếu bên nhận ủy quyền đơn phương chấm dứt thì phải bồi thường thiệt hại cho bên ủy quyền. Trường hợp hợp đồng ủy quyền không có thù lao mà bên ủy quyền hay bên nhận ủy quyền muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền thì phải báo trước cho bên kia một thời gian hợp lý. Đạo luật gốc của ngành luật dân sự quy định rõ ràng như vậy nhưng tại Điều 51 LCC năm 2014 quy định công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch như sau: “Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó”. Như vậy, hợp đồng ủy quyền được công chứng cũng không loại trừ việc các bên muốn chấm dứt hợp đồng ủy quyền phải đến tổ chức công chứng đã công chứng hợp đồng ủy quyền đó để cùng ký vào văn bản hủy mới hủy được hợp đồng ủy quyền. Đại đa số các giao dịch ủy quyền liên quan đến những công việc có tính chất quan trọng, hay liên quan đến tài sản có giá trị, liên quan đến các công việc liên quan đến bên thứ ba là các cơ quan nhà nước, các tổ chức tín dụng hiện nay đều được lập thành văn bản có công chứng,chứng thực. Quy định trên của Luật công chứng, một văn bản pháp luật chuyên ngành trong lĩnh vực dân sự đã đương nhiên tước bỏ quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền nói riêng của các bên tham gia giao dịch được ghi nhận trong đạo luật gốc của lĩnh vực dân sự – Bộ luật dân sự. Quy định không thống nhất giữa BLDS và LCC năm 2014 đã dẫn đến không ít khó khăn khi áp dụng trên thực tế. Một số ít tổ chức hành nghề công chứng chấp nhận việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền của bên nhận ủy quyền hoặc bên ủy quyền, chỉ cần họ xuất trình chứng cứ chứng minh đã thông báo việc chấm dứt ủy quyền của mình cho bên kia. Đại đa số các tổ chức công chứng chỉ chấp nhận việc chấm dứt hợp đồng ủy quyền khi cả hai bên cùng ký vào Văn bản thỏa thuận chấm dứt hợp đồng ủy quyền.
Nội dung quy định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền cũng còn nhiều điểm mập mờ, gây khó khăn khi áp dụng. Trường hợp ủy quyền không có thù lao, một trong các bên muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền đều phải báo trước cho bên kia một thời gian hợp lý. Vậy thời gian hợp lý là như thế nào? Bao nhiêu ngày? Vấn đề này cũng chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể. Chính quy định nửa vời này là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc vận dụng luật trên thực tế là con số không. Bởi lẽ không thể tự chủ thể trong quan hệ ủy quyền có thể ước lượng hay cảm tính quyết định để đưa ra thời gian cụ thể để báo trước. Hơn nữa, trong các trường hợp khác nhau thì thời gian báo trước cũng không giống nhau. Nhưng không thể cho rằng nếu quy định cụ thể thời gian báo trước sẽ phù hợp với trường hợp này nhưng không phù hợp với trường hợp khác mà không đưa ra quy định cụ thể về thời gian báo trước. Để quy định này không còn mang tính hình thức, cần phải xác định cụ thể thời gian báo trước đối với trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền khi hợp đồng ủy quyền không có thù lao. Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Thứ ba, liên quan đến nghĩa vụ báo trước cho bên thứ ba của bên nhận ủy quyền
Khoản 2 Điều 565 BLDS 2015 quy định nghĩa vụ báo cho bên thứ ba biết về thời hạn, phạm vi ủy quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền của bên nhận ủy quyền khi tham gia hợp đồng ủy quyền. Thế nhưng các nhà làm luật lại không quy định hậu quả đối với trường hợp các bên không thực hiện đúng nghĩa vụ nêu trên. Quy định này còn thiếu sót dẫn đến việc thái độ tuân thủ quy định của pháp luật của bên nhận ủy quyền sẽ không được nghiêm túc, bởi có vi phạm thì cũng không bị ràng buộc bởi chế tài nào nếu hai bên không có thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền, và kéo theo đó, quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba khó mà được bảo vệ khi bên nhận ủy quyền cố ý không tuân thủ quy định này của pháp luật. Đồng thời, các nhà làm luật cũng không quy định rõ việc báo trước phải được thực hiện bằng hình thức nào, bằng lời nói hay bằng văn bản thì mới hợp lý.
Thứ tư, liên quan đến trường hợp hợp đồng ủy quyền chấm dứt khi một trong các bên trong hợp đồng ủy quyền chết
Với quy định về trường hợp một trong các bên trong hợp đồng ủy quyền chết thì hợp đồng ủy quyền chấm dứt, tác giả cho rằng quy định này cũng chưa đi đến tận cùng để giải quyết triệt để vấn đề và bảo vệ tối đa quyền lợi của các bên. Bởi nhiều trường hợp các bên không thể biết được bên kia đã chết nếu không có sự thông báo của người khác hoặc trường hợp một bên đã biết bên còn lại đã chết nhưng muốn giấu để tiếp tục thực hiện xong công việc như ủy quyền (đặc biệt là ủy quyền liên quan đến bất động sản). Bên cạnh đó cũng chưa có quy định nào giải quyết vấn đề khi một trong các bên trong hợp đồng ủy quyền chết thì bên kia phải có cách xử lý như thế nào để bảo vệ được quyền lợi của các bên trong quan hệ ủy quyền.
Thứ năm, liên quan đến tình trạng hợp đồng ủy quyền giả tạo diễn ra trên thực tế.
Thực tế thời gian qua cho thấy, giao dịch ủy quyền là một trong số các giao dịch có tính rủi ro cao, thường bị nhầm lẫn hay lạm dụng để che giấu một giao dịch khác. Hàng loạt vụ lừa đảo vay tiền, thế chấp nhà thông qua hình thức giao dịch ủy quyền bán nhà mà báo chí nêu lên trong thời gian qua mới chỉ là bề nổi của tình trạng lạm dụng hình thức ủy quyền; hay như việc bán nhà nhưng lại được các bên thỏa thuận lập dưới dạng ủy quyền, khi giá thị trường có biến động mạnh thì thường dẫn đến tranh chấp hợp đồng [26]. Việc làm trên của các bên che giấu bản chất thực của giao dịch, làm mất đi tính tự nguyện của giao dịch, làm cho nội dung ủy quyền không phản ánh trung thực sự thật khách quan, từ đó, việc văn bản ủy quyền mất đi tính xác thực, tính hợp pháp và dễ bị tranh chấp là không tránh khỏi.
Hiện nay, khi tiến hành mua bán bất động sản, không phải trong mọi trường hợp các bên đều thỏa thuận giao dịch thông qua hợp đồng mua bán được công chứng, chứng thực. Vì nhiều lý do, thông thường là bên mua nhà chưa đủ điều kiện được sở hữu nhà tại Việt Nam; nhà chưa đủ điều kiện để bán theo Điều 118 Luật nhà ở 2014; nhằm mục đích trốn thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước… các bên thỏa thuận lập hợp đồng ủy quyền nhằm che giấu giao dịch mua bán bất động sản. Theo đó, các bên sẽ tiến hành lập song song hai hợp đồng: hợp đồng mua bán bất động sản và hợp đồng ủy quyền. Nội dung hợp đồng mua bán bất động sản sẽ nêu rõ đặc điểm bất động sản, giá cả, phương thức thanh toán, đặt cọc, quyền và nghĩa vụ của các bên… Tuy nhiên, hợp đồng này sẽ không được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật Việt Nam. Thay vào đó, để hợp pháp hóa việc chuyển giao bất động sản, các bên lập thêm hợp đồng ủy quyền, trong đó, bên bán giữ vai trò bên ủy quyền, ủy quyền cho bên mua – giữ vai trò bên được ủy quyền – toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt bất động sản. Hợp đồng ủy quyền này sẽ giúp các bên chuyển giao “quyền sở hữu” từ bên bán (bên ủy quyền) sang bên mua (bên được ủy quyền) vì bằng hợp đồng ủy quyền, bên được ủy quyền sẽ hưởng mọi quyền của một chủ sở hữu tài sản theo pháp luật Việt Nam (quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản). Để bảo đảm tính xác thực của hợp đồng, hai bên tiến hành công chứng, chứng thực hợp đồng ủy quyền tại ủy ban nhân dân xã, phường hoặc các văn phòng công chứng.
Sau khi hoàn tất mọi thủ tục đối với hợp đồng ủy quyền nói trên, các bên an tâm về tính pháp lý của giao dịch vì cơ quan công chứng hoặc chứng thực đã xác thực việc hưởng mọi quyền của một chủ sở hữu bất động sản đối với bên được ủy quyền. Thế nhưng, liệu các bên có lường trước được hết những rủi ro khi sử dụng hợp đồng ủy quyền nhằm che giấu hợp đồng mua bán thật bên trong? Nhìn kĩ vào thực tế, hợp đồng ủy quyền sẽ mang đến không ít rủi ro cho các bên tham gia trong hợp đồng.
2.7. Vụ việc công chứng hợp đồng ủy quyền cụ thể tại thành phố Hồ Chí Minh Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Vụ việc thứ nhất:
Trường hợp bị lừa tráo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà (nói gọn là Giấy chứng nhận) và đã được văn phòng công chứng ở Long An chứng nhận hợp đồng ủy quyền. [10]
Điều đáng nói là ngoài Giấy chứng nhận thật thì hợp đồng ủy quyền đó có đến hai sự giả mạo là giả người và giả các giấy tờ tùy thân. Từ hợp đồng ủy quyền đó (giờ mới rõ có yếu tố giả mạo), các Văn phòng công chứng ở thành phố Hồ Chí Minh đã công chứng hợp đồng mua bán, thế chấp… khiến chủ sở hữu nhà bị tráo Giấy chứng nhận bị thiệt hại đủ bề. Vụ việc tiếp theo đây cũng có hợp đồng ủy quyền do VPCC ở Long An chứng nhận nhưng chủ nhà này may mắn hơn nhiều so với các chủ nhà khác.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Tuyết, ngụ 493/32 Cách Mạng Tháng Tám, phường 13, quận 10, TP.HCM, cho biết: Nguồn gốc căn nhà bà đang ở là của cha mẹ để lại cho các chị em bà. Sau đó, các chị em bà thỏa thuận phân chia tài sản với nhau và căn nhà trên thuộc quyền sở hữu của một người chị của bà. Do người chị này đang ở nước ngoài nên bà là người sử dụng, quản lý căn nhà giúp chị.
Ngày 12-6, thực hiện yêu cầu của người chị, bà đăng thông tin trên mạng rao bán nhà. Trong quá trình rao bán có một số người đến hỏi mua.
Bà Tuyết kể: “Có một người mua làm tôi ấn tượng nhất tên Minh đề nghị tôi chụp lại tất cả giấy liên quan đến căn nhà, kể cả giấy tờ tùy thân của chị tôi. Vài ngày sau, bà Minh gọi báo đồng ý mua nhà và hẹn đến xem giấy tờ bản chính. Cùng lúc bà Minh đến xem nhà thì có một nhóm người cũng đến xem nhà và đòi xem bản chính. Tuy nhiên, tất cả người đến xem chỉ hứa hẹn chứ không mua. Đến ngày 3-7, con tôi tình cờ đọc báo thấy tin chiêu lừa tráo Giấy chứng nhận. Giật mình, gia đình tôi mang giấy tờ ra xem thì phát hiện chúng khác với hình ảnh được chụp từ bản chính trước đây. Chẳng hạn, chữ ký của Phó chủ tịch quận trong Giấy chứng nhận bị khác. Tá hỏa, tôi đã chạy đến công an và UBND quận 10 trình báo sự việc”.
Cũng theo lời bà Tuyết, ngày 8-7, người chị từ nước ngoài về đã nộp đơn cớ mất sổ đỏ. Hai ngày sau đó, từ thông tin của người quen, bà biết Văn phòng công chứng Vũ Kiếm Quang (quận Bình Tân) có ký công chứng hợp đồng mua bán nhà thông qua hợp đồng ủy quyền được Văn phòng công chứng Hoàn Hảo (huyện Cần Đước, Long An) công chứng. Bà tức tốc đề nghị Trung tâm Thông tin và tư vấn công chứng TP.HCM ngăn chặn giao dịch nhà…
Hiện tại, gia đình bà đang chờ Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận 10 cấp Giấy chứng nhận mới để thực hiện các giao dịch nhà, đất.
Vì sao VPCC ở Long An chứng nhận cho người giả?
Theo thu thập, căn nhà trên có hợp đồng ủy quyền do Văn phòng công chứng Hoàn Hảo ký ngày 8-7 thể hiện người chủ sở hữu nhà (chị bà Tuyết) ủy quyền cho bà Bùi Thị Lan được chuyển nhượng, tặng cho… nhà. Do người chị của bà Tuyết không hề đến Long An công chứng hợp đồng ủy quyền nhà cho bất kỳ ai nên chắc chắn đã có người mạo danh người chị và sử dụng giấy tờ tùy thân giả để làm hợp đồng ủy quyền đó.
Tại sao VPCC Hoàn Hảo công chứng HĐUQ có yếu tố giả mạo như thế?
Một đại diện Văn phòng công chứng Hoàn Hảo đã trao đổi với phóng viên qua điện thoại: “Trong vụ việc này, cơ quan điều tra Công an quận 10 đã đến văn phòng thu thập thông tin. Những vấn đề chi tiết liên quan đến khách hàng chúng tôi không trao đổi qua điện thoại”.
Cũng theo người đại diện này thì sau khi công chứng hợp đồng ủy quyền vài ngày thì văn phòng đã phát hiện sự việc và gửi thông tin ngăn chặn đến TP.HCM. Nhờ vậy mà chưa có hậu quả pháp lý xảy ra.
Công chứng viên ở TP.HCM hú hồn!
Thông tin thêm về việc tiếp nhận hồ sơ mua bán căn nhà trên chỉ sau một ngày có hợp đồng ủy quyền, Văn phòng công chứng Vũ Kiếm Quang (quận Bình Tân) cho biết: “Thấy hồ sơ có hợp đồng ủy quyền do Văn phòng công chứng ở Long An ký, lập tức chúng tôi xác minh ngay và sau khi được xác nhận là thật thì chúng tôi mới ký công chứng hợp đồng mua bán. Ngay hôm sau, hai bên mua bán đã quay lại ký hủy hợp đồng mua bán nhà đã ký”.
Công chứng viên Vũ Kiếm Quang chia sẻ kinh nghiệm: “Ký hủy hợp đồng mua bán xong thì văn phòng chúng tôi mới biết hợp đồng ủy quyền do Công chứng viên của tỉnh Long An ký có vấn đề. Sau vụ này, Văn phòng công chứng chúng tôi sẽ từ chối ký hồ sơ mua bán nhà, đất có hợp đồng ủy quyền của tỉnh vì không xác minh được, không tra cứu được…”.
Vụ việc thứ hai:
Hai công chứng viên chứng nhận trong hợp đồng ủy quyền, hợp đồng mua bán làm bị hại thiệt hại 6 tỉ đồng, bị tòa tuyên buộc có trách nhiệm bồi thường. [10]
Ngày 9-10, TAND TP.HCM sau nhiều ngày nghị án đã tuyên phạt Lê Thị Mỹ Dung (SN 1964) 13 năm tù, Lê Văn Trợ (SN 1956) bảy năm tù, cùng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Khoảng tháng 10-2016, bà Vương Thị Hiền (ngụ quận 1) đăng báo rao bán thửa đất hơn 250 m2 ở Quận 2. Sau đó, một người tên Minh (chưa rõ lai lịch) đến gặp bà Hiền hỏi mua và yêu cầu xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng các giấy tờ về nhân thân và hẹn sẽ quay lại đặt cọc. Sau đó Minh quay lại gặp bà Hiền và lợi dụng sơ hở gia chủ, dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả tráo bản chính.
Sau đó, Minh đưa giấy tờ mảnh đất cho Dung thuê người phụ nữ không rõ lai lịch đóng giả bà Hiền, còn Trợ đóng giả chồng bà Hiền. Sau đó, Dung nhờ công chứng viên Văn phòng công chứng Phú Nhuận đến làm hợp đồng ủy quyền cho Nguyễn Thị Hồng Hạnh đứng tên mảnh đất. Sau khi sang tên mảnh đất cho bà Hạnh, Dung bán cho hai ông La Văn Hải và La Văn Sơn với giá 7,5 tỉ đồng. Ông Hải đã đưa trước cho Dung cùng đồng phạm số tiền 6 tỉ đồng.
Trong quá trình làm thủ tục đăng bộ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại UBND Quận 2, bà Hiền phát hiện sự việc và ngăn chặn. Quá trình điều tra, Dung và Trợ khai không biết giấy tờ nhà bị Minh làm giả và đánh tráo nên cơ quan điều tra chưa có căn cứ xử lý về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
Còn Hạnh là người được Dung và đồng phạm thuê đứng tên mảnh đất, hiện đang bỏ trốn khỏi địa phương nên cơ quan điều tra tách ra xử lý sau. Đối với Minh và một số đối tượng không rõ lai lịch nên cơ quan điều tra sẽ xử lý sau khi làm rõ.
Đối với hai công chứng viên chứng nhận trong hợp đồng ủy quyền, hợp đồng mua bán làm bị hại thiệt hại 6 tỉ đồng, cơ quan điều tra cho rằng chưa đủ cơ sở xử lý hình sự. Tuy vậy, Công an TP.HCM có công văn thông báo đến Sở Tư pháp TP về sai phạm nêu trên.
Ngoài trách nhiệm hình sự như đã tuyên trên, Hội đồng xét xử buộc hai bị cáo bồi thường thiệt hại cho người mua đất. Chủ tọa phiên tòa nhấn mạnh nếu hai bị cáo không đủ khả năng tài chính thì Văn phòng công chứng Phú Nhuận có trách nhiệm bồi thường thay. Bởi lẽ công chứng viên của văn phòng chứng thực vào hợp đồng ủy quyền sử dụng mảnh đất. Từ văn bản này, nhóm tội phạm dễ dàng ký kết trót lọt hợp đồng mua bán.
Cùng đó, Hội đồng xét xử tuyên vô hiệu hợp đồng ủy quyền giả mạo, hợp đồng chuyển nhượng tài sản ký giữa bị hại và người đóng giả chủ đất. Và theo bản án, vợ chồng bà Hiền sẽ được nhận lại giấy tờ đất. Cơ quan chức năng vẫn tiếp tục làm rõ, truy tìm những đối tượng còn lại trong nhóm tội phạm đã ôm tiền bỏ trốn.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Bên cạnh việc công chứng hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng chuyển nhượng tài sản, tặng cho tài sản,… công chứng hợp đồng ủy quyền là một trong những giao dịch nhận được nhiều yêu cầu công chứng. Để thực hiện tốt việc chứng nhận hợp đồng ủy quyền, CCV cần hiểu rõ các quy định của pháp luật về ủy quyền, phải có trách nhiệm kiểm tra kỹ hồ sơ, giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của các bên và hậu quả pháp lý của việc tham gia, gieo kết hợp đồng ủy quyền.
Mục đích của ủy quyền đó là trao quyền thực hiện công việc của một người cho người được ủy quyền. Công việc được ủy quyền là những công việc mà cá nhân hoặc tổ chức được phép thực hiện trong một thời hạn nhất định. Do vậy, người được ủy quyền sẽ thay thế người ủy quyền để thực hiện công việc trong khoảng thời gian mà người ủy quyền lẽ ra phải thực hiện.
Hành vi của người được ủy quyền nhân danh người ủy quyền, có thể xác lập với người thứ 3 và nó sẽ phát sinh hậu quả pháp lý đối với người ủy quyền. Do vậy, công việc được ủy quyền thường là những công việc mang tính pháp lý mà việc thực hiện công việc này sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được ủy quyền.
Trong đời sống xã hội, công việc mang tính pháp lý rất đa dạng có thể là việc ký kết hợp đồng, làm đại diện trước tòa án hoặc trước cơ quan tổ chức khác và rất nhiều công việc khác.
Do vậy, khi giao kết hợp đồng ủy quyền, người được ủy quyền phải tìm hiểu xem những công việc được ủy quyền, người ủy quyền có được phép thực hiện hay không. Nếu biết công việc đó người ủy quyền không được phép thực hiện thì người được ủy quyền phải từ chối thực hiện.
Hợp đồng ủy quyền là một trong những hợp đồng dân sự thông dụng. Do đó, sự tự nguyện và bình đẳng là điều kiện bắt buộc trong giao kết hợp đồng, sự tự nguyện của các bên là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ủy quyền.
Xét về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng, thì hợp đồng ủy quyền là hợp đồng ưng thuận. Bởi lẽ, quyền và nghĩa vụ của các bên chỉ phát sinh ngay sau khi các bên thỏa thuận xong những nội dung cơ bản của hợp đồng. Bên ủy quyền có trách nhiệm đáp ứng mọi điều kiện để bên được ủy quyền thực hiện công việc; bên được ủy quyền chỉ được thực hiện trong phạm vi ủy quyền.
Vì vậy, bên ủy quyền có trách nhiệm cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết cho bên được ủy quyền thực hiện công việc được giao. Còn bên được ủy quyền có trách nhiệm tiến hành thực hiện công việc như đã cam kết. Trong trường hợp hợp đồng ủy quyền không được giao kết dưới hình thức văn bản thì quyền và nghĩa vụ của các bên khi bên nhận ủy quyền thực hiện hành vi mà bên ủy quyền giao cho. Luận văn: Thực trạng công chứng văn bản ủy quyền tại VN
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Giải pháp hoàn thiện luật công chứng tại Tp HCM