Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Tác động của chất lượng thông tin báo cáo tài chính đến tính thanh khoản chứng khoán của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
BCTC là một trong những kênh thông tin mà các công ty niêm yết được yêu cầu cung cấp trên thị trường chứng khoán. Chất lượng thông tin được trình bày trên đó là yếu tố quyết định cho thị trường tài chính hiệu quả. Một câu hỏi được đặt ra là liệu thông tin trên BCTC đó được các công ty niêm yết cung cấp có ảnh hưởng như thế nào đến quyết định của nhà đầu tư?
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều bước tiến để cùng hòa nhịp với môi trường kinh doanh quốc tế, tất cả đang chuyển dịch theo hướng toàn cầu hóa kèm theo đó là những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính và lạm phát. Để theo kịp tốc độ phát triển nhanh và sự cạnh tranh khốc liệt như tình hình hiện tại, các công ty niêm yết đang cố gắng thỏa mãn ở mức tối đa những gì mà những đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài cần. Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN
Khi áp dụng lý thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith vào thị trường chứng khoán, người ta xem nó là sự kết hợp từ rất nhiều yếu tố. Yếu tố đầu tiên chính là doanh nghiệp và các thông tin mà doanh nghiệp này cung cấp. Những thông tin do doanh nghiệp cung cấp được thể hiện trên các BCTC. Vậy có thể nói, những thông tin được trình bày trên BCTC của doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc kết nối một công ty với rất nhiều đối tượng sử dụng thông tin khác nhau bên ngoài doanh nghiệp, nó đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc cung cấp những thông tin hữu ích, có thể giúp cho người sử dụng thông tin ra quyết định một cách hợp lý, thỏa mãn mục tiêu của họ.
Chứng khoán là một loại hàng hóa vốn, rất trừu tượng và giá trị của nó không liên quan đến hình thức vật lý mà dựa vào giá trị trong tương lai của nó. Việc này đòi hỏi nhà đầu tư phải quan tâm nhiều đến đơn vị phát hành. Họ muốn biết rõ các thông tin về đơn vị đó, như kết quả kinh doanh, tình hình chứng khoán…trước khi quyết định mua hay bán chứng khoán. Trong một thị trường hiệu quả, giá các chứng khoán không tách rời giá trị kinh tế mà các nhà đầu tư tính toán, ước tính cho chứng khoán đó. Giá trị kinh tế của chứng khoán được xác định thông qua dự đoán của các nhà đầu tư về rủi ro, lợi nhuận và sự không chắc chắn. Nếu giá của thị trường chứng khoán có độ lệch so với giá trị kinh tế ước tính thì trong trường hợp này, nhà đầu tư cố gắng đưa hai giá trị này tương thích với nhau. Vì vậy, khi có thông tin mới được đưa vào thị trường thì thông tin này có thể sẽ ảnh hưởng đến việc định giá giá trị kinh tế chứng khoán của nhà đầu tư và từ đó đưa ra quyết định có mua hay bán chứng khoán hay không. Do đó, các thông tin này nếu có độ tin cậy cao, dễ hiểu và có thể dự đoán được thì có thể giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định lựa chọn chứng khoán với kỳ hạn mong muốn của chính nhà đầu tư và một trong những mong muốn mà luận văn muốn đề cập đến là thông tin ảnh hưởng đến tính thanh khoản của thị trường chứng khoán như thế nào.
Tính thanh khoản chứng khoán chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó thông tin trên BCTC được quan tâm nhiều trong những năm gần đây. Rất nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy với chất lượng thông tin trên BCTC cao có thể giúp tăng tính thanh khoản chứng khoán cho các công ty. Vậy vấn đề này ở một nước mà thị trường chứng khoán còn khá non trẻ như Việt Nam hiện nay thì sao? Liệu rằng chất lượng của các thông tin được công bố trên BCTC của các DN niêm yết có thực sự ảnh hưởng hay giúp ích gì nhiều cho các nhà đầu tư trong việc ra quyết định? Đó chính là lý do luận văn nghiên cứu về vấn đề: “Tác động của chất lượng thông tin Báo cáo tài chính đến tính thanh khoản của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát: Luận văn nghiên cứu về chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản chứng khoán, từ đó đánh giá sự tác động của chất lượng thông tin BCTC đến tính thanh khoản của các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam và đưa ra các kiến nghị phù hợp.
- Mục tiêu cụ thể
- Phân tích thực trạng chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản chứng khoán các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
- Phân tích ảnh hưởng của chất lượng thông tin BCTC tới tính thanh khoản chứng khoán.
- Đưa ra các giải pháp và đề xuất kiến nghị dựa trên kết quả nghiên cứu.
3. Câu hỏi nghiên cứu Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN
Từ những vấn đề được trình bày ở trên, để đạt được mục tiêu nghiên cứu như đã giới thiệu, luận văn cần đặt ra 4 câu hỏi nghiên cứu như sau:
Câu hỏi 1: Cơ sở lý luận nào để đánh giá chất lượng thông tin BCTC, tính thanh khoản chứng khoán và mối quan hệ giữa chúng.
Câu hỏi 2: Tính thanh khoản chứng khoán các công ty niêm yết tại Việt Nam đang được đánh giá ở mức độ nào?
Câu hỏi 3: Các yếu tố của chất lượng thông tin BCTC có tác động như thế nào đến tính thanh khoản của chứng khoán các công ty niêm yết tại Việt Nam?
Câu hỏi 4: Giải pháp nào để nâng cao tính thanh khoản trong mối quan hệ với chất lượng thông tin BCTC các công ty niêm yết tại Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản của chứng khoán.
Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng khảo sát là thông tin BCTC và tính thanh khoản chứng khoán các công ty niêm yết tại HOSE và HNX tại thời điểm năm 2014
- Thời gian thực hiện nghiên cứu: năm 2015
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp hỗn hợp, bao gồm phương pháp định tính và định lượng.
Phương pháp định tính: được sử dụng để phỏng vấn các chuyên gia nhằm khẳng định sự cần thiết của các thang đo đánh giá tính thanh khoản phù hợp với thị trường Việt Nam, các thang đo để đánh giá chất lượng thông tin BCTC có tác động đến tính thanh khoản.
Phương pháp định lượng: Thực hiện bằng cách khảo sát tính thanh khoản chứng khoán các công ty niêm yết Việt Nam thông qua các thang đo tính thanh khoản trong mối liên hệ với chất lượng thông tin BCTC. Đồng thời, luận văn sử dụng mô hình hồi quy để tính giá sự tác động của các yếu tố chất lượng thông tin BCTC đến tính thanh khoản chứng khoán
6. Những đóng góp của luận văn Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN
Xem xét và đối chiếu với các nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học trước đây, luận văn đã đóng góp những vấn đề sau đây:
- Tác giả đã lược khảo những lý thuyết về chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản chứng khoán từ những nghiên cứu trước đây trên thế giới và Việt Nam. Nội dung này bao gồm việc hệ thống hóa nền tảng lý thuyết chất lượng thông tin BCTC và sự tương quan của nó tới tính thanh khoản chứng khoán. Việc nghiên cứu này giúp các nhà nghiên cứu tiếp theo tiếp cận lý thuyết chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản một cách có hệ thống và dễ dàng hơn.
- Về phương diện phương pháp nghiên cứu, luận văn đã xây dựng các thang đo đã được kiểm định sự phù hợp cũng như độ tin cậy và giá trị của chúng, từ đó đo lường tính thanh khoản chứng khoản theo nghĩa rộng hướng đến sự hữu ích đối với người sử dụng thông tin BCTC, điều này giúp các nhà nghiên cứu tại Việt Nam có thêm bộ thang đó có giá trị và có độ tin cậy cao, giúp cho việc đánh giá tính thanh khoản chứng khoán tại các công ty niêm yết Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn.
- Từ thực trạng qua việc phân tích đánh giá các đặc tính chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản chứng khoán giúp các nhà hoạch định chính sách, xây dựng luật pháp có cái nhìn sâu sắc hơn trong việc xây dựng luật pháp có liên quan nhằm nâng cao chất lượng thông tin BCTC cũng như tăng khả năng thanh khoản chứng khoán cho các công ty niêm yết tại Việt Nam. Từ đó, các công ty niêm yết sẽ tự hoàn chỉnh BCTC để nhằm thu hút đầu tư, tăng nguồn vốn cho doanh nghiệp mình.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản chứng khoán
Chương 2: Cơ sở lý luận
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và bàn luận
Chương 5: Một số đề xuất nhằm góp phần nâng cao tính thanh khoản chứng khoán trong mối liên hệ với chất lượng thông tin BCTC của các công ty niêm yết tại Việt Nam
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN BCTC VÀ TÍNH THANH KHOẢN CHỨNG KHOÁN.
Trong phần này tác giả chỉ trình bày các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới với nội dung liên quan đến tính thanh khoản và các yếu tố của chất lượng thông tin kế toán có tác động đến tính thanh khoản. Khi tìm hiểu về sự tương quan giữa chất lượng thông tin BCTC đối với tính thanh khoản, các nghiên cứu đã tiếp cận các vấn đề theo nhiều hướng khác nhau:
- Góc độ chất lượng thông tin BCTC: các tác giả đã quan tâm đến tính hữu ích, sự minh bạch, điều chỉnh lợi nhuận, công bố lại BCTC, gian lận BCTC, công bố thông tin bắt buộc và tự nguyện.
- Góc độ tính thanh khoản chứng khoán: các nghiên cứu tập trung vào giá trị thị trường và giá trị ghi sổ của chứng khoán, khối lượng giao dịch trung bình theo từng thời kỳ, lợi nhuận trung bình thu được từ các chứng khoán.
1.1. Các nghiên cứu công bố trong nước Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN
1.1.1. Tính thanh khoản chứng khoán
Các nghiên cứu về tính thanh khoản chứng khoán ở Việt Nam hiện nay còn khá hạn chế. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hai khía cạnh là tính thanh khoản của công ty nói chung và rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng. Tác giả điểm qua một số nghiên cứu liên quan đến tình hình đầu tư chứng khoán và từ đó tác động đến tính thanh khoản của chứng khoán.
Nguyễn Thanh Phương (2013) trong bài báo nghiên cứu về tài chính tiền tệ có đề cập đến giải pháp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư khi vay để kinh doanh chứng khoán, các nhà đầu tư cần nhận thức được rủi ro trong đầu tư chứng khoán. Mỗi nhà đầu tư có mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau và họ cần nắm được chính xác mức độ chấp nhận rủi ro của mình. Ngoài ra, nhà đầu tư cần tuân thủ việc cắt lỗ, xác định mất mát tối đa và có sự cắt lỗ hợp lý khi thị trường diễn biến không theo ý đồ đầu tư. Quyết định để cắt lỗ là một quyết định khó, bởi khi bán để cắt lỗ, nhà đầu tư lỗ thật (mất giá chứng khoán và chi phí trả lãi tiền vay). Vì vậy nhà đầu tư cần thiết lập cho mình mức giá để cắt lỗ và tuân thủ nghiêm ngặt việc cắt lỗ để hạn chế rủi ro.
La Thị Kim Lan (2013) trong Luận văn thạc sĩ, tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng thông tin kế toán với rủi ro thanh khoản của cổ phiếu, kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng thông tin kế toán có ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo nghiên cứu này, có ba biến đại diện cho chất lượng thông tin tác động đến rủi ro thanh khoản của thị trường chứng khoán Việt Nam là lợi nhuận bền vững, độ tin cậy của dự đoán lợi nhuận, mô hình định giá lợi nhuận, còn biến không tác động là độ tin cậy của thông tin báo cáo.
Đỗ Hoài Giang (2003) trong luận văn thạc sĩ, tác giả nghiên cứu về rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam thể hiện thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là những vấn đề rất phức tạp, nhạy cảm và có vai trò quan trọng trong các giao dịch kinh tế, đặc biệt là các giao dịch tài chính. Tuy nhiên, công tác thông tin trên thị trường chứng khoán chưa thực sự được các công ty coi trọng. Những hạn chế đó đã dẫn đến chất lượng thông tin trên thị trường còn thấp và kết quả là đã có nhiều biểu hiện của lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường. Qua đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm cân bằng hoá thông tin giữa các nhà đầu tư trên thị trường. Mặc dù vậy, bài nghiên cứu vẫn còn hạn chế trong việc vận dụng các mô hình toán kinh tế để tách riêng tác động của thông tin không cân xứng tới hoạt động của thị trường, trên cả phương diện lý thuyết và thực tế.
1.1.2. Chất lượng thông tin BCTC Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN
BCTC là quá trình lập, trình bày và công bố. Hầu như các nghiên cứu trong nước tập trung vào các khía cạnh khác nhau của thông tin BCTC. Vì vậy, luận văn sẽ xem xét các nghiên cứu trong nước theo từng hoạt động của quá trình này.
1.1.2.1. Qúa trình tạo lập thông tin BCTC
Qúa trình tạo lập thông tin BCTC được bắt đầu từ việc ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thông qua hệ thống xử lý nghiệp vụ của hệ thống kế toán, đảm bảo các nghiệp vụ ghi nhận phù hợp với các quy định, chuẩn mực kế toán hiện hành. Như vậy, thông tin BCTC sẽ phụ thuộc vào việc xử lý của hệ thống kế toán và các quy định, chuẩn mực được ban hành. Tổng hợp các nghiên cứu của các tác giả trong nước về vấn đề này như sau:
Võ Văn Nhị (2011), trong nghiên cứu đề tài cấp bộ, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp hệ thống, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, phân tích và tiếp cận mục tiêu, đã đánh giá thực trạng các quy định pháp lý có liên quan đến kế toán được áp dụng cho các doanh nghiệp như: luật kế toán, chuẩn mực và chế độ kế toán, đồng thời qua đó đánh giá thực trạng tình hình thực hiện công tác kế toán của các doanh nghiệp Việt Nam để đưa ra các nguyên nhân tồn tại về hệ thống pháp lý cũng như quá trình thực hiện công tác kế toán của doanh nghiệp. Từ thực trạng đã phân tích, tác giả cho rằng để nâng cao chất lượng thông tin kế toán cần nâng cao chất lượng những nội dung có liên quan của hệ thống pháp lý về kế toán và nâng cao chất lượng công tác kế toán của doanh nghiệp.
Nguyễn Bích Liên (2012) với đề tài trong luận án tiến sĩ “Xác định và kiểm soát các nhân tố ảnh hưởng chất lượng thông tin kế toán trong môi trường ứng dụng hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) tại các doanh nghiệp Việt Nam”, tác giả cho rằng quan điểm của FASB, IASB và chuẩn mực kế toán Việt Nam đều cho rằng chất lượng thông tin kế toán đồng nghĩa với chất lượng BCTC. Tuy nhiên, quan điểm chất lượng thông tin của tác giả trong môi trường công nghệ thông tin được xác định bởi các tiêu chuẩn: hiện hữu, hiệu quả, bảo mật, toàn vẹn, sẵn sàng, tuân thủ và đáng tin cậy. Các tiêu chuẩn liên quan gắn liền với các chuẩn mực kế toán đề cập trong bài nghiên cứu nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của luận văn này. Bài nghiên cứu chủ yếu tập trung vào năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho quy trình xử lý các thông tin kế toán và chất lượng thông tin kế toán phụ thuộc vào ứng dụng hệ thống thông tin này.
1.1.2.2. Qúa trình trình bày và công bố thông tin Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN
Liên quan đến quá trình trình bày và công bố thông tin, các tác giả nghiên cứu tập trung về những lĩnh vực như sự minh bạch, hình thức và nội dung của thông tin được công bố, đại diện các nghiên cứu này gồm:
Nguyễn Thị Hồng Oanh (2008), với bài luận văn thạc sĩ của mình, tác giả đã khảo sát thực tế các nhà đầu tư về những thông tin trên BCTC mà nhà đầu tư quan tâm, dựa vào đó tác giả xem xét khả năng thỏa mãn của nhà đầu tư khi sử dụng các thông tin này. Từ đó đưa đến kết luận, vấn đề trình bày và công bố thông tin BCTC của các công ty niêm yết chưa thực sự hữu ích đối với các nhà đầu tư như: việc tính toán các số liệu tài chính khó khăn, thiếu thông tin, tiếp cận thông tin khó khăn và thông tin được công bố chưa kịp thời.
Nguyễn Đình Hùng (2010), trong luận án tiến sĩ, tác giả xác định sự minh bạch thông tin tài chính có thể xem là sự sẵn có của các thông tin tài chính cho người sử dụng và nó được thể hiện qua các đặc tính: sự kịp thời, sự thuận tiện, sự chính xác, sự đầy đủ và sự nhất quán. Tác giả xác định 6 yếu tố kiểm soát sự minh bạch: Hệ thống chuẩn mực kế toán, quy định liên quan đến công bố BCTC, Hệ thống kiểm soát nội bộ, Ban giám đốc, Kiểm toán độc lập và Ban kiểm soát. Từ việc khảo sát sự tác động của 6 yếu tố này đến các đặc tính của sự minh bạch các công ty niêm yết tại Việt Nam, tác giả đưa ra những kiến nghị liên quan đến 6 yếu tố để tăng cường sự minh bạch thông tin tài chính các công ty niêm yết tại Việt Nam.
Lê Trường Vinh (2008) nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin của doanh nghiệp niêm yết theo cảm nhận của nhà đầu tư”. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa ra 2 nhóm đặc điểm ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin. Loại thứ nhất bao gồm các đặc điểm thuộc về tài chính và loại thứ hai là các đặc điểm thuộc về quản trị doanh nghiệp. Những đặc điểm thuộc về tài chính bao gồm: quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính, tình hình tài chính, tài sản cầm cố, hiệu quả sử dụng tài sản. Những đặc điểm về quản trị doanh nghiệp: mức độ tập trung vốn chủ sở hữu, cơ cấu HĐQT, quy mô HĐQT. Và do giới hạn về đề tài nên tác giả chỉ đi sâu vào tìm hiểu về nhóm đặc điểm tài chính ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin.
Ngoài ra, năm 2011 trong bài viết của tác giả Đặng Thị Thúy Hằng, tác giả quan tâm đến công bố thông tin ở một góc độ khác về công bố thông tin kế toán.
Tác giả xem xét thông tin mà doanh nghiệp công bố dưới hai góc độ là thông tin bắt buộc và thông tin tự nguyện. Qua đó, đã đánh giá thực trạng công bố thông tin kế toán các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam thông qua các yếu tố như: tính kịp thời, sử dụng giá trị hiện tại trong kế toán, chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán và công bố các thông tin tự nguyện. Tác giả cho rằng những yếu tố trên đã làm hạn chế chất lượng thông tin kế toán và đã đưa ra những kiến nghị có liên quan nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán.
1.2. Các nghiên cứu công bố ở nước ngoài Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đánh giá tính thanh khoản và chất lượng thông tin BCTC, nên các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đứng dưới nhiều góc độ khác nhau và tìm ra được các bằng chứng cho thấy sự tác động của chất lượng thông tin BCTC đến tính thanh khoản chứng khoán. Luận văn trình bày các nghiên cứu điển hình dưới đây.
1.2.1. Tính thanh khoản của chứng khoán
Jamei, Reza và các cộng sự (năm 2012) với nghiên cứu về Tác động của chất lượng thông tin kế toán tới Rủi ro thanh khoản của công ty niêm yết chứng khoán tại Tehran Stock Exchange. Nghiên cứu này đã sử dụng sự tương quan và mô hình hồi quy đa biến để nghiên cứu tác động chất lượng thông tin kế toán trên thanh khoản. Kết quả của các thử nghiệm giả thuyết nghiên cứu cho thấy, chất lượng thông tin kế toán có thể ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của cổ phiếu các công ty được niêm yết tại sàn chứng khoán Tehran và tăng các thuộc tính chất lượng của thông tin có thể là một lý do trong việc giảm rủi ro thanh khoản về cổ phiếu.
Trong năm 2008, Jeffrey Ng với một nghiên cứu việc xem xét các tác động của chất lượng thông tin tới rủi ro thanh khoản, rằng có một mối quan hệ tiêu cực giữa chất lượng thông tin và rủi ro thanh khoản, như vậy với chất lượng thông tin cao hơn sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản sẽ được giảm xuống, hay tính thanh khoản được tăng lên.
Trong năm 2009, Biddle, Gary C., Gilles Hilary, and Rodrigo S. Verdi với nghiên cứu về vấn đề các báo cáo tài chính có thể liên quan đến đầu tư như thế nào?, họ phát hiện ra rằng, có một mối quan hệ tích cực giữa chất lượng của thông tin BCTC và hiệu quả đầu tư, đồng thời các công ty có thể có một sự đầu tư hiệu quả với sự gia tăng thông tin BCTC của họ.
Trong năm 2010, Ali Rahmani, Seyed Ali Hoseini và Narges Rezapour trong nghiên cứu về quan hệ sở hữu chế và thanh khoản cổ phiếu trong Iran, chỉ ra rằng có một mối quan hệ tích cực giữa các sở hữu tổ chức và tính thanh khoản cổ phiếu, ngoài ra mức độ tập trung của sở hữu tổ chức gây ra thanh khoản cổ phiếu trong công ty giảm. Trong nghiên cứu của họ, mối quan hệ này đã được quan sát thấy trong trường hợp của các tiêu chí giao dịch như quy mô giao dịch và tiêu chí Amihud về các tiêu chí thông tin như mức chênh lệch giá chứng khoán giữa cung và cầu.
Nekounam và các cộng sự (năm 2012) có bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa cơ cấu sở hữu với tính thanh khoản cổ phiếu. Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của cơ cấu sở hữu được xem xét ở hai khía cạnh là hình thức sở hữu và tập trung quyền sở hữu tác động đến tính thanh khoản. Mẫu khảo sát gồm 74 công ty, là các thành viên của sàn giao dịch chứng khoán tại Tehran, đã được lựa chọn trong khoảng thời gian 5 năm (2005-2009). Mô hình hồi quy tuyến tính với mức độ tin cậy 95%, sử dụng phần mềm Excel và SPSS để kiểm tra các giả định và nghiên cứu về mối quan hệ giữa cơ cấu sở hữu (biến độc lập) và thanh khoản (biến phụ thuộc). Kết quả cho thấy mối quan hệ giữa mức độ thể chế quyền sở hữu, mức độ quyền sở hữu quản lý và mức độ sở hữu tập trung có tác động tiêu cực đến tính thanh khoản. Ngoài ra còn có tác động tích cực trong mối quan hệ giữa mức độ sở hữu tổ chức và tính thanh khoản.
Tới năm 2013, cũng nghiên cứu tại Tehran, 28. Maryam và Kolthoum đã có bài nghiên cứu về tính thanh khoản. Bài nghiên cứu này cũng tương tự như nghiên cứu của Nekounam và các cộng sự (2012), cho kết quả có mối quan hệ tiêu cực đáng kể tồn tại giữa sự tập trung quyền sở hữu và tính thanh khoản, mối quan hệ tích cực đáng kể tồn tại giữa sở hữu tổ chức và tính thanh khoản và cuối cùng là sự tác động tích cực không đáng kể giữa quyền sở hữu quản lý và tính thanh khoản.
Cũng trong năm 2013, Karkon và cộng sự đã có cuộc điều tra mối quan hệ giữa chất lượng công bố trong hệ thống thông tin và tính thanh khoản chứng khoán. Về vấn đề này, quy mô doanh nghiệp được coi là các biến kiểm soát. Chất lượng công bố thông tin được đo bằng cách sử dụng điểm số mà Tổ chức Chứng khoán và giao dịch tại Tehran xác định cho các công ty, được thực hiện thông qua các báo cáo về “chất lượng Công bố và thông tin thích hợp. Các điểm số từ 0 đến 100. 4 biến tiêu chí bao gồm cả số lượng cổ phiếu được giao dịch, tỷ lệ thu nhập cổ phiếu, khối lượng giao dịch chứng khoán tại Rial, và giá trị của cổ phiếu được giao dịch đã được sử dụng để đo lường khả năng thanh khoản. Nghiên cứu lấy mẫu bao gồm 70 công ty trong giai đoạn 2006 đến 2011. Xét trong vòng 5 tài chính năm cho mỗi công ty, nghiên cứu này bao gồm các dữ liệu của 350 công ty trong năm. Các kết quả phân tích dữ liệu cho thấy một tương quan tích cực giữa quy mô doanh nghiệp và thanh khoản chứng khoán. Tức là kết quả của mối quan hệ giữa ba biến số tiêu chí bao gồm cả số lượng cổ phiếu được giao dịch, khối lượng giao dịch chứng khoán tại Rial và giá trị của cổ phiếu được giao dịch. Tuy nhiên, kết quả cho thấy không có mối tương quan giữa chất lượng công bố thông tin và tính thanh khoản chứng khoán. Điều này có ý nghĩa là kết quả của sự thiếu tương quan đáng kể giữa ba biến thanh khoản bao gồm cả số lượng cổ phiếu được giao dịch, tỷ lệ doanh thu cổ phiếu và khối lượng giao dịch chứng khoán tại Rial. Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN
Ahmad Mohammady (2011) thực hiện nghiên cứu “Các đặc tính của lợi nhuận kế toán và thu nhập của cổ phiếu” vào năm 2011. Dữ liệu nghiên cứu là các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Terhan từ năm 1998 đến 2009. Nghiên cứu này được thiết kế để điều tra mối quan hệ giữa các đặc tính của thu nhập kế toán và lợi nhuận của cổ phiếu bằng các mô hình hồi quy. Nghiên cứu này thu được kết quả: Thuộc tính của chất lượng thu nhập có liên quan tới lợi nhuận cổ phiếu, các thuộc tính phù hợp của chất lượng thu nhập giải thích rõ hơn lợi nhuận của cổ phiếu hơn là thuộc tính độ tin cậy của chất lượng thu nhập, lợi nhuận của cổ phiếu có liên kết đồng biến với chất lượng thu nhập.
1.2.2. Chất lượng thông tin BCTC
Trên thế giới còn có các nghiên cứu tập trung về chất lượng thông tin BCTC. Quan điểm của các nhà nghiên cứu này xem chất lượng thông tin BCTC dựa trên các đặc tính chất lượng của FASB và IASB. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là “hoạt động hóa” các đặc tính chất lượng, về vấn đề này có các nghiên cứu sau:
Maines .L.A và James (2006) nghiên cứu về đặc tính “đáng tin cậy” của thông tin BCTC. Tác giả sử dụng phương pháp để đánh giá về đặc tính đáng tin cậy của thông tin BCTC bao gồm:
- So sánh các số liệu kế toán với chuẩn mực kế toán
- Xem xét vấn đề công bố lại thông tin kế toán
- So sánh các ước tính kế toán và nhận biết dòng tiền trong tương lai
- Thông qua việc sử dụng các thông tin kế toán để nhận biết sự đáng tin cậy của những thông tin này.
Mục đích của nghiên cứu này nhằm giúp cho các nhà xây dựng chuẩn mực, người sử dụng xác định những yếu tố góp phần tăng “độ tin cậy” của thông tin BCTC.
Khodadady, Davood, và M. Kumaraswamy. (2012) nghiên cứu về đặc tính “sự thích hợp” thông tin BCTC của 49 ngân hàng tại Ấn Độ, bao gồm 27 ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước và 22 ngân hàng tư nhân. Tác giả sử dụng thang đo Likerk 5 điểm để đo lường danh mục gồm 14 yếu tố có ảnh hưởng đến sự thích hợp của thông tin BCTC, trong đó có 10 yếu tố liên quan đến giá trị dự báo và 4 yếu tố liên quan đến giá trị xác nhận. Kết luận của tác giả là thông tin BCTC của ngân hàng tư nhân thích hợp hơn thông tin BCTC của ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước.
Khác với những nghiên cứu đặc tính chất lượng riêng lẻ của thông tin BCTC nêu trên, nhóm tác giả khác nghiên cứu chất lượng thông tin BCTC thông qua việc đo lường các đặc tính dựa trên quan điểm của FASB và IASB. Phương pháp này chủ yếu là đo lường trên cơ sở các khái niệm.
Đầu tiên là nghiên cứu của Jonas và Blanchet (2000), trong nghiên cứu này tác giả đã xây dựng các yếu tố tạo nên 11 đặc tính chất lượng thông tin BCTC theo FASB. Từ đó, Geert Braam và các cộng sự (2009 và 2013) phát triển nghiên cứu của mình để đo lường chất lượng thông tin BCTC của Anh và Mỹ bằng phương pháp “hoạt động hóa” các đặc tính chất lượng để đánh giá những thông tin tài chính và phi tài chính nhằm xác định tính hữu ích của chúng.
1.3. Nhận xét tổng quan các nghiên cứu Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN
Sau khi xem xét tổng quan các nghiên cứu khoa học trong nước và ngoài nước có liên quan tương đối đến vấn đề của đề tài luận văn, tác giả có thể kế thừa một số đặc điểm như:
- Mối quan hệ giữa chất lượng thông tin kế toán với rủi ro thanh khoản của cổ phiếu.
- Mối quan hệ tích cực giữa chất lượng thông tin BCTC và hiệu quả đầu tư, Những thông tin nào trên BCTC mà nhà đầu tư quan tâm.
- Các nhân tố tác động lên tính thanh khoản chứng khoán
Đồng thời, tác giả có một số nhận xét sau:
- Khái niệm chất lượng thông tin BCTC được các nghiên cứu xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau, mang tính riêng lẻ, từ đó việc đo lường chất lượng thông tin BCTC chỉ ở mức độ các thông tin tài chính và mức độ công bố, chưa phản ánh được chất lượng thông tin BCTC toàn diện theo hướng tính hữu ích của thông tin nhằm giúp người sử dụng thông tin BCTC ra quyết định.
- Liên quan đến tính thanh khoản chứng khoán, các nghiên cứu trong nước còn khá hạn chế, các nghiên cứu nước ngoài có đề cập đến sự tác động đến tính thanh khoản nhưng đang tập trung nhiều vào mối quan hệ với các thông tin tài chính.
Từ đó, tác giả bổ sung thêm những điểm mới trong nghiên cứu như:
- Phản ánh chất lượng thông tin BCTC toàn diện theo hướng tính hữu ích của thông tin nhằm giúp người sử dụng thông tin BCTC ra quyết định.
- Xây dựng thang đo về tính thanh khoản chứng khoán cho các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam một cách rõ ràng hơn.
- Không chỉ dừng lại ở các thông tin tài chính, luận văn còn đào sâu nghiên cứu về mối quan hệ giữa các thông tin kế toán được phản ánh trên trên BCTC với tính thanh khoản chứng khoán.
Kết luận chương 1
Nội dung chính của chương này nhằm đánh giá một cách tổng quan về bức tranh tổng thể các nghiên cứu khác nhau trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề nghiên cứu của luận văn. Từ đó, giúp tác giả nhận thấy được khoảng trống của các nghiên cứu và làm nền tảng để thực hiện các bước tiếp theo của luận văn.
Việc tổng hợp và đánh giá các công trình nghiên cứu được tác giả trình bày theo hai phần lần lượt trong nước và ngoài nước trên cơ sở chọn lọc các nghiên cứu tiêu biểu đã được nêu có liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận văn. Qua những nội dung đã trình bày trong chương này, cho thấy vấn đề nghiên cứu về chất lượng thông tin BCTC tác động đến tính thanh khoản chứng khoán là một vấn đề khá mới mẻ và cần thiết tại Việt Nam trong quá trình hội nhập. Luận văn: Thông tin tài chính chứng khoán của các Cty tại VN
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN