Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Tác động của chất lượng thông tin báo cáo tài chính đến tính thanh khoản chứng khoán của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

Nhằm trả lời bốn câu hỏi nghiên cứu đã đưa ra tại chương 1, nội dung chương 2 của luận văn trình bày các lý thuyết nền tảng có liên quan đến tính thanh khoản của chứng khoán và chất lượng thông tin BCTC, cụ thể trong chương này sẽ trình bày các nội dung sau đây:

  • Luận văn trình bày lý thuyết nền, bao gồm các lý thuyết: lý thuyết người đại diện, lý thuyết thông tin bất cân xứng, lý thuyết tín hiệu.
  • Lý thuyết người đại diện mô tả các mối quan hệ giữa người quản lý và các cổ đông; giữa các cổ đông và chủ nợ. Các nhà cung cấp vốn ủy thác việc ra quyết định, chiến lược và điều hành hoạt động cho các nhà quản lý. Chính sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý nên gây ra xung đột lợi ích giữa hai bên. Để giảm thiểu sự xung đột này, các cổ đông sẽ cần có một kênh thông tin đáng tin cậy để xem xét các hoạt động trong doanh nghiệp.
  • Lý thuyết thông tin bất cân xứng: từ sự xung đột lợi ích đã được trình bày trong lý thuyết ủy nhiệm, hình thành nên sự bất đối xứng về thông tin giữa nhà quản lý và các cổ đông (hay nhà đầu tư), kênh thông tin các nhà đầu tư xem xét nhiều nhất chính là các BCTC, chúng được lập bởi Nhà quản lý của công ty.
  • Lý thuyết tín hiệu: Theo lý thuyết này, các nhà quản lý là những người mong đợi một tín hiệu tăng trưởng cao trong tương lai sẽ có động cơ phát tín hiệu này tới các nhà đầu tư. BCTC là một trong những phương tiện phát tín hiệu, nơi các công ty sẽ công bố nhiều thông tin hơn để báo hiệu cho các nhà đầu tư, để cho thấy rằng họ là tốt hơn so với các công ty khác trên thị trường với mục đích thu hút đầu tư và nâng cao danh tiếng của mình.
  • Bên cạnh đó, luận văn trình bày các khái niệm liên quan đến chất lượng thông tin BCTC, qua đó làm tiền đề để đánh giá tính thanh khoản chứng khoán thông qua việc xây dựng thang đo trong chương 3. Ngoài ra, luận văn trình bày các khái niệm về tính thanh khoản của chứng khoán và chất lượng thông tin BCTC, làm cơ sở để xây dựng các giả thuyết về sự tương quan giữa chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản của chứng khoán được xây dựng trong chương 3.
  • Từ các cơ sở lý thuyết các nội dung trên, luận văn xây dựng mô hình nghiên cứu để trả lời các câu hỏi nghiên cứu đã trình bày ở chương 1

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

2.1. Lý thuyết nền Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

2.1.1. Lý thuyết người đại diện

Một trong những lý thuyết nền tảng liên quan đến việc lựa chọn đầu tư của các cổ đông đó là lý thuyết người đại diện. Một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên về lý thuyết người đại diện xuất phát từ Jensen và các cộng sự, Jensen và các cộng sự (1976) định nghĩa “lý thuyết ủy nhiệm tập trung vào mối quan hệ tương tự như một hợp đồng theo đó người chủ thuê người thừa hành”.

Lý thuyết người đại diện mô tả các mối quan hệ giữa người quản lý và các cổ đông; giữa các cổ đông và chủ nợ. Các nhà cung cấp vốn ủy thác việc ra quyết định, chiến lược và điều hành hoạt động cho các nhà quản lý. Lý tưởng nhất, các nhà quản lý sẽ hành động và đưa ra quyết định tối đa hóa giá trị cổ đông và đảm bảo rằng nợ sẽ được hoàn trả. Tuy nhiên, như lý thuyết người đại diện mô tả, nhà quản lý có động cơ sử dụng các vị trí và quyền lực của họ, vì lợi ích riêng của họ. Vấn đề người đại diện xảy ra bởi vì việc tách bạch giữa quyền sở hữu và kiểm soát công ty và được phóng đại bởi các vấn đề bất đối xứng thông tin từ các nhà quản lý có kiến thức tốt hơn về giá trị tương lai của công ty so với các cổ đông và chủ nợ. Điều này có thể gây ra lựa chọn bất lợi và các vấn đề rủi ro đạo đức bởi vì các nhà cung cấp vốn không chắc chắn liệu các nhà quản lý đang hành động vì lợi ích tốt nhất của họ. Chi phí đại diện xuất phát từ giả định rằng hai bên, người quản lý và cổ đông của công ty có mâu thuẫn về lợi ích. Chi phí giám sát được trả bởi người chủ, các cổ đông để giám sát các hoạt động bất thường của người quản lý. Đồng thời, chi phí ràng buộc thì lại được trả bởi người đại diện, để đảm bảo rằng các hành động và quyết định của nhà quản lý không gây hại đến lợi ích của chủ công ty, các cổ đông. Mâu thuẫn về lợi ích cũng tạo ra những mất mát phụ trội do phúc lợi không được tối đa hóa. Tổng chi phí giám sát, chi phí ràng buộc và mất mát phụ trội được gọi là chi phí đại diện vì chi phí này xuất phát từ mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý (Jensen và các cộng sự, 1976).

Như vậy, thông qua lý thuyết người đại diện, một vấn đề được đặt ra là thông tin BCTC cần được trình bày như thế nào tới các cổ đông để có thể giảm thiểu được xung đột về lợi ích giữa các bên. Do đó, phạm vi của luận văn là nghiên cứu về việc thông tin trên BCTC được trình bày một cách trung thực, đáng tin cậy và tính kịp thời.

2.1.2. Lý thuyết thông tin bất cân xứng Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

Có nhiều nghiên cứu liên quan đến lý thuyết bất cân xứng:

G.A. Akerlof là người đầu tiên giới thiệu về lý thuyết thông tin bất cân xứng vào những năm 1970. Thông tin bất cân xứng xẩy ra khi một bên giao dịch có ít thông tin hơn bên đối tác hoặc có thông tin nhưng thông tin không chính xác. Điều này khiến cho bên có ít thông tin hơn có những quyết định không chính xác khi thực hiện giao dịch, đồng thời bên có nhiều thông tin hơn cũng sẽ có những hành vi gây bất lợi cho bên kia khi thực hiện nghĩa vụ giao dịch.

Hệ quả phổ biến nhất do thông tin bất cân xứng gây ra là lựa chọn bất lợi và tâm lý ý lại.

Lựa chọn bất lợi là hành động xẩy ra trước khi ký kết hợp đồng trong kinh doanh hay tham gia vào quan hệ pháp luật nào đó, bên có nhiều thông tin hơn có thẻ gây tổn hại cho bên có ít thông tin. Đối với các nhà đầu tư, sự quan tâm của họ là lợi nhuận. Trên thị trường chứng khoán, lợi nhuận trong đầu tư cổ phiếu biểu hiện qua việc mua cổ phiếu với giá thấp, bán giá cao hay lợi tức mà các cổ đông nhận được. Trong hoạt động mua bán, thông thường người bán là người nắm rõ về sản phẩm của mình và vì vậy chi phí lựa chọn bất lợi sẽ do người mua gánh chịu. Trong thị trường chứng khoán, công ty niêm yết với tư cách là người cung cấp hàng hóa chứng khoán có nhiều thông tin hơn các nhà đầu tư với tư cách là người mua, nên các công ty này sẽ biết giá bán bao nhiêu trên thị trường chứng khoán được xem là hợp lý. Vì vậy, nếu nhà đầu tư không xác định chính xác cổ tức kỳ vọng của công ty niêm yết thì sẽ định một mức giá không chính xác, và khi định giá cổ phiếu quá cao thì bất lợi hoàn toàn thuộc về các nhà đầu tư.

Tâm lý ỷ lại là hành động của bên có nhiều thông tin hơn thực hiện sau khi ký kết hợp đồng có thể gây tổn hại cho bên có ít thông tin hơn. Với các hợp đồng vay ngân hàng hay bảo hiểm thì tâm lý ỷ lại phát sinh từ phía người đi vay hay đi mua bảo hiểm. Họ sử dụng tiền vay không đúng mục đích hay do họ đã được bảo hiểm nên sẽ trở nên bất cẩn hơn so với thời điểm trước khi mua bảo hiểm. Ở thị trường chứng khoán, tâm lý ỷ lại phát sinh nếu như người đại diện điều hành công ty không sử dụng nguồn vốn hiệu quả và đúng mục đích. Do tính chất của đầu tư trên thị trường là đầu tư gián tiếp nên việc quản lý, giám sát vốn đầu tư của các nhà đầu tư phải thông qua một số người đại diện để điều hành công ty. Tâm lý ỷ lại sẽ gia tăng nếu như các nhà đầu tư nhận được một BCTC với các thông tin có nhiều hứa hẹn. Vì vậy, nếu các thông tin được báo cáo không chính xác với tình hình thực tế của công ty thì rủi ro cho các nhà cổ đông sẽ rất lớn.

Thông qua lý thuyết thông tin bất cân xứng, cho thấy bất cân xứng là hệ quả của các bên giao dịch trên thị trường chứng khoán có thông tin với mức độ khác nhau giữa một bên cung cấp thông tin và bên nhận thông tin. Trong thị trường chứng khoán, công ty cổ phần, các công ty cổ phần có ban điều hành là những người cung cấp thông tin, nhà đầu tư và các bên liên quan là những bên tiếp nhận thông tin. Phần lựa chọn bất lợi thuộc về các nhà đầu tư khi tiếp nhận thông tin ít hơn bên cung cấp thông tin là Ban điều hành. Để giảm tình trạng thông tin bất cân xứng, thông tin trên BCTC cần đảm bảo được là có thể kiểm chứng và có thể so sánh được để các nhà đầu tư tin tưởng hơn vào BCTC.

2.1.3. Lý thuyết tín hiệu

Lý thuyết tín hiệu được hình thành vào đầu những năm 1970 và được dựa trên nghiên cứu của Spence năm 1973 để làm rõ sự bất đối xứng thông tin trong thị trường lao động. Lý thuyết cho thấy các vấn đề thông tin bất đối xứng có thể được giảm thiểu nếu các bên báo hiệu thông tin cho nhau.

Nó cũng đã được sử dụng để giải thích CBTT trên báo cáo của công ty (Ross, 1977). Theo lý thuyết tín hiệu, các nhà quản lý là những người mong đợi một tín hiệu tăng trưởng cao trong tương lai sẽ có động cơ phát tín hiệu này tới các nhà đầu tư. Thông tin trên BCTC là một trong những phương tiện phát tín hiệu, nơi các công ty sẽ công bố nhiều thông tin hơn để báo hiệu cho các nhà đầu tư, để cho thấy rằng họ là tốt hơn so với các công ty khác trên thị trường với mục đích thu hút đầu tư và nâng cao danh tiếng của mình. Vì vậy, khi các nhà đầu tư tiếp nhận các thông tin trên BCTC cần đảm bảo các thông tin đó là thích hợp, và có thể hiểu được để đảm bảo BCTC đó thực sự đáng tin cậy và có chất lượng.

2.2. Tổng quan về chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản của chứng khoán Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

2.2.1. Chất lượng thông tin BCTC

2.2.1.1. Thông tin

Theo nhiều tác giả (Hirschheim et al 1995; Zins et al 2007), các khái niệm cơ bản nhất liên quan đến hệ thống thông tin dữ liệu, thông tin và kiến thức. Các dữ liệu được coi là vật liệu cơ bản, sau đó phải được tinh chế thành các thông tin, từ đó mở rộng và nâng cao kiến thức. Kettinger và Li (2010) khẳng định rằng phương pháp này có thứ bậc từ dữ liệu thông qua các thông tin để hiểu biết là phương pháp phổ biến nhất trong lĩnh vực tin học. Dữ liệu mô tả các đối tượng có liên quan hoặc các sự kiện. Thông tin để xử lý dữ liệu (ví dụ, phân loại, tóm tắt hoặc chuyển giao) và có nghĩa là để thêm ý nghĩa và giá trị trong một bối cảnh cụ thể. Kiến thức thực sự là một hình thức phát triển và có giá trị cao hơn của thông tin. Một cái gì đó xa hơn trong chuỗi thức ăn. Đó là thông tin bắt nguồn từ một bối cảnh cụ thể hoặc bối cảnh có thể khái quát và áp dụng các bối cảnh khác. Theo Davenport và Prusak (1998), dữ liệu thường nhắc đến sự kiện, thông tin xử lý dữ liệu, và kiến thức hình thành nên kinh nghiệm sử dụng để đánh giá hoặc kết hợp các kinh nghiệm mới.

2.2.1.2. Thông tin kế toán Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

Romney và Steinbart (2009, 28) xác định một hệ thống thông tin kế toán là một quy trình “thu thập, ghi chép, lưu trữ, và xử lý dữ liệu để tạo ra thông tin cho các nhà sản xuất quyết định”. Do đó, người ta có thể suy ra rằng đó là thông tin được thiết kế riêng cho các nhà hoạch định quyết định. Họ tiếp tục xác định rằng thông tin này được hiểu là “hữu ích cho việc ra quyết định để quản lý có thể lập kế hoạch, thực hiện, kiểm soát, đánh giá hoạt động, nguồn lực và nhân sự”. Đây là những hoạt động quản lý nói chung và, do đó, các tác giả dường như coi thông tin kế toán là tương đương với thông tin quản lý.

Maines và Wahlen (2006, 401), mặt khác, xác định thông tin kế toán như “một đại diện của cấu trúc kinh tế được thể hiện trong các thỏa thuận thương mại của một công ty, giao dịch, và các sự kiện mang lại dòng tiền trong tương lai của công ty”. Điều này có nghĩa là thông tin kế toán không chỉ là thông tin quản lý, mà còn thông tin được báo cáo trong BCTC cho nội bộ và bên ngoài.

Thông tin kế toán là những thông tin liên quan đến các hệ thống kế toán và được sử dụng trong nội bộ để thông báo cho các nhà quản lý và bên ngoài để cung cấp các thông tin tài chính cần thiết để các bên liên quan. Maines và Wahlen (2006) tập trung vào các thông tin cho các bên liên quan và xác định thông tin kế toán theo cách: “một đại diện của cấu trúc kinh tế được thể hiện trong các thỏa thuận thương mại của một công ty, giao dịch, và các sự kiện mang lại dòng tiền trong tương lai của công ty”. Cách tiếp cận này được thể hiện trong hình 2.1

Dòng tiền trong tương lai

Quan hệ kinh tế

Quan hệ dự báo

Mong đợi của người sử dụng

Sự mong đợi được hình thành

Cấu trúc kinh tế: Hợp đồng, nghiệp vụ, sự kiện

Cấu trúc kinh tế được thừa nhận

Sự đo lường

Cấu trúc kế toán:

Phân loại

Giá trị

Thông tin kế toán: Báo cáo tài chính và các ghi chú

Sự Thích hợp của kế toán

Độ tin cậy của kế toán

Quan hệ kế toán

Nguồn: Maines and Wahlen (2006)

Hình 2.1, Mô hình Thông tin kế toán bởi Maines và Wahlen (2006)

Như vậy chúng ta có thể nói rằng thông tin kế toán là những thông tin liên quan đến các hệ thống kế toán, được sử dụng trong nội bộ để thông báo cho các nhà quản lý cũng như bên ngoài để cung cấp thông tin tài chính cần thiết đến các bên liên quan.

2.2.1.3. Chất lượng thông tin Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

Một số mô hình nổi tiếng hoặc quan sát khác liên quan đến chất lượng thông tin hay hệ thống thông tin thành công được thể hiện để kiểm tra như thế nào là “phù hợp cho việc sử dụng”

Các mô hình này là liên quan đến chất lượng thông tin:Mô hình của Shannon

Các mô hình nổi tiếng đầu tiên cho chất lượng thông tin là mô hình Shannon (1949). Mô hình này cho thấy một thông điệp từ các nguồn thông tin được chuyển đổi thành một tín hiệu kỹ thuật số bằng phương tiện mã hóa. Các tín hiệu sau đó sẽ được vận chuyển thông qua một kênh truyền thông. Các tín hiệu nhận được giải mã bởi người nhận và khi mọi thứ diễn ra tốt đẹp thông báo dự định được thông qua đến người nhận. Mô hình này đã được tập trung vào một vấn đề thông tin liên lạc quan trọng trong những thời điểm trước. Cụ thể, đó là tiếng ồn trong các kênh truyền thông. Các năng lực cần thiết của kênh có thể được tính toán khi số lượng tiếng ồn đã được biết đến. Tiếng ồn có thể được bù đắp bởi sự dư thừa trong các hình thức của một mã sửa lỗi trong các tín hiệu (Shannon 1948).

Sau đó, Shannon (1956) thảo luận về tác động của thông tin phản hồi từ người nhận định về năng lực của các kênh. Tuy nhiên, Shannon (1949) đã không quan tâm đến ý nghĩa và ngữ nghĩa của thông điệp. “Vấn đề cơ bản của truyền thông là tái tạo tại một thời điểm chính xác hoặc xấp xỉ thông điệp được lựa chọn vào thời điểm khác. Từ quan điểm đó, làm cho các mô hình Shannon kém phần thú vị.

Mô hình của DeLone & McLean (1992)

Ngược lại với Shannon, ký hiệu học (còn được gọi là semiology) là ít tập trung vào các khía cạnh kỹ thuật của truyền thông dữ liệu và tập trung nhiều hơn về nội dung hoặc ý nghĩa của thông điệp. Lý thuyết về dấu hiệu hoặc tín hiệu dựa trên triết học Hy Lạp cổ đại, Umberto Eco, là nhà triết học và tác giả nổi tiếng của Ý, thường được coi như là người cố vấn châu Âu của ký hiệu học hiện đại (Eco, Umberto, 1976). Ban đầu, học thuyết này là một phần của các đối tượng của logic. Nhưng thông qua ngôn ngữ học đã được đưa vào khoa học thông tin.

Một trong những đóng góp thú vị nhất của ký hiệu học là để thông tin chia tín hiệu thành ba cấp độ (với mức độ trừu tượng giảm dần).

  • Mức độ thực dụng: nguồn gốc, sử dụng và hiệu quả của tín hiệu.
  • Các mức độ ngữ nghĩa: nội dung hay ý nghĩa của tín hiệu.
  • Mức cú pháp: cấu trúc của các dấu hiệu mà không tham khảo ý nghĩa, tác dụng hoặc nguồn.

Hình 2.3, Mô hình của DeLone & McLean (1992)

Mô hình của DeLone & McLean (2003)

Phát triển hơn nữa, các tác giả đã cùng công bố mô hình mới (2003). Trong mô hình này, chất lượng dịch vụ duy trì được bao gồm như là một yếu tố dự báo mới. Hơn nữa, mục đích của chất lượng để tạo ra “thu nhập ròng” cho các tổ chức. Nói cách khác, các hệ thống thông tin có thêm giá trị cho tổ chức. Điều này được xác định bằng cách sử dụng dự kiến của họ về hệ thống và sự hài lòng của nó đáp ứng cho người sử dụng. Mô hình này cho thấy một vòng lặp thông tin phản hồi từ thu nhập ròng và hài lòng. Rõ ràng, người dùng sẽ sử dụng nhiều các hệ thống và cảm thấy hài lòng hơn khi họ biết rằng các thông tin tạo ra giá trị.

Hình 2.4: Mô hình của DeLone & McLean (2003)

2.2.1.4. Đặc điểm chất lượng của thông tin

Nelson, Todd và Wixom (2005) đã sử dụng các mô hình thành công đầu tiên của De Lone và McLean (1992) để xác định các đặc điểm, xác định hệ thống và thông tin chất lượng. Một tài liệu tiết lộ bốn đặc điểm quan trọng của chất lượng thông tin. Cụ thể, chính xác, đầy đủ, tiền tệ và định dạng. Độ chính xác của các thông tin nói chung được định nghĩa là mức độ mà thực tế được đại diện bởi các thông tin. Đầy đủ đề cập đến cách trình bày của tất cả các quốc gia có liên quan phù hợp với người sử dụng. Nelson et al. (ibid., p. 203) điểm vào khía cạnh ngữ cảnh của định nghĩa này. Thông tin có thể xem như đầy đủ cho một người sử dụng, nhưng không đầy đủ cho người khác. Tiền tệ đề cập đến tính kịp thời của thông tin. Đây cũng là một khái niệm theo ngữ cảnh. Định dạng liên quan đến chất lượng đại diện của các thông tin.

Ngoài ra, Nelson et al. (ibid., p. 205) xác định các đặc điểm bàn luận nhiều nhất về chất lượng hệ thống. Cụ thể, tiếp cận, độ tin cậy, thời gian đáp ứng, sự linh hoạt và đầy đủ. Tiếp cận đề cập đến sự dễ dàng truy cập vào các dữ liệu của người dùng. Độ tin cậy liên quan đến độ tin cậy của hệ thống. Điều này có thể được đo bằng thời gian hoạt động của hệ thống. Thời gian đáp ứng đề cập đến thời gian trước khi một hành động mong muốn được thực hiện bởi hệ thống. Tính linh hoạt đề cập đến sự dễ dàng thích ứng với các hệ thống và tích hợp như thế nào với các thông tin từ các nguồn khác nhau đã được kéo lại gần nhau.

2.2.1.5. BCTC và chất lượng thông tin BCTC Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

a. Báo cáo tài chính

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01, Báo cáo tài chính phản ảnh tình hình tài chính của doanh nghiệp bằng cách tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế, tài chính có cùng tính chất kinh tế thành các yếu tố của báo cáo tài chính.

Mục đích chung của BCTC là cung cấp thông tin tài chính hữu ích của đơn vị được lập BCTC cho những nhà đầu tư, những nhà cho vay hiện tại và tương lai, và những người chủ nợ khác trong việc ra quyết định hạn mức cho vay với tư cách là một trong những người cung cấp vốn. Đặc tính chất lượng là những yếu tố giúp cho BCTC hữu ích. Đặc tính chất lượng có thể là những đặc tính cơ bản hoặc cũng có thể là những đặc tính bổ sung tùy thuộc vào sự hữu ích của chúng đối với thông tin BCTC. Đất kể đặc tính nào thì nó đều cung cấp sự hữu ích của thông tin BCTC (FASB và IASB, 2010)

  • Thông tin trên BCTC có thể được phân thành 2 loại : thông tin tài chính và thông tin phi tài chính, thông tin bắt buộc và thông tin tự nguyện
  • Thông tin tài chính gắn liền với dòng tiền, kết quả và tình hình tài chính và sự liên kết giữa chúng với nhau. Thông tin tài chính được biểu hiện dưới dạng tiền tệ và có thể được đo lường chính xác (Nobes et al. 2008)
  • Thông tin phi tài chính là những thông tin mang tính chất sự kiến về chương trình quản lý, những cơ hội, rủi ro và tập trung vào những nhân tố nhấn mạnh đến khả năng tạo ra giá trị trong dài hạn và trình bày thông tin giúp cho người sử dụng thông tin có cái nhìn rõ hơn về những thông tin đã trình bày bên cạnh những báo cáo về hoạt động điều hành của nhà quản lý. (Sadegh Behbahani và cộng sự 2013)
  • Thông tin bắt buộc của BCTC được quy định tùy thuộc vào từng quốc gia và vùng lãnh thổ thông qua các hội nghề nghiệp hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông tin dạng này thường được trình bày mang tính chất định kỳ và thường xuyên.
  • Thông tin tự nguyện là kết quả của tình trạng thông tin bất cân xứng giữa hai bên: Nhà quản lý và các cổ đông. Thông tin tự nguyện nhằm bổ sung những thiếu hụt của thông tin bắt buộc nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử dụng.

Các BCTC của các công ty niêm yết thường được cung cấp cho các đối tượng sử dụng: Nhóm 1: những đối tượng có kiến thức chuyên môn: môi giới chứng khoán, các nhà phân tích tài chính và các quỹ đầu tư, nhóm này sử dụng thông tin để tư vấn cho nhóm 2: những người không có kiến thức chuyên môn. Tất cả những người sử dụng này đều mong muốn được cung cấp nhiều các thông tin hơn ngoài những thông tin công bố bắt buộc theo quy định.

Chất lượng thông tin báo cáo tài chính

Theo Braam, Geert, and Ferdy (2009): FAQ = (R+F+V+U+Co+T)/6

Trong đó: FAQ là chất lượng thông tin BCTC

  • Trung bình cộng của các tiêu chuẩn phù hợp R = (R1+R2+R3+R4+R5)/5
  • Trung bình cộng của tiêu chuẩn xác nhận V = (V1+V2+V3+V4)/4

U: Trung bình cộng của tiêu chuẩn dễ hiểu

U = (U1+U2+U3+U4)/4

CO: Trung bình cộng của tiêu chuẩn có thể so sánh được CO = (CO1+CO2+CO3+CO4)/4

T: Tiêu chuẩn đúng kỳ công bố BCTC

Theo quan điểm hội tụ của IASB và FASB về chất lượng thông tin BCTC có hai đặc tính chất lượng cơ bản và bốn đặc tính chất lượng bổ sung:

Các đặc tính chất lượng cơ bản:

Thích hợp: Những thông tin được xem là thích hợp nếu nó tạo nên sự khác biệt trong việc ra quyết định của người sử dụng nằm trong khả năng của họ với tư cách là nhà cung ứng vốn. Để làm được điều đó thì thông tin cần phải có giá trị dự báo và giá trị xác định hoặc cả hai. Việc thông tin có khả năng tác động lên việc ra quyết định hay không, điều này không phụ thuộc vào việc thông tin đã từng ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong quá khứ hay tương lai. Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

Trình bày trung thực: Để thông tin BCTC có thể hữu ích, chúng phải được trình bày trung thực, phản ánh những hiện tượng kinh tế đúng với ý nghĩa của chúng. Trình bày trung thực chỉ đạt được khi diễn giải của một sự kiện kinh tế phải được đầy đủ, trung lập và không có những sai sót trọng yếu. Những thông tin tài chính được trình bày trung thực sẽ thể hiện được bản chất của hiện tượng kinh tế thông qua các giao dịch, sự kiện hoặc các yếu tố, điều mà không phải lúc nào cũng đạt được dưới hình thức pháp lý.

Các đặc tính chất lượng bổ sung

Có thể so sánh: Khả năng so sánh được biểu hiện ở những thông tin có thể cho phép người sử dụng chúng xác định những điểm giống và khác nhau giữa hai đối tượng kinh tế. Nhất quán có nghĩa là việc sử dụng những chính sách và thủ tục kế toán giống nhau giữa các kỳ kế toán hoặc trong một kỳ kế toán giữa các doanh nghiệp với nhau. Nếu như có thể so sánh là mục đích thì sự nhất quán là một điều kiện để đạt được mục đích đó.

Có thể kiểm chứng: Là một yếu tố của thông tin mà có thể đảm bảo cho người sử dụng thông tin được trình bày trung thực theo đúng như bản chất của hiện tượng kinh tế. Thông tin có thể kiểm chứng còn có ý nghĩa những người sử dụng độc lập với những kiến thức khác nhau có thể đi đến một kết luận chung, tuy nhiên, không nhất thiết là hoàn toàn giống nhau. Để thông tin có thể kiểm chứng thì chúng phải có một trong hai yếu tố sau:

  • Thông tin được trình bày trung thực hiện tượng kinh tế mà không có sai sót trọng yếu
  • Áp dụng phương pháp ghi nhận hoặc đo lường hợp lý, không có sai sót trọng yếu và thiên lệch.

Tính kịp thời: Đặc tính kịp thời có nghĩa là việc có được thông tin sẵn sàng cho người ra quyết định trước khi nó mất đi giá trị và khả năng ảnh hưởng đến những quyết định đó. Có một thông tin thích hợp sớm hơn thì có thể gia tăng mức độ ảnh hưởng của nó đến những quyết định và sự chậm trễ sẽ làm mất đi những giá trị tiềm tàng, cốt lõi của chúng. Tuy nhiên, có một số thông tin có thể vẫn được xem là kịp thời mặc dù kỳ báo cáo của chúng đã kết thúc rất lâu bởi vì người sử dụng vẫn có thể dùng, cân nhắc chúng khi ra quyết định. Ví dụ, người sử dụng thông tin cần phải xác định xu hướng biến động của nhiều khoản mục trong BCTC để đưa ra quyết định đầu tư hay những quyết định cho vay.

Có thể hiểu được: là yếu tố của thông tin mà có thể giúp cho người sử dụng có thể hiểu được ý nghĩa của thông tin. Khả năng hiểu được sẽ gia tăng khi thông tin được phân loại, làm rõ bản chất và trình bày rõ ràng, ngắn gọn.

Các yếu tố cần thiết nhằm tạo nên BCTC có chất lượng

Theo McFie.J.B, 2006, thông tin BCTC là kết quả của quá trình bao gồm 3 hoạt động: lập, trình bày và công bố, trong đó:

  • Hoạt động lập: Bao gồm các thông tin tài chính được tạo lập từ các số liệu kế toán thông qua quy trình kế toán từ việc ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tuân thủ các chuẩn mực kế toán
  • Hoạt động trình bày: Bao gồm trình bày những giải thích về các hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, các biểu đồ, tỷ lệ, hình thức báo cáo.
  • Hoạt động công bố: Công bố các thông tin tài chính và phi tài chính kể cả việc công bố về những giải thích trong vấn đề lựa chọn các chính sách và các ước tính kế toán.

Qua hình 5 (ở trang sau), cho thấy thông tin BCTC bao gồm: Báo cáo thường niên, BCTC giữa niên độ và nội dung các cuộc họp, hội nghị. Chất lượng của những thông tin này không đơn thuần là đánh giá thông tin qua sản phẩm cuối cùng là các báo cáo, mà nó còn phụ thuộc vào chất lượng từng bước trong quá trình tạo ra chúng. Ngoài ra, để thông tin BCTC có chất lượng, các hoạt động trên, trước khi công bố đều phải được kiểm soát từ bên ngoài lẫn bên trong thông qua kiểm toán viên độc lập và UBKT. Mặt khác, chất lượng thông tin BCTC còn phụ thuộc vào chất lượng các hoạt động kiểm soát này

Sự kỳ vọng của người sử dụng về chất lượng

Chất lượng BCTC nhận được

BCTC có chất lượng

Hình 2.5: Những yếu tố cần thiết nhằm tạo nên thông tin BCTC chất lượng cao

Tóm lại, chất lượng thông tin BCTC là khái niệm rộng, nó bao hàm nhiều đặc tính và tùy thuộc vào nhu cầu cũng như bối cảnh của từng đối tượng sử dụng. Từ những ý kiến trên đây, theo tác giả, dù ở góc độ nào thì chất lượng thông tin BCTC hướng vè tính hữu ích của người sử dụng phụ thuộc vào 2 yếu tố: khối lượng và tính trung thực của thông tin được công bố. Khối lượng thông tin ở đây bao hàm các thông tin tài chính và phi tài chính. Chất lượng thông tin trên BCTC phụ thuộc vào quá trình tạo lạp và công bố thông tin. Qúa trình tạo lập chủ yếu là quy trình thực hiện các thông tin bắt buộc và phàn lớn là các thông tin BCTC. Qúa trình công bố thông tin, ngoài những thông tin mang tính chất bắt buộc thì nhầ quản lý cần công bố những thông tin mang tính chất tự nguyện và điều này phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí của doanh nghiệp công bố thông tin BCTC.

2.2.2. Tính thanh khoản của chứng khoán Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

Yếu tố về tính thanh khoản của chứng khoán thể hiện khả năng có thể chuyển đổi sang tiền mặt nhanh chóng với mức phí tổn thấp. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc ra quyết định đầu tư. Vì hầu hết các nhà đầu tư không phải lúc nào cũng tính trước được những nhu cầu tiêu dùng và đáp ứng đầy đủ những nhu cầu tiêu dùng đó, nên hành động bán chứng khoán xảy ra là tất yếu. (Bogdan, Siniša, Suzana Bareša, and Saša Ivanović (2012)). Đặc biệt, đối với các công ty niêm yết, chứng khoán chiếm vị trí quan trọng nhất là các cổ phiếu, đối với cổ phiếu, ngoài các nguyên nhân dẫn đến nhu cầu bán chứng khoán nêu trên, còn có một nguyên nhân cơ bản là: phần lợi nhuận chủ yếu có được trong hoạt động đầu tư cổ phiếu là lợi nhuận thu được sau khi bán cổ phiếu. Từ đó, tính thanh khoản của một tài sản tài chính được định nghĩa là sự dễ dàng trong quá trình chuyển chứng khoán đó sang tiền mặt trong tổng một thời gian ngắn và không có sự rủi ro sụt giảm giá trị tiền tệ của chứng khoán đó.

Có các điều kiện đảm bảo tính thanh khoản của mỗi chứng khoán:

  • Việc chuyển đổi phải nhanh chóng và phí tổn chuyển đổi phải thấp. Như vậy, chứng khoán nào đòi hỏi nhiều thời gian và phí tổn để chuyển đổi thành tiền tệ, chứng khoán đó mang tính thanh khoản thấp. Hay nói cách khác, tính thanh khoản là khi cần tiền có thể đổi ngay ra được, nó tùy thuộc vào 2 yếu tố:
  • Thời gian từ lúc muốn bán chứng khoán để lấy lại tiền mặt lâu hay mau.

Tùy theo chi phí giao dịch gồm tiền phí tổn trả cho các trung gian và sai biệt giá mua vào và bán ra, trong đó:

Khoản sai biệt (spread) = giá bán ra (offer price) – giá mua vào (bid price)

Khoản sai biệt này càng lớn, chi phí giao dịch càng lớn đối với người đầu tư, vì: Chi phí giao dịch (transaction cost) = hoa hồng trung gian (boker commission) + khoản sai biệt (spread).

Khoản sai biệt càng lớn thì thị trường càng mất ổn định. Khoản sai biệt tùy thuộc thị trường, nếu đặt giá bán quá cao thì không có người mua, ngược lại, giá đặt mua quá thấp thì sẽ không có người bán. Bao giờ trên bảng báo giá một chứng khoán nào đó cũng có nhiều mức giá đặt mua đặt bán được niêm yết, tương ứng với số lượng chứng khoán sẵn có tại mỗi mức giá. Chênh lệch giá đặt mua/đặt bán được tính giữa giá đặt mua cao nhất và giá đặt bán thấp nhất; trong khi hoa hồng trung gian thì có chừng mực nhất định.

Đồng vốn (giá trị tiền tệ) của chứng khoán đó phải được đảm bảo tránh sự thăng trầm giá cả trên thị trường.

Như vậy, tính thanh khoản của một chứng khoán biến đổi tùy thuộc vào sự ổn định của giá thị trường của nó. Vì vậy, có thể suy luận rằng tính thanh khoản của một trái phiếu kho bạc cao hơn một cổ phiếu công ty.

Một trong những chủ đề chính của Vốn đầu tư là tính thanh khoản của tài sản. Thanh khoản đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá tài sản, bởi vì các nhà đầu tư chú ý xem có một thị trường thích hợp để bán các tài sản của họ hay không. Khả năng thanh khoản của một chứng chỉ cổ phiếu là việc bán được nhanh chóng cổ phiếu đó. Bất kể một cổ phiếu có thể được bán nhanh hơn và với chi phí thấp, khi đó nó có tính thanh khoản cao. Chứng khoán được giao dịch hàng ngày và thường xuyên có mức thanh khoản cao hơn và ít rủi ro (Yahyazadehfar & Larimi, 2010). Mức độ thanh khoản càng thấp, càng ít sự hấp dẫn của cổ phiếu đó đến nhà đầu tư. Thanh khoản là một chức năng của giao dịch nhanh chóng một số lượng lớn các chứng khoán với chi phí thấp. Điều này có nghĩa là giá tài sản sẽ không thay đổi đáng kể từ khi đặt hàng đến lúc mua. Mức độ thanh khoản của một khoản đầu tư là thấp khi chúng ta không thể có được mức giá hợp lý của mình nhanh chóng. Mức thanh khoản cũng có tác động tới việc ra quyết định của nhà đầu tư để tạo thành một danh mục đầu tư. Nói cách khác, các nhà đầu tư có các suy luận logic sẽ khằng định với mức rủi ro cao hơn cho các cổ phiếu sẽ dẫn đến tính thanh khoản thấp hơn, và lợi nhuận kỳ vọng của họ cũng thấp hơn (Rezapur, 2010).

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện ở Iran về mối quan hệ giữa cơ cấu sở hữu và các khái niệm như lãnh đạo tổ chức, hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận và chất lượng của nó, và giá trị công ty. Tuy nhiên, một trong những vấn đề không được đưa vào các danh mục trên là khái niệm thanh khoản. Nghiên cứu của Nekounam, Jafar et al.(2012) đã phân tích ảnh hưởng của cơ cấu sở hữu (hình thức sở hữu và sự tập trung quyền sở hữu) về thanh khoản. Tầm quan trọng của tính thanh khoản là gì? Tại sao chúng ta làm điều đó? Một trong những tính năng của một thị trường hiệu quả và lý tưởng là thiếu chi phí giao dịch và thanh khoản cao. Chi phí giao dịch bao gồm một loạt các chi phí chi phí rõ ràng (như thuế và chi phí đại diện) và chi phí ẩn gây ra bởi thông tin không hiệu quả. Kế toán là một trong những nguồn thông tin đó có thể làm giảm thông tin kém hiệu quả của thị trường bằng cách cung cấp thông tin đáng tin cậy, và do đó cải thiện tính thanh khoản của cổ phiếu. Do đó, tính thanh khoản của cổ phiếu có thể là một tiêu chí về hiệu quả của thị trường và có thể được sử dụng để nghiên cứu các yếu tố hiệu quả các nguồn thông tin (Rezapur, 2010). Thay vì các khía cạnh lý thuyết, và liên quan đến thực tế sẵn có như hiện tượng xếp hàng mua và bán và các vấn đề khác, thông báo cho thanh khoản và nỗ lực để giải quyết vấn đề này cần thiết theo thực nghiệm. Tăng tính thanh khoản có thể phân bổ rủi ro tài chính bởi sụt giảm của quỹ quay vòng và tạo thêm động lực cho các nhà đầu tư. Nghiên cứu cho thấy rằng chi phí kinh doanh là quan trọng về kinh tế tại thị trường Mỹ.

Theo Bogdan, Siniša, Suzana Bareša, and Saša Ivanović. (2012), Thước đo đơn giản nhất để đo lường tính thanh khoản của chứng khoán trong lưu thông là chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Tại thời điểm thị trường vốn phát triển tốt, các nhà sản xuất trên thị trường như các công ty hoặc cá nhân đang trích dẫn giá mua và giá bán để cố gắng thu lợi nhuận nhờ vào mức chênh lệch giữa hai mức giá mua và bán. Nếu các nhà hoạch định thị trường đặt giá quá cao, sẽ có sự tích lũy cổ phiếu, còn khi họ đặt giá quá thấp sẽ có sự thiếu hụt của các cổ phiếu. Mức chênh lệch phải đủ lớn để trang trải chi phí và cung cấp một lợi nhuận hợp lý để tạo lập thị trường. Mục đích của chuyên gia là để tăng tính thanh khoản của cổ phiếu riêng lẻ mà nhà đầu tư có được sự tự tin hơn khi quyết định đầu tư chứng khoán. Mức chênh lệch như một tỷ lệ phần trăm tỷ lệ tương quan nghịch với mức độ giá cả, khối lượng và số lượng của các nhà hoạch định thị trường và tương quan thuận với biến động (Damodaran & Aswath, 2006). Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

Bogdan, Siniša, Suzana Bareša, and Saša Ivanović. (2012) còn đề cập đến Thước đo tính thanh khoản là: Khối lượng giao dịch.

Khối lượng giao dịch trong quá khứ có thể cung cấp thông tin quan trọng về chứng khoán. Thước đo khối lượng giao dịch đang cố gắng để nắm bắt số lượng cổ phần mỗi thời gian để đo chiều sâu của thanh khoản cũng là một chức năng ngày càng tăng của thanh khoản. Những cổ phiếu có khối lượng cao hơn là có tính thanh khoản lớn hơn, chúng cũng có mức chênh lệch thấp. Trong nghiên cứu này, tính toán khối lượng cho mỗi 196 cổ phiếu cho mỗi ngày trong năm 2010, khối lượng giao dịch là không có liên quan với quy mô doanh nghiệp trên mẫu của nghiên cứu với hệ số tương quan 0,44, đồng thời kết luận này cũng đã được khẳng định trước đây của Lee và Swaminathan (2000). Nghiên cứu cũng tìm thấy rằng các thước đo như lợi nhuận trong quá khứ và khối lượng giao dịch có thể tiên đoán mạnh mẽ cho lợi nhuận trong tương lai. Tổng thu nhập (VK) được tính cho mỗi ngày đối với mỗi cổ phiếu trong năm 2010 bởi phương trình cho:

VK được tính bằng giá Pn trong giao dịch tại thời gian t nhân với số lượng cổ phiếu được giao dịch trong giao dịch Vn n, Nt là số lượng giao dịch trong thời gian t.

Ngoài ra, để đo lường tính thanh khoản của chưng khoán, các nghiên cứu thông qua việc xem xét rủi ro thanh khoản. Như nghiên cứu của Reza Jamei, Babak Jamshidi Navid, Hosna Farshadfar (2012) với nghiên cứu “Tác động của chất lượng thông tin kế toán đến RRTK của các công ty niêm yết trên TTCK Tehran”. Dữ liệu nghiên cứu bao gồm 107 công ty được niêm yết tại TTCK Tehran.

Các biến được đưa vào mô hình như sau:

  • Biến độc lập: là các biến đại diện cho chất lượng thông tin kế toán: Lợi nhuận bền vững, độ tin cậy của dự đoán Lợi nhuận, độ tin cậy của thông tin báo cáo, mô hình định giá lợi nhuận.
  • Biến phụ thuộc: là đại diện cho RRTK, được đo lường bằng sự tương quan giữa các yếu tố thanh khoản và thu nhập trên chênh lệch giá.

Reza Jamei, Babak Jamshidi Navid, Hosna Farshadfar (2012) đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực nghiệm để nghiên cứu “Tác động của chất lượng TTKT đến RRTK” thông qua mô hình hồi quy đa biến sau:

RL = β0 + β1 Pre + β2 Ri + β3 Earn + β4 Prc + ε0

Trong đó:

RL: RRTK

RL = COV (các yếu tố của thanh khoản và thu nhập chênh lệch giá)

RL = E (Rs, LIQ) – {E (Rs)} {E (LIQ)}

Rs = log[(giá trị cổ phiếu trong ngày cuối tháng) – (giá trị cổ phiếu trong ngày đầu tháng)]

LIQ: log (khối lượng giao dịch cuối tháng – khối lượng giao dịch đầu tháng)

β4, β3, β2, β1, β0: hệ số của mô hình

Kết quả nghiên cứu cho thấy:

  • Các yếu tố tác động đến RRTK là: Lợi nhuận bền vững, độ tin cậy của dự đoán lợi nhuận, độ tin cậy của thông tin báo cáo
  • Các yếu tố không tác động đến RRTK là: Mô hình định giá lợi nhuận

Kết quả này cho thấy chất lượng TTKT có tác động đến RRTK của các cổ phiếu tại SGDCK Tehran và việc gia tăng chất lượng thông tin có thể là một lý do trong việc giảm RRTK của cổ phiếu. Vì vậy, xem xét chất lượng thông tin và nâng cao chất lượng TTKT có thể giúp các nhà đầu tư, các nhà phân tích tài chính, người môi giới chứng khoán và người sử dụng khác có quyết định đầu tư, giao dịch chứng khoán và các khu vực khác.

2.3. Mối quan hệ giữa chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản chứng khoán Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

Theo nghiên cứu của Ahmad Mohammady (2011), các BCTC là những kết quả đầu ra quan trọng của một hệ thống kế toán. Mục đích của các BCTC là cung cấp thông tin có thể hữu ích cho quyết định kinh doanh (FASB 1980). Khoản mục kế toán quan trọng nhất được chuẩn bị và trình bày trong BCTC là thu nhập. Đây được coi là một yếu tố quan trọng trong việc xác định chính sách cổ tức, một hướng dẫn cho đầu tư và ra quyết định, một biện pháp cốt lõi để đo lường hiệu quả hoạt động của một công ty, một tiêu chí quan trọng trong việc định giá cổ phiếu và cuối cùng là công cụ sử dụng để dự đoán. Kết quả nghiên cứu của Ahmad Mohammady (2011) cho ra kết luận rằng chất lượng thu nhập được báo cáo trên bảng báo cáo thu nhập nắm bắt được các đặc tính chất lượng của thông tin kế toán là phù hợp và đáng tin cậy. Các thuộc tính của chất lượng được mô tả như là “cơ bản phù hợp” hoặc “cơ bản đáng tin cậy” để nắm bắt được chất lượng thông tin của thu nhập. Hơn nữa, các đặc tính của chất lượng thu nhập liên quan đến việc dự đoán lợi nhuận của cổ phiếu. Những phát hiện này cho thấy các thuộc tính của chất lượng thu nhập làm cho thông tin kế toán hữu ích cho việc ra quyết định, phù hợp với khẳng định của FASB.

Như vậy, có thể nói, chất lượng TTKT thể hiện qua chất lượng thu nhập hay nói cách khác, muốn đo lường chất lượng thông tin kế toán, ta phải dựa trên việc đo lường chất lượng thu nhập. Trong nghiên cứu của Dechow, Patricia, Weili Ge, and Catherine Schrand (2010), các nhà nghiên cứu đã xác định chất lượng thu nhập như sau : “Chất lượng thu nhập cao sẽ cung cấp thêm thông tin về các tính năng hoạt động tài chính của một công ty, mà thông tin này có liên quan đến một quyết định cụ thể thực hiện bởi người ra quyết định”. Các nhà nghiên cứu lưu ý ba đặc điểm về định nghĩa chất lượng thu nhập của họ. Đầu tiên, chất lượng thu nhập là điều kiện để ra quyết định liên quan đến thông tin. Như vậy, thuật ngữ “chất lượng thu nhập” nếu đứng một mình là vô nghĩa, chất lượng thu nhập được xác định chỉ trong trường hợp của mô hình ra quyết định cụ thể. Thứ hai, chất lượng của một số báo cáo thu nhập được xác định là phụ thuộc vào việc có sẵn của thông tin về trình bày hoạt động tài chính của công ty hay không vì có nhiều khía cạnh thông tin không quan sát được. Thứ ba, chất lượng thu nhập xác định sự liên quan của hoạt động tài chính và khả năng của hệ thống kế toán với nhau để đo lường việc trình bày, hiệu suất hoạt động. Định nghĩa này của chất lượng thu nhập cho thấy chất lượng có thể được đánh giá đối với bất kỳ quyết định nào phụ thuộc vào một đại điện của thông tin được trình bày. Nó không hạn chế chất lượng là chỉ để quyết định hữu ích trong việc đưa ra quyết định định giá cổ phiếu. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra tổ chức chất lượng thu nhập có ba loại chính: tính chất của thu nhập, đáp ứng cho nhu cầu về đầu tư và bộ chỉ báo ngoài các sai sót trọng yếu của thu nhập. Loại một, tính chất của thu nhập, bao gồm lợi nhuận bền vững, chi phí trích trước, che giấu thu nhập, sự cân đối việc chấp nhận các khoản lỗ kịp thời và đúng lúc, thất bại theo mục tiêu, trong đó khoảng cách của thu nhập so với mục tiêu được xem như là một dấu hiệu của quản lý thu nhập. Loại hai, đáp ứng nhu cầu đầu tư thu nhập, bao gồm các bài nghiên cứu có sử dụng hệ số phản ứng thu nhập (ERC) hoặc R2 từ thu nhập. Các mô hình định giá lợi nhuận làm đại diện cho chất lượng thu nhập và điều này có mối liên hệ với ERC để hình thành nên một cấu trúc khác như chất lượng kiểm toán viên. Loại ba, bộ chỉ báo ngoài các sai sót trọng yếu của thu nhập, bao gồm việc thực thi của Kế toán và Kiểm toán, như trình bày lại hoặc thiếu quy trình kiểm soát nội bộ, tất cả điều này được xem như các sai sót hoặc chỉ ra việc quản trị thu nhập.

Như vậy, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các biện pháp khác nhau để đo lường các dấu hiệu của thu nhập. Đối với mỗi biện pháp, các tác giả thảo luận về nguyên nhân của sự thay đổi trong các biện pháp cũng như kết quả. Các nhà nghiên cứu đưa ra kết luận rằng không thể có được kết luận duy nhất chất lượng thu nhập là gì vì “chất lượng” là phụ thuộc vào bối cảnh quyết định. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng “chất lượng” của thu nhập là một chức năng hoạt động cơ bản của công ty. Sự đóng góp của hoạt động cơ bản của một công ty về chất lượng thu nhập của nó được cho là một lĩnh vực cho các nghiên cứu trong tương lai.

Jeffrey Ng (2011) xem xét các mối quan hệ giữa chất lượng thông tin và tính thanh khoản chứng khoán. Tác giả nhận thấy rằng các nghiên cứu trước đây đã chứng minh được chất lượng thông tin cao hơn, về tính minh bạch, sẽ làm giảm RRTK, tăng tính thanh khoản chứng khoán. Trong bài viết này, tác giả đưa ra giả thuyết rằng chất lượng thông tin cao hơn sẽ làm cho RRTK thấp hơn, từ đó làm tăng tính thanh khoản chứng khoán. Đối với tính thanh khoản chứng khoán của từng doanh nghiệp, điều kiện kinh tế vĩ mô có liên quan là tính thanh khoản của thị trường. Ở cấp độ thị trường tổng hợp, thanh khoản thị trường phản ánh khả năng giao dịch với khối lượng lớn một cách nhanh chóng, chi phí thấp, và không dịch chuyển giá. Sự suy giảm trong thanh khoản thị trường thường phản ánh tình trạng kinh tế vĩ mô, trong đó các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán sẽ có khuynh hướng rời khỏi TTCK trong bối cảnh thị trường biến động cao và khi có lo ngại về rủi ro; điều này được biết đến như là một giải pháp an toàn cho nhà đầu tư. Khi thanh khoản thị trường sụt giảm, các loại cổ phiếu khác nhau sẽ chịu tác động ở mức độ khác nhau do dòng tiền của các nhà đầu tư và nhà kinh doanh chứng khoán. Đặc biệt, dòng tiền có khả năng trở nên quan trọng hơn đối với các cổ phiếu có chất lượng thông tin thấp hơn do khi chất lượng thấp, nhu cầu đầu tư vào các cổ phiếu sẽ suy giảm và thường sẽ tạo ra sự lựa chọn đối nghịch. Do đó, các cổ phiếu sẽ tồi tệ hơn khi thị trường thanh khoản sụt giảm. Ngược lại, khi thanh khoản thị trường tăng, có một dòng tiền từ các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán đổ mạnh vào thị trường, làm tăng nhu cầu và tính thanh khoản của cổ phiếu. Lưu ý rằng các lập luận trước đó có nghĩa là nhu cầu đối với cổ phiếu phải có chất lượng thông tin cao hơn, nhu cầu này tùy thuộc vào sự ít biến động trong sự thay đổi thanh khoản thị trường.

Như vậy, thu nhập của cổ phiếu có chất lượng thông tin thấp hơn (ví dụ, rủi ro thông tin cao hơn) dự kiến sẽ nhạy cảm hơn với những thay đổi trong tính thanh khoản của thị trường. Đây chính là chất lượng thông tin góp phần vào rủi ro thanh khoản chứng khoán.

2.4. Mô hình lý thuyết nghiên cứu Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

Từ cơ sở lý thuyết đã trình bày trong các mục 2.1. và 2.2, để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, luận văn đề xuất mô hình nghiên cứu như hình 6. Mô hình nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các biến độc lập bao gồm: Sự thích hợp, trình bày trung thực, có thể so sánh, có thể kiểm chứng, kịp thời và có thể hiểu được tác động lên biến phụ thuộc là tính thanh khoản chứng khoán, được xem xét dựa trên hai yếu tố giá và khối lượng giao dịch.

Các yếu tố chất lượng thông tin BCTC:

  • Sự thích hợp
  • Trình bày trung thực
  • Có thể so sánh
  • Có thể kiểm chứng
  • Kịp thời
  • Có thể hiểu được

Các yếu tố của tính thanh khoản chứng khoán:

  • Gíá
  • Khối lượng giao dịch

Hình 2.6: Mô hình nghiên cứu lý thuyết.

Kết luận chương 2:

Nhằm trả lời các câu hỏi đã đưa ra trong chương 1, ở chương 2 này, luận văn đã hệ thống các lý thuyết về chất lượng thông tin BCTC và tính thanh khoản chứng khoán cũng như mối liên hệ giữa hai nội dung này, cụ thể như sau:

  • Trình bày các lý thuyết nền tảng có liên quan đến tính thanh khoản chứng khoán và chất lượng thông tin BCTC như: lý thuyết người đại diện, lý thuyết thông tin bất cân xứng, lý thuyết tín hiệu.
  • Chất lượng thông tin BCTC là yếu tố rất quan trọng nhằm giúp cho quá trình ra quyết định của người sử dụng thông tin BCTC. Để đánh giá chất lượng thông tin BCTC, luận văn đã sử dụng 6 yếu tố chất lượng cơ bản của FASB và IASB, bao gồm 2 đặc tính cơ bản: thích hợp và trình bày trung thực và bốn đặc tính bổ sung: có thể hiểu được, có thể so sánh, có thể kiểm chứng và kịp thời. Thông tin BCTC được hình thành từ ba hoạt động: lập, trình bày và công bố, chất lượng thông tin BCTC phụ thuộc vào chất lượng của các hoạt động này. Khi đáp ứng được chất lượng thông tin BCTC tốt, có thể giúp đảm bảo tính thanh khoản chứng khoán, cải thiện các yếu tố của tính thanh khoản.
  • Tính thanh khoản chứng khoán bao gồm các yếu tố: Gíá niêm yết, Khối lượng đang lưu hành, và Khối lượng cổ phiếu niêm yết.
  • Từ những lý thuyết nêu trên, luận văn đã xây dựng mô hình lý thuyết nghiên cứu, đây là tiền đề để trả lời câu hỏi nghiên cứu trong những chương tiếp theo. Luận văn: Tác động của thông tin ẢH đến chứng khoán VN

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY 

===>>> Luận văn: Thực trạng thị trường chứng khoán tại Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x