Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30 hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Tác động của quản trị công ty đến quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do thực hiện đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, Việt Nam từng bước tham gia vào các tổ chức kinh tế – chính trị trên thế giới, Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế – chính trị quốc tế và khu vực như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),… Ở cấp liên khu vực, Việt Nam là thành viên tích cực của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác ASEM, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)… và sự kiện vô cùng quan trọng là chúng ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tuy nhiên khi Việt Nam gia nhập WTO và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhu cầu về quản trị công ty (QTCT) sẽ là vấn đề bức bách. Chính các trường đại học, trung tâm nghiên cứu, các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức xã hội khác sẽ hợp tác cùng chính phủ để tìm ra các hệ thống QTCT phù hợp cho quốc gia. Các tổ chức nghiên cứu và hiệp hội sẽ là những trung tâm hội tụ tri thức tiến hành các nghiên cứu nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và hoàn thiện các cơ chế luật của đất nước, tạo niềm tin và đem lại giá trị cho doanh nghiệp và cho toàn xã hội. Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30
Hội nhập kinh tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho đất nước phát triển, một trong những điều kiện để gia nhập kinh tế thế giới thì việc phát triển thị trường chứng khoán là rất quan trọng, do đó các công ty hoạt động kinh doanh đều có mục tiêu niêm yết trên thị trường chứng khoán. Để được niêm yết trên sàn giao dịch đòi hỏi báo cáo tài chính phải được trình bày theo đúng chuẩn mực, đúng các quy định hiện hành và phải cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư ra quyết định. Báo chí ở Việt Nam gần đây đăng nhiều vấn đề của thị trường chứng khoán với những tiêu đề lớn như giao dịch nội gián, công ty niêm yết chưa hiểu rõ về công bố thông tin, phương án phát hành cổ phần của Vipco, 130 tỷ đồng cổ phiếu ưu đãi Savico (Hoàng Ly, 2007), những thông tin này khiến nhiều nhà đầu tư suy nghĩ và đã gây ra tranh cãi, đó chính là các chủ đề của QTCT. Tuy nhiên nhà đầu tư chỉ quan tâm đến chỉ tiêu lợi nhuận và kết quả hoạt động của công ty ra sao, chỉ tiêu lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất trong báo cáo tài chính. Để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không thì thành phần của quản trị công ty đóng vai trò rất lớn quyết định sự tồn tại của công ty. Công ty có bộ phận quản trị tốt không chỉ mang lại lợi nhuận mà còn nâng cao hiệu suất (Syed Fuziet al.,2015), ngược lại quản trị công ty không tốt, công ty có hành vi điều chỉnh lợi nhuận sẽ dẫn đến hiệu quả xấu, thậm chí phá sản công ty (Võ Văn Nhị và Hoàng Cẩm Trang, 2013).
Hiện nay tại Việt Nam các vấn đề liên quan đến QTCT cũng khởi nguồn từ quá trình cổ phần hoá, bằng chứng là Chính phủ đã ban hành Nghị định 59/2011/NĐ-CP về việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần (Chính phủ, 2011) và Nghị định 116/2015/NĐ-CP về việc sửa đổi Nghị định 59/2011/NĐ-CP (Chính phủ, 2015). Việc tạo ra một cấu trúc quản trị tốt sẽ là cơ sở để quá trình cổ phần hoá thành công dù là quan điểm Nhà nước hay tư nhân là nhà đầu tư tiềm năng. Kinh nghiệm trong quá trình cổ phần hoá cho thấy những quy định không rõ ràng và thiếu minh bạch đã dẫn đến những hành vi kinh doanh thiếu nghiêm túc trong thời gian vừa qua. Không những thế, ngay cả tại các công ty toàn cầu hiện nay, chủ đề QTCT được đặt ra như là cơ chế đảm bảo cho sự phát triển bền vững của DN. Lúc này, xây dựng hệ thống QTCT tốt là một trong những nhu cầu quan trọng của cả khối nhà nước cũng như tư nhân.
Như vậy, vấn đề đặt ra là các công ty niêm yết có những hành động quản trị lợi nhuận để đạt được mục tiêu đã đề ra trước đó. Theo thống kê của Vietstock tính đến ngày 09/05/2016, toàn thị trường có 628 doanh nghiệp công bố BCTC của quý 1/2016, trong đó có 60 doanh nghiệp đảo ngược vị thế, 28 doanh nghiệp chuyển lỗ sang lãi và 32 doanh nghiệp chuyển lãi sang lỗ, lúc này báo cáo tài chính không phản ánh tình hình thực tế của doanh nghiệp (Trần Quyền, 2016)
Hành động QTLN gây ảnh hưởng rất lớn đến nhà đầu tư và lợi ích cổ đông và là một thực tế rất được quan tâm. Họ gặp nhiều khó khăn trong cách tiếp cận và xử lý khi chất lượng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam quá lớn và không phải tất cả thông tin đều đáng tin cậy.
Hơn nữa, thị trường chứng khoán Việt Nam, VN30 là mã chứng khoán đầu tiên dẫn đầu thị trường về giá trị vốn hóa cũng như tính thanh khoản cao, như vậy, bên cạnh việc cung cấp cho nhà đầu tư thêm một chỉ số để tham chiếu thì chỉ số VN30 giúp tạo thêm hàng hóa mới trên TTCK, gián tiếp cung cấp cho các nhà đầu tư thêm một sự lựa chọn đầu tư.
Đối với những doanh nghiệp niêm yết, chứng kiến mã chứng khoán của mình được vinh danh trên đại sảnh HOSE không hẳn chỉ là niềm tự hào mà còn là một động lực để tiếp tục trên con đường phát triển của chính doanh nghiệp. Để được lâu dài nằm trong số Top 30 doanh nghiệp hàng đầu trên TTCK, không có cách nào khác doanh nghiệp phải cố gắng hết sức mình trên mọi phương diện, từ phát triển sản xuất kinh doanh, quản trị công ty, hay thực hiện đúng nghĩa vụ công bố thông tin… Nhưng cũng chính bởi những “rào cản” khó khăn mới được sàng lọc vào rổ chỉ số VN 30, nên vô hình trung, chỉ số VN 30 là cột mốc để cho toàn bộ các doanh nghiệp trên TTCK phấn đấu không ngừng nghỉ.
Sự ra đời của VN30 sẽ đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu thông tin chi tiết của thị trường đồng thời với một chỉ số có khả năng mô phỏng và đầu tư được, các nhà đầu tư sẽ có thêm nhiều cơ hội đầu tư và từ đó tự tin hơn khi xây dựng danh mục đầu tư cho riêng mình.
Xuất phát từ thực tiễn và nhận định được vấn đề quan trọng giữa quản trị công ty và quản trị lợi nhuận tác giả chọn đề tài “Tác động của quản trị công ty đến quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM “ làm đề tài nghiên cứu.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kế Toán
2. Mục tiêu Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố của QTCT làm tác động đến quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM nhằm gợi ý chính sách giúp các đối tượng sử dụng thông tin nhận định đúng trong việc QTLN tại các công ty này.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Đề tài xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố của QTCT đến quản trị lợi nhuận.
Đề tài gợi ý chính sách liên quan đến QTCT tại các công ty niêm yết VN30 cho các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và các nhà đầu tư tiềm năng.
3. Câu hỏi nghiên cứu Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30
Để đạt được mục tiêu như trên đề tài đề ra 2 câu hỏi nghiên cứu như sau :
Các nhân tố của QTCT và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến QTLN của các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM như thế nào?
Chính sách nào phù hợp để kiểm soát QTLN tại các công ty niêm yết VN30?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Các nhân tố của QTCT tác động đến quản trị lợi nhuận ở các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung : Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý thuyết và xác định các nhân tố của QTCT có tác động đến QTLN tại các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.
Về không gian và thời gian : Gồm 30 công ty niêm yết VN30 trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM trong giai đoạn 5 năm từ năm 2012- 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp định lượng thông qua dữ liệu bảng theo chuỗi thời gian (OLS) cụ thể như kiểm định giả thuyết nghiên cứu, ma trận hệ số tương quan, mức độ phù hợp của mô hình và phân tích hồi quy đa biến nhằm xác định các nhân tố của QTCT tác động đến QTLN tại các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.
6. Đóng góp của đề tài Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30
Đề tài góp phần xác định các nhân tố của QTCT tác động đến QTLN tại các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.
Thông qua kết quả nghiên cứu để đưa ra các gợi ý chính sách nhằm nâng cao mức độ QTLN tại các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, bảng biểu và phụ lục, luận văn gồm có 5 chương
Chương 1 : Tổng quan các nghiên cứu
Chương 2 : Cơ sở lý thuyết
Chương 3 : Thiết kế nghiên cứu
Chương 4 : Kết quả nghiên cứu
Chương 5 : Kết luận và gợi ý chính sách
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU
1.1 Các nghiên cứu nước ngoài Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30
Nghiên cứu của Park, Y.W and Shin,H. H. (2004) nghiên cứu về thành phần hội đồng quản trị và quản trị lợi nhuận, tác giả sử dụng 539 mẫu quan sát từ các công ty ở Canada giai đoạn 1991-1997, sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Dechow & các cộng sự (1995)- Modified. Nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của thành viên Hội đồng quản trị đến từ các trung gian tài chính và sự hiện diện của cổ đông là tổ chức thì làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận, tăng tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị bên ngoài làm tăng hành vi điều chỉnh lợi nhuận, kết quả trái ngược với quan điểm cho rằng tăng tỷ lệ Hội đồng quản trị bên ngoài sẽ giúp Hội đồng quản trị tăng tính độc lập, giải quyết xung đột lợi ích giữa cổ đông nhỏ và cổ đông lớn. Tác giả cho rằng các thành viên hội đồng quản trị bên ngoài ở các công ty Canada thiếu sự tinh tế trong lĩnh vực tài chính hay thiếu sự truy cập thông tin để phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, thêm vào đó có thể các thành viên bên ngoài thiếu quan tâm đến hoạt động công ty vì họ thiếu quyền sở hữu, hoặc do thiếu sự độc lập thực sự và thiếu quyền lực để thực hiện việc giám sát.
Ali Shah, S. Z., Zafar, N and Durrani, T. N. (2009) nghiên cứu mối quan hệ giữa hội đồng thành phần và quản trị lợi nhuận trong các công ty niêm yết tại Pakistan trong giai đoạn 2003 đến 2007 nghiên cứu 120 công ty niêm yết từ nhiều lĩnh vực khác nhau, nguồn thu thập số liệu từ bảng phân tích cân đối kế toán và báo cáo thường niên của các công ty. Quản trị lợi nhuận trong nghiên cứu này được sử dụng phương pháp trích trước dựa vào bảng cân đối kế toán và báo cáo lưu chuyển tiền. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy và thống kê mô tả để phân tích các yếu tố gồm hội đồng quản trị độc lập, sở hữu tổ chức, quy mô công ty và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tác giả kết luận rằng trong các yếu tố xem xét đều có ảnh hưởng tiêu cực, mặc dù hội đồng quản trị độc lập có ảnh hưởng tích cực với quản trị lợi nhuận tuy nhiên mối quan hệ này là không đáng kể về mặt thống kê.
Nugroho, B.Y and Eko, U. (2011) nghiên cứu về ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị và quản trị lợi nhuận của 212 công ty niêm yết về giao dịch chứng khoán tại Indonesia trong giai đoạn 2004 – 2008. Nghiên cứu phân tích bao gồm 8 nhân tố: hội đồng quản trị độc lập, tính kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và CEO, quy mô của hội đồng quản trị, quyền sở hữu quản lý, hội đồng thành phần, nhiệm kỳ của hội đồng quản trị, hội đồng kiêm nhiệm và uỷ ban kiểm toán. Qua phân tích định lượng và dữ liệu thứ cấp thu được từ các nguồn khác nhau, kết quả cho thấy : 1 trong 8 biến có ảnh hưởng cùng chiều đến quản trị lợi nhuận là biến tính kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và CEO, 7 biến còn lại tác động ngược chiều đến quản trị lợi nhuận.
Ahmed. S. (2013) nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ giữa đặc điểm Ban giám đốc và quản trị lợi nhuận từ năm 2011 đến năm 2015 trên 71 công ty niêm yết của Malaysia. Thông tin liên quan đến đặc điểm của Ban giám đốc được chiết xuất từ báo cáo hàng năm của hội đồng quản trị trình bày tại đại hội các cổ đông, thông tin còn lại được lấy trực tiếp từ các công ty được nghiên cứu. Quản trị lợi nhuận được đo bằng phương pháp trích trước và để ước lượng các khoản trích trước. Trong nghiên cứu này nhiều hồi quy tuyến tính đã được sử dụng và sử dụng phần mềm SPSS đề phân tích. Tác giả đưa ra 4 giả thuyết nghiên cứu bao gồm : các cuộc họp của hội đồng quản trị, tỷ lệ phần trăm của giám đốc thuê bên ngoài, trình độ về chuyên môn tài chính của nhà quản trị và sự hiện diện hay vắng mặt của giám đốc quản lý và giám đốc điều hành. Kết quả nghiên cứu kết luận rằng số lượng cuộc họp của hội đồng quản trị không có quan hệ với tùy ý trích trước, giám đốc thuê bên ngoài, trình độ về chuyên môn tài chính của ban quản trị có ảnh hưởng tích cực đến biến tùy ý trích trước, biến còn lại là sự hiện diện của giám đốc quản lý và giám đốc điều hành trong nghiên cứu này bị bác bỏ.
Nghiên cứu của Sukeecheeo, S., Yarram,S.R and Farooque,O. A. (2013) nghiên cứu về quản trị lợi nhuận và đặc tính hội đồng quản trị tại Thái Lan, tác giả chọn mẫu gồm 550 công ty niêm yết ở Thái Lan giai đoạn 2006-2010, sử dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Dechow & các cộng sự (1995) – Modified Jones. Mô hình nghiên cứu gồm 5 biến như sau : tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị độc lập, tính kiêm nhiệm hội đồng quản trị và tổng giám đốc, tần suất cuộc họp hội đồng quản trị và biến quy mô hội đồng quản trị . Nghiên cứu đã kết luận rằng tăng tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị tham gia hội đồng quản trị các công ty khác thì làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận và các công ty có lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh càng tăng thì càng làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận, thành viên hội đồng quản trị độc lập không điều hành thì làm tăng hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Park & Shin (2004), tác giả giải thích cho kết quả này là do thành viên hội đồng quản trị độc lập tại các công ty niêm yết ở Thái Lan thiếu sự độc lập và thiếu quyền lực để điều tra hành vi sai trái HĐQT, nghiên cứu không tìm ra mối quan hệ giữa tính kiêm nhiệm HĐQT và tổng giám đốc, biến quy mô hội đồng quản trị và tần số cuốc họp của HĐQT với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30
C.A. Kankanamage (2015) nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc tính hội đồng và quản trị lợi nhuận, bằng chứng từ các công ty niêm yết tại Srilankan trong giai đoạn 2012 đến 2015. Tác giả chọn mẫu 160 công ty niêm yết, mô hình gồm 4 biến độc lập gồm : quy mô hội đồng quản trị, thành phần hội đồng quản trị, cuộc họp của hội đồng quản trị, chuyên môn tài chính của ban quản trị và biến phụ thuộc là QTLN. Sau khi phân tích định lượng nghiên cứu kết luận rằng biến quy mô hội đồng quản trị có mối quan hệ tích cực đáng kể với quản trị lợi nhuận trong khi các biến chuyên môn tài chính của hội đồng quản trị, cuộc họp của hội đồng quản trị và thành phần hồi đồng quản trị có ảnh hưởng tiêu cực đến quản trị lợi nhuận.
Okougbo, P. O., Okike, E. (2015) nghiên cứu về quản trị công ty và quản trị lợi nhuận: bằng chứng thực nghiệm từ Nigeria. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 62 công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Nigeria trong năm 2008, tác giả sử dụng 3 biến độc lập bao gồm tính kiêm nhiệm của giám đốc điều hành và chủ tịch HĐQT, quy mô HĐQT, ủy ban kiểm toán độc lập, ngoài ra đề tài còn sử dụng 5 biến kiểm soát bao gồm: quy mô doanh nghiệp, độ tuổi công ty, loại kiểm toán viên, đòn bẩy tài chính và ROA. Bằng phương pháp thống kê mô tả nghiên cứu chỉ ra rằng 1 trong 3 biến độc lập có mối quan hệ cùng chiều với quản trị lợi nhuận là kích thước HĐQT, 2 biến độc lập còn lại không có ý nghĩa thống kê, 1 trong 6 biến kiểm soát là ROA có mối quan hệ tích cực với quản trị lợi nhuận, các biến kiểm soát còn lại không có ý nghĩa thống kê.
Bassiouny, S. W., Soliman, M. MandRagab, A. (2016) nghiên cứu ảnh hưởng của đặc điểm công ty về quản trị lợi nhuận ở các công ty niêm yết tại Ai Cập giai đoạn 2007 đến 2011, tác giả chọn 60 công ty lớn nhất Ai Cập ngoại trừ các ngân hàng và công ty bảo hiểm với tổng cộng 300 quan sát, các xét nghiệm cho nghiên cứu này được thực nghiệm bằng cách sử dụng hiệu ứng ngẫu nhiên, mô hình hồi quy vuông sử sụng chương trình stada. Tác giả đo lường biến phụ thuộc dựa vào phương pháp tùy ý trích trước cho quản trị lợi nhuận, nghiên cứu sử dụng phương pháp tiếp cận báo cáo lưu chuyển tiền để tính tổng số trích trước. Các đặc điểm được kiểm tra biến độc lập là: quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính, tuổi công ty và chất lượng kiểm toán của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng đòn bẩy tài chính của công ty có mối quan hệ tích cực đáng kể với quản trị lợi nhuận, các biến còn lại như quy mô doanh nghiệp, tuổi công ty và chất lượng kiểm toán không bị bác bỏ. Nghiên cứu còn mở rộng thêm một biến về chất lượng của báo cáo tài chính và tầm quan trọng của nó.
Nghiên cứu của Abbadi, S. S., Hajazi, Q. F and Rahahled, A.S. (2016) về chất lượng quản trị công ty và quản lý thu nhập bằng chứng từ Jordan, kiểm tra các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận trong giai đoạn 2009 đến 2013 với tổng số 121 công ty bao gồm tất cả các ngành công ghiệp và dịch vụ tại Amman, tổng số 558 quan sát. Chất lượng quản trị công ty (biến điều khiển) bao gồm ban giám đốc, các cuộc họp của Ban giám đốc, kiểm toán và đề cử và tiền bồi thường. Bằng phương pháp thống kê mô tả nghiên cứu đã chỉ ra quản trị công ty có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến quản trị lợi nhuận, các biến như quy mô công ty, tỷ lệ tăng doanh thu, lợi nhuận trên tài sản (ROA) có ảnh hưởng tiêu cực đến quản trị lợi nhuận. Riêng biến đòn bẩy tài chính có ý nghĩa tích cực.
Daghsni, O., Zouhayer.M and Bel Hadj Mbarek,K. (2016) thực hiện nghiên cứu thực nghiệm ảnh hưởng của đặc điểm Ban Quản trị về quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Pháp bao gồm 70 công ty với 350 quan sát trong nhiều lĩnh vực khác nhau, giai đoạn 2008 – 2012. Tác giả kiểm tra mối quan hệ giữa 4 biến độc lập bao gồm : độ lớn (kích thước của hội đồng quản trị), tính độc lập của Ban quản trị, tính kiêm nhiệm của chủ tịch hội đồng quản trị và CEO, hoạt động của hội đồng quản trị. Ngoài ra, tác giả còn đưa vào nghiên cứu biến kiểm soát bao gồm kích thước công ty, đoàn bẩy tài chính, khu vực công nghệ cao và ROI (hiệu suất công ty). Bằng phương pháp định lượng, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng 2 trong 4 biến có ảnh hưởng tích cực đến quản trị lợi nhuận như : tính kiêm nhiệm của chủ tịch hội đồng quản trị và CEO, các hoạt động của hội đồng quản trị, 2 biến còn lại của nghiên cứu có quan hệ tiêu cực với biến quản trị lợi nhuận. Ngoài ra các biến điều khiển trong nghiên cứu không có tác động đến quản trị lợi nhuận.
1.2 Các nghiên cứu trong nước Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30
Phạm Thị Bích Vân (2012) nghiên cứu mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết ở Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội, nghiên cứu này sử dụng mô hình Modified Jones để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của 60 doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội trong niên độ kế toán 2010, kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình Modified Jones không hiệu quả trong việc nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán HNX vì hệ số đo lường mức độ phù hợp của mô hình đồng thời các hệ số hồi quy gắn với các biến không có ý nghĩa. Thông qua phân tích môi trường vĩ mô của thị trường chứng khoán Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung, tác giả đã điều chỉnh lại một số biến để phù hợp với bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam như: biến tài sản cố định được tác giả thay thế bằng biến chi phí khấu hao và dự phòng, biến doanh thu thuần tác giả thay thế bằng biến phải thu khách hàng, biến khoản phải trả người bán thay thế bằng biến giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Sau khi thay thế các biến vào mô hình thì kết quả thu được là mô hình phù hợp với các doanh nghiệp có hành vi điều chỉnh lợi nhuận niêm yết trên sàn giao dịch Hà Nội, đồng thời hệ số đo lường sự phù hợp của mô hình tăng lên các biến trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê.
Nguyễn Thị Minh Trang (2012) vận dụng mô hình của Deangelo và Friedlan để nhận diện hành động điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị, tác giả cho rằng có nhiều động cơ thôi thúc các nhà quản trị điều chỉnh lợi nhuận theo ý muốn chủ quan mà các đối tượng sử dụng thông tin bằng mắt thường không thể nhận ra. Nhằm giúp cho các đối tượng có luồng thông tin chính xác để đưa ra quyết định đúng đắn là một vấn đề hết sức ý nghĩa, nghiên cứu này cung cấp mô hình nhận dạng hành động điều chỉnh lợi nhuận nghiên cứu sử dụng số liệu của doanh nghiệp thuộc bốn loại hình khác nhau như doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Tác giả sử dụng mô hình điều chỉnh lợi nhuận của DeAngelo (1986) và mô hình Friedlan (1994) để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua xác định biến kế toán dồn tích có điều chỉnh và biến kế toán dồn tích không điều chỉnh. Sau khi tổng hợp số liệu từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong năm 2008-2009 tác giả đã đưa ra kết luận hầu hất các doanh nghiệp tùy theo ý muốn chủ quan của nhà quản trị có thể thực hiện hành động điều chỉnh lợi nhuận, có thể điều chỉnh lợi nhuận tăng hoặc giảm so với mức thực tế. Với mỗi loại hình doanh nghiệp sẽ có các nguyên nhân điều chỉnh lợi nhuận khác nhau như công ty cổ phần có động cơ điều chỉnh lợi nhuận nhằm thu hút đầu tư bên ngoài chiếm ưu thế lớn trong khi các doanh nghiệp còn lại vì không bán chứng khoán trên thị trường nên hành vi điều chỉnh giảm lợi nhuận nhằm mục đích giảm thuế TNDN phải nộp.
Hoang, C., T. Abeysekera I., Ma, S. (2014) nghiên cứu về sở hữu nhà nước và quản trị lợi nhuận, tác giả cho rằng các nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền sở hữu nhà nước và quản trị lợi nhuận là rất ít cho đến nay. Ngoài ra, các tài liệu hiện tại cung cấp bằng chứng không phù hợp với những hàm ý lẫn lộn về mối quan hệ này. Sử dụng dữ liệu tài chính từ Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và các báo cáo được công bố hàng năm của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, nghiên cứu này xem xét hiệu quả của quyền sở hữu nhà nước đối với việc quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam. Tác giả thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) quản trị lợi nhuận ít hơn thông qua các khoản thu nhập so với các doanh nghiệp tư nhân (POE), trái ngược với niềm tin thông thường là DNNN có nhiều khả năng điều khiển thu nhập hơn. Để chứng minh cho nhận định trên tác giả sử dụng số liệu tài chính của 150 công ty niêm yết từ năm 2005 – 2011 tại thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh và sở giao dịch chứng khoán Hà Nội để xem xét tác động của sở hữu nhà nước đến quản trị lợi nhuận. Tác giả nhận thấy rằng doanh nghiệp nhà nước quản trị lợi nhuận ít hơn doanh nghiệp tư nhân thông qua các khoản trích trước, kết quả cho thấy sở hữu nhà nước có tác động tiêu cực với quản trị lợi nhuận.
Giáp Thị Liên (2014) nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM. Với mẫu nghiên cứu là 101 công ty cổ phần niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM trong 5 năm từ năm 2009 đến 2013. Mô hình nghiên cứu gồm 9 nhân tố tác động đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận như : tách vai trò của chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc, thành viên HĐQT không điều hành, thành viên hội đồng quản trị độc lập, quy mô HĐQT, tính độc lập của ban kiểm soát, chuyên môn của Ban kiểm soát, sở hữu cổ phần của HĐQT không điều hành, sở hữu cổ phần của Ban giám đốc, sở hữu cổ phần của Ban kiểm soát. Bằng phương pháp định lượng tác giả đã chỉ ra 4 biến có ý nghĩa thống kê như tách vai trò của chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc, thành viên HĐQT không điều hành, thành viên hội đồng quản trị độc lập, sở hữu cổ phần của Ban giám đốc. Ngược lại các biến còn lại không có ý nghĩa với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính tại các công ty cổ phần niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM của Trần Thị Mỹ Tú (2014), nghiên cứu phân tích gồm 4 nhân tố tác động đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận như : tính độc lập của hội đồng quản trị, công ty kiểm toán, quy mô công ty và đòn bẩy tài chính. Bằng phương pháp định lượng tác giả đã chỉ ra 2 trong số 4 nhân tố có quan hệ cùng chiều với hành vi điều chỉnh lợi nhuận là quy mô công ty và đòn bẩy tài chính, 2 biến còn lại có tác động ngược chiều với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu tác động của quản trị doanh nghiệp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa ở Việt Nam của Đoàn Ngọc Phúc, Lê Văn Thông (2014), mục đích của nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của quản trị doanh nghiệp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu gồm 217 doanh nghiệp sau cổ phần hóa niêm yết trên 2 sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM và Hà Nội trong giai đoạn 2007-2012. Mô hình nghiên cứu gồm 6 biến độc lập là quy mô HĐQT, sự độc lập của HĐQT, tính kiêm nhiệm của giám đốc điều hành và chủ tịch HĐQT, sở hữu HĐQT, kinh nghiệm của HĐQT, trình độ học vấn HĐQT và biến kiểm soát bao gồm : quy mô doanh nghiệp, tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp và tỷ lệ nợ, ngoài ra tác giả sử dụng biến phụ thuộc là ROA, ROE để đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh. Kết quả cho thấy biến sự độc lập HĐQT có tác động cùng chiều với hiệu quả kinh doanh, 2 trên 6 biến độc lập có tác động ngược chiều với hiệu quả kinh doanh là sở hữu HĐQT, kinh nghiệm của HĐQT, các biến độc lập còn lại không có ý nghĩa thông kê. Biến kiểm soát quy mô doanh nghiệp có tác động cùng chiều với hiệu quả kinh doanh, biến kiểm soát tỷ lệ nợ có quan hệ ngược chiều với hiệu quả kinh doanh, biến còn lại không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Nguyễn Trọng Nguyên (2015) nghiên cứu về tác động của quản trị công ty đến chất lượng thông tin BCTC tại các công ty niêm yết ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy 4 trong số 6 nhân tố có tác động cùng chiều với chất lượng báo cáo tài chính như các nhân tố sau tính độc lập của HĐQT, mức độ chuyên môn kế toán tài chính của HĐQT, số lượng cuộc họp, mức độ chuyên môn kế toán tài chính và tồn tại kiểm toán nội bộ, trong khi 2 nhân tố sự kiêm nhiệm 2 chức danh chủ tịch HĐQT và tính độc lập của Ban kiểm soát không ảnh hưởng đến chất lượng BCTC. Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30
Nghiên cứu ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị đến sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam của Trần Thị Giang Tân, Trương Thùy Dương (2016), nghiên cứu sử dụng mẫu là 216 doanh nghiêm niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM và Hà Nội. Tác giả sử dụng phương pháp hồi quy Logictis bằng phần mềm R với dữ liệu thu thập dựa vào BCTC và báo cáo thường niên của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam năm 2011- 2014. Mô hình nghiên cứu gồm 6 biến độc: Quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên không điều hành trong HĐQT, số thành viên có quan hệ thân tộc trong HĐQT, nhiệm kỳ của thành viên HĐQT không điều hành, sự kiêm nhiệm giữa giám đốc điều hành và chủ tịch HĐQT, thành viên HĐQT có chuyên môn tài chính và 3 biến kiểm soát như sau quy mô doanh nghiệp, tốc độ phát triển và tỉ số nợ. Bằng phương pháp hồi quy Logictis sử dụng phần mềm R, tác giả chỉ ra rằng 1 trong 6 nhân tố không có ý nghĩa thống kê là biến sự kiêm nhiệm giữa giám đốc điều hành và chủ tịch HĐQT, 5 nhân tố còn lại thuộc đặc tính HĐQT có ý nghĩa về mặc thống kê trong đó có 3 nhân tốc có tác động cùng chiều với SSTY là quy mô HĐQT, thành viên HĐQT có mối quan hệ thân tộc, nhiệm kỳ thành viên HĐQT, 2 nhân tố còn lại có tác động ngược chiều với SSTY. Với 3 biến kiểm soát chỉ có biến tỉ số nợ có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận thực tế của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam của Nguyễn Thị Phượng Loan và Nguyễn Minh Thao (2016), nghiên cứu cho rằng có nhiều động cơ khác nhau về điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh sử dụng linh hoạt trong việc lựa chọn các chính sách và ước tính kế toán khác nhau nhà quản lý có thể áp dụng quản trị lợi nhuận thực tế bằng cách thay đổi mức hoạt động thông thường của các doanh nghiệp. Nghiên cứu này thực hiện nhằm nhận diện ba hành quản trị lợi nhuận thực tế phổ biến sau: (1) Thúc đẩy doanh thu thông qua các chính sách chiết khấu và nới lỏng thanh toán; (2) Cắt giảm chi phí tùy ý và (3) Tiến hành sản xuất thái quá. Bài nghiên cứu này tập trung vào mục tiêu nhà quản lý thực hiện những hành vi này nhằm giúp doanh nghiệp tránh bị lỗ. Nghiên cứu sử dụng 610 công ty niêm yết tại Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2008- 2015, tác giả vận dụng cơ sở lý thuyết và khung phân tích để kiểm định hành vi quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích (AEM) và hành vi quản trị lợi nhuận thực tế (REM) dựa vào hai mô hình nghiên cứu : mô hình ước tính là mô hình hồi quy được xây dựng để đo lường mức thông thường trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các biến đại diện cho REM và mô hình nhận diện bao gồm biến SIZE là logarit của giá trị thị trường vốn chủ sở hữu, biến MTB là hệ số giá trị thị trường vốn chủ sở hữu chia cho giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu, biến PERFORM tính bằng lợi nhuận thuần chia cho tổng tài sản đầu kỳ. Bằng các mô hình hồi quy đã được kiểm định, nghiên cứu cho thấy các nhà quản lý áp dụng hành vi quản trị lợi nhuận thực tế để tránh bị lỗ. Cuối cùng dựa vào kết quả thực nghiệm, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao độ tin cậy của chỉ tiêu lợi nhuận và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.
1.3 Nhận xét về các công trình nghiên cứu trước đây
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài được thực hiện trên thế giới cũng như trong nước đã được các tác giả quan tâm bởi đây là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực kế toán và tài chính kế toán. Tuy nhiên ở góc độ các nghiên cứu ở nước ngoài thì phần lớn các tác giả nghiên cứu riêng cho phạm vi quốc gia, mặc dù tác giả Trang Hoang và Indra Abeysekera (2014) đã có nghiên cứu về sở hữu nhà nước và QTLN tại các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM và Hà Nội. Tuy nhiên, nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích tác động của sở hữu nhà nước đến QTLN mà không có liên quan đến yếu tố của QTCT. Trong khi đó các nghiên cứu của tác giả Việt Nam chỉ nghiên cứu trong giai đoạn trước đây, chỉ có nghiên cứu của Đức Võ và Thủy Phan (2013) nghiên cứu về các mối quan hệ giữa QTCT và hiệu suất công ty mà không liên quan đến yếu tố quản trị lợi nhuận. Việc tìm hiểu đặc điểm của quản trị công ty ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận lại chưa được chú trọng trong khi đây là đặc điểm quan trọng có tác động rất lớn đến sự sống còn của công ty.
1.4 Khoảng trống nghiên cứu Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30
Kế thừa các nghiên cứu trước và xác định khoảng trống trong nghiên cứu được rút ra từ các nghiên cứu trước, đề tài muốn tìm hiểu sâu hơn về quản trị công ty tác động đến quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM trong giai đoạn năm 2012- 2016. Qua nghiên cứu này đề tài muốn xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến quản trị lợi nhuận, cung cấp ý nghĩa thiết thực và gợi ý chính sách liên quan đến QTCT tại các công ty niêm yết VN30 cho các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và các nhà đầu tư tiềm năng từ đó các nhà quản lý hay các nhà hoạch định chính sách có thể thiết kế các chính sách tương ứng của quản trị công ty để các nhà đầu tư tiềm năng có thể có một cơ hội để tham khảo một nguồn thông tin có ý nghĩa bên cạnh các kênh thông thường đó là các báo cáo tài chính.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nội dung chính của chương này nhằm đánh giá một cách tổng quan về bức tranh tổng thể của các nghiên cứu khác nhau trong cũng như ngoài nước có liên quan trực tiếp cũng như gián tiếp đến những nội dung của luận văn mà tác giả thực hiện. Từ đó, giúp tác giả nhận thấy khe hỏng cần nghiên cứu và làm nền tảng để thực hiện các bước tiếp theo.
Việc tổng hợp và đánh giá các công trình nghiên cứu được tác giả trình bày theo hai phần lần lượt ngoài nước và trong nước với tổng cộng 10 công trình nghiên cứu nước ngoài và 9 nghiên cứu trong nước trên cơ sở chọn lọc trên các web chính thống các công trình tiêu biểu đã công bố có liên quan đến những nội dung của luận văn. Luận văn: Quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Khái quát tác động của quản trị đến Cty niêm yết VN30