Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê tại Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank) dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hoạt động tín dụng là hoạt động chính yếu mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng thương mại và yếu tố quản trị hạn mức tín dụng của ngân hàng thương mại đòi hỏi phải có tầm nhận thức bao quát toàn diện những yếu tố liên quan, những nhân tố ảnh hưởng, cộng hưởng tích cực và nhận diện đầy đủ những thách thức, đặt biệt là khi nước ta đã chứng kiến rất nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng khánh kiệt phá sản ngừng hoạt động. Do đó, hoạt động quản trị đóng vai trò vô cùng quan trọng quyết định đến sự phát triển lâu dài và tránh rủi ro cho các tổ chức tài chính nói chung. Vấn đề đặt ra cho hoat động quản trị hạn mức tín dụng của ngân hàng thương mại – doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ là không chỉ thu hút các doanh nghiệp có năng lực hoạt động tốt, tình hình tài chính lành mạnh mà thêm vào đó là phải duy trì hoạt động hiệu quả, tránh nguy cơ vỡ nợ. Hoạt động quản trị tín dụng vừa phải đảm bảo theo các định hướng, chính sách, quy định, tiêu chuẩn, các điều kiện của toàn hệ thống và theo quy định của NHNN, Chính phủ; vừa làm tốt vai trò của người hỗ trợ kịp thời về vốn, phát triển thị trường, dự báo diễn tiến thị trường, sát cánh với doanh nghiệp trong cạnh tranh, giám sát phát triển lành mạnh doanh nghiệp. Đó là lý do tôi chọn vấn đề này để làm đề tài nghiên cứu, trong phạm vi giới hạn là quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê tại Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:   

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Kinh Doanh

2. Mục tiêu của đề tài Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị hạn mức tín dụng đối với hoạt động xuất khẩu cà phê tại Ngân hàng TMCP Phát triển TP.HCM (HDBank) dựa trên hệ thống cơ sở lý luận và thực trạng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: các yếu tố quản trị hạn mức tín dụng xuất khẩu cà phê.

Phạm vi nghiên cứu: ngân hàng TMCP Phát triển TP.Hồ Chí Minh (HDBank).

4. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp định tính kết hợp với thống kê, so sánh.

Thu thập dữ liệu thứ cấp và các ý kiến phản hồi từ các lãnh đạo doanh nghiệp có liên quan để hoàn thiện giải pháp.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản trị hạn mức tín dụng

Một số diễn biến, những cơ hội và thách thức về xuất khẩu cà phê Việt Nam

Phân tích thực trạng về quản trị hạn mức tín dụng xuất khẩu cà phê của HDBank từ năm 2008 đến 2012

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị hạn mức tín dụng đối với hoạt động xuất khẩu cà phê tại Ngân hàng TMCP Phát triển TP.HCM (HDBank).

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị hạn mức tín dụng trong hoạt động xuất khẩu

Chương 2: Thực trạng quản trị hạn mức tín dụng đối với hoạt động xuất khẩu cà phê của HDBank

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị hạn mức tín dụng đối với hoạt động xuất khẩu cà phê của HDBank

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ HẠN MỨC TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU

1.1 Quản trị Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

1.1.1. Khái niệm về quản trị

Thuật ngữ quản trị có nghĩa là một phương thức hoạt động hướng tới mục tiêu được hoàn thành với hiệu quả cao. Phương thức này bao gồm những chức năng hay hoạt động cơ bản mà nhà quản trị sử dụng, đó là hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm soát.

Hoạt động quản trị là những hoạt động tất yếu phát sinh khi con người kết hợp với nhau để cùng hoàn thành mục tiêu và để thực hiện mục tiêu chung đó xuất hiện yếu tố quản trị. Hiện nay quản trị là một khái niệm được sử dụng phổ biến trong nhiều ngành, lĩnh vực như quản trị hành chính (trong các tổ chức xã hội), quản trị kinh doanh (trong các tổ chức kinh tế). Trong quản trị kinh doanh lại chia ra làm nhiều lĩnh vực: quản trị tài chính, quản trị nhân sự, quản trị marketing, quản trị sản xuất …

Hiện nay, đang có khá nhiều khái niệm quản trị được sử dụng. Sau đây là một số khái niệm thông dụng:

Theo Mary Parke Follett: “Quản trị là nghệ thuật đạt được mục đích thông qua người khác”.

Theo Jame Stoner và Stephen Robbins: “Quản trị là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguổn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đề ra”.

Theo Robert Kreitner “Quản trị là tiến trình làm việc với con người và thông qua con người nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức trong môi trường luôn thay đổi. Trọng tâm của quá trình này là sử dụng hiệu quả nguồn lực có giới hạn”.

Những định nghĩa về quản trị nêu trên mặc dù được diễn đạt khác nhau, với các góc độ tiếp cận riêng song có thể thấy chúng có những điểm chung sau:

  • Quản trị là một hoạt động cần thiết khách quan khi con người cùng làm việc với nhau.
  • Quản trị là hoạt động hướng về mục tiêu (có hướng đích)
  • Quản trị là sử dụng có hiệu quả nguồn lực để đạt được mục tiêu.
  • Con người đóng vai trò rất quan trọng trong quản trị.
  • Hoạt động quản trị chịu sự tác động của môi trường biến động không ngừng.

Từ các điểm chung này ta có thể khái quát quản trị là sự cần thiết phải thiết kế một bộ máy quản lý hữu hiệu để có thể điều hành, phối hợp hoạt động của toàn bộ tổ chức hướng tới mục tiêu đã đề ra. Nhà quản trị đạt được mục tiêu của tổ chức bằng cách sắp xếp, giao việc cho những người khác thực hiện chứ không chỉ tự mình hoàn thành công việc.

Có hai khái niệm cần được hiểu đúng khi hiểu và quản trị, đó là khái niệm hiệu quả và hiệu suất. Một hoạt động quản trị được coi là thành công khi đạt được cả hiệu quả và hiệu suất. Trong quản trị vấn đề rất quan trọng là đạt được hiệu quả.

Hiệu quả: đo lường về sự thích hợp của các mục tiêu được chọn và mức độ chúng được thực hiện. Như vậy, hiệu quả quản trị trước hết cần chính là làm đúng việc Làm đúng việc rất quan trọng bởi nó sẽ đưa tổ chức đi đúng hướng. Làm đúng việc cho dù chưa phải với cách tốt nhất vẫn tốt hơn là không đúng việc cho dù nó làm với cách tốt nhất. Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Các tổ chức sẽ đạt được hiệu quả hơn khi các nhà quản trị chọn được mục tiêu đúng và hoàn thành chúng.

Từ đây ta có thể có khái niệm hiệu quả, hiệu quả chính là phép so sánh giữa kết quả đạt được với mục tiêu đúng đắn đã đặt ra.

Tuy nhiên, như trên đã đề cập, một hoạt động quản trị được coi là thành công khi đạt được hiệu quả (đạt mục tiêu) và hiệu suất (phí tổn thấp). Nếu xác định được mục tiêu đúng và đạt được mục tiêu nhưng với chi phí quá cao, không chấp nhận được, thì thực sự hiệu quả quản trị chưa có, điều này thường xảy ra khi ta làm việc chưa đúng cách hay hiệu suất chưa cao.

Hiệu suất (efficiency): đo lường các nguồn lực được sử dụng để đạt được mục tiêu. Có thể hiểu đó chính là sự so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra trong quá trình thực hiện một mục tiêu nào đó. Hiệu suất càng cao khi tỷ lệ giữa kết quả đạt được trên chi phí bỏ ra càng lớn.

Hiệu suất chỉ có được khi làm việc đúng cách, đúng phương pháp (do things right). Vì vậy cần chọn đúng cách thức tiến hành công việc. Khi đứng trước nhiều phương án, nhà quản trị phải so sánh lợi ích và chi phí của từng phương án, cân nhắc kỹ để chọn được cách giải quyết đạt được kết quả cao mà phí tổn thấp nhất. Có thể áp dụng các cách sau đây để tăng hiệu suất:

  • Giảm thiểu chi phí các nguồn lực ở đầu vào mà vẫn giữ nguyên sản lượng đầu ra.
  • Giữ nguyên các yếu tố đầu vào, gia tăng sản lượng đầu ra.
  • Vừa giảm được các chi phí ở đầu vào, vừa tăng sản lượng đầu ra.

Từ những phân tích trên, ta thấy trong thực tế hoạt động quản trị có hiệu quả thực sự khi ta chọn đúng việc để làm và đúng cách làm để tăng hiệu suất. Hiệu suất gắn liền với phương tiện và cách thức thực hiện, trong khi hiệu quả gắn liền với mục tiêu (đúng) và mức độ thực hiện. Hiệu suất là làm việc đúng cách (do things right) trong khi hiệu quả là làm đúng việc. (Phan Thị Minh Châu, 2011)

1.1.2. Chức năng quản trị

Có nhiều ý kiến khác nhau về sự phân chia các chức năng quản trị: vào thập niên 30 Gulick và Urwick nêu ra bảy chức năng quản trị: hoạch định (Planning), tổ chức (organizing), nhân sự (Staffing), chỉ huy (Directing), phối hợp (Coordinating), kiểm tra (Reviewing) và tài chính (Budgeting). Viết tắt các chức năng này thành POSDCORB.

Henri Fayol thì đưa ra năm chức năng là: hoạch định, tổ chức, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra.

Những năm cuối thập niên 80 trở lại đây, giữa các nhà khoa học và quản trị của Mỹ có sự bàn luận về số các chức năng quản trị là bốn hay năm chức năng. Gần đây những tác phẩm về quản trị của các tác giả James Stoner và Stephen Robbins chia các chức năng quản trị thành bốn chức năng là hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm soát. Nhìn chung sự phân biệt bốn hay năm chức năng này là do các ý kiến khác biệt về quản trị nhân sự.

Sau đây là bốn chức năng cơ bản trong đó chức năng điều khiển sẽ bao gồm việc tuyển dụng, động viên, lãnh đạo đến việc tạo nên một mạng lưới thông tin hữu hiệu nhằm hoàn thành mục tiêu của tổ chức:

Hoạch định: là chức năng quản trị có mục đích xác lập một mô hình (tham chiếu) cho tương lai nhờ đó mà ta nhận ra những cơ hội và rủi ro, căn cứ vào đó phải làm những việc ngay bây giờ để khai thác cơ hội và né tránh rủi ro. Hoạch định liên quan đến dự báo và tiên liệu tương lai, đến những mục tiêu cần đạt được và phương thức đạt những mục tiêu đó. Nếu không lập kế hoạch thận trọng và đúng đắn thì dễ dẫn đến thất bại trong quản trị. Có rất nhiều công ty không hoạt động được hay chỉ huy động được một phần công suất chỉ vì không hoạch định hay hoạch định tồi. Hoạch định cũng có nghĩa là nghĩ cách sử dụng nhân tài, vật lực để khai thác cơ hội, thời cơ và ngăn chặn hữu hiệu những rủi ro, bất trắc của môi trường. Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Hoạch định là quá trình ấn định những mục tiêu, xây dựng và chọn lựa những biện pháp tốt nhất để thực hiện có hiệu quả những mục tiêu đó. Tất cả những nhà quản trị từ cấp cao đến cấp thấp đều làm công việc hoạch định. Hoạch định không những vạch ra con đường để đi tới mục tiêu mà còn chỉ ra giải pháp để giảm thiểu các rủi ro xây ra trong quá trình hoạt động của một tổ chức.

Tổ chức: Là chức năng quản trị có mục đích phân công nhiệm vụ, tạo dựng một cơ cấu, thiết lập thẩm quyền và phân phối ngân sách cần thiết để thực hiện kế hoạch. Nó sẽ xác định xem ai sẽ hoàn thành nhiệm vụ nào, ở đâu và khi nào thì xong. Công việc tổ chức thực hiện đúng đắn sẽ tạo nên môi trường nội bộ thuận lợi thúc đẩy hoạt động đạt mục tiêu, tổ chức kém thì công ty sẽ thất bại cho dù hoạch định tốt.

Tổ chức là một trong những chức năng chung của quản trị liên quan đến hoạt động thành lập nên các bộ phận trong tổ chức bao gồm các khâu và các cấp, tức là quan hệ hàng ngang và hàng dọc để đảm nhận những hoạt động cần thiết, xác lập các mối quan hệ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các bộ phận đó.

Điều khiển: Là chức năng quản trị nhằm gây ảnh hưởng, thúc đẩy, hướng dẫn nguồn nhân lực thực hiện mục tiêu của tổ chức. Chức năng điều khiển liên quan đến hoạt động thúc đẩy quan hệ cá nhân và nhóm trong mối quan hệ quản trị nhằm xây dựng một bản sắc văn hóa cho tổ chức. Cuối cùng là quá trình thông tin và truyền thông trong tổ chức. Lãnh đạo xuất sắc có khả năng đưa tổ chức đến thành công dù kế hoạch và tổ chức chưa thật tốt, nhưng sẽ chắc chắn thất bại nếu lãnh đạo kém.

Chức năng điều khiển trong quản trị được xác định là quá trình tác động đến con người, hướng dẫn, thúc đẩy họ sẳn sàng, nhiệt tình thực hiện những nhiệm vụ được giao.

Nội dung chức năng điều khiển liên quan đến các vấn đề:

  • Lãnh đạo con người, hướng họ vào việc thực hiện tốt mục tiêu và nhiệm vụ của tổ chức.
  • Động viên con người trong tổ chức nổ lực làm việc.
  • Thông tin hiệu quả, tạo thuận lợi cho con người làm việc với tổ chức.
  • Xử lý kịp thời các xung đột xảy ra có liên quan đến tổ chức.

Kiểm soát: Kiểm soát là chức năng quản trị thúc đẩy thành tích của doanh nghiệp hướng về hoàn thành mục tiêu. Kiểm soát là để lường trước rủi ro, đánh giá hoạt động và đo lường kết quả hoạt động … tìm ra các nguyên nhân gây ra sai lệch và tìm các giải pháp điều chỉnh thích hợp. Chính kiểm soát là chức năng khép kín một chu kỳ quản trị, mở ra một chu kỳ quản trị mới tạo ra sự liên tục cho quá trình quản trị và nó là chức năng giúp nhà quản trị biết khi nào phải điều chỉnh hoạt động, khi nào cần phải có hoạch định mới.

Kiểm soát là công việc của bất kỳ một cấp bậc quản trị nào từ vị chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc cho đến một đốc công hay một tổ trưởng. Tuy nhiên trong thực tiễn, khái niệm này vẫn được tìm hiểu theo nhiều cách khác nhau, sau đây là một khái niệm thông dụng về chức năng kiểm soát: Kiểm soát là quá trình đo, lường kết quả thực tế và so sánh với những tiêu chuẩn nhằm phát hiện sự sai lệch và nguyên nhân sự sai lệnh trên cơ sở đó đưa ra biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm khắc phục sự sai lệnh hoặc nguy cơ sự sai lệch, đảm bảo tổ chức đạt được những mục tiêu của nó. (Phan Thị Minh Châu, 2011)

1.2 . Hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu

1.2.1. Hạn mức tín dụng Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

1.2.1.1. Khái niệm tín dụng

Tín dụng (credit) là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (tài sản) từ người sở hữu sang người sử dụng trong một khoản thời gian nhất định; khi đến hạn người sử dụng phải hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Như vậy phạm trù tín dụng có ba nội dung chính là: tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả.

Tín dụng có nhiều loại như: tín dụng nhà nước, tín dụng doanh nghiệp, tín dụng cá nhân và tín dụng ngân hàng. Trong đó tín dụng ngân hàng là chuyển nhượng tài sản (vốn) giữa ngân hàng với các chủ thể khác trong nền kinh tế; trong mối quan hệ này ngân hàng vừa giữ vai trò là người đi vay (con nợ) vừa vai trò là người cho vay (chủ nợ). Đây là quan hệ tín dụng gián tiếp mà người tiết kiệm thông qua vai trò trung gian của ngân hàng , thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế.

Từ phân tích trên đi đến khái niệm: Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết khấu), cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. (Nguyễn Văn Tiến, 2010)

Phân biệt tín dụng và cho vay: bất kỳ chuyển giao quyền sử dụng tạm thời (có hoàn trả) về tài sản đều phản ánh quan hệ tín dụng; mối quan hệ tín dụng này lại được thể hiện dưới hình thức: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và cho thuê tài chính. Như vậy nội dung tín dụng là rộng hơn nội dung cho vay, tuy nhiên trong hoạt động tín dụng, thì cho vay là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất tại các NHTM. Chính vì vậy, thuận ngữ tín dụng và cho vay thường được dung đan xen và thay thế cho nhau.

1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Thứ nhất, tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc, lãi) đúng hạn; còn người đi vay thì tin tưởng vào khả năng kiếm được tiền trong tương lai để trả nợ gốc và lãi vay.

Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng tài sản có thời hạn. Ngân hàng là trung gian tài chính “đi vay để cho vay” nên mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có thời hạn, bảo đảm cho ngân hàng hoàn trả vốn huy động. Để xác định thời hạn cho vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của mình và quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Nếu ngân hàng có nguồn vốn dài hạn ổn định, thì có thể cấp được nhiều tín dụng dài hạn, ngược lại, nếu nguồn vốn không ổn định và kỳ hạn ngắn, mà cấp nhiều tín dụng dài thì sẽ rủi ro thanh toán. Mặt khác, thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì người vay mới có điều kiện trả nợ đúng hạn. Nếu ngân hàng xác định thời hạn vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay, thì khách hàng không có đủ nguồn lực để trả nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay lớn hơn nhu cầu luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho ngân hàng.

Thứ ba, tín dụng phải trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Nếu không có sự hoàn trả thì không được coi là tín dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho vay (giá trị gốc), nghĩa là ngoài việc hoàn trả giá trị gốc, khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản lãi, đây chính là giá của quyền sử dụng vốn vay. Khoản lãi phải luôn là một con số dương, có như vậy mới bù đắp được chi phí hoạt động và tạo ra lợi nhuận, phản ánh bản chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Thứ tư, tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng. Việc thu hồi tín dụng phụ thuộc không những vào bản thân khách hàng, mà còn phụ thuộc vào môi trường hoạt động, ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như sự biến động và giá cả, lãi suất, tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thị trường, thiên tai …Khi khách hàng gặp khó khăn do môi trường kinh doanh thay đổi, dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ, điều này khiến cho ngân hàng gặp rủi ro tín dụng.

Thứ năm, tín dụng phải trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Quá trình đề nghị vay và cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp luật chặt chẻ như: Hợp đồng tín dụng, khế ước vay tiền, hợp đồng bảo đảm tiền vay, bảo lãnh …, trong đó bên đi vay phải cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến hạn.

Từ các đặc điểm trên cho thấy, tín dụng ngân hàng phải bảo đảm được hai nguyên tắc cơ bản sau:

  • Vay vốn phải được sử dụng đúng mục đích
  • Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã cam kết trong hợp đồng.

1.2.1.3. Vai trò tín dụng

Đối với nền kinh tế

Vai trò kinh tế cơ bản của tín dụng ngân hàng là luân chuyển vốn từ những người (cá nhân, hộ gia đình, công ty và chính phủ) có nguồn vốn thặng dư đến những người thiếu hụt. Nhu cầu vay vốn không chỉ để đầu tư kinh doanh mà còn dùng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trước mắt. Việc luân chuyển vốn từ người tiết kiệm sang người sử dụng vốn có vai trò quan trọng với nền kinh tế vì giúp cho lượng vốn được sử dụng vào các kênh đầu tư tạo ra của cải cho nền kinh tế. Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Tín dụng ngân hàng không giới hạn chỉ trong chức năng truyền thống là luân chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu mà còn giúp phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế. Thông qua tín dụng ngân hàng mà vốn được chuyển tới những người có các dự án đầu tư hiệu quả nhưng thiếu vốn. Kết quả là, kinh tế tăng trưởng, tạo công ăn việc làm.

Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào những ngành nghề, khu vực kinh tế trọng điểm sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành, nghề đó, hình thành trên cơ cấu hiện đại, hợp lý và hiệu quả.

Tín dụng ngân hàng góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hóa, điều tiết thị trường, kiểm soát giá trị đồng tiền và thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế giữa các nước.

Tín dụng ngân hàng mang lạ nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước thông qua thuế thu nhập và lãi từ ủy thác đầu tư vốn của chính phủ.

Tín dụng ngân hàng là kênh truyền tải vốn tài trợ của nhà nước đến nông nghiệp nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị, xã hội.

Đối với khách hàng

Tín dụng ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về số lượng và chất lượng vốn cho khách hàng. Với các ưu điểm như an toàn, thuận tiện, nhanh chóng, dể tiếp cận và có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn lớn, tín dụng ngân hàng thỏa mãn được nhu cầu đa dạng của khách hàng.

Tín dụng ngân hàng giúp nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội kinh doanh, doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, các cá nhân có đủ khả năng tài chính để trang trải cho các khoản chi tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống ..

Tín dụng ngân hàng ràng buộc khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi trong thời gian nhất định như thỏa thuận. Do đó, buộc khách hàng phải nổ lực, tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng vốn vay hiệu quả, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.

Đối với ngân hàng

Tín dụng là hoạt động truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng (từ 70 đến 90%). Mặc dù tỷ trọng của các hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, nhưng tín dụng ngân hàng vẫn luôn là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng.

Thông qua hoạt động tín dụng mà ngân hàng đa dạng hóa được danh mục tài sản có, giảm thiểu rủi ro.

Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng mở rộng được các loại hình thức dịch vụ khác, như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn …

1.2.1.4. Phân loại tín dụng Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, xu hướng tự do hóa càng sâu sắc thì các ngân hàng càng phải nghiên cứu đưa ra các hình thức tín dụng đa dạng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, từ đó đa dạng hóa danh mục đầu tư, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận, thực hiện phân tán rủi ro và đứng vững trong cạnh tranh. Chính vì vậy ngân hàng cung cấp rất nhiều loại tín dụng, cho nhiều đối tượng khách hàng với những mục đích sử dụng khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và có cái nhìn tổng quát về các loại tín dụng, ta phân loại tín dụng theo một số tiêu chí sau:

Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến một năm và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp như: bổ sung ngân quỹ, ứng trước tiền hàng, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến hạn, duy trì hàng tồn kho phục vụ nhu cầu tiêu dung cá nhân và hộ gia đình. Đây là loại tín dụng có mức rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh, tránh được các rủi ro về lãi suất, lạm phát cũng như sự bất ổn của môi trường, vì thế lãi suất thường thấp hơn các loại tín dụng khác.

Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời gian từ trên 1 năm đến 5 năm và sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới trang thiết bị, mở rộng sản xuất và xây dựng công trình vừa và nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh. Tín dụng trung dài hạn còn là nguồn quan trọng hình thành nên vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biết là đối với doanh nghiệp mới thành lập.

Tín dụng dài hạn: là tín dụng có thời hạn trên 5 năm, đáp ứng cho nhu cầu đầu tư dài hạn như: xây dựng cơ bản (nhà xưởng, dây chuyền sản xuất …), xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, cảng biển, sân bay …), cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. Do thời hạn đầu tư thường kéo dài, nên tín dụng dài hạn thường áp dụng hình thức giải ngân nhiều lần theo tiến độ dự án. Nhìn chung, tín dụng dài hạn chịu rủi ro rất lớn, bởi vì thời hạn càng dài thì những biến động không dự tính có thể xảy ra càng lớn.

Căn cứ vào bảo đảm tín dụng

Tín dụng có bảo đảm: là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh của người thứ ba. Hình thức tín dụng này áp dụng đối với những khách hàng không đủ uy tín, khi vay vốn phải có tài sản đảm bảo hoặc có người bảo lãnh. Tài sản đảm bảo hoặc bảo lãnh của người thứ ba là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu dự phòng khi nguồn thu chính (dòng tiền) của con nợ thiếu hụt, tạo áp lực buộc con nợ phải trả nợ, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.

Tín dụng không có đảm bảo: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay không có bảo lãnh của người thứ ba. Loại tín dụng này áp dụng cho những khách hàng truyền thống, có hệ số tín nhiệm cao.

Căn cứ mục đích tín dụng

Tín dụng bất động sản: đây là các khoản tín dụng đầu tư vào bất động sản, bao gồm:

  • Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai.
  • Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại và bất động sản ở nước ngoài.

Tín dụng công thương nghiệp: đây là các khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để trang trải các chi phí như mùa màng hóa, nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả lương. Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Tín dụng nông nghiệp: đây là khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc.

Tín dụng tiêu dùng: là khoản tín dụng cấp cho các cá nhân, hộ gia đình để mua sắm hàng hóa tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, xe máy, trang thiết bị trong nhà …

Căn cứ vào chủ thể vay vốn

Tín dụng doanh nghiệp (tín dụng bán buôn) : gọi là bán buôn vì những doanh nghiệp thường vay vốn với khoản vay có giá trị lớn.

Tín dụng cá nhân, hộ gia đình (tín dụng bán lẻ): gọi là bán lẻ vì những cá nhân thường vay với những khoản vay có giá trị nhỏ nhằm vào mục đích tiêu dùng.

Tín dụng cho các tổ chức tài chính: là các khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. Những khoản đi vay này trở thành nguồn vốn của ngân hàng đi vay, nên chúng có thể dùng để trả nợ hay cho vay.

Căn cứ phương thức hoàn trả nợ vay

Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi vay định kỳ thành những khoản bằng nhau. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay lớn và có thời hạn dài.

Tín dụng hoàn trả một lần: là loại tín dụng mà khách hàng chỉ trả vốn gốc và lãi vay một lần khi đến hạn. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay nhỏ và có thời hạn ngắn.

Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại tín dụng mà khách hàng có thể hoàn trả nợ vay bất cứ khi nào. Loại tín dụng này thường áp dụng cho những khoản vay thấu chi, thẻ tín dụng.

Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng

Tín dụng bằng tiền: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tiền. Tín dụng bằng tiền gọi là cho vay

Tín dụng bằng tài sản: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tài sản.

Hình thức tín dụng này là cho thuê tài chính.

Tín dụng bằng uy tín: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng uy tín. Hình thức tín dụng này chính là bảo lãnh ngân hàng.

Căn cứ vào xuất xứ tín dụng

Tín dụng trực tiếp: là hình thức tín dụng, trong đó ngân hàng cấp vốn cho khách hàng có nhu cầu vay vốn, đồng thời khách hàng hoàn trả nợ vay trực tiếp cho ngân hàng.

Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua trung gian như: tín dụng ủy thác, tín dụng thông qua tổ chức đoàn thể.

Tín dụng khác: bao gồm các khoản tín dụng khác chưa được phân loại ở trên (ví cụ: tín dụng kinh doanh chứng khoán). (Nguyễn Văn Tiến, 2010)

1.2.1.5. Hạn mức tín dụng Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau (có nhiều loại tín dụng khác nhau). Việc áp dụng từng loại cho vay tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng sử dụng vốn tín dụng nhằm sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả và phù hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế khác nhau của đối tượng tín dụng.

Từ khái niệm về tín dụng, phân biệt, đặc điểm, vai trò và phân loại tín dụng được nêu ở phần trên, ta có thể nói một cách khái quát về hạn mức tín dụng như sau: Hạn mức tín dụng là một cam kết tín dụng tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà ngân hàng và khách hàng thỏa thuận thông qua hợp đồng tín dụng.

1.2.2. Hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu

Hoạt động xuất khẩu ngày càng đa dạng, phức tạp và có sự cạnh tranh gay gắt, vai trò hỗ trợ của các NHTM là cực kỳ quan trọng. Các ngân hàng không chỉ hỗ trợ về mặt tài chính (cấp tín dụng) để hoàn tất nghĩa vụ thanh toán và sản xuất trong quan hệ kinh tế đối ngoại mà còn hỗ trợ về mặt kỹ thuật, bảo đảm các quá trình thanh toán cho những hoạt động chu chuyển với nước ngoài, đồng thời đảm nhận những rủi ro gắn liền với những hoạt động đó.

Dựa vào nhiều tiêu thức phân loại cho vay (hình thức cấp tín dụng) trong thực tế như sau:

  • Căn cứ vào tiêu thức mục đích.
  • Căn cứ vào tiêu thức thời hạn tín dụng.
  • Căn cứ vào tiêu thức mức độ tín nhiệm của NHTM đối với khách hàng.
  • Căn cứ vào tiêu thức hình thái của cho vay.
  • Căn cứ vào tiêu thức hoàn trả nợ vay.
  • Căn cứ vào tiêu thức phương thức cho vay.

Từ đó, có thể rút ra khái quát về hạn mực tín dụng giành cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hạn mức tín dụng mà ngân hàng cho khách hàng DN sử dụng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu.

Hạn mức tín dụng được các DN sử dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu thông thường dưới các hình thức như sau:

Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở

Mỗi lô hàng giao ra nước ngoài đều đòi hỏi một nhu cầu vốn trong quá trình sản xuất và vận chuyển. Nhà xuất khẩu có thể dựa vào L/C đã mở để đề nghị ngân hàng cấp một khoản tín dụng nhằm thực hiện xuất hàng theo các điều khoản đã qui định của L/C.

Chiết khấu hối phiếu

Chiết khấu hối phiếu là một hình thức tín dụng của ngân hàng cấp cho khách hàng dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán. Chiết khấu hối phiếu tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu nhận được tiền sớm hơn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn đối với khoản tín dụng cung ứng hàng đã cấp cho nhà nhập khẩu. Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng. Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Chiết khấu chứng từ thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ

Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể thương lượng với ngân hàng để ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền trước khi bộ chứng từ được thanh toán. Như vậy đối với nhà xuất khẩu thì L/C không chỉ là công cụ bảo đảm thanh toán mà còn là công cụ bảo đảm tín dụng.

Cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu

Hầu hết các ngân hàng sẵn sàng cấp các khoản thấu chi cho các khách hàng xuất khẩu thực hiện các hợp đồng mà thời hạn thanh toán lên đến 6 tháng. Khi một ngân hàng xử lý các chứng từ gửi bằng cách chuyển chúng cho một ngân hàng đại lý ở nước ngoài để nhờ thu, ngân hàng thường sẳn sàng cung cấp một khoản ứng trước theo một tỷ lệ phần trăm thỏa thuận tính trên các khoản nhờ thu tồn đọng còn chưa nhận được tiền. Trong một số trường hợp, vật đảm bảo được chấp nhận cho khoản ứng trước sẽ là các chứng từ gửi hàng đem lại quyền kiểm soát hàng hóa cùng với các tờ hối phiếu đang trong quá trình nhờ thu. Phương thức này cũng có nhiều điểm tương tự như hình thức chiết khấu bộ chứng từ và thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ. Tuy nhiên, trong trường hợp bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu thì một số ngân hàng sẽ sử dụng cụm từ “Ứng trước tiền hàng xuất khẩu” Đối với hình thức này, vì mức độ rủi ro rất cao nên lãi xuất cũng cao hơn so với các hình thức khác, ngoài ra khách hàng cũng cần có tài sản đảm bảo.

Bao thanh toán quốc tế (Factoring quốc tế)

Bao thanh toán quốc tế là một dạng tài trợ xuất khẩu của ngân hàng bằng việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa các ngân hàng tài trợ và doanh nghiệp xuất khẩu, theo đó ngân hàng thực hiện tối thiểu một trong số các chức năng sau: Cho vay và ứng trước tiền, quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải thu, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro không thanh toán của nhà nhập khẩu.

Hay nói một cách khác, bao thanh toán quốc tế là một loại dịch vụ tài chính trọn gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động kinh doanh xuất khẩu, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ.

Thuận nhận ngân hàng (Banker’s acceptance)

Khi hối phiếu được ký phát cho ngân hàng, bằng việc ký chấp nhận hối phiếu ngân hàng đã cam kết chi trả vô điều kiện một số tiền nhất định vào một ngày nhất định trong tương lai. Do đó, hối phiếu này trở thành một công cụ có thể giao dịch trên thị trường. Đây chính là nghiệp vụ thuận ngân hàng, một hình thức tài trợ của ngân hàng cho nhà xuất khẩu, để họ có thể sử dụng hối phiếu đã được chấp nhận bằng cách chiết khấu, hay bán trên thị trường.

Lợi ích đối với các doanh nghiệp trong việc sử dụng hạn mực tín dụng giành cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu là có được nguồn tín dụng sẳn sàng khi cần, còn lợi ích đối với ngân hàng là thúc đẩy mối quan hệ lâu dài. Hạn mức tín dụng nói chung và hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu nói riêng yêu cầu khách hàng phải cung cấp thường xuyên các doanh số bán hàng, thu nhập, tài sản có, nợ phải trả,các hoạt động của công ty …hạn mức tín dụng là phương thức hữu hiệu nhằm giảm chi phí ngân hàng trong việc sàn lọc và thu thập thông tin. (Nguyễn Minh Kiều, 2011)

1.3 Quản trị hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê

1.3.1 Quản trị hạn mức tín dụng Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Hoạt động tín dụng của ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Ngân hàng cấp hạn mức tín dụng cho khách hàng với nhiều hình thức: cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cho thuê tài chính, chiết khấu chứng từ có giá, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, … Mặc dù tỷ trọng của các hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, nhưng tín dụng ngân hàng vẫn luôn là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng. Vì vậy yếu tố quản trị được đề cập liên quan mật thiết đến việc cấp hạn mức tín dụng như sau:

Hoạch định hạn mức tín dụng

Hoạch định hạn mức tín dụng được biểu hiện bởi các chính sách tín dụng. Một trong những biện pháp quan trọng để các khoản tín dụng ngân hàng đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp lý và đảm bảo an toàn là việc tiến hành hoạch định một “chính sách tín dụng an toàn và hiệu quả”. Chính sách tín dụng cung cấp cho cán bộ tín dụng và nhà quản lý một khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng. Thông qua kết cấu danh mục tín dụng của một ngân hàng, ta có thể biết được chính sách tín dụng của ngân hàng này là như thế nào. Nếu một chính sách tín dụng hoạt động không hiệu quả thì phải tiến hành kiểm tra hoặc phải được tăng cường quản lý bởi ban lãnh đạo ngân hàng.

Việc hoạch định các chính sách tín dụng thường dựa trên các yếu tố sau:

  • Mục đích của danh mục tín dụng ngân hàng, bao gồm các đặc điểm của một danh mục tín dụng, những kỳ hạn tín dụng, các độ lớn tín dụng, chất lượng tín dụng, đối tượng khách hàng nòng cốt, khách hàng mục tiêu …
  • Phân cấp thẩm quyền cho vay đối với từng cán bộ tín dụng và từng hội đồng tín dụng (quy định mức cho vay tối đa, các loại tín dụng được phép và chữ ký của người có trách nhiệm)
  • Phân cấp chịu trách nhiệm hàng ngày trong công việc và báo cáo thông tin trong nội bộ phòng tín dụng.
  • Quy trình tiếp nhận, kiểm tra, đánh giá và ra quyết định đối với đơn xin vay của khách hàng.
  • Hồ sơ bắt buộc đối với từng đơn xin vay, và những gì phải được lưu giữ tại ngân hàng (ví dụ như các báo cáo tài chính, hợp đồng bảo đảm tín dụng …)
  • Phân cấp chịu trách nhiệm trong nội bộ ngân hàng, cụ thể ai là người chịu trách nhiệm duy trì và kiểm tra hồ sơ tín dụng.
  • Chỉ dẫn nhận, định giá và hoàn tất hồ sơ bảo đảm tín dụng.
  • Quy định chính sách và quy trình ấn định mức lãi suất tín dụng, mức phí và các điều kiện hoàn trả nợ vay.
  • Quy định những tiêu chuẩn chất lượng áp dụng chung cho tất cả các loại tín dụng.
  • Quy định giới hạn tín dụng tối đa cho một khách hàng
  • Quy định lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng, từ đó hướng tín dụng vào lĩnh vực này.
  • Các phương án ưu tiên trong việc phát hiện, phân tích và xử lý tín dụng có vấn đề.

Tùy theo đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng, nhà quản lý có thể bổ sung thêm những quy định cho phù hợp. Ví dụ, có ngân hàng quy định không cấp một số loại tín dụng nhất định, nhưng lại quy định ưu tiên đối với một số loại tín dụng khác.

Chính sách tín dụng ngân hàng mang lại nhiều ưu điểm trong quá trình thực hiện cho vay. Trước hết, đối với cán bộ tín dụng họ biết họ cần phải làm các bước như thế nào khi tiến hành một khoản cho vay và biết được trách nhiệm của mình đến đâu; đối với ngân hàng, thông qua chính sách tín dụng, ngân hàng có thể đạt được một danh mục tín dụng đa mục đích, như làm tăng khả năng sinh lời, kiểm soát được tìm ẩn rủi ro và đám ứng được các đòi hỏi từ phía nhà quản lý. Bất kỳ một sự ngoại lệ nào trong chính sách tín dụng cũng phải được quy định đầy đủ, các lý do tại sao lại có sự ngoại lệ cũng phải liệt kê.

Tổ chức thực hiện chính sách tín dụng

Sau khi đã hoạch định xong các chính sách tín dụng, cần đưa các chính sách này vào áp dụng trong thực tế. Điều kiện để có thể áp dụng được hiệu quả phải có cơ cấu tổ chức, nhân sự và các nguồn lực khác hợp lý và tuân thủ theo các giai đoạn được khái quát như sau:

Giai đoạn một: Tiếp cận và thu thập thông tin

Đây là giai đoạn mà bộ phận chịu trách nhiệm chính là chuyên viên quan hệ khách hàng. Chuyên viên quan hệ khách hàng tiếp cận và thu thập thông tin để khai thác nhu cầu vốn thực tế của khách hàng tiềm năng. Tìm hiểu, kiểm tra, xác minh về mục đích sử dụng vốn vay, phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư… Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng, hồ sơ vay vốn ngân hàng … và thu thập hồ sơ liên quan để xem xét về việc cấp hạn mức tín dụng.

Giai đoạn hai: Thẩm định

Sau khi xem xét hồ sơ, bộ phận thẩm định sẽ phân tích, đánh giá về tư cách của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án đầu tư, tài sản đảm bảo nợ vay, khả năng quản lý và kiểm soát rủi ro … về những tiềm lực của khách hàng để từ đó xác định hạn mức cần thiết cho khách hàng.

Đây là giai đoạn phân tích và xem xét đánh giá đúng được chất khả thi thực sự của dự án về mặt kinh tế đứng trên góc độ của ngân hàng. Đánh giá một cách chính xác và trung thực khả năng trả nợ của khách hàng để làm căn cứ quyết định cho vay. Thẩm định là một trong những giai đoạn rất quan trọng trong toàn bộ qui trình tín dụng.

Sau khi phân tích đánh giá được mức độ rủi ro của dự án khi quyết định cho vay sẽ có đề xuất trình cấp lãnh đạo phê duyệt.

Giai đoạn ba: phê duyệt hạn mức tín dụng

Cấp lãnh đạo phê duyệt hạn mức dựa trên tờ trình/báo cáo thẩm định (nếu cần thiết sẽ lập tổ tái thẩm định) quyết định hạn mức cấp tín dụng cho khách hàng.

Giai đoạn bốn: Thực hiện

Sau khi phê duyệt, bộ phận quản lý và hỗ trợ tín dụng hoặc bộ phận quản lý tín dụng/quan hệ khách hàng (tùy thuộc vào từng ngân hàng) chịu trách nhiệm soạn thảo và ký kết các hợp đồng, tiến hành công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo …để thực hiện giải ngân vốn cho khách hàng.

Mỗi giai đoạn trong quy trình để thực hiện các chính sách tín dụng trong thực tiễn là một khâu riêng biệt nhưng có quan hệ gắn bó với nhau. Trong đó, thẩm định là một trong bốn giai đoạn đóng vai trò rất quan trọng nên thường được chi tiết hóa thành một quy trình riêng gồm các bước như xem xét hồ sơ, thu thập thông tin bổ sung, thẩm định tính khả thi, ước lượng rủi ro và rút ra kết luận sau cùng về khả năng thu hồi nợ trước khi cho vay.

Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện chính sách tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Về mặt hiệu quả, nhằm góp phần nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Về mặt quản trị thì quy trình tổ chức thực hiện chính sách tín dụng có các tác dụng làm cơ sở cho việc phân định trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng, thiết lập các hồ sơ và thủ tục vay vốn về mặt hành chính, chỉ rõ mối quan hệ giữa các bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng. Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Kiểm tra đánh giá việc thực hiện chính sách

Kiểm tra đánh giá việc thực hiện chính sách tín dụng là bước kết thúc quá trình quản trị hạn mức tín dụng. Để thực hiện hoàn chỉnh bước này các ngân hàng sử dụng rất nhiều các quy trình khác nhau. Tuy nhiên, những nguyên lý chung được áp dụng bao gồm:

Nguyên lý 1: Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định, ví dụ, đối với các khoản tín dụng nhỏ và vừa thì định kỳ kiểm tra có thể là 30, 60, hay 90 ngày; đối với những khoản tín dụng lớn thì phải kiểm tra thường xuyên hơn.

Nguyên lý 2: Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra một cách thận trọng và chi tiết, bảo đảm rằng những khía cạnh quan trọng nhất của mỗi khoản tín dụng phải được kiểm tra bao gồm:

  • Kế hoạch trả nợ của khách hàng, nhằm bảo đảm rằng khách hàng không chậm trễ trong việc trả nợ theo kế hoạch.
  • Chất lượng và điều kiện của tài sản đảm bảo tín dụng
  • Đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, bảo đảm rằng ngân hàng có đầy đủ thẩm quyền hợp pháp để sở hữu các tài sản bảo đảm tín dụng đối với người vay trước tòa án nếu cần thiết.
  • Đánh giá điều kiện tài chính và những dự báo về người vay xem đã thay đổi, trên cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng của người vay thay đổi như thế nào.
  • Đánh giá xem khoản tín dụng có còn tuân thủ chính sách cho vay của ngân hàng và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý đặt ra.

Nguyên lý 3: Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn, bởi vì nếu các “đại gia” bị vỡ nợ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến điều kiện tài chính của ngân hàng.

Nguyên lý 4: Quản lý chặt chẽ và thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề, tăng cường kiểm tra giám sát khi phát hiện những dấu hiệu không lành mạnh liên quan đến khoản tín dụng ngân hàng.

Nguyên lý 5: Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện đi xuống, hoặc những ngành nghề sử dụng nhiều tín dụng của ngân hàng có biểu hiện những vấn đề nghiêm trọng trong phát triển (ví dụ như xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới, hay có sự áp dụng công nghệ mới đòi hỏi phải có sản phẩm mới và các phương pháp phân phối mới).

Kiểm tra tín dụng không phải là công việc thừa, lãng phí, mà rất cần thiết để hình thành chính sách cho vay của ngân hàng một cách lành mạnh. Nó không những giúp cho nhà quản lý nhận ra vấn đề một cách nhanh chóng, mà còn có tác dụng kiểm tra thường xuyên xem cán bộ tín dụng có chấp hành đúng chính sách cho vay của ngân hàng. Với lý do này, đồng thời tăng cường tính khách quan của công tác kiểm tra tín dụng, hầu hết các ngân hàng lớn đều thành lập phòng “kiểm tra tín dụng” độc lập với “phòng tín dụng”. Kiểm tra tín dụng giúp cho hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành trong việc đánh giá toàn bộ tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng.

1.3.2 Quản trị hạn mức tính dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu

Những hoạt động tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn của các DN nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu với nhiều hình thức khác nhau như: cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở, chiết khấu hối phiếu, chiết khấu chứng từ thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ và cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu. Là một thành viên hoạt động trong các lĩnh vực quốc tế, hoạt động ngân hàng trong tài trợ xuất khẩu đã có đóng góp đáng kể đối với nền kinh tế đất nước trên nhiều phương diện, đóng góp ngày càng lớn vào thu nhập quốc gia, và điều quan trọng hơn là hoạt động tài trợ này đã thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hóa mang lại một nguồn thu nhập lớn cho quốc gia, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.

Và yếu tố quản trị hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu là một nhánh nhỏ trong cây quy trình quản trị hạn mức tín dụng lớn. Vì vậy, phải bao gồm đầy đủ các bước sau đây: Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Hoạch định hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu

Hoạch định hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu thông qua việc ban hành các chính sách tín dụng cụ thể. Đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu, mục tiêu cũng không nằm ngoài mục tiêu an toàn và hiệu quả như phần hoạch định chính sách tín dụng nêu trên. Tuy nhiên, trong phần này ngân hàng phải chú trọng hơn yếu tố sử dụng vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu như sau:

  • Mục đích, kỳ hạn, độ lớn tín dụng …phù hợp với đối tượng khách hàng là DN hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
  • Phân cấp thẩm quyền cho vay, chịu trách nhiệm, quy trình tiếp cận, kiểm tra đánh giá …cần chú trọng những khía cạnh căn bản sau đây:
  • Doanh thu và chi phí của hợp đồng xuất khẩu.
  • Rủi ro ngoại hối khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu .
  • Quy định chính sách và quy trình ấn định mức lãi suất, mức phí và các điều kiện hoàn trả nợ vay…đối với khách hàng là DN hoạt động kinh doanh xuất khẩu dựa trên các yếu tố như:
  • Tính chất pháp lý, hiệu quả tài chính của hợp đồng xuất khẩu
  • Tình hình tài chính, tài sản đảm bảo (nếu có) của doanh nghiệp xuất khẩu
  • Kỹ năng và trình độ quản lý của người điều hành doanh nghiệp.
  • Quy định lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng, từ đó hướng tín dụng vào lĩnh vực xuất khẩu.
  • Quy định những tiêu chuẩn tín dụng, phương án xử lý …giành cho lĩnh vực xuất khẩu.

Thông qua những yếu tố chung trong chính sách hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu, tùy thuộc vào đặc điểm của ngân hàng bổ sung cho phù hợp theo quy định.

Chính sách tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu mang lại sự riêng biệt trong quá trình cho vay. Thông qua những chính sách tín dụng cụ thể về lĩnh vực xuất khẩu, ngân hàng cũng nhằm đạt đến những mục đích là khả năng sinh lời, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, kiểm soát rủi ro … như trong phần chính sách hạn mức tín dụng.

Chính sách tín dụng xuất khẩu của ngân hàng, trước hết, làm cho quá trình vay diễn ra thống nhất, hạn chế, phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu vay vốn của khách hàng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu.

Tổ chức thực hiện chính sách tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu

Đây là quá trình áp dụng chính sách tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu vào thực tế cũng thông qua các giai đoạn như trong phần chính sách hạn mức tín dụng:

  • Giai đoạn một: Tiếp cận và thu thập thông tin
  • Giai đoạn hai: Thẩm định
  • Giai đoạn ba: phê duyệt hạn mức tín dụng
  • Giai đoạn bốn: Thực hiện

Tuy nhiên, vì đây là hình thức cho vay riêng biệt nên trong suốt quá trình tổ chức thực hiện phải chú trọng vào các yếu tố riêng biệt là hoạt động kinh doanh xuất khẩu.

Kiểm tra đánh giá việc thực hiện chính sách tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu

Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nhằm mang lại nguồn thu ngoại tệ và mục đích kinh doanh của ngân hàng thương mại. Những biến động trong nền kinh tế làm suy yếu một số doanh nghiệp và tăng nhu cầu vốn đối với các doanh nghiệp khác hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu. Vì vậy quá trình kiểm tra sau khi ký kết hợp đồng là nghiêm ngặt tuân theo các nguyên lý chung của việc kiểm tra đánh giá chính sách tín dụng và áp dụng cụ thể cho từng sản phẩm vay.

Như vậy, hạn mức tín dụng (loan commitment) mang lại những lợi ích nhất định cho cả khách hàng và các tổ chức nếu nhà quản lý đưa ra những hoạch định chính sách đúng và thực hiện hiệu quả mang tính hiệu suất cao cùng với quá trình kiểm tra nghiêm ngặt tuân thủ các quy định quy chế của ngân hàng.

1.4 Tổng quan về hoạt động xuất khẩu cà phê

1.4.1 Thực trạng về ngành cà phê Việt Nam hiện nay Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Nhu cầu vốn để phát triển cây cà phê là vấn đề lớn cần quan tâm và rất cần sự hỗ trợ và hợp tác từ phía ngân hàng. Nhận thấy được điều đó, trong những năm qua, cùng với việc chú trọng đầu tư vốn cho các ngành kinh tế trọng điểm, Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank) đã tích cực đầu tư vốn cho phát triển cây cà phê tại các tỉnh Tây Nguyên. Tính đến thời điểm hiện tại, dư nợ cho vay đầu tư ngành cà phê đạt khoảng 700 tỷ đồng, trong đó có nhiều Chi nhánh tích cực đầu tư cho dự án phát triển cây cà phê và ngành cà phê như: Vietinbank – Chi nhánh Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng,…

Tuy nhiên, một thực tế cho thấy các doanh nghiệp sản xuất cà phê đang gặp phải nhiều khó khăn do chịu tác động từ thiên nhiên, thêm vào đó là sự biến động về giá cả thị trường ảnh hưởng lớn đến sự phát triển cây cà phê. Mặt khác, tình hình chung của ngành cà phê toàn cầu tác động không nhỏ đến ngành cà phê nước ta. Bên cạnh đó, cán cân cung cầu và vận động của giá cả thị trường đã tác động trực tiếp đến ngành cà phê thế giới và Việt Nam. Giá cà phê trong và ngoài nước liên tục giảm làm các đơn vị sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu cà phê thua lỗ, không có khả năng thanh toán nhanh. Vì vậy, họ phải dùng tiền vay ngân hàng để bù đắp các khoản chi phí cho sản xuất kinh doanh, gây mất cân đối về tài chính ở các đơn vị thành viên.

Trước thực trạng đó, các doanh nghiệp cà phê cũng như ngành ngân hàng nói chung đang phải tính toán rất kỹ để hạn chế rủi ro. Tình trạng chây ỳ, không trả nợ, trông chờ vào chính sách của Nhà nước trong một số doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thu hồi nợ của ngân hàng.

Tuy nhiên, ngân hàng vẫn đang tiếp tục cho vay để hỗ trợ, duy trì chăm sóc các vườn cà phê và kinh doanh xuất khẩu cà phê đối với các khách hàng sản xuất kinh doanh tốt. Theo ông Tăng Hải Châu- Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Đăk Lăk cho biết: “Vốn đầu tư cho doanh nghiệp cà phê không thiếu, chỉ lo doanh nghiệp không trả được nợ, vì vậy khi xét cho vay, Ngân hàng cần đặc biệt chú trọng xem xét tính hiệu quả của hợp đồng xuất khẩu bên cạnh các điều kiện vay vốn khác”.

1.4.2 Phương thức giao dịch mua bán trong xuất khẩu cà phê

Trong ngoại thương việc thanh toán giữa các nhà xuất khẩu và nhập khẩu thuộc hai quốc gia khác nhau phải được tiến hành thông qua ngân hàng bằng những phương thức thanh toán nhất định. Phương thức thanh toán quốc tế là cách thức thực hiện chi trả một hợp đồng xuất nhập khẩu thông qua trung gian ngân hàng bằng cách trích tiền từ tài khoản của người nhận khẩu chuyển vào tài khoản của người xuất khẩu căn cứ vào hợp đồng thương mại và chứng từ do hai bên cung cấp cho ngân hàng. Việc lựa chọn phương thức thanh toán quốc tế nào tùy thuộc vào sự thương lượng giữa hai bên và phù hợp với tập quán cũng như luật lệ trong thanh toán và buôn bán quốc tế. Nhìn chung trong ngoại thương hiện nay thường sử dụng các phương thức thanh toán như phương thức chuyển tiền, phương thức nhờ thu, phương thức ghi sổ và phương thức tín dụng chứng từ.

Như vậy, giao dịch mua bán xuất khẩu cà phê cũng thông qua hình thức giao dịch thanh toán quốc tế như bình thường thường. Sau đây là một số hình thức thông dụng:

Tín dụng chứng từ (L/C: Letter of credit): là phương thức thanh toán trong đó một ngân hàng theo yêu cầu cầu của khách hàng cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó nếu người này xuất trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định nêu ra trong thư tín dụng. Một cách đơn giản hơn, phương thức tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận mà trong đó một ngân hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) đáp ứng những nhu cầu của khách hàng (người xin mở thư tín dụng) cam kết hay cho phép ngân hàng khác chi trả hoặc chấp thuận những yêu cầu của người hưởng lợi khi những điều kiện và điều khoản quy định trong thư tín dụng được thực hiện đúng và đầy đủ.

Mặt khác khái niệm tín dụng chứng từ còn cho chúng ta thấy rằng tín dụng thư hay còn gọi là thư tín dụng là văn bản quan trọng nhất trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Thư tín dụng (Letter of credit) gọi tắt là L/C là văn bản pháp lý trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng đứng ra cam kết sẽ trả cho người thụ hưởng một số tiền nhất định nếu người này xuất trình bộ chứng từ phù hợp với những quy định đã nêu trong văn bản đó. Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Như đã trình bày, chúng ta thấy rằng đây là phương pháp thanh toán đảm bảo quyền lợi cho cả bên xuất và nhập khẩu. Bên xuất khẩu được ngân hàng đứng ra cam kết trả tiền còn bên nhập khẩu được ngân hàng đứng ra xem xét, kiểm tra bộ chứng từ nhằm đảm bảo cho bên nhập khẩu nhận đầy đủ, kịp thời và chính xác hàng hóa đặt mua trước khi trả tiền. Trong phương thức này Ngân hàng đóng vai trò chủ động trong thanh toán chứ không chỉ làm trung gian đơn thuần như những phương thức thanh toán khác. Chính vì vậy, hiện nay phương thức này được sử dụng nhiều nhất trong thanh toán quốc tế.Tuy vậy, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ chỉ có thể sử dụng trong quan hệ thanh toán mậu dịch còn trong thanh toán phi mậu dịch vẫn phải dùng phương thức chuyển tiền hoặc nhờ thu.

Phương thức chuyển tiền (Remittance): áp dụng cả trong thanh toán mậu dịch lẫn phi mậu dịch, nhưng thanh toán phi mậu dịch áp dụng nhiều hơn. Chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó một khách hàng của ngân hàng (gọi là người chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng ở một địa điểm nhất định.

Qua thực tế sử dụng thì chuyển tiền có thể thực hiện theo một trong hai hình thức: chuyển tiền trả sau và chuyển tiền trả trước

Chuyển tiền trả sau: là hình thức chuyển tiền trả cho người xuất khẩu sau khi nhận hàng

Chuyển tiền trả trước: là hình thức chuyển tiền tương tự như chuyển tiền trả sau chỉ khác ở chỗ người nhập khẩu lập lệnh chuyển tiền và, do đó, người xuất khẩu nhận được tiền trước khi giao hàng.

Trên thực tế các tổ chức xuất khẩu Việt Nam thường sử dụng chuyển tiền trả trước, trong đó yêu cầu của tổ chức nhập khẩu phải chuyển tiền trước ngày giao hàng từ 3 đến 5 ngày.

Phương thức nhờ thu (Collection of Paymnet): nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ tiến hành ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người nhập khẩu dựa trên cơ sở hối phiếu và chứng từ do người xuất khẩu lập ra.

Phương thức này được tiến hành dựa trên cơ sở những quy định của “điều lệ thống nhất về nhờ thu”, đã đề cập đến hai loại hối phiếu có thể sử dụng là hối phiếu trơn và hối phiếu kèm chứng từ. Vì vậy, có hai phương thức thực hiện nhờ thu tương ứng với hai loại hối phiếu đó.

Nhờ thu hối phiếu trơn (Clean collection): là phương thức nhờ thu trong đó người xuất khẩu ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra còn chứng từ hàng hóa thì gửi thẳng cho người nhập khẩu, không gửi cho ngân hàng.

Nhờ thu hối phiếu kèm chứng từ (Documentary collection): là phương thức nhờ thu trong đó người xuất khẩu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hay cung ứng dịch vụ tiến hành ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người nhập khẩu không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa gửi kèm theo với điều kiện nếu người nhập khẩu thanh toán hoặc chấp nhận trả tiền thì ngân hàng mới giao bộ chứng từ cho người nhập khẩu nhận hàng hóa (Trần Hoàng Ngân, 2007)

1.4.3 Những tiềm ẩn rủi ro và khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào cho doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thì rủi ro càng đa dạng và phức tạp hơn. Rủi ro trong kinh doanh là điều tất yếu, không thể loại bỏ hẳn nhưng doanh nghiệp có thể phòng ngừa, hạn chế tác động của rủi ro, hạn chế những khó khăn nhất định bằng các biện pháp hợp lý.

Theo Frank Knight: “ rủi ro là những bất trắc có thể đo lường được”

Theo Willet: “Rủi ro là một bất trắc cụ thể liên quan đến một biến cố không mong đợi”

Theo Inrving Perfer: “Rủi ro là tổng hợp những sự cố ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác xuất”

Theo Marilu Hurt Mc.Carty: “Rủi ro là một trạng thái trong đó các biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được”

Như vậy, theo các khái niệm trên thì rủi ro có thể xác định được, và từ đó có thể phòng ngừa cũng như hạn chế ở mức độ tối đa. Hay có thể nói cách khác là nhận dạng được những rủi ro tiềm ẩn sẽ xác định được khó khăn đối với doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng và có biện pháp phòng ngừa thích hợp. Sau đây là một số rủi ro dễ nhận biết:

Rủi ro do thiên tai

Là những rủi ro do lũ lụt, hạn hán, động đất, dịch bệnh … tác động bất lợi đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hậu quả rủi ro do thiên tai mang lại thường rất nghiêm trọng, ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, có nhiều doanh nghiệp thậm chí phải phá sản vì nguyên nhân này.

Rủi ro chính trị, pháp lý

Đây là rủi ro mà các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp xuất khẩu lo ngại nhất. Bởi vì, trước khi xây dựng chiến lược xuất khẩu của doanh nghiệp phải dựa vào tình hình kinh tế xã hội, dựa trên các quyết định thuế và luật thuế..một biến động mạnh về chính trị pháp lý xảy ra có thể làm đổn lộn mọi thứ dự đoán của doanh nghiệp dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp.

Rủi ro do lạm phát

Lạm phát là sự tăng giá bình quân của hàng hóa. Các doanh nghiệp luôn gặp các rủi ro do biến động kinh tế. Rủi ro lạm phát là một điển hình trong các rủi ro kinh tế. Trong kinh doanh xuất khẩu, thời gian kể từ khi tính toán hiệu quả của thương vụ xuất khẩu đến khi nhận tiền hàng thanh toán từ phía nước ngoài tương đối dài, từ 30- ngày. Do vậy xác xuất xảy ra lạm phát là không phải nhỏ.

Rủi ro hối đoái

Rủi ro hối đoái là một sự không chắc chắn về một khoản thu nhập hay chi trả do biến động tỷ giá gây ra, có thể ngoại tệ thu về mà doanh nghiệp xuất khẩu nhận được trong tương lai lại giảm so với đồng nội tệ.

Rủi ro do sự thay đổi chính sách ngoại thương

Chính sách ngoại thương là hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế, hành chính, luật pháp nhằm điều tiết các hoạt động mua bán quốc tế của một nhà nước trong một giai đoạn nhất định. Hầu hết các chính sách ngoại thương của các nhà nước thay đội theo từng thời kỳ khác nhau. Sự thay đổi thường xuyên của các định chế nà là một đe dọa lớn chó các doanh nghiệp xuất khẩu vì các doanh nghiệp này không chỉ chịu rủi ro do sự thay đổi chính sách ngoại thương trong nước mà còn chịu ảnh hưởng bởi chính sách ngoại thương của các nước bạn hàng xuất khẩu. Trong rủi ro do sự thay đổi chính sách ngoại thương, doanh nghiệp xuất khẩu có thể gặp nhiều rủi ro về qui định ngạnh ngạch, thủ tục hải quan, thuế xuất nhập khẩu và các quy định hành chính khác Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

Biến động về giá

Các DN chế biến xuất khẩu cà phê thu mua nguyên liệu chế biến rồi lưu kho để tiêu thụ hoặc xuất khẩu mà không mà không có hợp đồng mua trước nguyên liệu với người cung cấp với giá ấn định (vì lúc mua giá có thể đang lên) cũng như không có hợp đồng bán trước với người tiêu thụ với giá ấn định (vì lúc bán giá có thể đang xuống) thì khi giá cả mặt hàng đó biến động, có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ nặng nề. Nhiều doanh nghiệp vừa ký hợp đồng bán hàng xong, giá cả biến động tăng, tiền thu về không còn đủ để mua lại số hàng tương tự vừa bán dẫn đến thua lỗ. Những biến động không thể dự đoán trước không những có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến thị phần, sức cạnh tranh và thậm chí là cả sự tồn tại của DN nếu điều đó xảy ra trong một thời gian dài.

Rủi ro do thiếu vốn

Để nâng cao khả năng cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng cả tiến chất lượng sản phẩm cũng như dịch vụ. Song do thiếu vốn, doanh nghiệp không đủ khả năng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất tối ưu. Từ đó, không đủ cạnh tranh với các đối thủ dẫn đến việc mất thị phần … Ngoài ra, trong hoạt động xuất khẩu, rủi ro do thiếu vốn còn làm cho quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu không được đảm bảo, dẫn đến hàng chậm.

Rủi ro do thiếu thông tin

Các nhà sản xuất phải là người biết rõ thông tin về giá cả, sự biến động trên thị trường thế giới, đặc biệt là thông tin về đối tác. Việc thiếu những thông tin sẽ mang lại những hậu quả khó lường cho doanh nghiệp. Hơn nữa, việc không nắm bắt được nhiều biến động giá cả trên thị trường thế giới sẽ tạo ra sự thua lỗ cho doanh nghiệp. Chính vì thế việc bùng nổ thông tin như hiện nay, để nhận biết và tránh những sai lệch thông tin không còn cách nào khác là doanh nghiệp phải coi nó như là một trong những yếu tố chủ yếu đem lại rủi roc ho chính mình.

Rủi ro do quản lý kém

Đây là rủi ro được xem không có phương thức hữu hiệu nào trị được. Một nhà xuất khẩu có năng lực quản lý kém sẽ liên tục gặp những rủi ro khác nhau và nguy cơ quá sản càng cao.

Rủi ro do thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ

Có thể nói, rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, còn thiếu nhân viên có trình độ nghiệp vụ ngoại thương, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự thiếu hiểu biết về pháp luật và tập quán kinh doanh quốc tế như: nhầm chất lượng, thiếu số lượng, vi phạm giao kết trong hợp đồng và L/C … Một khi trình độ nghiệp vụ của nhân viên ngoại thương còn yếu kém thì họ dễ dàng bị mắc lừa và hậu quả là rủi ro phát sinh thường xuyên và liên tục.

Tóm tắt chương 1

Chương 1 trình bày một số khái niệm về quản trị và trình bày các chức năng của cơ bản của quản trị: hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm tra. Nội dung quan trọng nhất của chương này là trình bày về hạn mức tín dụng để trên cơ sở đó làm rõ hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Nhìn chung, hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu có những nội dung chính sau đây(1) Khái niệm nhằm làm rõ thêm về hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu. (2) Những hình thức cấp hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu.(3) Quản trị hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu, trình bày ba chức năng cơ bản là hoạch định hạn mức tín dụng thông qua chính sách tín dụng, tổ chức thực hiện các chính sách vào trong thực tiễn và kiểm tra và đánh giá việc thực hiện chính sách.

Ngoài những nội dung chính nêu trên, chương 1 cũng đề cập đến tình hình hoạt hoạt động xuất khẩu của ngành cà phê Việt Nam hiện nay. Nêu ra những tiềm ẩn rủi ro và khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, những rủi ro thường gặp trong quá trình kinh doanh xuất khẩu. Luận văn: Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Luận văn: Tổng quan hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x