Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng, Bộ Xây dựng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực xây dựng là một nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về xây dựng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Thực tế trong những năm vừa qua, việc xét cấp chứng chỉ hành nghề cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực xây dựng bộc lộ nhiều hạn chế, tiêu cực như chưa kiểm soát được việc sử dụng chứng chỉ hành nghề giả, còn tồn tại tình trạng mua – bán giấy chứng nhận kinh nghiệm nghề nghiệp và chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ, sử dụng sai mục đích chứng chỉ hành nghề,… Những việc làm này ảnh hưởng rất tai hại đến thị trường xây dựng, đến chất lượng công trình xây dựng và khi có sự cố xảy ra đã gây hậu quả nghiêm trọng về người và tài sản; đồng thời chưa tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh và minh bạch cho các tổ chức, doanh nghiệp tham gia hoạt động xây dựng; gây thất thoát, lãng phí tài sản của Nhà nước, của xã hội v.v… Điều này tạo ra sự lộn xộn, thiếu kỷ cương trong hoạt động xây dựng và làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động xây dựng. Nhận thức được vai trò quan trọng của việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng và đưa công tác này từng bước đi vào nề nếp; Luật xây dựng số 50/2014/QH13 năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành; trong đó quy định rõ chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng được cấp theo các hạng và mỗi cá nhân, tổ chức được cấp chứng chỉ hành nghề phải có những điều kiện nhất định về bằng cấp, kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực hành nghề, nơi cư trú, trụ sở cơ quan hoạt động… Đây là một trong những điểm mới so với Luật xây dựng năm 2003 trong việc công khai minh bạch đối với công tác cấp phát chứng chỉ hành nghề, tránh trường hợp sử dụng chứng chỉ không đúng mục đích. Hiện nay, Luật xây dựng năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành (trong đó có các quy định về quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng) đang được các cấp, các ngành tổ chức triển khai thực hiện. Việc tìm hiểu những quy định mới về vấn đề này của Luật xây dựng năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành là cần thiết nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực thi.
Cục Quản lý hoạt động xây dựng là cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Xây dựng được thành lập nhằm giúp Bộ trưởng Bộ Xây dựng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Do mới thành lập và đi vào hoạt động trong một thời gian ngắn nên việc quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng của Cục Quản lý hoạt động xây dựng không tránh khỏi những bỡ ngỡ, hạn chế, khiếm khuyết – cho dù đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước của Cục đã hết sức cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hạn chế này khiến hiệu quả quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng chưa được như mong muốn của xã hội nói chung và của tổ chức, cá nhân hoạt động xây dựng nói riêng. Muốn tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng của Cục Quản lý hoạt động xây thì không thể không nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện thực trạng của lĩnh vực quản lý này đặt trong bối cảnh Luật xây dựng năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định sửa đổi, bổ sung về quản lý nhà nước đối với việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng.
Với những lý do chủ yếu trên đây cùng những kiến thức đã được trang bị, tích lũy trong chương trình học cao học chuyên ngành Quản lý công tại Học viện Hành chính Quốc gia, học viên lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng, Bộ Xây dựng“ làm đề tài luận văn của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Công
2. Tình hình nghiên cứu Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
Trong quản lý nhà nước, cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động trong các lĩnh vực chuyên ngành là một nội dung cơ bản và không thể thiếu được nhằm xác nhận về mặt pháp lý năng lực, trình độ chuyên môn của tổ chức, cá nhân hoạt động trong những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng cũng không phải là ngoại lệ. Quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà quản lý, các nhà khoa học trong lĩnh vực xây dựng. Thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học về vấn đề này được công bố mà tiêu biểu phải kể đến một số công trình cụ thể như: i) Mai Thị Thơm (2013), Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” về cấp phép xây dựng (từ thực tiễn quận Hoàng Kiếm – Hà Nội), Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội; ii) Ngọc Mai (2016), Quy định mới về chứng chỉ hành nghề lĩnh vực xây dựng, www.tienphong.vn, ngày 08/8/2016; iii) Đoan Trang (2016), Quy định về cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng cho cá nhân nước ngoài, https://baomoi.com, ngày 22/11/2016; iv) Đ. Liên (2015), Điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng, plo.vn ngày 23/6/2016; v) Cẩm Tú (2016), Khó khăn trong xin chứng chỉ hành nghề vì chưa có thông tư hướng dẫn, vienxaydung.edu.vn, ngày 07/4/2016; vi) Vân Anh (2017), Tiếp tục đổi mới công tác quản lý nhà nước về xây dựng, www.baoxaydung.com.vn, ngày 11/7/2017; vii) Thanh Nga (2017), Quản lý trực tuyến năng lực hoạt động xây dựng của cá nhân: Chuyên nghiệp và minh bạch, www.baoxaydung.com.vn, ngày 10/01/2017; viii) Vũ Xuân Tiền (2009), Cần hiểu đúng về chứng chỉ hành nghề, www.thesaigontimes.vn, ngày 04/9/2009; ix) Trung tâm Thông tin – Bộ Xây dựng (2016), Quản lý mã số chứng chỉ hành nghề và tổ chức cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng, www.moc.gov.vn, ngày 15/12/2016; x) Tuyết Hạnh (2017), 6 lĩnh vực được cấp chứng chỉ hành nghề thiết kế xây dựng công trình, nguồn Báo mới.com, ngày 15/4/2017, 10:47GMT+7; xi) Tăng cường quản lý công tác cấp chứng chỉ hành nghề, hoạt động xây dựng, thứ ba, ngày 11/7/2017, nguồn: Cổng thông tin điện tử Sở Xây dựng tỉnh Nam Định; xii) Thành Nam (2016), Chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng: Đã có Thông tư hướng dẫn!, nguồn: Báo điện tử Xây dựng của Bộ Xây dựng, ngày 03/10/2016 v.v…
Các công trình nghiên cứu trên đây đã giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng như đánh giá thực trạng và chỉ ra hạn chế, tồn tại trong quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực này; phân tích những nội dung mới của pháp luật về cấp chứng chỉ hành nghề trong lĩnh vực xây dựng, trình tự, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề trong lĩnh vực xây dựng v.v… Tuy nhiên, nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ, toàn diện trên phương diện lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; đồng thời, phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng đặt trong mối quan hệ tham chiếu với Luật xây dựng năm 2014 thì dường như vẫn còn thiếu một công trình như vậy ở bậc thạc sĩ. Trên cơ sở kế thừa kết quả của các công trình khoa học có liên quan đã công bố, luận văn đi sâu nghiên cứu quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng và thực tiễn thực hiện tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận văn là đưa ra các giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Tập hợp, hệ thống hóa hệ thống cơ sở khoa học về quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng thông qua việc phân tích khái niệm, đặc điểm của chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; ý nghĩa và nguyên tắc của việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; phân tích khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; yêu cầu của quản lý nhà nước đối với công tác cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; các yếu tố bảo đảm thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng v.v…
- Phân tích nội dung quản lý nhà nước đối với công tác cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng.
- Đánh giá việc thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng để chỉ ra những kết quả, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của hạn chế, yếu kém.
- Đề xuất định hướng, giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực này tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với tên đề tài là quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng, luận văn xác định đối tượng nghiên cụ thể như sau:
- Các quy định của Luật xây dựng số 50/2014/QH13 năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành về công tác cấp chứng chỉ hoạt động xây dựng.
- Thực tiễn tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng liên quan đến nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một bản luận văn thạc sĩ, luận văn giới hạn phạm nghiên cứu vào các vấn đề cụ thể sau đây:
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu về nội dung: Quản lý nhà nước về công tác cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng có phạm vi nghiên cứu rộng liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội… Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở việc tìm hiểu, đánh giá nội dung các quy định liên quan trực tiếp đến quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong lĩnh vực hoạt động xây dựng.
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng.
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng trong 5 năm trở lại đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài; trong quá trình nghiên cứu, luận văn dựa trên phương pháp luận nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử… được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu lý luận quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng ở nước ta.
Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh … được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng.
Phương pháp diễn giải, phương pháp quy nạp, phương pháp tổng hợp… được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
Luận văn được hoàn thành sẽ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên các khía cạnh cơ bản sau đây:
- Về lý luận. Luận văn hệ thống hóa, phân tích và bổ sung cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng ở nước ta thông qua việc luận giải:
- Cơ sở lý luận về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng gồm phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; các nguyên tắc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; các yêu cầu của việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng v.v…
- Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng bao gồm phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa; nguyên tắc và yêu cầu của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; các yếu tố đảm bảo thực hiện quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng…
- Về thực tiễn. Luận văn đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng. Đây là những gợi mở có giá trị đối với Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng.
Với những đóng góp này, luận văn không chỉ là tài liệu tham khảo bổ ích cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng ở nước ta nói chung và các cán bộ công tác tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng nói riêng mà còn là nguồn học liệu chuyên khảo có giá trị phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu về lĩnh vực quản lý nhà nước đối với hoạt động cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Lý luận quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng, Bộ Xây dựng.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tại Cục Quản lý hoạt động xây dựng, Bộ Xây dựng.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CẤP CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG
1.1. Cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
1.1.1. Khái niệm chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng
1.1.1.1. Khái niệm về chứng chỉ hành nghề
Khái niệm “chứng chỉ hành nghề” được sử dụng phổ biến trong xã hội nói chung và trong các văn bản quy phạm pháp luật nói riêng, ví dụ: chứng chỉ hành nghề y, chứng chỉ hành nghề luật sư, chứng chỉ hành nghề kiểm toán, chứng chỉ hành nghề kế toán, chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản v.v… Vậy chứng chỉ hành nghề là gì? Đi sâu tìm hiểu về chứng chỉ hành nghề cho thấy trong xã hội có những ngành, nghề muốn được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì phải có chứng chỉ hành nghề; ngược lại, có những ngành, nghề kinh doanh không yêu cầu phải có chứng chỉ hành nghề. Có những quan niệm khác nhau về chứng chỉ hành nghề.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Chứng chỉ: Giấy chứng nhận về trình độ đã đạt được ở từng môn sau một kỳ thi” [31, tr. 178].
Theo Từ điển Luật học do Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) biên soạn năm 2006:
Chứng chỉ hành nghề: Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc hội nghề nghiệp cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật để hoạt động trong một ngành, nghề nhất định nào đó.
Tùy thuộc tính chất của ngành nghề và nhu cầu quản lý, Nhà nước xác định cụ thể những ngành nghề mà người hoạt động trong ngành, nghề ấy phải có chứng chỉ hành nghề. Thông thường những ngành, nghề kinh doanh cần có chứng chỉ hành nghề là những ngành, nghề mà việc tiến hành hoạt động kinh doanh trong các ngành, nghề ấy có liên quan mật thiết đến lợi ích công cộng. Hiện nay, ở Việt Nam, các ngành, nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề bao gồm: dịch vụ pháp lý, dịch vụ khám, chữa bệnh và kinh doanh dược phẩm; dịch vụ thú y và kinh doanh thuốc thú y; dịch vụ thiết kế công trình; dịch vụ kiểm toán; dịch vụ môi giới chứng khoán; sản xuất, gia công, sang chai, đóng gói, mua bán thuốc bảo vệ thực vật; dịch vụ thiết kế phương tiện vận tải; mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề theo quy định phải có chứng chỉ hành nghề; đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần thì một trong những người quản lý, điều hành doanh nghiệp phải có chứng chỉ đó. Đối với công ty hợp danh, tất cả thành viên hợp danh phải có chứng chỉ hành nghề. Đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp hoặc giám đốc quản lý doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề.
Người có chứng chỉ hành nghề chỉ được đăng ký trong hồ sơ đăng ký kinh doanh của một cơ sở kinh doanh và chịu trách nhiệm về việc tuân thủ đúng các quy định về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh của cơ sở đó [30, tr. 164].
Như vậy, chứng chỉ hành nghề có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, chứng chỉ hành nghề là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc hội nghề nghiệp cấp cho cá nhân. Có nghĩa là chứng chỉ hành nghề được cấp cho cá nhân mà không cấp cho tổ chức, hộ gia đình.
Hai là, giá trị pháp lý của chứng chỉ hành nghề là văn bản cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật để hoạt động trong một ngành, nghề nhất định nào đó. Điều này có nghĩa là chứng chỉ hành nghề không phải là một “giấy chứng nhận” về trình độ chuyên môn của người hành nghề. Bởi lẽ, chứng chỉ hành nghề chỉ được cấp cho những người đã qua đào tạo ở các cơ sở đào tạo quốc gia (trường trung cấp, cao đẳng, dạy nghề, đại học, sau đại học) và cả những người đã hành nghề lâu năm, không có vi phạm pháp luật. Do đó, bằng tốt nghiệp của các cơ sở đào tạo (trừ trường hợp bằng giả và bằng thật nhưng học giả) và quá trình công tác mới là chứng chỉ xác nhận trình độ chuyên môn của người hành nghề. Chứng chỉ hành nghề chỉ là một trong những công cụ để quản lý, giám sát việc thực hiện đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề [26].
Ba là, chứng chỉ hành nghề cũng là công cụ để người hành nghề phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật những thông tin mới về tiến bộ khoa học – kỹ thuật và các quy định của pháp luật trong lĩnh vực hành nghề của mình.
Một người đã qua đào tạo và được cấp bằng, sau thời gian thử việc phải đến hội nghề nghiệp xin gia nhập hội và được hội cấp chứng chỉ hành nghề. Chứng chỉ hành nghề đó là một trong những điều kiện không thể thiếu để các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức ký hợp đồng lao động chính thức.
Bốn là, chứng chỉ hành nghề thường có thời hạn ngắn từ 1-3 năm tùy theo thâm niên của người hành nghề. Người được cấp chứng chỉ hành nghề phải tuân thủ quy định về đạo đức nghề nghiệp và hàng năm phải tham gia lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật thông tin mới trong lĩnh vực hành nghề. Nếu vi phạm một trong những quy định đó có thể bị thu hồi chứng chỉ hành nghề hoặc không được cấp lại và sẽ không được tiếp tục hành nghề.
1.1.1.2. Quan niệm về chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng
Thuật ngữ “chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng” được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật chuyên ngành về xây dựng ở nước ta. Luật xây dựng năm 2014 đưa ra giải thích về chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng như sau: “Chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là văn bản xác nhận năng lực hành nghề, do cơ quan có thẩm quyền cấp cho cá nhân quy định tại khoản 3 Điều 148 của Luật này có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về lĩnh vực hành nghề” [23, Khoản 1 Điều 149].
Bên cạnh các đặc điểm chung của chứng chỉ hành nghề, chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng còn có một số đặc điểm đặc thù chủ yếu sau đây:
Một là, chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là văn bản cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp trong lĩnh vực xây dựng.
Hai là, chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng được phân cấp thẩm quyền cấp theo các hạng; cụ thể: đối với cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp trong lĩnh vực xây dựng từ 07 năm trở lên thì chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng do Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng cấp (Đây được gọi là chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng hạng I). Đối với cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp trong lĩnh vực xây dựng từ 07 năm trở xuống thì chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng do Sở Xây dựng hoặc Hiệp hội xây dựng cấp (đây được gọi là chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng hạng II và hạng III).
Ba là, chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng có thời hạn sử dụng trong vòng 05 năm. Hết thời hạn này, cá nhân có chứng chỉ hành nghề phải đến cơ quan có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng làm thủ tục xin gia hạn và tham dự kỳ kiểm tra sát hạch. Ngân hàng đề kiểm tra sát hạch do Bộ Xây dựng xây dựng, quản lý và công bố công khai trên cổng thông tin điện tử của Cục Quản lý hoạt động xây dựng.
1.1.2. Ý nghĩa của cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
Thứ nhất, về khía cạnh kinh tế.
Việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng mang lại hiệu quả kinh tế biểu hiện trên một số khía cạnh cụ thể sau:
Một là, việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng góp phần động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc thu phí đối với cá nhân được cấp loại chứng chỉ này.
Hai là, cá nhân được cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là một trong những điều kiện để doanh nghiệp, công ty xây dựng ký kết hợp đồng lao động. Thông qua đó, họ có cơ hội làm việc để có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình.
Ba là, hoạt động xây dựng là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Do tính chất đặc thù và ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, tài sản của con người, Nhà nước, xã hội nên pháp luật đòi hỏi cá nhân hành nghề xây dựng hoặc nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp, công ty xây dựng phải có kinh nghiệm chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp để tạo ra các sản phẩm xây dựng có chất lượng, bền vững đảm bảo an toàn cho người sử dụng, đáp ứng yêu cầu, thị hiếu của người sử dụng về mặt thẩm mỹ, kiến trúc, phong phú, đa dạng về mẫu mã, chủng loại v.v… Điều này có những tác động nhất định đến doanh thu, đến tiến độ bán các sản phẩm xây dựng và vòng quay của đồng vốn đầu tư của các doanh nghiệp, công ty xây dựng.
Thứ hai, về khía cạnh chính trị – xã hội.
Cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng mang ý nghĩa về chính trị – xã hội biểu hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
Một là, như phần trên đã đề cập, cá nhân được cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là một trong những điều kiện để doanh nghiệp, công ty xây dựng ký kết hợp đồng lao động. Thông qua đó, họ có cơ hội làm việc để có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Như vậy, việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tạo điều kiện để cá nhân, người lao động tìm được việc làm trong các doanh nghiệp, công ty xây dựng. Trên cơ sở đó, một bộ phận cá nhân trong xã hội đến độ tuổi lao động tiếp cận được việc làm trong lĩnh vực xây dựng. Hơn nữa, lĩnh vực này cần sử dụng một lực lượng lao động rất lớn có tay nghề, kinh nghiệm nghề nghiệp. Muốn vậy, việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng được coi như là “một giấy thông hành” để người lao động có thể được làm việc trong lĩnh vực xây dựng.
Hai là, cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là một nội dung quản lý nhà nước về xây dựng. Thông qua hoạt động này, Nhà nước quản lý, giám sát việc thực hiện đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề. Chỉ khi tuân thủ đạo đức nghề nghiệp trong hành nghề hoạt động xây dựng, cá nhân, người lao động mới tạo ra những công trình xây dựng có chất lượng bền vững, thân thiện với môi trường và đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Người dân được ở trong các công trình xây dựng nhà ở khang trang, hiện đại và an toàn sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống; góp phần hiện thức hóa một trong những quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được long trọng ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 “Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp” [22, Khoản 1 Điều 22]. Điều này góp phần duy trì sự ổn định chính trị và bảo đảm thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Thứ ba, về khía cạnh xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu.
Theo tác giả Vũ Xuân Tiền, ở các nước phát triển, chứng chỉ hành nghề cũng được cấp cho khá nhiều nghề được coi là “nhạy cảm” như ở nước ta [26]. Như vậy, cấp chứng chỉ hành nghề nói chung và cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng nói riêng là hoạt động phổ biến tại các quốc gia phát triển – nơi mà ở đó, các giá trị đạo đức nghề nghiệp được đề cao. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ và là xu thế tất yếu không thể đảo ngược, Việt Nam đang chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu thì khó có thể đứng ngoài xu thế này. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, thị trường xây dựng ở nước ta sẽ ngày càng thu hút nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia do sự hấp dẫn của dư địa phát triển của loại thị trường này. Vì vậy, việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng không chỉ tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế mà còn phải đáp ứng yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính, các thông lệ quốc tế trong bối cảnh nước ta tham gia ngày càng sâu vào quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.
1.2. Cấu thành quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng
1.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Nhà nước là một trong những phát minh vĩ đại của con người được tạo ra nhằm quản lý xã hội theo một trật tự chung thống nhất. Một trong những chức năng cơ bản, quan trọng nhất của Nhà nước là chức năng quản lý xã hội hay còn được gọi là chức năng quản lý nhà nước. Khái niệm quản lý nhà nước được khoa học quản lý và khoa học pháp lý tìm hiểu và nhận dạng:
Theo Thuật ngữ hành chính: “Quản lý nhà nước là thuật ngữ chỉ hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển xã hội, nhằm mục đích ổn định và phát triển đất nước” [19, tr. 155].
Theo Từ điển Luật học:
Quản lý nhà nước: Chức năng quan trọng nhất vận hành thường xuyên bằng bộ máy nhà nước bảo đảm mọi hoạt động của xã hội cũng như trên từng lĩnh vực đời sống xã hội vận động theo một hướng, đường lối nhất định do Nhà nước định ra. Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn định và phát triển xã hội theo những mục tiêu mà tầng lớp cầm quyền theo đuổi;
Quản lý nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động của cả bộ máy nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp vận hành như một thực thể thống nhất. Theo nghĩa hẹp là hướng dẫn chấp pháp, điều hành, quản lý hành chính do cơ quan hành pháp thực hiện bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước;
Quá trình quản lý nhà nước bắt đầu từ việc xác định mục tiêu đến khi đạt được hiệu quả thực tế, tạo thành một chu kỳ quản lý, liên tục nối tiếp nhau. Quản lý xuất hiện trong mọi tổ chức, tập thể có hoạt động chung;
Chủ thể quản lý nhà nước là cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để quản lý. Pháp luật là công cụ chủ yếu của quản lý nhà nước. Đối tượng quản lý nhà nước là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong một quốc gia, là sinh hoạt, đời sống của xã hội diễn ra trên từng lĩnh vực;
Quản lý nhà nước được giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và được phân biệt với quản lý mang tính chất nội bộ một tổ chức xã hội, đoàn thể, đơn vị, xí nghiệp, một cộng đồng dân cư mang tính tự quản [30, tr. 633-634].
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học:
Quản lý nhà nước: Tác động của chủ thể mang quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước;
Tất cả các cơ quan nhà nước đều làm chức năng quản lý nhà nước. Pháp luật là phương tiện chủ yếu để quản lý nhà nước. Bằng pháp luật, Nhà nước có thể trao quyền cho các tổ chức xã hội hoặc các cá nhân để họ thay mặt Nhà nước tiến hành hoạt động quản lý nhà nước [28, tr. 96-97].
Theo Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam: “Quản lý nhà nước là hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước” [29, tr. 12].
Từ những khái niệm về quản lý nhà nước trên đây, có thể nhận dạng những đặc trưng cơ bản của loại hình quản lý này như sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước được thực hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Điều này có nghĩa là hoạt động quản lý nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhân danh quyền lực nhà nước (quyền lực công) nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước.
Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn định và phát triển xã hội theo mục tiêu được xác định trước.
Thứ hai, chủ thể của quản lý nhà nước là các tổ chức hay cá nhân mang quyền lực nhà nước trong quá trình tác động tới đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý nhà nước bao gồm: Nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân được Nhà nước ủy quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ ba, khách thể của quản lý nhà nước là trật tự quản lý nhà nước.
Trật tự quản lý nhà nước do pháp luật quy định.
Thứ tư, pháp luật là phương tiện chủ yếu để quản lý nhà nước. Bằng pháp luật, Nhà nước có thể trao quyền cho các tổ chức xã hội hoặc các cá nhân để họ thay mặt Nhà nước tiến hành hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ năm, quản lý nhà nước được giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và được phân biệt với quản lý mang tính chất nội bộ một tổ chức xã hội, đoàn thể, đơn vị, xí nghiệp, một cộng đồng dân cư mang tính tự quản.
1.2.1.2. Quan niệm quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm về quản lý nhà nước nói chung, theo tác giả có thể đưa ra quan niệm về quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng như sau: Quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện trên thực tế các quy định của pháp luật về cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng;
Bên cạnh những đặc điểm của quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng còn mang một số đặc trưng đặc thù cơ bản sau đây:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng có liên quan chặt chẽ đến các lĩnh vực quản lý chuyên môn nghiệp vụ về xây dựng như quy hoạch xây dựng, quy hoạch kiến trúc, quản lý về tư vấn, thiết kế, thi công và giám sát chất lượng công trình xây dựng… Điều này đòi hỏi chủ thể quản lý phải có những hiểu biết chuyên sâu về nội dung công việc mang tính chất nghiệp vụ này, đảm bảo đưa ra những biện pháp tác động quản lý phù hợp với thực tiễn hành nghề hoạt động xây dựng.
Thứ hai, hoạt động xây dựng liên quan đến các lĩnh vực thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều đạo luật khác nhau, bao gồm: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật xây dựng, Luật quy hoạch đô thị v.v… Do đó trong quá trình quản lý, các cơ quan nhà nước phải sử dụng các chế định của những đạo luật trên đây để điều chỉnh việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Hay nói cách khác, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng dựa trên việc sử dụng pháp luật có tính chất đa ngành, bao gồm các đạo luật có liên quan như Luật xây dựng, Luật quy hoạch đô thị, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư v.v…
Thứ ba, trong điều kiện kinh tế thị trường, quản lý về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng không những chịu tác động của chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn bị chi phối bởi các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, trình độ dân trí, sự phát triển kinh tế – xã hội; tâm lý, thị hiếu của người dân, doanh nghiệp; văn hóa kinh doanh; yêu cầu, đòi hỏi của xã hội v.v… Vì vậy, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phải sử dụng tổng hợp nhiều công cụ quản lý như: công cụ kinh tế, công cụ pháp luật, công cụ giáo dục, tuyên truyền, công cụ hành chính, công cụ khoa học – công nghệ v.v…; trong đó, công cụ pháp luật đóng vai trò chủ đạo.
Thứ tư, đối tượng của quản lý về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng không phải là bản thân hoạt động xây dựng mà là năng lực, trình độ, kiến thức chuyên môn; kỹ năng và các điều kiện do pháp luật quy định… Vì vậy, Nhà nước muốn quản lý việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng thì phải thực hiện tốt công tác thẩm tra, xem xét năng lực, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm v.v… của doanh nghiệp, cá nhân tham gia hoạt động xây dựng được thể hiện trong hồ sơ xin cấp chứng chỉ hoạt động xây dựng. Hồ sơ này cần được lưu trữ, quản lý chặt chẽ tránh sự thất lạc, mất mát các giấy tờ, tài liệu liên quan để phục vụ cho quá trình theo dõi, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm của các chủ thể hành nghề hoạt động xây dựng. Quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng không thể thiếu việc quản lý hồ sơ, tình trạng pháp lý ban đầu của doanh nghiệp, cá nhân hành nghề xây dựng.
Thứ năm, quản lý nhà nước về xây dựng là lĩnh vực quản lý tổng hợp, mang tính chất đa ngành, đa lĩnh vực. Nó bao gồm quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng; quản lý nhà nước về kiến trúc; quản lý nhà nước về khảo sát, tư vấn thiết, thi công, giám sát, nghiệm thu chất lượng công trình xây dựng; quản lý nhà nước về vật liệu xây dựng; quản lý nhà nước về nhà ở và quản lý nhà nước về thị trường bất động sản v.v… Các lĩnh vực quản lý nhà nước này có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó và tương hỗ lẫn nhau. Quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng chỉ là một lĩnh vực trong quản lý nhà nước về xây dựng. Vì vậy, lĩnh vực quản lý nhà nước này không thể tách biệt độc lập với những lĩnh vực quản lý nhà nước về hoạt động xây dựng khác mà phải có mối quan hệ, hợp tác, phối kết hợp chặt chẽ thì mới mong đạt hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Thứ sáu, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là một lĩnh vực quản lý vừa mang tính chất vĩ mô (thể hiện ở việc hoạch định chiến lược, chính sách; ban hành các quy định về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng và tổ chức chỉ đạo việc thực hiện trong phạm vi cả nước) vừa mang tính chất vi mô (thể hiện ở việc thẩm tra hồ sơ, xem xét và cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng đối với từng trường hợp cụ thể; đối với từng doanh nghiệp, cá nhân cụ thể). Nó đòi hỏi Nhà nước trong quá trình quản lý việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng vừa phải dựa trên những nguyên tắc chung nhằm đảm bảo tính công bằng, bình đẳng, thống nhất vừa phải có những biện pháp điều hành, xử lý nhanh chóng, nhậy bén, linh hoạt, mềm dẻo v.v… trong từng thời điểm, từng tình huống cụ thể.
Thứ bảy, thị trường xây dựng đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư, nguồn nhân lực, vật liệu xây dựng, đất đai và trang thiết bị, máy móc kỹ thuật, công nghệ hiện đại… Quản lý hiệu quả thị trường xây dựng góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường bất động sản và thị trường khoa học, công nghệ. Đây là những thị trường “đầu vào” của quá trình sản xuất – kinh doanh. Trong quản lý nhà nước về xây dựng thì quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là một lĩnh vực quản lý không thể thiếu được. Do đó, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng còn có mối quan hệ, tác động qua lại với các lĩnh vực quản lý vốn, sức lao động và khoa học – công nghệ.
1.2.1.3. Đặc điểm của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
Bên cạnh các đặc điểm chung của quản lý nhà nước thì quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng còn có một số đặc điểm chủ yêu sau đây:
Một là, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng được thực hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước (hay còn gọi là quyền lực công). Điều này có nghĩa là không phải cơ quan nhà nước nào cũng có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng mà chỉ những cơ quan nhà nước được pháp luật quy định mới có thẩm quyền này. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng ở nước ta là Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng và Sở Xây dựng của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Hai là, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng được thực hiện dựa trên các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về xây dựng nói riêng. Điều này có nghĩa là trong quá trình quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện, đối tượng, nguyên tắc, thẩm quyền và trình tự, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng v.v…
Ba là, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là lĩnh vực quản lý chuyên ngành, mang tính chất chuyên môn sâu do các cơ quan quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực xây dựng thực hiện. Bởi lẽ, cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm xác nhận tổ chức, cá nhân có đủ năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm nghề nghiệp mới được phép hành nghề xây dựng. Do đó, chỉ những cơ quan nhà nước am hiểu chuyên sâu về lĩnh vực xây dựng mới có đủ năng lực để thực hiện được việc này.
Bốn là, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng chịu sự điều chỉnh không chỉ của các đạo luật chuyên ngành về xây dựng như Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật về Quy hoạch đô thị cũng như các nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Xây dựng … mà còn chịu sự tác động của Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Xử lý vi phạm hành chính và Luận Ban hành văn bản quy phạm pháp luật v.v…
1.2.2. Các nguyên tắc của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
1.2.2.1. Bảo đảm sự tập trung, thống nhất của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng
Trong nền hành chính ở nước ta, nguyên tắc tập trung thống nhất là một nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước. Theo nguyên tắc này, mọi hoạt động quản lý nhà nước phải dựa trên hệ thống pháp luật, sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Nhà nước. Trong hoạt động quản lý, cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới phải tuân thủ, chịu sự lãnh đạo của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng là một lĩnh vực cụ thể của quản lý hành chính nhà nước nên cũng phải tuân thủ nguyên tắc này.
Nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng thể hiện: Một là, Nhà nước xây dựng, ban hành và thực thi một hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng trong phạm vi cả nước; hai là, Nhà nước thành lập một cơ quan đầu mối có chức năng phối, kết hợp các hoạt động quản lý cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng theo một trật tự thống nhất; cơ quan này là Cục Quản lý hoạt động xây dựng trực thuộc Bộ Xây dựng; ba là, Nhà nước thành lập một hệ thống cơ quan thống nhất từ trung ương đến địa phương để giúp Nhà nước thực hiện việc quản lý về xây dựng nói chung và quản lý về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng nói riêng v.v…
1.2.2.2. Phân cấp quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng một cách hợp lý cho các địa phương để nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
Phân cấp quản lý và đảm bảo quyền tự chủ cho các địa phương là một nội dung của quản trị hành chính. Thực tiễn cho thấy việc tập trung mọi hoạt động quản lý về xây dựng nói chung và quản lý về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng nói riêng cho các cơ quan trung ương là không hợp lý và thiếu tính khả thi. Bởi lẽ, các cơ quan trung ương không có đủ thời gian, nguồn lực, trang thiết bị, cơ sở vật chất để xem xét, thẩm tra hồ sơ và cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng cho mọi cá nhân có nhu cầu trong cả nước. Mặt khác, chỉ có các địa phương – nơi quản lý trực tiếp cá nhân có nhu cầu xin cấp chứng chỉ hành nghề – mới năm rõ và đầy đủ các thông tin cần thiết về đối tượng xin cấp chứng chỉ hành nghề. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động đầu tư, kinh doanh nói chung và đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng nói riêng vận động nhanh chóng, mau lẽ dưới các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Điều này đòi hỏi việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phải thực hiện khẩn trương, giảm thiểu thời gian chờ đợi, thẩm tra hồ sơ xin cấp chứng chỉ hành nghề góp phần giảm chi phí “đầu vào” của hoạt động sản xuất, kinh doanh v.v… Muốn vậy, quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phải được phân cấp một cách hợp lý, khoa học và phù hợp cho các địa phương dựa trên quan điểm phân cấp về thẩm quyền tiếp nhận, xem xét, thẩm tra và cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động theo loại, hạng chứng chỉ; đồng thời, có cơ chế ràng buộc trách nhiệm đối với các địa phương về phân cấp quản lý này. Bên cạnh đó, nhà nước cần tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc phân cấp quản lý cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng của các địa phương đảm bảo vừa thực hiện nguyên tắc tập trung, thống nhất vừa đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật và tính độc lập, tự chủ tương đối trong quản lý của địa phương.
1.2.2.3. Quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng chú trọng tính hiệu quả và hướng đến việc xây dựng một phương thức quản lý theo mô hình quản lý điện tử
Tính hiệu quả không chỉ là mục tiêu mà còn là nguyên tắc của quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng nói riêng đặt trong bối cảnh kinh tế thị trường. Tính hiệu quả của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng được hiểu là không để lãng phí mọi nguồn lực đầu tư của xã hội vào các hoạt động quản lý. Mỗi đồng vốn chi phí cho hoạt động quản lý về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phải đem lại giá trị kinh tế cao nhất. Biểu hiện của tính hiệu quả của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng gồm: i) Giảm thiểu đến mức thấp nhất thời gian thực hiện các thủ tục hành chính trong cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng nhằm giảm chi phí cho cá nhân có nhu cầu cấp chứng chỉ hành nghề; ii) Công khai minh bạch về nơi tiếp nhận hồ sơ, quy trình, thủ tục và nội dung hồ sơ xin cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; iii) Xây dựng bộ chứng chỉ ISO về quy trình tiếp nhận, thẩm tra, xét cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; iv) Xây dựng phong cách làm việc chuyên nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng v.v…
Muốn vậy, quá trình quản lý về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phải sử dụng công nghệ thông tin hiện đại, các trang thiết bị tiên tiến; ứng dụng thành tựu khoa học tiên tiến; tự động hóa một số công đoạn, thao tác và xây dựng mô hình quản lý điện tử… Trước mắt cần trang bị hệ thống phần mềm ứng dụng, xây dựng cổng thông tin điện tử và từng bước tiếp nhận hồ sơ điện tử xin cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng trên in te rnets; xem xét việc trả kết quả và cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng trên cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời, tiến tới việc quản lý, giám sát, theo dõi và lưu trữ hồ sơ cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng trên cổng thông tin điện tử của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
1.2.3.1. Ban hành thể chế quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng
Một trong những nội dung quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng là ban hành thể chế quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng. Theo Từ điển Luật học: “Thể chế: Những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo (nói tổng quát)” [30, tr. 703]. Như vậy, thể chế quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng được hiểu là việc xây dựng, ban hành và thực hiện những quy định của pháp luật trong quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Mục đích cơ bản của hoạt động này nhằm tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất và khả thi cho quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng.
Thể chế quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng xác định rõ đối tượng quản lý, phạm vi quản lý, phương thức quản lý, nguyên tắc quản lý, cơ chế quản lý và nội dung quản lý v.v… Việc thiếu thể chế quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng khiến hoạt động này gặp rất nhiều khó khăn, thách thức và không đạt hiệu quả. Điều này có nghĩa là quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng được thực hiện dựa trên thể chế quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Hay nói cách khác, thể chế quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng được triển khai thực hiện.
1.2.3.2. Tổ chức thực hiện cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
Tổ chức thực hiện cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng là hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền trong việc xem xét, thẩm định hồ sơ xin cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng và cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng theo quy định của pháp luật. Hoạt động này được thực hiện dựa trên các quy định của pháp luật và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về thẩm quyền cấp chứng chỉ, điều kiện cấp chứng chỉ, thời hạn cấp chứng chỉ; trình tự, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề v.v…
Tổ chức thực hiện cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng là một biểu hiện của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng. Hoạt động này do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm xác nhận cá nhận có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp để hành nghề. Thông qua chứng chỉ hành nghề, cơ quan quản lý nhà nước theo dõi, giám sát việc thực hiện đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề trong lĩnh vực xây dựng. Trong trường hợp người được cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng không thực hiện đạo đức nghề nghiệp hoặc vi phạm pháp luật về xây dựng sẽ bị thu hồi chứng chỉ hành nghề đã cấp. Hậu quả là họ rơi vào tình trạng bị các doanh nghiệp, công ty xây dựng xem xét chấm dứt hợp đồng lao động và sẽ không có “công ăn việc làm” mất thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình.
Tổ chức thực hiện cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng mang lại hậu quả là cá nhân có thể được cấp hoặc không được cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Việc làm này ảnh hưởng đến hiệu quả của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng. Trong trường hợp tổ chức cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, cấp chứng chỉ đúng đối tượng thì sẽ tạo sự tin tưởng của xã hội đối với quá trình quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Ngược lại, việc tổ chức cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng không tuân thủ các quy định của pháp luật, phát sinh tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm sẽ làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng và gây xói mòn lòng tin của xã hội đối với những hành xử của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, tổ chức thực hiện cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phải chịu sự thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo sự tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.
1.2.3.3. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng
Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng là một nội dung không thể thiếu được của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Bởi lẽ, không phải bất cứ ai, bất cứ cơ quan, tổ chức nào cũng đều tuân thủ pháp luật trong quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thị trường do tác động tiêu cực của những mặt trái của cơ chế thị trường tác động. Do đó, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm nhằm phát hiện, xử lý những hành vi phá vỡ trật tự quản lý và xâm phạm khách thể của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng để khôi phục trật tự quản lý, duy trì kỷ cương và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội, của cá nhân bị xâm phạm. Hơn nữa, thể chế quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng do con người tạo ra. Nó là sản phẩm mang ý chí chủ quan của con người, cho dù trong nội dung hàm chứa, phản ánh các quy luật khách quan. Vì vậy, khi tổ chức triển khai thực hiện khó tránh khỏi một số bất cập, không phù hợp với thực tế. Để phát hiện những bất cập này cần phải tiến hành thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra còn nhằm đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng, phát hiện những yếu kém, hạn chế để uốn nắn, sửa chữa và khắc phục.
1.2.3.4. Thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
Theo Từ điển Luật học, thẩm quyền được giải thích là: “Quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề. Thẩm quyền gắn liền với quyền và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ” [30, tr. 701]. Như vậy, thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là khái niệm được sử dụng để chỉ cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền cấp loại chứng chỉ này. Thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng được quy định rõ trong các văn bản pháp luật về xây dựng do Nhà nước ban hành. Nội dung các quy định này đề cập và xác định rõ tổ chức, cá nhân cụ thể nào có quyền cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Điều này có nghĩa là không phải bất cứ tổ chức, cá nhân nào cũng có quyền cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; chỉ những tổ chức, cá nhân do pháp luật quy định mới có thẩm quyền này. Việc xác định thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng một mặt ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức, cá nhân có quyền cấp loại chứng chỉ này. Điều này có nghĩa là trong trường hợp tổ chức, cá nhân không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng sẽ bị xử lý bằng các chế tài pháp lý tương ứng với tích chất, mức độ của hành vi vi phạm. Mặt khác, việc xác định thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng sẽ giúp Nhà nước quản lý chặt chẽ hoạt động này; tránh tình trạng cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng tùy tiện, tràn lan, không đúng pháp luật nhưng không xác định được trách nhiệm thuộc về tổ chức, cá nhân nào và không xử lý được hành vi phạm. Hậu quả là quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng rơi vào tình trạng hồn loạn và vượt khỏi quỹ đạo kiểm soát của Nhà nước.
1.2.3.5. Trình tự, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng
Theo nghĩa thông thường “Thủ tục: Cách thức tiến hành một công việc với nội dung, trình tự nhất định, theo quy định của cơ quan nhà nước” [31, tr. 761] và “Trình tự: Sự sắp xếp trước sau theo một quy tắc nhất định” [31, tr. 816]. Như vậy, trình tự, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là quy trình, các bước thực hiện việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thực hiện theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Việc quy định và thực hiện trình tự, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp, tính thống nhất của quản lý nhà nước về lĩnh vực này; bởi lẽ, việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng không thực hiện theo trình tự, thủ tục dễ dẫn đến tình trạng tùy tiện, lộn xộn, không đảm bảo quy trình chặt chẽ, thiếu thống nhất và gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước, xử lý khi xảy ra vi phạm.
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
1.3.1. Sự phát triển của thị trường xây dựng
Một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là sự phát triển của thị trường xây dựng. Sự phát triển của thị trường xây dựng ảnh hưởng đến lĩnh vực quản lý nhà nước này thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Thị trường xây dựng phát triển đòi hỏi cần có một nguồn nhân lực có đủ trình độ, năng lực chuyên môn, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp hoạt động trong các ngành nghề xây dựng. Điều này đặt ra nhu cầu này càng lớn về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Để bảo đảm hoạt động cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng thực hiện đúng quy định của pháp luật và nằm trong quỹ đạo quản lý của Nhà nước đòi hỏi việc quản lý nhà nước về lĩnh vực này cần tăng cường hiệu quả, hiệc lực quản lý.
- Thị trường xây dựng phát triển kéo theo việc xuất hiện nhiều vật liệu xây dựng mới, hiện đại được sản xuất với công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu ngày càng cao của người dân về chất lượng, chủng loại, kiểu dáng kiến trúc của các phân khúc về nhà ở… Điều này đặt ra cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước làm nhiệm vụ cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phải luôn luôn tìm tòi, học hỏi để cập nhật những thông tin, thành tựu mới trong các ngành sản xuất vật liệu xây dựng… Có như vậy, họ mới có đủ hiểu biết để có thể cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng.
- Thị trường xây dựng phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế sẽ thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia. Như vậy, việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng không chỉ thực hiện đối với doanh nghiệp, cá nhân trong nước mà còn cho cả doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài. Điều này đặt ra yêu cầu: i) Quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phải tiệm cận và phấn đấu đạt các tiêu chuẩn của khu vực, quốc tế về vấn đề này; ii) Đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phải luôn trau dồi, tìm hiểu, nắm bắt luật pháp của các nước, các luật lệ quốc tế, điều ước quốc tế có liên quan nhằm đảm bảo quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng không trái với các điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc tham gia.
Hơn nữa, để quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng đạt hiệu quả trong điều kiện hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế, trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm giữa Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng với các đối tác nước ngoài. Bên cạnh, việc trau dồi nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp các cán bộ, công chức nhà nước làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phải cải thiện, nâng cao năng lực hội nhập thông qua sử dụng nhuần nhuyễn, thành thạo tiếng Anh.
1.3.2. Năng lực quản lý của Nhà nước Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
Năng lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phản ánh năng lực nội tại, trình độ phát triển của quản lý nhà nước. Nó bao hàm các yếu tố mang tính chủ quan của các cơ quan quản lý nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. Nói đến năng lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là nói đến số lượng, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, công nghệ quản lý; kỹ năng áp dụng pháp luật, cơ chế tổ chức quản lý; năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sự hiểu biết pháp luật; đạo đức nghề nghiệp, ý thức, thái độ phục vụ, tinh thần kỷ luật công vụ v.v… của cán bộ, công chức nhà nước làm nhiệm vụ cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Thông thường việc đánh giá năng lực quản lý dựa trên một số tiêu chí cơ bản như hiệu quả quản lý, hiệu lực quản lý, tiết kiệm chi phí thời gian, nhân lực và các nguồn lực vật chất khác; tính kinh tế; kỹ năng, công nghệ quản lý; tinh thần, ý thức, thái độ của công chức nhà nước; tính chuyên nghiệp; tính tổ chức kỷ luật v.v… Như vậy, năng lực quản lý của Nhà nước tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Sự ảnh hưởng này được biểu hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Nếu năng lực quản lý đạt trình độ cao tương đương với mức độ của khu vực và quốc tế thì sẽ thúc đẩy hoạt động quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phát triển lành mạnh, công khai minh bạch. Các hiện tượng nhũng nhiều, hạch sách, tham nhũng, tiêu cực và lợi ích nhóm sẽ không có điều kiện tồn tại ở mọi công đoạn của quá trình quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Việc cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng đạt hiệu quả, thực hiện đúng pháp luật và đáp ứng nhu cầu của xã hội, góp phần tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân tham gia hoạt động xây dựng.
- Ngược lại, nếu năng lực quản lý hạn chế, yếu kém là một nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng. Bởi lẽ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết pháp luật, không có kỹ năng phù hợp, sử dụng công nghệ quản lý lạc hậu, tinh thần, ý thức tổ chức kỷ luật v.v… của cán bộ, công chức làm nhiệm vụ cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng sẽ tiềm ẩn việc nảy sinh tình trạng nhũng nhiễu, hách dịch, tham nhũng, tiêu cực, kéo dài thời gian giải quyết… làm gia tăng chi phí cho cá nhân có nhu cầu xin cấp chứng chỉ. Vô hình chung tạo thành rào cản hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực xây dựng. Hậu quả là một nguồn lực xã hội thay vì đầu tư nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế lại phải bỏ ra để chi phí, “bôi trơn” cho việc vận hành quá trình quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề xây dựng có năng lực quản lý của bộ máy quản lý yếu kém.
1.3.3. Cơ sở vật chất phục vụ quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
Cơ sở vật chất phục vụ quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng là yếu tố đảm bảo cho mọi hoạt động quản lý được vận hành trơn tru, đồng bộ, thống nhất và nhịp nhàng. Thực tế cho thấy hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng nói riêng không thể thực hiện được nếu thiếu cơ sở vật chất phục vụ. Cơ sở vật chất phục vụ quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng bao gồm nguồn vốn, kinh phí; trang thiết bị, phương tiện máy móc, công nghệ; trụ sở, phòng làm việc, bàn ghế, xe cộ, phương tiện đi lại v.v…
Cơ sở vật chất phục vụ tác động đến quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng trên các khía cạnh cơ bản sau đây:
- Trong trường hợp cơ sở vật chất phục vụ quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng dồi dào, đầy đủ, động bộ, phù hợp và hiện đại sẽ tạo điều kiện làm việc thoải mái cho cán bộ, công chức nhà nước. Họ yên tâm, phấn khích, hăng say, tận tâm làm việc, phát huy tích chủ động, sáng tạo không ngừng nâng cao năng suất lao động góp phần cải thiện hiệu quả quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng.
- Cơ sở vật chất hiện đại, đồng bộ, đầy đủ tạo điều kiện cho quá trình đổi mới công nghệ, trang thiết bị tiên tiến phục vụ góp phần đảm bảo cho quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng tiệm cận và đáp ứng các tiêu chuẩn quản lý của khu vực cũng như của thế giới.
- Ngược lại, trong trường hợp cơ sở vật chất phục vụ quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng eo hẹp, thiếu thốn, nghèo nàn và lạc hậu sẽ không tạo điều kiện làm việc thoải mái cho cán bộ, công chức nhà nước. Họ làm việc cầm chừng, đối phó chỉ mong sao hoàn thành đủ số lượng ngày công mà không chủ trọng quan tâm đến chất lượng, năng suất lao động. Điều này khiến hiệu quả quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng không được cải thiện.
Tiểu kết Chương 1
Chương 1 luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng khu trú vào những nội dung cụ thể sau đây:
Chứng chỉ hành nghề là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc hiệp hội ngành nghề cấp cho cá nhân xác nhận có đủ trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và làm cơ sở để doanh nghiệp, công ty ký kết hợp đồng làm việc với họ. Thông qua chứng chỉ hành nghề, Nhà nước giám sát, theo dõi việc thực hiện đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề.
Hoạt động xây dựng mang tính đặc thù về chuyên môn kỹ thuật và có ảnh hưởng không chỉ đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của mỗi cá nhân mà còn tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế quốc dân do một nguồn vốn rất lớn đầu tư vào lĩnh vực này cũng như sản phẩm xây dựng được con người sử dụng để cư trú và làm việc. Vì vậy, quản lý nhà nước về xây dựng và quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là cần thiết.
Bên cạnh những đặc điểm chung của quản lý nhà nước, loại hình quản lý nhà nước về xây dựng và quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng còn có một số đặc điểm riêng như quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng có liên quan chặt chẽ đến các lĩnh vực quản lý chuyên môn nghiệp vụ về xây dựng như quy hoạch xây dựng, quy hoạch kiến trúc, quản lý về tư vấn, thiết kế, thi công và giám sát chất lượng công trình xây dựng; quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng; quản lý nhà nước về xây dựng là lĩnh vực quản lý tổng hợp, mang tính chất đa ngành, đa lĩnh vực v.v…
Quản lý nhà nước phải đáp ứng một số yêu cầu chủ yếu như quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng phải dựa trên các quy định của pháp luật và tuân thủ đúng pháp luật; đảm bảo công khai minh bạch, dân chủ và bình đẳng; thích ứng với các quy luật khách quan của kinh tế thị trường và đáp ứng các yêu cầu của hội nhập quốc tế.
Nội dung của quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng bao gồm: i) Ban hành thể chế quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng; ii) Tổ chức thực hiện cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng; iii) Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng; iv) Thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng;
Trình tự, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng.
Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng bao gồm: i) Sự phát triển của thị trường xây dựng; ii) Năng lực quản lý của Nhà nước; ii) Cơ sở vật chất phục vụ quản lý nhà nước về cấp chứng chỉ hành nghề trong hoạt động xây dựng. Luận văn: Quản lý cấp chứng chỉ nghề xây dựng tại Cục Quản Lý
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY