Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Phương pháp nghiên cứu cỡ mẫu và chọn mẫu hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Mối quan hệ giữa quản trị quy trình đổi mới, kết quả đổi mới và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1 Đo lường các khái niệm nghiên cứu
Quy trình đổi mới sản phẩm được xem là một khái niệm bậc nhất bao gồm ba khái niệm bậc 2, đó là: quản trị danh mục, thể chế hóa quy trình và tổ chức Luận văn: Phương pháp nghiên cứu cỡ mẫu và chọn mẫu
Quản trị danh mục sản phẩm mới (Portfolio management) đóng vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới sản phẩm vì liên quan đến các lựa chọn mang tầm chiến lược như xác định thứ tự ưu tiên, phân tích mối quan hệ đánh đổi giữa rủi ro và tỷ suất lợi nhuận tiềm năng, xác định các sản phẩm đưa vào danh mục, xác định thời điểm đưa sản phẩm mới ra thị trường, …Khi đưa bất kỳ một sản phẩm mới vào danh mục, các nhà quản trị phải xác định đầu tư vào sản phẩm và công nghệ gì, định hướng cho thị trường mục tiêu nào cũng như xác định thứ tự ưu tiên thực hiện các dự án phát triển sản phẩm mới. Dựa trên kết quả nghiên cứu của Cooper (1999) và Killen (2008), khái niệm này được đo lường bằng các yếu tố thành phần như sau: (i) Tỷ lệ % thay đổi trong danh mục hàng năm; (ii) Định hướng phát triển danh mục sản phẩm mới;
Tỷ lệ % các sản phẩm đổi mới trong danh mục; (iv) Thời gian kể từ lúc đưa ra khái niệm sản phẩm đến lúc giới thiệu trên thị trường; và (v) Số lượng các sản phẩm mới giới thiệu ra thị trường trong vòng 5 năm vừa qua.
Thể chế hóa quy trình đổi mới (Formalization): Các doanh nghiệp cần tạo ra một quy trình quản trị có hệ thống để quản lý các giai đoạn trong quy trình đổi mới sản phẩm nhằm khuyến khích các ý tưởng mới, quản trị chúng theo một cách tốt nhất và hoạch định quy trình chặt chẽ theo trình tự, đây là điều đặc biệt quan trọng trong những ngành được thúc đẩy bởi công nghệ. Các nhà nghiên cứu (Chiesa và Masella, 1996; Cooper và Kleinschmidt ,1995; Tatikonda và Rosenthal 2000) đã xây dựng một hệ thống các biến quan sát để đo lường khái niệm này và dựa trên mức độ tương đồng giữa họ, nghiên cứu này đề xuất các yếu tố thành phần đo lường khái niệm này như sau: (i) Công bố chính thức quy trình đổi mới sản phẩm; (ii) Xác định các giai đoạn trong quy trình đổi mới sản phẩm; (iii) Hoạch định tỷ lệ % chi phí đổi mới sản phẩm trong tổng chi phí R&D; (iv) Xây dựng chương trình giám sát quy trình đổi mới sản phẩm có kết quả hơn; và (v) Xác định trách nhiệm của đội quản lý dự án đổi mới sản phẩm.
Tổ chức hoạt động đổi mới (Organization): Khai thông hoạt động R&D của tổ chức sẽ làm tăng sự thấu hiểu về mối liên kết giữa cấu trúc tổ chức thiết kế các đơn vị nghiên cứu độc lập hay thiết kế theo cơ cấu lưỡng năng vừa chịu trách nhiệm sản xuất vừa thực hiện hoạt động đổi mới. Bên cạnh đó cần tổ chức các đội phát triển sản phẩm mới, phối hợp các hoạt động của các đơn vị sản xuất và các bộ phận chức năng trong hoạt động phát triển sản phẩm mới và thực hiện các nỗ lực trong việc phân bổ nguồn lực vào các hoạt động đổi mới có kết quả và hiệu suất chính là các nội dung cơ bản của tổ chức hoạt động đổi mới. Các hoạt động này bao hàm cả việc thiết kế cơ cấu, tố chức vận hành, điều phối và phối hợp liên bộ phận và liên chức năng. Nghiên cứu này sử dụng các yếu tố thành phần dựa trên đề xuất của Cohen và Klepper (1996) để đo lường khái niệm tổ chức hoạt động đổi mới, chúng bao gồm: (i) Số nhóm đổi mới sản phẩm gắn liền với các đơn vị sản xuất trực thuộc trong doanh nghiệp hay cơ chế lưỡng năng; (ii) Sự tham gia của các bộ phận trong đổi mới sản phẩm; (iii) Phân bổ nguồn lực cho đổi mới sản phẩm; và (iv) Tỷ lệ % chi phí đổi mới sản phẩm so với doanh số. Luận văn: Phương pháp nghiên cứu cỡ mẫu và chọn mẫu
Kết quả đổi mới: khái niệm này được đo lường bằng một số lượng lớn các tiêu chí có tính chất khác. Một số nhà nghiên cứu cho rằng việc đo lường cụ thể nhất chính là số lượng các bằng phát minh-sáng chế, quyền tác giả và số lượng các bản quyền cho cho thuê (Taylor và Silberston, 1973). Các tiêu chí này thể hiện kết quả trực tiếp từ từ hoạt động R&D. Tuy nhiên, không phải bất kỳ doanh nghiệp nào, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi có được bản quyền sở hữu trí tuệ từ việc đầu tư R&D đều khai thác bằng cách tạo ra sản phẩm mới. Hơn thế nữa, vì bản quyền sở hữu trí tuệ đều có thời hạn cho nên nhiều doanh nghiệp muốn giữ quyền khai thác các sở hữu trí tuệ lâu dài hay suốt đời đều chọn hình thức bí mật thương mại. Chính vì vậy kết quả đổi mới có thể được đo lường theo một cách khác đó là mức độ mới lạ và độc đáo của sản phẩm mới so với những sản phẩm hiện hữu, tần suất thường xuyên giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường, sự đóng góp của sản phẩm mới trong tăng trường của thị trường và giá trị mang lại cho khách hàng (Avlonitis và Salavou, 2007; Atuahene-Gima 1995; Song và Montoya-Weiss, 1998). Dựa trên cách tiếp cận này, các yếu tố thành phần được sử dụng để đo lường kết quả đổi mới về phương diện sản phẩm bao gồm: (i) Tính mới của sản phẩm; (ii) Tính độc đáo của sản phẩm; (iii) Mức độ thường xuyên giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường; (iv) Đóng góp của sản phẩm mới trong quá trình mở rộng thị trường; và (v) Giá trị tăng thêm mà sản phẩm mới đem lại cho khách hàng.
Kết quả hoạt động: Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có thể được đo lường bằng kết quả tài chính và kết quả phi tài chính. Có rất nhiều tiêu thức đo lường kết quả hoạt động thông qua mức độ hoàn thành mục tiêu về tỷ lệ tăng năng suất, tỷ lệ tăng doanh số, mở rộng thị phần mục tiêu, hiệu suất vận hành, …và kết quả tài chính thường được thể hiện thông qua mức độ hoàn thành các mục tiêu tài chính như hệ số hoàn vốn đầu tư, tỷ suất lợi nhuận và hệ số hoàn vốn so với tài sản (Davisson, 1989; Delmar, 1996; Zahra, 1991). Dựa trên các nghiên cứu của các tác giả khi khảo sát về mối quan hệ giữa đổi mới sản phẩm với kết quả thực hiện của doanh nghiệp (Brah và Chong, 2004; Kim và Lee, 2010; Kristal và các cộng sự 2010; Sila và Ebrahimpour 2005), các yếu tố sử dụng để đo lường kết quả hoạt động kinh doanh thể hiện mức độ hoàn thành các mục tiêu về: (i) Thị phần; (ii) Tỷ lệ tăng thị phần; (iii) Sự chấp nhận thương hiệu; (iv) Tăng trưởng doanh số; (v) Hệ số hoàn vốn so với tài sản; (vi) Tỷ suất lợi nhuận so với doanh số; (vii) Tỷ lệ doanh số của thị trường mới so với tổng doanh số.
Các biến kiểm soát: là các biến thể hiện đặc trưng của doanh nghiệp như tuổi đời, ngành nghề và quy mô của doanh nghiệp, …các biến kiểm soát được đưa vào nghiên cứu dựa trên cơ sở thực tiễn từ những nghiên cứu trước đây đã chứng tỏ có tác động đến kết quả đổi mới cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Hans Lofsten, 2014). Việc đưa các biến kiểm soát này vào mô hình nghiên cứu nhằm khảo sát sự tác động của chúng đến các khái niệm nghiên cứu.
Thang đo Likert 5 bậc được sử dụng để đo lường các khái niệm như quản trị danh mục, thể chế hóa, tổ chức, kết quả đổi mới và kết quả hoạt động kinh doanh.
Riêng các biến kiểm soát như tuổi đời của doanh nghiệp đo lường bằng thang đo khoảng cách, đời sống của sản phẩm và ngành nghề được đo lường bằng thang đo danh xưng. Việc đo lường các biến và cơ sở lý thuyết của đo lường được tổng kết trong biểu 1.
Bảng 3.1: Đo lường các khái niệm nghiên cứu
Dựa trên kết quả đo lường các khái niệm, bảng câu hỏi điều tra dùng thu thập dữ liệu thứ cấp sau khi thực hiện phỏng vấn chuyên gia được thiết kế (Xem bảng câu hỏi điều tra trong phần phụ lục).
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế
3.2 Đám đông nghiên cứu, cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu Luận văn: Phương pháp nghiên cứu cỡ mẫu và chọn mẫu
Đám đông nghiên cứu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, do điều kiện giới hạn về thời gian, nghiên cứu này thực hiện lấy mẫu điều tra chủ yếu là các doanh nghiệp đang hoạt động tại Khu công nghệ cao Quận 9 bên cạnh việc lấy mẫu thuận tiện cho các doanh nghiệp khác phân bố bên ngoài khu công nghệ cao này. Lý do cho việc tập trung vào nhóm các doanh nghiệp này dựa trên các yếu tố sau đây: (i) Khu vực này là nơi tập trung các doanh nghiệp ứng dụng các công nghệ và kỹ thuật mới trong sản xuất; (ii) Có nhiều công ty lớn trên thế giới đầu tư tại đây và những công ty này đã và đang thực hiện việc chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đóng trên địa bàn này; (iii) Có nhiều viện và trung tâm nghiên cứu khoa học đặt trụ sở tại Khu công nghệ cao Quận 9; (iv) Rất nhiều SMEs của Việt Nam đang tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu cho các tập đoàn đa quốc gia tại đây. Tất cả những đặc trưng trên cho thấy các doanh nghiệp trong khu vực này có tiềm năng tiếp thu các công nghệ mới thông qua các đơn vị nghiên cứu và chuyển giao công nghệ mới cũng như tiếp cận công nghệ mới thông qua việc đặt hành và trở thành một nhà cung ứng các linh kiện và chi tiết cho những tập đoàn đa quốc gia. Bên cạnh đó việc tiếp cận các thông tin để được công nhận là doanh nghiệp khoa học công nghệ dễ dàng hơn so với những đơn vị phân bố ở bên ngoài từ đó sẽ có nhiều thuận lợi trong việc hỗ trợ tiếp cận thông tin về các công nghệ mới đang áp dụng trong ngành. Chính những thuận lợi đó cho phép những doanh nghiệp vừa và nhỏ tại đây có thể thực hiện đổi mới mở mà không cần phải đầu từ chi phí lớn cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D).
Đối tượng điều tra là các doanh nghiệp nhưng đối tượng thu thập thông tin là các nhà quản trị cấp cao của doanh nghiệp và lãnh đạo phụ trách R&D. doanh nghiệp và lãnh đạo phụ trách. Số lượng lượng các doanh nghiệp dự kiến điều tra là 100 thuộc các ngành nghề khác nhau tại Khu công nghệ cao Quận 9 và mỗi doanh nghiệp sẽ tiến hành điều tra từ 5 đến 6 người là các nhà quản trị cấp cao và cấp trung là những người am hiểu về hoạt động kinh doanh và hoạt động đổi mới sản phẩm. Đồng thời những đối tương điều tra này cũng là những con người am hiểu về hoạt động công nghệ cũng như sản xuất kinh doanh của đơn vị. Cỡ mẫu thu thập theo dự kiến từ 500-600 người cỡ mẫu này phù hợp cho nhu cầu xử lý dữ liệu thống kê (số mẫu tối thiểu bậc cao nhất của thang đo x số biến quan sát = 5×26 = 130) trong phân tích nhân tố khám phá (EFA) cũng như các kỹ thuật thống kê suy luận khác như ANOVA (quy mô mẫu tối thiểu = bậc cao nhất của thang đo x số biến quan sát x số nhóm = 5 x 26 x 4 = 520) với số nhóm phân tích cao nhất là 4 nhóm theo ngành công nghiệp.
Việc chọn mẫu được tiến hành theo phương pháp phân tầng phi xác suất, theo đó các doanh nghiệp được phân loại theo ngành nghê và quy mô (nhỏ, vừa và lớn) và các đối tượng điều tra được tiếp cận theo thuận tiện.
3.3 Phương pháp xử lý dữ liệu Luận văn: Phương pháp nghiên cứu cỡ mẫu và chọn mẫu
Cách tiếp cận định tính được sử dụng cho nghiên cứu này với mục đích kiểm định các giả thuyết nghiên cứu những có kết hợp với định lượng. Kỹ thuật nghiên cứu định tính được tiến hành thông qua phương pháp lấy ý kiến chuyên gia và phỏng vấn nhóm tập trung. Cụ thể như sau: Các yếu tố đo lường được thiết kế theo các nghiên cứu trước đây được điều chỉnh bổ sung và hiệu chỉnh bằng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia và phỏng vấn nhóm tập trung. Các chuyên gia là những người am hiểu trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. Riêng phóng vấn nhóm tập trung sẽ tiến hành trên hai nhóm (quy mô mỗi nhóm từ 8 đến 12 người; thành viên của nhóm là những quản trị gia cấp cao và trung của các doanh nghiệp). Những thành viên nhóm phỏng vấn tập trung sẽ không tiến hành điều tra bằng bảng câu hỏi được thiết kế sau nhằm đảm bảo tính khách quan và kết quả nghiên cứu không bị thiên lệch. Kết quả phản hồi từ 12 chuyên gia có chuyên môn cao về lĩnh vực đổi mới sản phẩm đã cho thấy tỷ lệ % đồng thuận các biến quan sát dùng để đo lường từ mức 90% trở lên cho các khái niệm quản trị danh mục sản phẩm mới (PM), tổ chức hoạt động đổi mới (PO), thể chế hóa quy trình đổi mới (PF), kết quả đổi mới (IO) và kết quả hoạt động kinh doanh (BP). Đối với biến kết quả đổi mới có 3/12 chuyên gia đề nghị bổ sung tiêu chí số lượng các giải pháp hữu ích được đăng ký bản quyền. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ các giải pháp hữu ích nảy thường được giữ bí mật theo hình thức bí mật thương mại cho nên nó không được đưa vào bản câu hỏi điều tra.
Nghiên cứu định lượng được tiến hành sau khi thu thập tất cả thông tin từ bảng câu hỏi nhằm giải quyết các câu hỏi nghiên cứu cũng như kiểm định giả thuyết nghiên cứu trong mô hình nghiên cứu của đề tài này. Kỷ thuật phân tích nhân tố khám phá (EFA) và độ tin cậy của thang đo được sử dụng để kiểm tra giá trị và độ tin cậy của đo lường. Trên cơ sở của hai kỹ thuật này, các biến mới sẽ được xác định và kỹ thuật phân tích thống kê giản đơn được áp dụng nhằm phân tích độ biến thiên cho từng biến. Kỹ thuật phân tích phương sai (ANOVA) đơn biến hay một chiều được tiến hành để khám phá sự khác biệt về quản trị quy trình đổi mới, kết quả đổi mới và kết quả hoạt động kinh doanh cho từng nhóm theo các tiêu thức phân loại như ngành công nghiệp (cơ khí, điện tử, cao su-hóa-nhựa và chế biến tinh lương thực-thực phẩm), quy mô (lớn-vừa-nhỏ), thời gian hoạt động, … Cuối cùng phương pháp hồi quy đa biến được áp dụng để kiểm định các giả thuyết. Bên cạnh đó với mô hình nghiên cứu được đề xuất trong Sơ đồ 1 đây là dạng mô hình có biến trung gian là kết quả đổi mới, do đó kỹ thuật phân tích đường dẫn (Path analysis) được áp dụng để phân tích độ phù hợp của mô hình cũng như xác định các tác động trực tiếp của các biến độc lập đến biến phụ thuộc và các tác động gián tiếp của biến độc lập thông qua biến trung gian. Kỹ thuật phân tích đường dẫn sẽ được trình bày và giải thích cụ thể trong Chương 4 khi phân tích dữ liệu.
Tóm tắt Chương 3
Chương này đề cập đến việc đo lường các khái niệm nghiên cứu trong đó khái niệm quản trị quy trình là một khái niệm lý thuyết hay khái niệm bậc 1 và theo định nghĩa được chia ra thành ba khái niệm bậc 2 đó là quản trị danh mục sản phẩm mới, thể chế hóa quy trình đổi mới sản phẩm và tổ chức hoạt động đổi mới sản phẩm. Các khái niệm bậc 2 của quản trị quy trình đổi mới sản phẩm cùng với khái niệm kết quả đổi mới theo thiết kế đều là những khái niệm nghiên cứu vì chúng được đo lường trực tiếp bằng các yếu tố thành phần hay biến quan sát. Tổng số 23 biến quan sát được sử dụng để đo lường các khái niệm nghiên cứu theo đó khái niệm quản trị danh mục sản phẩm mới, thể chế hóa quy trình, tổ chức hoạt động đổi mới sản phẩm, kết quả đổi mới và kết quả hoạt động kinh doanh đo lường theo thứ tự lần lượt là 5, 5, 4, 5 và 7 yếu tố thành phần. Thang đo Likert 5 bậc được sử dụng trong đo lường. Trên cơ sở đo lường các khái niệm việc xác định đám đông, cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu được trình bày. Cuối cùng kỹ thuật xử lý phân tích nhân tố khám phá và độ tin cậy của thang đo được giới thiệu nhằm xác định giá trị và độ tin cậy của các biến quan sát dùng đo lường các khái niệm nghiên cứu. Trên cơ sở các biến mới được xác định thông qua phân tích nhân tố khám phá kỹ thuật xử lý thống kê giản đơn được sử dụng để mô tả dữ liệu và kỹ thuật phân tích phương sai (ANOVA) được áp dụng để tìm kiếm sự khác biệt giữa các nhóm hình thành dựa trên các biến kiểm soát. Cuối cùng hàm tương quan đa biến được tiến hành để kiếm định các giả thuyết nghiên cứu theo mô hình đường dẫn do xuất hiện biến trung gian. Luận văn: Phương pháp nghiên cứu cỡ mẫu và chọn mẫu
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Mối quan hệ giữa quản trị quy trình đổi mới