Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Công chứng trên thế giới có nguồn gốc từ lâu, trải qua những thăng trầm lịch sử luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, thể hiện rất rõ không chỉ trong các quan hệ về bất động sản, kinh doanh, lao động mà còn trong các quan hệ gia đình, thừa kế. Theo đó do nhiều yếu tố trong các mối quan hệ trên tranh chấp xảy ra ngày càng nhiều lên. Khi phát sinh tranh chấp sinh ra một loạt các hậu quả như: mất thời gian, chi phí, tổn hại đến uy tín, danh dự của cá nhân, tổ chức tham gia. Vậy cơ chế nào cần được hình thành và phát triển để có thể phòng ngừa, ngăn chặn tranh chấp phát sinh trong các các quan hệ về bất động sản, kinh doanh, lao động mà còn trong các quan hệ gia đình, thừa kế. Đây là những vấn đề đang được tranh luận sôi nổi với nhiều quan niệm khác nhau và rất được quan tâm không chỉ bởi các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, mà còn bởi các công chứng viên và những người đang công tác trong lĩnh vực công chứng.

Song song với chính sách phát triển kinh tế, mỗi nước đã bắt đầu chương trình cải cách thể chế của hệ thống tư pháp và pháp luật, sự nảy sinh và phát triển mạnh mẽ những quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại, đòi hỏi có sự an toàn pháp lý cao và thể chế công chứng ở các nước này phải được nhanh chóng cải cách phù hợp với nền kinh tế thị trường, trong xu thế đó Công chứng Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Công chứng là hoạt động có ý nghĩa quan trọng nhằm duy trì trật tự pháp luật ổn định trong các giao dịch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao dịch, bảo đảm ổn định trật tự xã hội, phòng ngừa tranh chấp xảy ra, đồng thời cung cấp chứng cư đáng tin cậy khi xảy ra các tranh chấp. Việc tham gia vào các giao dịch của công chứng viên được thực hiện theo nhiều cách khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là được thể hiện dưới một hình thức chung nhất là hợp đồng, giao dịch đã được công chứng hay còn được gọi là văn bản công chứng. Mỗi quốc gia tùy theo đặc điểm hệ thống pháp luật mà văn bản công chứng được thể hiện khác nhau, nhưng việc quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng luôn được coi là giá trị cốt lõi trong pháp luật về công chứng. Trong công cuộc cải cách đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp đang được Đảng và Chính phủ rất quan tâm trong đó có cải cách về tổ chức và hoạt động của công chứng – một lĩnh vực quản lý tư pháp quan trọng trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc hoàn thiện pháp luật về công chứng các quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng cũng từng bước được bổ sung hoàn thiện cho phù hợp. Tại văn bản pháp lý đầu tiên Nghị định 45/HĐBT quy định về công chứng chỉ mới đề cấp đến “Các hợp đồng và giấy tờ được công chứng có giá trị chứng cứ” (Điều 1) thì đến Luật Công chứng 2014 các quy định giá trị pháp lý của văn bản công chứng (Điều 5) đã được quy định đầy đủ hơn là giá trị như một chứng cứ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, phòng ngừa tranh chấp, là bằng chứng xác thực, có giá trị sử dụng như bản gốc. Sự thay đổi này đã giúp cho luật Công chứng thể hiện được vai trò của mình với chức năng đảm bảo an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.

Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay vẫn còn mang tính hình thức, chưa có cơ chế đề thực hiện trên thực tế làm ảnh hưởng đến vị thế của công chứng trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính phục vụ việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Việc nghiên cứu giá trị pháp lý của văn bản công chứng để làm cơ sở tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này là một nhu cầu cấp thiết. Ngoài ra do thực tiễn công tác tại Văn phòng công chứng, trực tiếp chịu sự tác động của luật công chứng cũng là lý do tôi lựa chọn đề tài: “Giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học của mình.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học

2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Mặc dù có thời gian phát triển chưa dài những đã có nhiều đề tài, bài viết nghiên cứu về công chứng với tư cách là một thiết chế bổ trợ tư pháp như: “Một số vấn đề về công chứng giao dịch tài sản ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Đỗ Xuân Hòa; “Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Ngọc Nga; Luận án Tiến sĩ Luật học của Đặng Văn Khanh; “Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân trong lĩnh vực thực hiện các việc công chứng”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lê Thị Thúy; “Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học của Dương Khánh; “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Thị Phương Hoa; “Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường theo mô hình công chứng Latinh”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Toàn; “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Mai Trang.

Với tinh thần nghiên cứu, học hỏi một cách nghiêm túc, kế thừa những quan điểm tư tưởng tiến bộ của các công trình nghiên cứu trên, luận văn “Giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam” là đề tài nghiên cứu tương đối hệ thống mặt lý luận về công chứng, văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng và thực tiễn quy định của pháp luật về loại văn bản này để đề xuất những kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm đối với giá trị của văn bản công chứng.

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 

Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của công chứng, những quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến công chứng, văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng với tính chất của một văn bản xác thực (văn bản công). Tuy chưa đi sâu chi tiết phân tích về pháp luật của nhiều quốc gia, nhưng với phạm vi nghiên cứu mở rộng ngoài lãnh thổ quốc gia Việt Nam, luận văn đã khái quát một cách chung nhất về tình hình pháp luật điều chỉnh cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở Việt Nam hiện nay.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng, trong đó tập trung vào một số nội dung chủ yếu như: xác định rõ vai trò của công chứng, khái niệm văn bản công chứng và những nội dung cơ bản của văn bản công chứng; làm rõ nội hàm giá trị chứng cứ không phải chứng minh và hiệu lực thi hành của văn bản công chứng; đề xuất quan điểm, định hướng nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, đồng thời xây dựng cơ chế bảo đảm các quy định của pháp luật về hiệu lực thi hành của văn bản công chứng.

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng như những phương pháp chủ đạo, đảm bảo tính khách quan và tính khoa học. Ngoài ra, luận văn còn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể khác:

Phương pháp lịch sử học: Các vấn đề tiếp cận đều gắn liền với từng giai đoạn lịch sử, từ những tiến triển của quy định pháp luật công chứng, đến sự phát triển của văn bản công chứng.

Phương pháp phân tích tổng hợp: Việc phân tích các quy định của pháp luật trong lĩnh vực công chứng cho phép hiểu rõ giá trị của văn bản công chứng; thông qua đó đưa ra nhưng nhận định, kết luận có liên quan.

Phương pháp so sánh: Luật so sánh luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong việc nghiên cứu. Hiện nay, trong mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa công chứng các nước, rất nhiều kinh nghiệm hay được phố biến, trao đổi và nhiều bài học được rút ra trong việc thiết kế quy định liên quan tới văn bản công chứng.

5. Cơ cấu của luận văn Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giá trị pháp lý của văn bản công chứng

Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về giá trị pháp lý của văn bản công chứng.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về giá trị pháp lý của văn bản công chứng.

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG

1.1. Vai trò và đặc điểm của công chứng Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

1.1.1. Vai trò của công chứng

Nguồn gốc của hoạt động công chứng được tìm thấy trong văn hóa La mã cổ đại, xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ thứ 2 và thế kỷ thứ 3 sau công nguyên. Công chứng viên, trong luật La Mã đó là người với vai trò ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của Tòa án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy chuyển nhượng sở hữu và làm chứng [1, tr.40-47]. Theo đó, xét về nguồn gốc, công chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài người với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và làm chứng [55, tr.18].

Pháp luật dân sự đã trải qua thời kỳ trung cổ đến thời kỳ phục hưng từ thế kỷ 12 trở đi, thời kỳ này, công chứng phát triển thành tổ chức nghề luật ở hầu hết các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Theo Pierre-Francois Real, một trong những nhà biên soạn Luật Ventôse năm 1804 làm cơ sở cho việc thiết lập nghề công chứng ở nhiều quốc gia khác ngoài Cộng hòa Pháp như Bỉ, Đức, Áchentina, Áo và Thụy sĩ thì:

Những người tư vấn cho các bên đương sự một cách vô tư, giúp họ hiểu được phạm vị nghĩa vụ hợp đồng mà họ đã giao kết, soạn thảo các hợp đồng này một cách rõ ràng, làm chứng cho chúng có tính xác thực và có giá trị như một phán quyết chung thẩm, đóng vai trò bộ nhớ của đương sự và lưu giữ tuyệt đối hồ sơ của họ, hạn chế tranh chấp có thể nảy sinh giữa các bên một cách ngay tình: những người làm công việc như vậy chính là công chứng viên [41].

Nghiên cứu các tài liệu về lịch sử công chứng cho thấy, trên thế giới có ba hệ thống hệ thống công chứng, đó là hệ thống công chứng dân luật (hay còn gọi là công chứng latinh), hệ thống công chứng thông luật (hay còn gọi là hệ thống công chứng Anglo – Saxon) và hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) – hệ thống công chứng mà ở đó công chứng được coi như một hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức công chứng là cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước.

Hệ thống công chứng Latinh: (chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống luật La mã, còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự – Civil Law). Hệ thống này tồn tại ở hầu hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch và Anh); Châu Phi (các nước thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ – La tinh, bang Quebec của Canada, một số nước châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…).

Tại các nước trong hệ thống công chứng Latinh, nhà nước thừa nhận thể chế công chứng chuyên nghiệp, đề ra các quy định pháp lý để tổ chức và quản lý thiết chế công chứng một cách chặt chẽ. Phạm vi hoạt động của công chứng thường bao gồm các hợp đồng, giao dịch về bất động sản, thừa kế và các thỏa thuận về tài sản trong hôn nhân gia đình.

Cộng hòa Pháp (một điển hình của trường phái công chứng Latinh), Điều 1 Pháp lệnh số 45-2500 ngày 02/11/1945 về Điều lệ công chứng của Cộng hòa Pháp quy định: “Công chứng viên là viên chức công, được bổ nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó, các bên phải hoặc muốn đem lại tính xác thực giống như các văn bản của các cơ quan công quyền và để đảm bảo ngày, tháng chắc chắn, lưu giữ và cấp các bản sao văn bản công chứng” [55, tr.19]. (Điều 1) Điều lệ công chứng được ban hành kèm theo Lệnh số 48/FR ngày 29/8/1968 của Cộng hòa Bê-nanh cũng chép lại gần như nguyên văn điều luật trên) [66, tr.125].

Nhìn chung các nước thuộc hệ thống Latinh đều quy định công chứng là hoạt động của cơ quan công chứng xác nhận tính xác thực và tính hợp pháp của các hành vi pháp lý dân sự, sự kiện pháp lý và các văn bản pháp lý theo các trình tự quy định của pháp luật.

Hệ thống công chứng Anglo-Sacxon (còn được gọi là hệ thống pháp luật công chứng hình thức): Gắn liền với hệ thống pháp luật Common Law, tồn tại ở các quốc gia: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang Luisane), Canada (trừ bang Quebec), Singapore, Thái Lan, Đài Loan… Đặc điểm nổi bật của hệ thống này là việc công chứng chỉ mang tính hình thức, chú trọng đến tính xác thực về mặt hình thức như: nhận diện đúng khách hàng, xác định đúng thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi nhận sự kiện pháp lý mà không cần quan tâm đến tình trạng pháp lý của đối tượng.

Vương quốc Anh (một trong các điển hình của trường phái công chứng Anglo – Saxon), quy chế công chứng năm 1801, 1833, 1834 quy định:

Công chứng viên là viên chức được bổ nhiệm để thực hiện các hành công chứng sau: Soạn thảo, chứng nhận hoặc xác lập chứng thư và các giấy tờ khác có liên quan đến việc: chuyển nhượng hoặc xác lập giấy tờ khác có liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản và tài sản cá nhân, giấy ủy quyền liên quan đến bất động sản và tài sản cá nhân ở Anh, xứ Wales, các nước khác thuộc khối cộng đồng Anh hoặc ở nước ngoài; chứng nhận hoặc xác nhận các giấy tờ liên quan đến di chúc, lập kháng nghị hàng hải về sự cố xảy ra đối với tàu và hàng hóa trên tàu trong thời gian tàu đi trên biển [62, tr.90].

Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tồn tại ở các nước XHCN trước đây và phát triển mạnh vào các năm 70 của thế kỷ XX đến trước năm 1990, bao gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Bungari, Hungari, Rumani, Cu Ba, Trung Quốc, Việt nam [30] lại có quan niệm về công chứng khác với hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo – Saxon. Ở hệ thống công chứng Collectiviste, công chứng viên là công chức nhà nước, kiêm nhiệm cả việc chứng thực (thị thực hành chính; việc công chứng được giao cho cả các chủ thể không phải là công chứng viên đảm nhiệm; công chứng viên không có chứng chỉ hành nghề, không phải chịu trách nhiệm dân sự trước khách hàng, chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước Nhà nước về những sai phạm trong hoạt động của mình.

Tuy nhiên, hiện nay trong hệ thống công chứng Collectiviste, hầu hết các nước đã chuyển đổi xác định công chứng là một nghề tự do đặt dưới sự quản lý của Nhà nước và đang từng bước tiến hành cải cách công chứng từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng tư. Ví dụ: ở Ba Lan, Điều 1 Luật số 176 ngày 14/02/1991 về công chứng quy định: “Công chứng viên được bổ nhiệm để lập những văn bản mà trong đó, các bên phải hoặc muốn đem lại một tính đích thực” [66, tr.99].

Mặc dù hình thành ba hệ thống công chứng như trên, song chung quy lại, chỉ có hai mô hình công chứng: mô hình công chứng tự do (ở hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo-Sacxon) và mô hình công chứng nhà nước (chỉ tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste). Mô hình công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết chế nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, do nhà nước bổ nhiệm, với sự bao cấp toàn bộ của nhà nước, mô hình công chứng nhà nước chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hóa tập trung và nền kinh tế hiện vật, trong đó, các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại không phát triển, ở đó, vai trò công chứng chủ yếu là nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản cá nhân [30]. Mô hình công chứng tự do, các công chứng viên được Nhà nước bổ nhiệm, hành nghề tự do theo quy định của pháp luật đối với các hình thức văn phòng công chứng tư nhân hoặc văn phòng công chứng tập thể, tự chủ trong tổ chức, hoạt động, tự hạch toán và đóng thuế cho nhà nước.

Tóm lại, có thể thấy rõ ưu thế vượt trội của mô hình công chứng tự do so với mô hình công chứng nhà nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của công chứng viên, tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để các công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động nhiệt tình trong hoạt động của mình, giảm nhẹ sự bao cấp của nhà nước. Về mặt tổ chức và hoạt động, mô hình công chứng tự do tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng của nhân dân. Về vai trò, mô hình công chứng tự do có hai chức năng chính. Thứ nhất, là để ngăn chặn các tranh chấp pháp lý: việc chuẩn bị các văn bản công chứng mang lại bằng chứng rõ ràng liên quan đến các quyền lợi hợp pháp và giúp ngăn chặn tranh chấp pháp lý. Thứ hai, là để giải quyết các tranh chấp pháp lý: các văn bản công chứng đáp ứng được những yêu cầu nhất định sẽ cấu thành văn bản quy phạm có hiệu lực thi hành hoặc là cơ sở để một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết khi một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình [8].

Việt Nam hoạt động công chứng xuất hiện từ những năm 80 của thế kỷ XIX [4, tr.12], hoạt động công chứng của nước ta ở giai đoạn này đều áp dụng theo mô hình của Pháp, một hợp đồng giữa hai bên là người Việt Nam có thể làm dưới hình thức: (i) Do hai bên đương sự thỏa thuận và ký (được gọi là tư chứng thư); (ii) Do chính quyền thị thực tức là do trưởng phố ở các thành thị và lý trưởng ở nông thôn thị thực hoặc do Công chứng viên lập (công chứng thư).

Cách mạng Tháng 8 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cùng với việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới, ngày 01/10/1945 chính quyền cách mạng đã quyết định về một số vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng. Hệ thống công chứng nhà nước của Việt Nam được hình thành trên cơ sở Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp về công tác công chứng nhà nước và Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn thực hiện các việc công chứng; Quyết định số 90/HĐBT ngày 19/07/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về con dấu của phòng công chứng nhà nước. Tính đến thời điểm 27/02/1991 thời điểm ban hành Nghị định số 45/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, trên cả nước đã thí điểm thành lập 29 phòng công chứng nhà nước ở 29 tỉnh, thành phố.

Theo Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp, công chứng nhà nước được xác định:

Là một hoạt động của Nhà nước với mục đích giúp các công dân, cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [2].

Lần đầu tiên kể từ khi thành lập nước (02/9/1945), khái niệm công chứng nhà nước được đưa ra ở Việt Nam, đánh dấu sự đổi mới về tư duy pháp lý, bước đầu đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế ở giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi.

Cùng với quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xóa bỏ triệt để cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. Trong vòng 10 năm (1991-2000), Chính phủ đã ban hành ba nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, đó là: Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số 45/HĐBT); Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số 31/CP) và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực (sau đây gọi tắt là Nghị định số 75/2000/NĐ-CP).

Theo Nghị định số 45/HĐBT, thuật ngữ công chứng được xác định như sau:

Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [31, Điều 1].

Đến Nghị định số 31/CP, công chứng được xác định:

Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [11]. Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng ở Nghị định này đã được xác định khoa học hơn, tiệm cận gần hơn với quan niệm chung của thế giới về công chứng. Theo Nghị định này:

Công chứng là việc phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này [12, Điều 2, khoản 1].

Luật Công chứng số 82/2006/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Luật Công chứng đã quy định tại Điều 2 như sau:

Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.

Về cơ bản định nghĩa công chứng vẫn không thay đổi so với các Nghị định trên.

Hiện này, tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam đang chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật Công chứng số 53/2014/QH13 được được Quốc Hội thông qua ngày 20/06/2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2915. Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014 quy định:

Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.

Qua phân tích về khái niệm công chứng của nước ta qua các thời kỳ có thể thấy cách thể hiện khái niệm có sự khác nhau, nhưng tất cả có sự giống nhau cơ bản là xác định công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng, giao dịch và nhằm bảo đảm cho hợp đồng, giao dịch được giao kết hoặc xác lập không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Nó cũng thể hiện rõ việc công chứng tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch (công chứng nội dung) đã được xác lập ở Việt Nam ngay từ khi được hình thành và được kế thừa trong nhiều văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động công chứng.

Việc xác định mô hình công chứng theo hướng nêu trên xuất phát từ việc nước ta là một nước có hệ thống luật thành văn, hơn nữa thực tiễn hoạt động công chứng cho thấy công chứng tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đã phát huy một ưu điểm quan trọng đó là bảo đảm tính chặt chẽ, an toàn về mặt pháp lý của hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật nhất là trong điều kiện hệ thống pháp luật nước ta còn chưa đồng bộ, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn chưa cao, đồng thời đây cũng là xu hướng chung của công chứng thế giới hiện nay. Chính vì vậy, thực hiện chủ trương được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là “hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để xã hội hóa công việc này” [28]. Với việc cách xác định nội hàm của thuật ngữ “công chứng” trong Luật Công chứng 2014, hoạt động công chứng ở Việt Nam dần trở về đúng bản chất là một hoạt động dịch vụ công, đồng thời là một nghề do công chứng viên thực hiện, nhằm mang lại tính xác thực cho các hợp đồng, giao dịch qua đó bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên giao kết, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật. Xét dưới góc độ hội nhập thì khái niệm này cơ bản phù hợp với quan niệm về công chứng theo hệ thống Latinh và cùng với đó, cơ chế quản lý công chứng cũng được xác định một cách cụ thể hơn cho phù hợp với tình hình mới.

Như vậy bản chất hoạt động công chứng là loại hoạt động mang tính chất dịch vụ công. Bằng hành vi công chứng của mình, công chứng viên đã cung cấp một dịch vụ về an toàn pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức bảo đảm tính hợp pháp và an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch, hợp đồng, phòng ngừa các tranh chấp có thể xảy ra về sau giữa các bên. Điểm đặc biệt trong dịch vụ mà Công chứng viên cung cấp cho các bên là dịch vụ mang yếu tố quyền lực nhà nước, có quyền nhân danh nhà nước để chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, như vậy nhà nước đã gắn cho văn bản công chứng một giá trị giống như một quyết định, một bản án của Toà án nếu xét trên góc độ thi hành.

Các học giả phương Tây khi nghiên cứu một cách tổng thể pháp luật công chứng của Việt Nam và các nước phương Tây đã đánh giá rằng Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với nhiều tranh chấp về quyền sở hữu đất đai. Ở các nước theo truyền thống luật thành văn, các tranh chấp này không tồn tại bởi Nhà nước đã trao thẩm quyền duy nhất cho các công chứng viên để thực hiện toàn bộ các giao dịch chuyển đổi bất động sản (như mua bán, chia tách hay thừa kế). Công chứng viên là người bảo đảm, là chủ thể của hệ thống tài sản đất đai và là thẩm phán của hợp đồng. Công chứng viên biết rằng họ trực thuộc một cơ quan thống nhất đặt dưới thẩm quyền của Nhà nước. Vấn đề ở đây không phải là trao lợi thế cho một ngành nghề cụ thể, mà là để xã hội có được những “thẩm phán hợp đồng” độc lập, đáng tin cậy và công bằng. Đó là cơ sở để có được sự hài hòa trong xã hội. Có thể thấy rằng những giá trị, ý nghĩa, vai trò của công chứng và công chứng viên vừa nêu của hệ thống công chứng Latinh chưa được thể hiện hoặc thể hiện còn khá mờ nhạt trong pháp luật Việt Nam.

1.1.2. Đặc điểm của công chứng Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Từ việc phân tích vai trò của công chứng, có thể thấy công chứng có các đặc điểm cơ bản:

Thứ nhất, công chứng là một hoạt động mang tính chuyên môn nghề nghiệp của công chứng viên

Ngày nay, an ninh luật pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các xã hội phương tây và công chứng viên là nguồn đảm bảo cho sự an ninh này. Mặc dù cách thể hiện khác nhau, song về cơ bản công chứng viên tại các nước theo truyền thống luật thành văn được hiểu là viên chức công được bổ nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên phải hoặc muốn đảm bảo tính xác thực của văn bản đó giống như văn bản của các cơ quan công quyền khác và đảm bảo việc lưu giữ, cấp bản sao của văn bản đó (Pháp, Đức, Ba Lan, Tây Ban Nha…) bởi vậy hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn nghề nghiệp của công chứng viên. Chỉ có công chứng viên, người được đào tạo về chuyên môn và được cơ quan nhà nước trao quyền mới được thực hiện hoạt động này.

Đặc điểm này của hoạt động công chứng được biểu hiện như sau: Các phòng công chứng, văn phòng công chứng thực hiện hoạt động công chứng bằng kiến thức chuyên môn nghề nghiệp của các công chứng viên là những người do Nhà nước bổ nhiệm với đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng. Công chứng viên bằng sự kiến thức pháp luật và kinh nghiệm nghề nghiệp, với sự khách quan, vô tư phải đảm bảo xác định đúng chủ thể, đối tượng, nội dung, tính chất của hợp đồng giao dịch, xác định các quan hệ pháp lý phát sinh xung quanh yêu cầu công chứng, hậu quả pháp lý có thể xảy ra. Xét trên một khía cạnh khác, công chứng viên tham gia nhằm giúp các bên thể hiện sự thỏa thuận nhất trí của mình theo quy định của pháp luật chứ không phải là người tham gia giải quyết tranh chấp giữa các bên. Với ý nghĩa đó công chứng viên còn được coi là “thẩm phán phòng ngừa” [39, tr.2]

Nếu so sánh về vai trò của công chứng viên giữa hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo – Sacxong thì có thể thấy rõ công chứng viên tại các nước thuộc hệ thống thứ nhất có vị trí, vai trò, chức năng rõ rệt, quan trọng hơn hẳn hệ thống thứ hai.

Hệ thống công chứng Latinh ở Pháp, Tây Ban Nha, Đức và Trung Quốc mang lại cho công chứng viên vai trò của “thẩm phán phòng ngừa” đúng nghĩa, thể hiện giá trị chứng cứ không phải chứng minh và hiệu lực thi hành cho văn bản công chứng, điều này rất quan trọng đối với hòa bình xã hội vì chúng mang đến cho người dân sự đảm bảo về pháp luật cho tất cả các thủ tục dân sự cần thiết: hôn nhân, thừa kế, quyền sở hữu đất và thành lập kinh doanh. Công chứng viên không chỉ soạn văn bản mà còn là nhân chứng có đặc quyền của văn bản công chứng được các bên nhất trí. Công chứng viên cũng không phải là nhân viên tư vấn của một bên để gây thiệt hại cho bên kia mà là chuyên gia khách quan và không thiên vị để lập ra những hợp đồng công bằng vì lợi ích của tất cả mọi người. Về quyền sở hữu, công chứng viên đảm bảo sự an toàn gần như tuyệt đối cho người nắm giữ quyền này. Nhờ đó, ở các nước phương tây, các tranh chấp về quyền sở hữu gần như không tồn tại.

Công chứng viên của các nước thuộc hệ thống công chứng Latinh đóng vai trò then chốt trong luật về bất động sản, luật thế chấp, luật về hợp đồng, luật công ty cũng như các luật khác về gia đình và thừa kế. Ví dụ như trong hệ thống “công lý phòng ngừa” của Đức thì chức năng nhiệm vụ của các công chứng viên dân luật bổ sung cho vai trò của thẩm phán. Theo báo cáo của Đức tại Đại hội quốc tế công chứng Latinh thì “công chứng viên có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ pháp lý nhằm bảo đảm và bảo vệ hoạt động vì an ninh pháp lý và tránh xung đột về lợi ích của các bên tư nhân có liên quan và vì lợi ích chung của cộng đồng” [70].

Việc một công chứng viên can thiệp là điều được pháp luật đòi hỏi đối với những giao dịch quan trọng có tác động lâu dài hoặc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế hay cá nhân đối với các bên liên quan. Cái cốt lõi trong hoạt động của một công chứng viên là nhằm mục đích ngăn ngừa xung đột từ đó giảm bớt gánh nặng cho tòa án, là việc thông báo các giao dịch hợp pháp, cung cấp lời khuyên và dịch vụ trung lập cho các bên quan tâm trong việc thực hiện các giao dịch hợp pháp đã được công chứng [70].

Cũng thuộc hệ thống công chứng Latinh, song ở Nhật Bản và Hàn Quốc, hệ thống công chứng đem lại cho công chứng viên vai trò của nhân chứng và cán bộ chứng nhận. Họ chỉ có quyền yêu cầu thi hành nghĩa vụ trả tiền.

Như vậy, có thể thấy được, hoạt động công chứng là hoạt động nghề nghiệp có tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao của công chứng viên, khác với hoạt động chuyên môn thuần túy của các công chức hành chính. Ý nghĩa pháp lý của hoạt động công chứng là đảm bảo giá trị thực hiện cho các hợp đồng giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp xảy ra (văn bản công chứng là một công chứng thư). Bản thân hoạt động công chứng chứa đựng tính phức tạp, đa dạng của của các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có các quy định nghiêm ngặt về điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên. Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Thứ hai, hoạt động công chứng chịu sự quản lý của Nhà nước Đặc điểm này được thể hiện ở các hệ thống công chứng như sau: các nước theo hệ Latinh, công chứng viên được Nhà nước ủy thác một phần quyền lực và trao cho con dấu riêng có khắc tên công chứng viên đó. Với tư cách là ủy viên công quyền, công chứng viên có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, thể hiện ở việc chính họ được người đứng đầu Nhà nước hoặc Bộ trưởng Tư pháp bổ nhiệm và được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Mặt khác, hệ thống công chứng La tinh và hệ thống công chứng Anglo-Saxon đều coi công chứng là một nghề tự do. Công chứng viên hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình. Tuy nhiên, đó là một nghề đặc biệt, đòi hỏi công chứng viên phải có trình độ chuyên môn (luật) và kỹ năng nghiệp vụ được nhà nước công nhận để có thể đảm bảo tính xác thực cho các hợp đồng vốn rất phức tạp, bởi vậy, công chứng viên do nhà nước bổ nhiệm hoặc công nhận theo các điều kiện, tiêu chuẩn do luật định và hoạt động theo chế động chứng chỉ hành nghề [55, tr.18].

Hệ thống công chứng Collectiviste là một thế chế công chứng được tổ chức khá chặt chẽ, hoạt động chuyên nghiệp bằng sự bao cấp của nhà nước thông qua việc cấp ngân sách hành chính để đầu tư cơ sở vật chất, trả lương và hoạt động. Tổ chức công chứng là một loại hình cơ quan bổ trợ tư pháp trong bộ máy hành pháp của Chính phủ. Công chứng viên được nhà nước bổ nhiệm để hành nghề chuyên nghiệp, không kiêm nhiệm công việc khác; thực chất, họ là công chức, viên chức nhà nước [53, tr.20].

Vấn đề quản lý của Nhà nước đối với hoạt động công chứng đã được luật công chứng cùng các Nghị định hướng dẫn quy định cụ thể trong các điều luật về thành lập tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng, phí công chứng, tiêu chuẩn công chứng viên, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công chứng … tất cả đều sự quản lý của các cơ quan nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước về công chứng là sự phối hợp giữa chính phủ, Bộ tư pháp, Bộ ngoại giao, bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về công chứng, luật công chứng phân định rõ nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan trong quản lý về tổ chức hoạt động công chứng, theo hướng tăng cường vai trò của ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với việc phát triển và quản lý hệ thống tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương mình, đồng thời đảm bảo tính thống nhất trong việc quản lý nhà nước về công chứng trên phạm vi toàn quốc, đảm bảo các tổ chức hành nghề công chứng hoạt động trong khuôn khổ các quy định của pháp luật, phát huy được vai trò, tầm quan trọng của công chứng trong đời sống xã hội.

Thứ ba, kết quả của hoạt động công chứng là văn bản công chứng Văn bản công chứng là văn bản do công chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt buộc, ghi lại một cách chính xác ngày, tháng, năm, địa điểm giao kết và ý chí, nguyện vọng của các bên khi tham gia hợp đồng giao dịch.

Theo Jean Paul Decorps, nguyên Chủ tịch Liên minh công chứng Latinh quốc tế, giá trị chứng cứ không phải chứng minh và hiệu lực thi hành của văn bản công chứng được coi là hai “đặc quyền” [40, tr.19] cơ bản công chứng. Bộ luật dân sự Pháp, tại điều 1319: “Văn bản công chứng đem lại sự tin cậy đầy đủ cho hợp đồng”; Điều 1317: “Văn bản công chứng là văn bản được công chứng viên lập để làm chứng, tại một địa điểm và theo những thể thức bắt buộc” [56, tr.31].

Có thể thấy, văn bản công chứng được tạo lập, trước hết đảm bảo giá trị thực hiện đối với các bên trong giao dịch, đồng thời có giá trị đối với cả bên thứ ba. Hợp đồng, giao dịch khi đã được công chứng theo các quy định của pháp luật thì giá trị pháp lí của hợp đồng, giao dịch đó sẽ được nhà nước thừa nhận. Văn bản đã được công chứng sẽ có ý nghĩa rang buộc các bên tự nguyện thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà không cần sự phán xét của Tòa án. Trừ khi bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện theo văn bản đã công chứng thì bên còn lại trong hợp đồng, giao dịch có quyền yêu cầu tòa án xét xử theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là văn bản đã được công chứng luôn tạo ra một biện pháp an toàn cho các bên khi tranh chấp xảy ra. Đây chính là giá trị chứng cứ của các hợp đồng, giao dịch đã được công chứng. Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, những văn bản đã được công chứng chính là bằng chứng không thể chối cãi giữa các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Từ đó, quyền, lợi ích hợp pháp của các bên được bảo vệ và đảm bảo thực hiện.

Trên thế giới hiện nay, các hệ thống công chứng khác nhau có quan điểm khác nhau khi xác định giá trị chứng cứ của văn bản công chứng.

Hệ thống công chứng Anglo-Sacxon là công chứng hình thức, nghĩa là khi tiến hành hoạt động công chứng, người hành nghề công chứng chỉ ghi nhận lại và chứng nhận sự kiện pháp lý đã xảy ra, họ chỉ chú trọng đến việc nhận diện đúng chủ thể tham gia giao dịch, ghi lại đúng thời gian, địa điểm tiến hành giao kết hợp đồng, ghi lại chính xác thỏa thuận của các bên và ý chí của từng bên… chứ họ không cần quan tâm đến việc xác định tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không cần biết thỏa thuận của các bên tham gia giao dịch có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không… và họ không phải chịu trách nhiệm nếu giao dịch đó là bất hợp pháp hay khi trong hợp đồng đó có điều khoản nào đó bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba. Việc công chứng không quan tâm đến nội dung của hợp đồng giao dịch như vậy nên những hợp đồng, văn bản được lập bởi những người hành nghề công chứng trong hệ thống pháp luật công chứng Anglo-Sacxon mang lại sự an toàn pháp lý thấp, không được coi là chứng cứ xác thực, hiển nhiên trước tòa án, tỷ lệ tranh chấp xảy ra nhiều hơn so với công chứng của các hệ thống pháp luật khác.

Hệ thống công chứng Latinh là công chứng nội dung, văn bản công chứng được lập theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật định, công chứng viên không chỉ chứng nhận, đảm bảo và chịu trách nhiệm về tính xác thực của hợp đồng, giao dịch mà còn phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các hợp đồng, giao dịch đó, đảm bảo không xâm hại lợi ích của người thứ ba hoặc của Nhà nước. Bởi vậy, công chứng viên đem lại cho văn bản giá trị như văn bản do cơ quan công quyền cấp, đảm bảo cho các hợp đồng một sự an toàn trong mọi tình huống, hạn chế được đến mức thấp nhất những tranh chấp dân sự, làm giảm bớt gánh nặng quá tải về xét xử của các Tòa án. Công chứng viên giữ vai trò quan trọng để đảm bảo trật tự pháp lý, đó là vai trò bổ trợ tư pháp như một thẩm phán về hợp đồng, nhằm phòng ngừa tranh chấp. Chính vai trò mang tính chất phòng ngừa này của công chứng viên là một ưu điểm trong hệ thống luật Châu Âu lục địa so với hệ thống luật Anh – Mỹ [53, tr.12-13].

1.2. Khái niệm và đặc điểm của văn bản công chứng Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

1.2.1. Khái niệm văn bản công chứng

Khái niệm về văn bản công chứng được dựa trên khái niệm trong luật Châu âu Lục địa về công lý phòng ngừa. Trên thực tế, văn bản công chứng là nền tảng của khái niệm “công lý phòng ngừa”, theo khái niệm về công lý phòng ngừa, nhà nước không chỉ tham gia quyết định các tranh chấp pháp lý có thể hồi tố, thay vào đó, nhà nước còn kiểm soát tính hợp pháp để phòng ngừa thông qua sự chứng nhận của văn phòng công chứng, cụ thể là của các công chứng viên dân luật với tư cách là người đại diện cho văn phòng công chứng đối với các giao dịch có tầm quan trọng nhất định về mặt kinh tế, lợi ích của cá nhân đối với lợi ích chung hoặc đối với các bên có liên quan.

Qua nghiên cứu pháp luật thực định của các nước theo trường phái công chứng Latinh cho thấy khái niệm văn bản công chứng và những vấn đề liên quan đến loại văn bản này có thể được quy định một cách trực tiếp bằng điều luật riêng hay gián tiếp thông qua các quy định về thủ tục công chứng, giá trị pháp lý của việc công chứng… nhưng nhìn chung đều khẳng định văn bản công chứng là sản phẩm của công chứng viên, do công chứng viên soạn hoặc xác nhận với những yêu cầu chặt chẽ cả về nội dung và hình thức, nhờ đó có giá trị pháp lý cao.

Theo thông lệ, bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng đều có quyền soạn thảo một văn bản nhưng những văn bản đó chỉ đơn thuần là văn bản do họ tự lập (tư chứng thư) và do đó chúng chỉ có ý nghĩa như một tờ giấy mà trên đó họ đã viết. Tuy nhiên, một văn bản do cơ quan công quyền lập thì có tầm quan trọng đặc biệt. Ở những nước theo hệ thống luật thành văn, những nhà lập pháp đã tin tưởng, coi công chứng viên như những viên chức công và văn bản do họ soạn thảo, chứng nhận như văn bản của cơ quan công quyền (công chứng thư).

Theo luật quốc gia thuộc hệ thống Latinh, văn bản công chứng được định nghĩa như sau:

  • Là văn bản phải do cơ quan công quyền hoặc công chức ban hành.
  • Cơ quan chứng nhận hoặc công chức đó phải được trao quyền để chứng nhận các loại giấy tờ được thảo luận.
  • Cơ quan chứng nhận hoặc công chức đó phải hành động trong phạm vi thẩm quyền của mình khi phát hành văn bản công chứng.
  • Cơ quan chứng nhận hoặc công chức đó phải tuân theo thủ tục chứng nhận cụ thể.
  • Cơ quan chứng nhận hoặc công chức đó phải tuân theo các quy định có liên quan về thủ tục soạn thảo và ban hành văn bản công chứng.
  • Hiệu lực pháp lý đưa đến là văn bản công chứng mang lại chứng cứ thuyết phục về nội dung của văn bản.
  • Nhìn chung, các nghĩa vụ phát sinh từ văn bản công chứng đều có hiệu lực thi hành (ở một số quốc gia là theo quy định của pháp luật; còn ở các nước khác là khi văn bản công chứng tuyên bố sự chấp nhận thực thi cụ thể) [8].

Theo pháp luật của Cộng hòa Pháp, một trong những nước điển hình của trường phái công chứng Latinh, Điều 1317 Bộ luật Dân sự của nước này quy định “Công chứng thư là chứng thư được lập bởi các nhân viên công quyền có quyền lập văn bản tại nơi mà chứng thư được soạn thảo và theo những thể thức trang trọng cần thiết” [38]. Và theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh ngày 2/11/1945 của Cộng hòa Pháp thì “công chứng viên là nhân viên công quyền được bổ nhiệm để lập văn bản, hợp đồng mà đương sự phải hoặc muốn được công chứng, làm cho các văn bản đó có giá trị xác thực như văn bản của cơ quan công quyền …” [66]. Như vậy, văn bản công chứng – Actenotarie, văn bản do công chứng viên (nhân viên công quyền) soạn thảo được coi là một loại công chứng thư.

Loại văn bản thường gặp nhất trong hoạt động công chứng là hợp đồng, được công chứng viên lập nhiều nhất. Hợp đồng mà công chứng viên lập có thể là hợp đồng song vụ (hợp đồng có cam kết của hai bên) hoặc hợp đồng đơn vụ (hợp đồng chỉ có cam kết của một bên). Các hợp đồng có công chứng thường do chính công chứng viên soạn thảo (tại các nước như Đức, Pháp… thì chỉ công chứng viên mới có quyền soạn thảo hợp đồng, không chấp nhận việc các bên tự xây dựng hợp đồng). Ý chí của các bên được công chứng viên thể hiện một cách rõ ràng trong hợp đồng. Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Ngoài ra, các loại văn bản công chứng cũng được ghi nhận trong hoạt động công chứng như: Luật công chứng của Pháp cho phép công chứng viên chứng nhận văn bản do các bên lập sẵn từ trước và nộp cho công chứng viên để làm văn bản gốc. Tuy vai trò của công chứng viên đối với những văn bản này không lớn như khi công chứng viên tự mình soạn thảo hợp đồng, song công chứng viên vẫn phải kiểm tra tính trung thực, tính hợp pháp của các văn bản này trước khi chứng nhận. Việc chứng nhận có thể kèm theo thủ tục thừa nhận và chứng thực chữ ký. Khi đó, văn bản đó vẫn có đầy đủ giá trị chứng cứ và hiệu lực pháp luật.

Công chứng viên của Pháp cũng có thể lập văn bản ghi lại nội dung xác nhận của các bên về một vụ việc cụ thể (xác nhận để lại thừa kế, xác nhận về thông tin người thừa kế… công chứng viên cũng có quyền lập giấy chứng nhận, chứng thực – những việc mà công chứng viên thực hiện với quyền hạn của chính mình sau khi đã xem xét đầy đủ các giấy tờ, tài liệu cho phép công chứng viên nắm được sự kiện hoặc tình trạng pháp lý.

Việt Nam, Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2011 thì văn bản là “bản chép tay hoặc in ấn với một nội dung nhất định, thường để lưu lại lâu dài” [67, tr.1744]. Thuật ngữ pháp lý “Văn bản công chứng” được sử dụng lần đầu tiên tại Thông tư số 858/QLTP ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng. Tại Mục 9 phần II, của Thông tư khẳng định cách thức “đảm bảo quy định về thủ tục lập văn bản công chứng” như sau: “Các văn bản công chứng phải lập theo đúng mẫu quy định thống nhất, sạch, đẹp, rõ ràng, mạch lạc, không tẩy xóa, có dấu giáp lai và ký nhận khi sửa chữa” [3]. Như vậy, mặc dù không đưa ra khái niệm như thế nào là văn bản công chứng nhưng các nhà làm luật đã đề ra một số yêu cầu về mặt hình thức đối với sản phẩm nghề nghiệp của công chứng viên. Đây là yêu cầu cơ bản mang tính nền tảng về mặt hình thức đối với loại hình văn bản mang tính chất đặc thù này.

Sau này thuật ngữ pháp lý “Văn bản công chứng” tiếp tục được sử dụng rộng rãi trong các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực công chứng qua từng thời kỳ. Điều 7 Nghị định số 45/HĐBT khẳng định: “văn bản công chứng phải thể hiện rõ ràng và theo đúng mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp quy định. Hồ sơ, văn bản công chứng và sổ công chứng phải được lưu trữ, bảo quản đầy đủ, chặt chẽ, lâu dài tại Phòng công chứng nhà nước” [31]. Như vậy thuật ngữ “văn bản công chứng” tiếp tục được sử dụng nhưng các nhà làm luật vẫn chưa đưa ra khái niệm văn bản công chứng một cách chính thống. Điểm đáng lưu ý nhất về quy định văn bản công chứng tại Nghị định này là quy định chữ viết thể hiện trong văn bản công chứng phải là tiếng Việt, cụ thể là Điều 3 quy định: “Tiếng nói và chữ viết dùng trong khi thực hiện công chứng là tiếng Việt; trường hợp người nước ngoài đến yêu cầu công chứng không biết tiếng Việt, thì phải có phiên dịch” [31]. Lần đầu tiên pháp luật khẳng định văn bản công chứng phải thể hiện theo một mẫu được ban hành thống nhất. Đây là một nội dung nhằm chuẩn mực hóa hình thức cũng như nội dung văn bản công chứng. Tuy nhiên, tại thời điểm đó cũng chưa có bất kỳ một bộ mẫu văn bản công chứng nào được ban hành, ngoại trừ mẫu “Giấy chứng nhận trị giá tài sản bằng hiện vật thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân để đăng ký kinh doanh” và “Giấy chứng nhận trị giá tài sản bằng hiện vật của công ty cổ phần để làm thủ tục xin phép phát hành trái phiếu” được ban hành kèm theo Thông tư số 120/TT-CC ngày 26/02/1992 của Bộ Tư pháp.

Đến Nghị định số 31/CP thay thế Nghị định số 45/HĐBT, các quy định về văn bản công chứng cũng có một số thay đổi nhất định, cụ thể là bên cạnh thuật ngữ “văn bản công chứng” còn có thêm thuật ngữ “nội dung công chứng”. Cụ thể, Điều 7, Nghị định số 31/CP quy định: “Nội dung công chứng phải được thể hiện rõ ràng và theo đúng mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp quy định. Các văn bản công chứng phải được công chứng viên ký, đóng dấu và ghi vào sổ công chứng” [11]. Để hướng dẫn thực hiện các quy định về văn bản công chứng, nội dung công chứng như đã nêu trên, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Thông tư 1411/TT.CC, trong đó quy định khá cụ thể về trình tự, thủ tục soạn thảo, hình thức thể hiện cũng như nguyên tắc mang tính định hướng cho nội dung văn bản công chứng. Cùng với sự hoàn thiện và phát triển của chế định công chứng qua các thời kỳ, có thể thấy rằng đến thời điểm này, các quy định mang tính nền tảng về nội dung, hình thức của văn bản công chứng đã dần được định hình một cách tương đối rõ nét.

Đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, lần đầu tiên khái niệm văn bản công chứng được quy định tại khoản 1 Điều 14: “Văn bản công chứng là những hợp đồng, giao dịch, bản sao giấy tờ, chữ ký cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho các giao dịch được Phòng công chứng chứng nhận” [12]. Khái niệm về văn bản công chứng nêu trên bám rất sát các quy định về phạm vi công chứng và thẩm quyền công chứng, theo đó sẽ có bốn loại văn bản công chứng là hợp đồng, giao dịch; bản sao giấy tờ; chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ và bản dịch giấy tờ. Nếu như trước đây, văn bản công chứng và nội dung công chứng phải được thể hiện theo mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp ban hành và chỉ được thể hiện bằng tiếng Việt thì nay hợp đồng, giao dịch công chứng có thể được soạn thảo sẵn hay được thể hiện theo mẫu hoặc do người thực hiện công chứng soạn thảo và cũng có thể được thể hiện bằng tiếng nước ngoài. Cũng tại Nghị định này, lần đầu tiên các nhà làm luật đưa ra thuật ngữ lời chứng trong văn bản công chứng. Bên cạnh đó, Thông tư số 03/2001/TP-CC của Bộ Tư pháp còn ban hành 4 mẫu lời chứng tương ứng với 4 loại việc công chứng như đã nêu trên. Năm 2006, Luật Công chứng ra đời, khái niệm và nhiều quy định về văn bản công chứng cũng được hoàn thiện thêm một bước quan trọng. Theo đó văn bản công chứng là “Hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã được công chứng theo quy định của Luật” [42]. Luật công chứng 2014 hiện hành đã quy định một cách cụ thể hơn “Văn bản công chứng là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công chứng viên chứng nhận theo quy định của Luật” [44].

Khác với các hợp đồng, giao dịch thông dụng, văn bản công chứng bao gồm hai yếu tố. Một là nội dung của hợp đồng, giao dịch được thể hiện trên giấy. Các nội dung này thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên khi tham gia giao dịch. Công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra nội dung của hợp đồng, giao dịch để đảm bảo những nội dung đó không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội và công chứng viên sẽ thực hiện chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của các nội dung đó theo một trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Hai là lời chứng của công chứng viên phải ghi rõ các nội dung sau: thời điểm, địa điểm công chứng, họ, tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng; chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ trong hợp đồng, giao dịch đúng là chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của người tham gia hợp đồng, giao dịch; trách nhiệm của công chứng viên đối với lời chứng; có chữ ký của công chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.

Từ những phân tích trên theo quan điểm cá nhân tác giả xin đưa ra một cách định nghĩa dành cho văn bản công chứng như sau: Văn bản công chứng là sản phẩm của công chứng viên, do công chứng viên soạn hoặc xác nhận với những yêu cầu chặt chẽ cả về nội dung, hình thức đảm bảo tính xác thực, tính hợp pháp và không trái đạo đức xã hội.

1.2.2. Đặc điểm của văn bản công chứng Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Từ quy định về văn bản công chứng như đã phân tích ở trên, có thể thấy văn bản công chứng có các đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, văn bản công chứng có tính chính xác về thời gian, địa điểm công chứng và chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch.

Do tính chất và giá trị pháp lý rất cao, văn bản công chứng thường phải đáp ứng những yêu cầu rất nghiêm ngặt về thời gian, địa điểm công chứng và chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch. Thời gian công chứng phải chính xác ngày, tháng, năm; trong một số trường hợp như công chứng di chúc hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng, thời gian công chứng còn phải chính xác cả giờ, phút. Ngày, tháng, năm trong lời chứng của công chứng viên ghi bằng chữ. Ngoài ra, các số liệu trong văn bản công chứng, sau phần ghi bằng số phải ghi bằng chữ để tránh sai lệch hoặc sửa chữa.

Chính xác về thời gian công chứng, văn bản công chứng còn phải chính xác về địa điểm công chứng. Theo quy định tại Điều 44 Luật công chứng 2014 về địa điểm công chứng thì việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng. Việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng nếu người yêu cầu công chứng là người già yếu không thể đi lại được, là người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.

Văn bản công chứng cũng thể hiện sự chính xác về chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch (người yêu cầu công chứng). Ở một số nước như Pháp, Đức… quy định công chứng viên cần tự mình dự thảo các hợp đồng hôn nhân, mua bán tài sản cũng như các văn bản khác như cho tặng, chuyển giao tài sản sau khi chết, cầm cố, v.v… Tuy nhiên, bên cạnh các hợp đồng do công chứng viên trực tiếp soạn thảo, có nhiều nước khác cho phép người yêu cầu công chứng tự mình soạn thảo hợp đồng và công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra dự thảo hợp đồng đó. Các bên phải cung cấp cho công chứng viên tất cả các văn bản được yêu cầu, danh tính và các văn bản hỗ trợ, liên quan đến nhu cầu của họ. Văn phòng công chứng phải xác minh tính trung thực của mỗi văn bản và đảm bảo rằng yêu cầu của họ không vi phạm pháp luật [8].

Tại Việt Nam, theo quy định tại Điều 2 Luật công chứng 2014 thì “Người yêu cầu công chứng là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài”. Nếu người yêu cầu công chứng là tổ chức thì việc yêu cầu công chứng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức đó. Một trong những hoạt động không thể thiếu của công chứng viên trong quá trình giải quyết việc công chứng là phải kiểm tra, nhận dạng người yêu cầu công chứng thông qua các giấy tờ tùy thân, để xác định được chủ thể tham gia giao dịch có đủ điều kiện giao kết hợp đồng, giao dịch. Như vậy, bất luận vì lý do gì dẫn đến việc không chính xác về chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch sẽ là nguyên nhân dẫn đến việc mất hiệu lực của văn bản công chứng.

Thứ hai, văn bản công chứng chính thức hóa, công khai hóa các sự kiện pháp lý

Đặc điểm này được thể hiện rất rõ ngay từ những văn bản đầu tiên quy định về hoạt động công chứng, tại thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987, theo đó công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước “nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện” [2]. Ý chí của các bên phải được thể hiện rõ trong văn bản công chứng vì đây sẽ là cơ sở cho việc thực hiện hoạt động công chứng. Theo quy định tại khoản 5 Điều 40 Luật công chứng 2014 trong trường hợp có căn cứ cho rằng “trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép” hoặc “có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc đối tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mô tả cụ thể” thì “công chứng viên đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng”.

Thứ ba, văn bản công chứng là những văn bản phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội

Sự phù hợp của nội dung văn bản công chứng với pháp luật, đạo đức xã hội là điều kiện cơ bản, quan trọng để văn bản công chứng đó có giá trị pháp lý. Khi thực hiện việc công chứng, công chứng viên có trách nhiệm xem xét các nội dung của hợp đồng, giao dịch có phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành về đạo đức xã hội hay không. Khoản 6 Điều 40 Luật công chứng 2014 quy định: Công chứng viên kiểm tra dự thảo hợp đồng, giao dịch; nếu trong dự thảo hợp đồng, giao dịch có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch không phù hợp với quy định của pháp luật thì công chứng viên phải chỉ rõ cho người yêu cầu công chứng để sửa chữa. Trường hợp người yêu cầu công chứng không sửa chữa thì công chứng viên có quyền từ chối công chứng. Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Thứ tư, văn bản công chứng là văn bản tuân thủ đúng về mặt hình thức Văn bản công chứng phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật về hình thức để đảm bảo tính chính xác và giá trị pháp lý của văn bản công chứng (ví dụ: vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung thì hình thức văn bản bắt buộc phải là văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân mà không phải là một văn bản nào khác). Ngoài ra, văn bản công chứng cũng phải tuân thủ các quy định về chữ viết, ghi số tờ, số trang trong văn bản, ký tên hoặc điểm chỉ …

Yêu cầu về ngôn ngữ hay chữ viết trong văn bản công chứng: Văn bản công chứng chỉ được lập bằng ngôn ngữ chính thức của nước đó. Tại Việt Nam Điều 6 Luật Công chứng 2014 quy định chữ viết trong công chứng là Tiếng Việt, khoản 1 Điều 45 Luật Công chứng 2014 thì chữ viết văn bản công chứng phải rõ ràng, dễ đọc, không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, không được viết xen dòng, viết đè dòng, không được tẩy xóa, không được để trống; trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Yêu cầu về ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng đó là phải bảo đảm chữ ký trong hợp đồng, giao dịch là đúng chữ ký của người tham gia hợp đồng, giao dịch đó. Chính vì vậy, người yêu cầu công chứng, người làm chứng phải ký vào văn bản công chứng trước mặt công chứng viên. Đối với các tổ chức đặc biệt là các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khi yêu cầu công chứng thì người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì người đó có thể ký trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc công chứng.

Yêu cầu về việc ghi trang, tờ trong văn bản công chứng để bảo đảm văn bản công chứng không bị thay trang, thay tờ làm ảnh hưởng đến nội dung văn bản, phòng ngừa các hành vi gian dối, vi phạm pháp luật, Luật Công chứng quy định trong trường hợp văn bản công chứng có từ hai trang trở lên thì từng trang phải được đánh số thứ tự; nếu văn bản công chứng có từ hai tờ trở lên phải được đóng dấu giáp lai giữa các tờ.

Thứ năm, văn bản công chứng là văn bản tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục công chứng

Luật công chứng đã có các quy định về các nguyên tắc, trình tự, thủ tục công chứng. Và công chứng viên là người chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng nên việc tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục này đem lại sự an toàn pháp lý cho công chứng viên đồng thời bảo đảm tính pháp lý cho văn bản mà công chứng viên chứng nhận, tránh được các tranh chấp có thể xảy ra.

Luật Công chứng quy định “công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác…”; hay nói cách khác, công chứng viên là chủ thể thực hiện công chứng, là người xem xét và bảo đảm tính xác thực, tính hợp pháp cho các hợp đồng, giao dịch được giao kết hoặc xác lập và là người chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng đó. Phòng công chứng, Văn phòng công chứng chỉ là hình thức tổ chức hành nghề của công chứng viên, không phải là chủ thể thực hiện công chứng.

1.3. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng

Khái niệm “Giá trị pháp lý” được hiểu là hiệu lực pháp lý của một bộ luật hoặc một văn bản quy phạm pháp luật để thi hành áp dụng văn bản đó đối với mọi đối tượng liên quan, trong hệ thống văn bản pháp luật có văn bản tổng quát bao hàm văn bản riêng thể hiện thứ bậc cao thấp, phạm vi tác động hoặc phạm vi điều chỉnh của văn bản về thời gian, không gian và về đối tượng áp dụng.

“Giá trị pháp lý của một văn bản” được xây dựng trên cơ sở pháp lý có hiệu lực về không gian trên phạm vi lãnh thổ cả nước, đối với công dân mang quốc tịch Việt Nam sống tại nước ngoài và thời gian cho đến khi văn bản pháp luật được sửa đổi bổ sung nhằm phù hợp với điều kiện kinh tế, dòng lịch sử. Còn thời điểm mà văn bản pháp luật đó có giá trị pháp lý tùy thuộc vào người ra quy định có thể là kể từ khi ban hành, thời gian ghi trên giấy hoặc dựa trên mốc thời gian chung theo quy định của pháp luật.

Văn bản công chứng với tính chất của một văn bản công, có giá trị tương đương như một quyết định, bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, Giá trị pháp lý của văn bản công chứng có thể hiểu là hiệu lực pháp lý của một văn bản do công chứng viên tạo ra, chứng nhận áp dụng thi hành đối với các bên liên quan theo quy định về luật công chứng và các bộ luật, luật liên quan. Văn bản công chứng có hai giá các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, trị thi hành đối với các bên liên quan.

1.3.1. Về giá trị chứng cứ của văn bản công chứng Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Văn bản công chứng là văn bản do công chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt buộc, ghi lại một cách chính xác ngày, tháng, năm, địa điểm giao kết và ý chí, nguyện vọng, giao kết của các bên khi tham gia hợp đồng giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật nên văn bản công chứng được coi là một văn bản công (công chứng thư). Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ, những tình tiết sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố vô hiệu.

Tuy nhiên trên thế giới, các hệ thống pháp luật khác nhau có quan điểm khác nhau khi xác định giá trị chứng cứ của văn bản công chứng. Hệ thống Anglo – Saxon là công chứng hình thức (công chứng viên nhận diện đúng khách hàng, ghi đúng ngày, tháng, năm, ghi lại một cách trung thành ý chí, các thỏa thuận của các bên, không quan tâm đến tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không cần biết nội dung của hợp đồng, giao dịch có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không, không chịu trách nhiệm nếu có điều khoản nào đó trong hợp đồng bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba), văn bản công chứng mang lại sự an toàn pháp lý thấp nên không có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên như phán quyết của tòa án. Văn bản công chứng cũng có giá trị chứng cứ song không cao hơn các tư chứng thư.

Công chứng Latinh là công chứng nội dung, văn bản công chứng được lập theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật định, công chứng viên không chỉ chứng nhận, đảm bảo và chịu trách nhiệm về tính đích thực của hợp đồng, giao dịch mà còn phải đảm bảo và chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các hợp đồng, giao dịch đó, đảm bảo không xâm hại lợi ích của người thứ ba hoặc của Nhà nước. Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Ví dụ: Theo Bộ luật Dân sự Pháp, tại Điều 1317 quy định: “Văn bản công chứng là văn bản được công chứng viên lập để làm chứng, tại một địa điểm và theo những thể thức bắt buộc”; Điều 1319: “Văn bản công chứng đem lại sự tin cậy đầy đủ cho hợp đồng” [40].

Theo Luật Công chứng của Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa, tại Điều 36 quy định: “Hành vi dân sự, tình tiết và tài liệu sau khi được công chứng có giá trị pháp lý làm căn cứ để làm rõ một sự việc trừ những trường hợp bị hủy bỏ vì có chứng cứ ngược lại” [66].

Pháp luật Nhật Bản cũng quy định văn bản công chứng có thể được sử dụng như bằng chứng của một văn bản chính thức, được coi là một văn bản đúng và chính xác, nên không cần thiết chứng minh việc thành lập hoặc tính trung thực của các tình tiết được nêu ra trong văn bản công chứng [8].

Pháp luật Tây Ban Nha thừa nhận văn bản công chứng có giá trị chứng cứ vật chất nên được Tòa án coi là “chứng cứ hiển nhiên”; khi được trình lên Thẩm phán thì không cần phải qua giám định hoặc xác minh, điều tra [8].

Tại Việt Nam có thể nói quan điểm văn bản công chứng có giá trị chứng cứ là quan điểm mang tính truyền thống, được thể hiện liên tục trong lịch sử phát triển công chứng. Đầu tiên là việc Bộ tư pháp ban hành thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 đã quy định:

Công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước, nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Như vậy, thông tư số 574/QLTPK đã đặt nền móng cho chế định công chứng tại nước ta, cụ thể ở đây là quy định việc lập và cung cấp chứng cứ phục vụ cho hoạt động tài phán của cơ quan có thẩm quyền, đã được chính thức ghi nhận.

Đến khi Nghị định số 45-HĐBT được ban hành giá trị chứng cứ của văn bản công chứng mới chính thức được thừa nhận. Điều 1 nghị định số 45-HĐBT quy định “Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”. Nếu như ở nghị định số 45-HĐBT giá trị chứng cứ của các giấy tờ, văn bản công chứng không bị tước bỏ trong bất kỳ trường hợp hợp nào thì đến Nghị định số 31/CP ra đời (thay thế cho nghị định số 45-HĐBT) đã quy định cụ thể hơn “Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứn g thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu” .

Nhưng phải đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP được ban hành thì lần đầu tiên giá trị pháp lý nói chung hay giá trị chứng cứ nói riêng của văn bản công chứng được ghi nhận tại một điều luật riêng biệt. Khoản 1 Điều 14 nghị định nêu rõ “Hợp đồng, giao dịch, bản sao giấy tờ, chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch và các bản dịch giấy tờ đã được Phòng công chứng chứng nhận theo quy định tại Nghị định này gọi là văn bản công chứng”, khoản 2 nghị định khẳng định “Văn bản công chứng, văn bản chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp được thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc không tuân theo quy định tại Nghị định này hoặc bị tòa án tuyên bố vô hiệu”. Như vậy, văn bản công chứng vô hiệu khi thực hiện không đúng thẩm quyền và bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Tuy nhiên, các nhà làm luật lại không hề xác định cá nhân hay cơ quan có thẩm quyền nào được phép tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu trong những trường hợp thực hiện không đúng thẩm quyền.

Quan niệm trên chỉ được thay đổi khi Luật công chứng 2006 ra đời và có hiệu lực, đặc biệt là sau khi Nghị định số 79/2007/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 04/2012/NĐ-CP của chính phủ đi vào thực tiễn, thì chỉ có hợp đồng, giao dịch đã được công chứng mới có giá trị chứng cứ. Khoản 1 Điều 4 luật công chứng 2006 xác định “Hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã được công chứng theo quy định của Luật này gọi là văn bản công chứng” ; “Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu” là nội dung khoản 2 Điều 6 luật công chứng 2006 quy định .

Như vậy, lần đầu tiên đã có sự phân biệt rõ ràng về giá trị pháp lý giữa văn bản công chứng và văn bản chứng thực, các bản sao giấy tờ, tài liệu; bản dịch giấy tờ, tài liệu và chứng nhận chữ ký đã không được coi là văn bản công chứng và đương nhiên sẽ không có giá trị chứng cứ. Tại thời điểm đó, những quy định về giá trị chứng cứ của văn bản công chứng của luật công chứng 2006 đã có một quan điểm phù hợp với luật tố tụng dân sự 2004, đã được sửa đổi bổ sung 2011, cùng thừa nhận tình tiết, sự kiện nêu ra trong văn bản công chứng có một giá trị pháp lý cao hơn hẳn những nguồn chứng cứ khác và ngang bằng với “những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 80, Bộ luật tố tụng dân sự 2004).

Khi Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật công chứng số 53/2014/QH13 và Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Về cơ bản luật công chứng 2014 vẫn giữ quan điểm về giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Theo Luật Công chứng 2014, tại khoản 3 Điều 5 quy định: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu”.

Ngoài ra, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng còn được bảo đảm ở việc lưu trữ hồ sơ công chứng. Thông thường công chứng viên phải lưu giữ tất cả bản gốc của các văn bản công chứng và bản gốc hồ sơ công chứng đã lập, trừ một số trường hợp do luật quy định. Văn bản công chứng được bảo đảm an toàn, lưu giữ lâu dài đồng thời được ghi vào sổ danh mục công chứng theo đúng trình tự luật định. Đó chính là yếu tố đảm bảo cho văn bản công chứng không thể bị thay đổi, sửa chữa, đánh tráo.

1.3.2. Về giá trị thi hành của văn bản công chứng Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Văn bản công chứng có giá trị thi hành là việc các bên trong hợp đồng, giao dịch, thậm chí cả bên thứ ba (trong một số trường hợp) có nghĩa vụ bắt buộc thực hiện những thỏa thuận đã được ghi trong văn bản công chứng. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc của luật dân sự. Các bên hợp đồng hiển nhiên phải thực hiện những gì họ đã cam kết trong hợp đồng, giao dịch, nếu vi phạm họ sẽ bị áp dụng các biện pháp chế tài theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Mặt khác, văn bản công chứng cũng có hiệu lực bắt buộc bên thứ ba phải tôn trọng và thi hành.

Văn bản tư (tư chứng thư) là văn bản do một cá nhân tự làm hoặc các cá nhân tự lập với nhau. Văn bản được chia thành văn bản tư và văn bản công. Một văn bản được công hay còn được gọi là công chứng thư là văn bản được chứng nhận, chứng thực, xác nhận do người có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật, trong đó có văn bản công chứng [53, tr.164].

Một văn bản được công chứng có giá trị hoàn toàn khác so với một văn bản tự lập. Giá trị thi hành của văn bản công chứng được quy định khác nhau, đối với hệ thống công chứng Latinh đại diện là Cộng hòa Pháp,văn bản công chứng có hiệu lực thi hành như một phán quyết của tòa án. Pháp luật nước này quy định trong trường hợp một bên không thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong văn bản công chứng thì bên kia chỉ cần yêu cầu Thừa phát lại để thi hành mà không cần phải qua bất kỷ một thủ tục xét xử nào của Tòa án; phạm vi áp dụng hiệu lực thi hành là với hầu hết các loại hợp đồng, giao dịch như mua bán nhà, thế chấp tài sản, thỏa thuận về tài sản vợ chồng trong hôn nhân… Quy định này của Pháp xuất phát từ sự coi trọng của xã hội Pháp đối với công chứng viên và hoạt động công chứng. Ở Pháp, người ta cho rằng công chứng viên là một chuyên gia về pháp luật, được nhà nước tin tưởng bổ nhiệm và đã tuyên thệ với những lời thề rất thiêng liêng, cao thượng, nên không thể có những nghi ngờ về sự thiếu trung thực hoặc có những điều khoản mờ ám trong một giao kết. Hơn nữa, để công chứng một hợp đồng, giao dịch, công chứng viên đã phải trải qua một quá trình làm việc căng thẳng, nặng nề với những quy trình, thủ tục hết sức chặt chẽ để tránh những sai sót cho dù là nhỏ nhất. Do vậy, một văn bản công chứng đã được các bên thừa nhận, được công chứng viên công chứng thì nó có giá trị như một phán quyết của Tòa án có hiệu lực buộc các bên phải thi hành.

Tại Nhật Bản, các văn bản công chứng đáp ứng được những yêu cầu nhất định sẽ trở thành văn bản quy phạm có hiệu lực thi hành, được thừa nhận giá trị thi hành và sẽ được tự động thực thi mà không cần phán quyết của tòa án. Các yêu cầu bắt buộc là văn bản gắn với việc thanh toán một số tiền cụ thể và các bên đã thỏa thuận với nhau về việc văn bản sẽ được thi hành ngay. Cụ thể như sau:

Yêu cầu đầu tiên là văn bản công chứng đó gắn liền với việc thanh toán một số tiền cụ thể để mang lại sự an toàn. Nói cách khác, một khoản tiền cụ thể phải được quy định trong văn bản công chứng; yêu cầu thanh toán có thể có điều kiện hoặc có ngày đến hạn, hoặc được đặt ra cho các yêu cầu trong tương lai; nếu văn bản công chứng bao gồm một điều khoản cho phép chủ nợ tính lãi suất thay đổi theo tình hình của thị trường tài chính thì điều kiện trước về “số tiền cụ thể” có thể không đáp ứng; quyền bảo đảm để yêu cầu bồi thường từ người có nghĩa vụ chính dựa trên hợp đồng ủy thác bảo đảm có thể là đối tượng tranh chấp. Theo tiền lệ tư pháp, “số tiền cụ thể” không được ấn định khi soạn thảo văn bản công chứng liên quan đến việc bồi thường sau khi người có nghĩa vụ không trả được nợ, trong khi yêu cầu này có thể được thỏa mãn trong trường hợp bồi thường trước khi không trả được nợ. Tuy nhiên, quan điểm chủ đạo trong các học giả pháp lý là số tiền ràng buộc người có nghĩa vụ chính phải được ấn định và người có nghĩa vụ đã được bảo vệ đầy đủ trong các trường hợp trước khi xảy ra tranh chấp.

Yêu cầu thứ hai là văn bản công chứng phải nêu rõ ý định của người có nghĩa vụ là sẽ tuân thủ bất kỳ sự cưỡng chế thi hành tức thì nào khi người có nghĩa vụ không có khả năng trả nợ. Nói cách khác, người có nghĩa vụ sẽ bị chủ nợ thưa kiện mà không cần phán quyết nào được đưa ra. Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

Trong trường hợp này, không giống như các trường hợp khi đơn khiếu nại đã nộp và bản án đã được đưa ra, các văn bản công chứng có hiệu lực thi hành có thể được đem ra thi hành mà không cần đến tòa án và được sử dụng khi cần cưỡng chế thi hành.

Tại Đức, bên cạnh sự đảm bảo về tính chắc chắn và chính xác về mặt pháp lý, một giao dịch dưới hình thức văn bản công chứng đem lại cho các bên những lợi ích khác nữa. Cụ thể là văn bản công chứng còn được coi là bằng chứng và có khả năng thực thi ngay lập tức. Điều này có nghĩa là một văn bản công chứng là bằng chứng đầy đủ về việc các bên đã chấp nhận các cam kết được đưa ra. Hơn nữa, người phải thực hiện một yêu cầu thanh toán tiền có thể tuyên bố trong một văn bản công chứng gọi là “thực thi ngay lập tức tài sản của mình”. Trong trường hợp này, chủ nợ có thể tịch thu và khai thác tài sản của người phải thi hành mà không phải nộp đơn khởi kiện. Như vậy, các văn bản công chứng được xác lập bởi một công chứng viên có thể so sánh được với một bản án có hiệu lực thi hành của tòa.

Giống như giá trị thi hành của văn bản công chứng ở Đức, pháp luật Trung Quốc quy định rằng một khi người mắc nợ đã chấp nhận thi hành nợ trong bản chính của bằng chứng, thì sau đó chủ nợ có thể trình Toà án Nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu người mắc nợ thi hành. Tòa án này chỉ xác minh tính hợp lệ của giá trị thi hành chứ không có trách nhiệm tố tụng, và cho phép bắt đầu tố tụng người mắc nợ không thực hiện nghĩa vụ.

Tại nước ta giá trị thi hành của văn bản công chứng phát triển song hành cùng với giá trị chứng cứ, đã được thể hiện trong khái niệm công chứng đầu tiên được ghi nhận trong thông tư 574/QLTPK quy định:

Công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước, nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên đến những văn bản nghị định điều chỉnh lĩnh vực công chứng tiếp theo, giá trị thi hành của văn bản công chứng không tiếp tục được ghi nhận. Chỉ đến khi Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ra đời thay thế cho Nghị định số 31/CP, giá trị thi hành của văn bản công chứng mới được khẳng định lại. Tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP chỉ rõ “Hợp đồng đã được công chứng, chứng thực có giá trị thi hành đối với các bên giao kết; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình, thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật”. Như vậy, ngoài việc khẳng định văn bản công chứng có giá trị thi hành, nghị định còn xác định đối tượng phải tuân thủ nội dung của văn bản công chứng, tất cả các bên tham gia giao kết có nghĩa vụ thực thi toàn bộ điều khoản, điều kiện của bản hợp đồng trong trường hợp bản hợp đồng đó đã được công chứng. Đến luật công chứng 2006, giá trị thi hành của văn bản công chứng lại có một vài thay đổi nhất định. Khoản 1 Điều 6 Luật công chứng 2006 quy định “Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác”. Căn cứ vào điều này, văn bản công chứng không chỉ đơn thuần có hiệu lực thi hành giữa các bên trực tiếp tham gia giao kết mà nó còn có giá trị thực hiện đối với bên thứ ba có liên quan, ngay cả khi đó là cơ quan quản lý hành chính nhà nước hay thậm chí là chính những cơ quan tư pháp hoặc bổ trợ tư pháp [51, tr.188].

Ngoài ra, có thể nhận thấy hai cách thức được pháp luật quy định để đảm bảo giá trị thi hành của văn bản công chứng. Cách thứ nhất là khởi kiện ra Tòa an nhân dân có thẩm quyền và cách thứ hai là các bên đương sự trực tiếp tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch có thể tự thỏa thuận cách thức đảm bảo giá trị thi hành của văn bản công chứng. Cách thức xử lý ở đây có thể bao gồm chỉ định sẵn cơ quan, cá nhân đóng vai trò trọng tài đứng ra phân xử, tài sản đảm bảo cũng như giá trị tài sản đảm bảo… Nếu như cách thức thứ nhất mang tính nguyên tắc thì cách thức thứ hai lại thể hiện quan điểm mềm dẻo trong việc xác định cơ chế đảm bảo giá trị thi hành cho văn bản công chứng. Quy định như vậy tạo ra hành lang pháp lý để các bên giảm thiểu thời gian cũng như chi phí dành cho giải quyết tranh chấp, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII đã nêu: “… nghiên cứu thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng”. Trong quá trình hoạt động của tòa án nhân dân, để có thể thực hiện được nhiệm vụ này, cần có sự tham gia của các cơ quan liên quan trong đó cơ quan công chứng là một trong những cơ quan có thể giảm bớt số thủ tục trong hoạt động xét xử của tòa án. Cho đến Luật công chứng 2014 khoản 2 Điều 5 “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác” vẫn giữ quan điểm về giá trị thi hành của văn bản công chứng, cùng với việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự bằng văn bản, luật công chứng năm 2014 được mở rộng hơn so với Luật công chứng năm 2006. Theo đó, nhiệm vụ công chứng bản dịch được giao lại cho công chứng viên, khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014 quy định:

Công chứng viên có quyền chứng nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng

Khoản 4 Điều 5 Luật Công chứng 2014 quy định: “Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch”. Đi kèm với quy định này, Khoản 1 Điều 61 Luật Công chứng 2014 quy định rõ:

Việc dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt để công chứng phải do người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện. Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc đại học khác mà thông thạo thứ tiếng nước ngoài đó. Cộng tác viên phải chịu trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề công chứng về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch do mình thực hiện.

Quy định này nhằm tạo thuận lợi hơn cho người dân khi có nhu cầu sử dụng bản dịch có công chứng, tránh việc khi phát hiện sai sót trong bản dịch thì người dân không biết phải tìm ai để yêu cầu bồi thường. Việc quy định rõ cộng tác viên dịch thuật phải chịu trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề công chứng về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch do mình thực hiện cũng là cơ sở để bảo đảm nâng cao trách nhiệm của người phiên dịch trong quá trình này. Bên cạnh đó, Luật Công chứng sửa đổi đã mở rộng phạm vi hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, của công chứng viên khi Điều 73 của Luật quy định: “Công chứng viên được chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản. Việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng thực”.

Quy định này nhằm tạo thuận lợi hơn cho người dân trong việc lựa chọn và tiếp cận loại hình dịch vụ công này, trong khi Phòng Tư pháp cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã vẫn thực hiện các công việc chứng thực theo quy định tại Nghị định số 79/2007/NĐ-CP như hiện nay.

Như vậy có thể thấy những hợp đồng, giao dịch được công chứng sẽ có rất nhiều lợi ích. Những văn bản đó khi được công chứng sẽ mang lại sự an toàn pháp lý cho các bên, góp phần phòng ngừa tranh chấp và giảm thiểu vi phạm pháp luật. Cùng là làm chứng (chứng nhận) nhưng văn bản có công chứng viên chứng nhận có giá trị pháp lý cao hơn rất nhiều so với những văn bản do luật sư hoặc bất kỳ người nào khác chứng nhận (làm chứng). Điều đó xuất pháp từ sự khác nhau về địa vị pháp lý của công chứng viên và luật sư.

Tóm lại, tuy không phải là quy định mang tính truyền thống nhưng giá trị thi hành của văn bản công chứng đã được nhiều văn bản quy phạm pháp luật của nước ta ghi nhận. Qua từng thời kỳ, quy định về giá trị thi hành của văn bản công chứng ngày càng được củng cố hoàn thiện. Luận văn: Pháp lý văn bản công chứng tại pháp luật Việt Nam

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Khái quát về giá trị pháp lý của văn bản công chứng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x