Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Địa vị pháp lý của Công ty chứng khoán theo Luật chứng khoán ở Việt Nam hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán (TTCK) hoạt động tuân theo nguyên tắc trung gian. Đảm đương vai trò trung gian trên TTCK là các công ty chứng khoán (CTCK). Những ảnh hưởng tác động của CTCK đối với các chủ thể tham gia thị trường và sự vận hành của TTCK là rất lớn. Để CTCK phát huy hết vai trò to lớn của mình, ngăn ngừa những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư và sự phát triển lành mạnh và ổn định của TTCK thì vấn đề tổ chức và hoạt động của CTCK phải được đặt trong hành lang pháp lý chặt chẽ với những điều kiện đòi hỏi cao khác hẳn với các doanh nghiệp thông thường. Vì vậy, các quốc gia đều sử dụng pháp luật để điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của CTCK.
Việt Nam, vấn đề tổ chức và hoạt động của CTCK trước đây được quy định trong Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về chứng khoán và TTCK, Nghị định 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/11/2003 và được cụ thể hoá trong Quyết định số 55/2004/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 17/6/2004 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK, Luật Chứng khoán năm 2006 (chủ yếu tại chương VI).
Cùng với quá trình phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp của CTCK, các quy định của Luật Chứng khoán năm 2006 có nhiều bất cập, hạn chế nên đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 62/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010 và tiếp đó là Luật Chứng khoán số 27/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho TTCK nhưng Việt Nam cũng không tránh khỏi những điều còn bất cập trong hệ thống pháp luật nói chung và trong khuôn khổ pháp luật cho CTCK nói riêng. Một hàng lang pháp lý thông thoáng, dễ thực thi, sát với thị trường sẽ giúp CTCK nâng cao năng lực quản trị, bởi lẽ mọi giao dịch, hoạt động sẽ minh bạch và được kiểm soát. Do vậy, việc tìm hiểu về địa vị pháp lý của CTCK theo Luật Chứng khoán ở Việt Nam hiện nay để từ đó góp phần hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của CTCK nói riêng và phát triển TTCK ở Việt Nam nói riêng có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
Với lý do đó, học viên đã lựa chọn vấn đề “Địa vị pháp lý của Công ty chứng khoán theo Luật chứng khoán ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Từ khi có TTCK và các CTCK, đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến TTCK và CTCK được các tác giả tiếp cận theo các cách khác nhau.
Trong luận án tiến sĩ Giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trong tiến trình xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam, tác giả Trần Đăng Khâm (2002) đã đề cập tới các trung gian tài chính trên TTCK gồm: ngân hàng thương mại, quỹ đầu tư, CTCK, quỹ bảo hiểm. Hoạt động của các trung gian tài chính này trên TTCK gồm: hoạt động phát hành; hoạt động kinh doanh; hoạt động môi giới, tư vấn chứng khoán, hoạt động bảo lãnh phát hành; hoạt động quản lý danh mục đầu tư và quản lý quỹ. Như vậy, CTCK chỉ là một trong các chủ thể mà tác giả đề cập đến trong luận án.
Trong luận án tiến sĩ Giải pháp đổi mới hoạt động ngân hàng thương mại nhằm góp phần phát triển TTCK ở Việt Nam, tác giả Đặng Ngọc Đức (2002) nghiên cứu hoạt động của ngân hàng thương mại trên TTCK và có đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của CTCK thuộc ngân hàng thương mại nhà nước đến năm 2006.
Luận án tiến sĩ Hướng tới một TTCK Việt Nam hoạt động hiệu quả của tác giả Nguyễn Thị Ánh Vân (2002) có 7 chương nghiên cứu về khía cạnh pháp lý điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của TTCK , trong đó tác giả dành chương 4 để nghiên cứu về qui chế pháp lý điều chỉnh xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng.
Luận án tiến sĩ Xây dựng mô hình công ty chứng khoán trong hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam tác giả Trần Quốc Tuấn (2004) lại tiếp cận và giải quyết vấn đề trên giác độ về hình thái sở hữu của CTCK trên cơ sở đó đề xuất cơ cấu tổ chức phù hợp với hình thái sở hữu của công ty. Trong luận án, tác giả cũng có đề cập và phân tích khái quát hoạt động của các CTCK nhưng chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ nội dung của luận án.
Ngoài ra, có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu từng hoạt động riêng lẻ của từng công ty chứng khoán, cụ thể như:
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Mai Hương (2006) với đề tài “Phát triển kinh doanh các dịch vụ ở Công ty chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam”.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Đinh Ngọc Phương (2007) với đề tài “phát triển hoạt động tự doanh của Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam”.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Đoàn Quang Trung (2007) với đề tài “Hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cổ phiếu tại Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt”.
Ngoài luận án, luận văn còn có đề tài khoa học và các bài viết có liên quan đến chủ đề TTCK và CTCK như:
Bài viết Một số vấn đề pháp lý về đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung của Th.S Hoàng Thị Quỳnh Chi, Một số vấn đề về pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam của TS. Phạm Thị Giang Thu, Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán ở Việt Nam của TS. Lê Thị Thu Thuỷ và TS. Nguyễn Anh Sơn, Đề tài khoa học cấp Bộ: “Các hạn chế đối với sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam và các giải pháp chính sách”.
Trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã tập trung luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TTCK và CTCK của Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới dừng lại ở việc nghiên cứu khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của TTCK và CTCK Việt Nam dưới góc độ bao quát, tổng thể. Chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện, mang tính hệ thống những vấn đề về địa vị pháp lý của CTCK theo pháp luật chứng khoán của Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của các quy định về địa vị pháp lý của CTCK theo Luật Chứng khoán ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về địa vị pháp lý của CTCK
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật về địa vị pháp lý của các CTCK; những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng quy định pháp luật về địa vị pháp lý của các CTCK ở Việt Nam thời gian qua
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý của CTCK ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: quy định pháp luật về địa vị pháp lý của công ty chứng khoán
- Phạm vi nghiên cứu: quy định pháp luật về địa vị pháp lý của công ty chứng khoán ở Việt Nam từ 20/7/2000 đến nay, trong đó tập trung phân tích Luật Chứng khoán năm 2013.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp để luận giải vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực cụ thể là pháp luật về hoạt động kinh doanh chứng khoán. Về thực tiễn, luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện pháp luật về địa vị pháp lý của công ty chứng khoán; đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện quy định và tăng cường thực thi pháp luật về địa vị pháp lý của công ty chứng khoán tại Việt Nam hiện nay.
Với hy vọng, kết quả luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị, tin cậy đối với các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật về kinh doanh chứng khoán nói chung và về các văn quy phạm pháp luật liên quan đến địa vị pháp lý của công ty chứng khoán nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, bảng viết tắt, luận văn được kết cấu theo ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng về địa vị pháp lý của công ty chứng khoán tại Việt Nam hiện nay
Chương 3: Các giải pháp tăng cường thực thi pháp luật về địa vị pháp lý của công ty chứng khoán tại Việt Nam
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái quát về chứng khoán và thị trường chứng khoán
1.1.1. Khái niệm chứng khoán
Chứng khoán là hàng hoá của TTCK. Đó là những tài sản tài chính vì nó mang lại thu nhập và khi cần người chủ sở hữu có thể bán nó đi để thu tiền về.
Theo Luật về TTCK của Mỹ năm 1934, thuật ngữ chứng khoán nghĩa là bất kỳ giấy nợ, cổ phần, chứng khoán tồn tại, trái phiếu, giấy vay nợ không có bảo đảm, chứng chỉ về quyền lợi hoặc dự phần trong bất kỳ thỏa thuận chia lợi nhuận nào, hoặc trong bất kỳ khoản tiền hoặc hợp đồng thuê mỏ dầu, mỏ khí hay các mỏ nào khác; bất kỳ chứng chỉ ủy thác thế chấp, chứng chỉ chi phí tiền tổ chức hoặc chứng chỉ đăng ký mua chứng khoán mới phát hành, cổ phần có thể chuyển nhượng, hợp đồng đầu tư, chứng chỉ ủy thức bỏ phiếu, chứng chỉ ủy thác…”[69]
Theo Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2013 của Việt Nam, chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành [47]. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; hợp đồng góp vốn đầu tư và các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định.
Các chứng khoán do chính phủ, chính quyền địa phương và các công ty phát hành với mức giá nhất định. Sau khi phát hành, các chứng khoán có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên TTCK theo các mức giá khác nhau tuỳ thuộc vào cung và cầu trên thị trường.
1.1.2. Các loại chứng khoán Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Cổ phiếu
Theo khoản 2 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2013, cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Căn cứ vào thứ tự ưu tiên khi thanh toán, cổ phiếu được phân thành hai loại: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu thường: là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông trong công ty. Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lí, kiểm soát công ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu hội đồng quản trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của công ty. Cổ tức của cổ phiếu thường được trả khi hội đồng quản trị công bố. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường sẽ được chia số tiền còn lại sau khi thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có cổ tức xác định được thể hiện bằng số tiền xác định được in trên cổ phiếu hoặc theo tỉ lệ phần trăm cố định so với mệnh giá cổ phiếu.Cổ phiếu ưu đãi thường được trả cổ tức trước các cổ phiếu thường. Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bỏ phiếu bầu ra hội đồng quản trị. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ phiếu ưu đãi được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu thường.
Trái phiếu
Theo Khoản 3 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2013, trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.
Trái phiếu có thể phân chia thành các loại theo nhiều tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ vào chủ thể phát hành, trái phiếu gồm hai loại chính là: trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương (do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành) và trái phiếu công ty (do công ty phát hành).
- Căn cứ vào tính chất chuyển đổi, trái phiếu được chia thành: trái phiếu có khả năng chuyển đổi (chuyển đổi thành cổ phiếu) và trái phiếu không có khả năng chuyển đổi.
- Căn cứ vào cách thức trả lãi, trái phiếu được chia thành: trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu với lãi suất thả nổi và trái phiếu chiết khấu.
Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu được thanh toán cố định theo định kỳ.
Trái phiếu với lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà khoản lãi thu được thay đổi theo sự biến động của lãi suất thị trường hoặc bị chi phối bởi biểu giá, chẳng hạn như giá bán lẻ.
Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được bán theo nguyên tắc chiết khấu. Tiền thưởng cho việc sở hữu trái phiếu nằm dưới dạng lợi nhuận do vốn đem lại hơn là tiền thu nhập (nó là phần chênh lệch giữa giá trị danh nghĩan – mệnh giá trái phiếu và giá mua).
Căn cứ vào tính bảo đảm khi thanh toán, trái phiếu được phân thành: trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu không có bảo đảm.
Chứng khoán có thể chuyển đổi
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tùy theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy một chứng khoán khác.
Thông thường, chứng khoán có thể chuyển đổi gồm có: cổ phiếu ưu đãi được chuyển thành cổ phiếu thường và trái phiếu được chuyển thành cổ phiếu thường.
Các chứng khoán phái sinh
- Quyền mua cổ phần: là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành nhằm mang lại cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phần mới theo điều kiện đã được xác định [47].
- Chứng quyền: là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định [47].
- Hợp đồng kỳ hạn: là một thoả thuận trong đó người mua và người bán chấp nhận giao dịch hàng hoá với khối lượng nhất định, tại một thời điểm nhất định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày thỏa thuận.
Ngoài ra, còn có chứng khoán phái sinh là các loại hợp đồng khác như: hợp đồng tương lai và quyền lựa chọn.
1.1.3. Thị trường chứng khoán Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
TTCK là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán theo các nguyên tắc của thị trường (theo quan hệ cung cầu). TTCK là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại. Đến nay, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có TTCK. TTCK đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường. Phần lớn các nước trên thế giới đã có các Sở giao dịch chứng khoán. Ước tính, có khoảng trên 160 Sở giao dịch chứng khoán phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông nam Á phát triển vào những năm 1960 -1970 vào ở các nước ở Đông Âu như Balan, Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á như Trung quốc vào những năm 1980 – đầu năm 1990.
Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK trên thế giới cho thấy thời gian đầu, thị trường hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi thị trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc phải can thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được ban hành. Kinh nghiệm đối với những thị trường mới hình thành về sau này cho thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt động có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt về hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước.
Song, cũng có một số TTCK có sự trục trặc ngay từ ban đầu như TTCK Thái Lan, Indonesia, hoạt động trì trệ một thời gian dài do thiếu hàng hoá và do không được quan tâm đúng mức. Hay, TTCK Philippine kém hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất hoạt động của 2 Sở giao dịch chứng khoán Makita và Manila. TTCK Balan, Hungari gặp trục trặc do việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc quá thấp…
Có thể nói, TTCK là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển đang cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân.
1.1.4. Các loại thị trường chứng khoán Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Căn cứ vào sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, TTCK được chia thành hai loại: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: là thị trường phát hành. Đây là thị trường mua bán các chứng khoán phát hành lần đầu giữa nhà phát hành (người bán) và nhà đầu tư (người mua). Trên thị trường sơ cấp, chính phủ và các công ty thực hiện huy động vốn thông qua việc phát hành – bán chứng khoán của mình cho nhà đầu tư.
Thị trường thứ cấp: là thị trường giao dịch. Đây là thị trường mua bán các loại chứng khoán đã được phát hành.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là hai thị trường không thể tách rời. Thị trường sơ cấp tạo ra hàng hoá còn thị trường thứ cấp thúc đẩy giao dịch hàng hoá đó.
Căn cứ vào phương diện tổ chức và giao dịch, TTCK được chia thành ba loại:
Thị trường chứng khoán tập trung: là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán.
Thị trường chứng khoán bán tập trung: là TTCK “bậc cao”. TTCK bán tập trung (OTC) không có trung tâm giao dịch mà giao dịch mua bán chứng khoán thông qua mạng lưới điện tín, điện thoại. Một điều rất quan trọng là các nhà đầu tư trên thị trường OTC không trực tiếp gặp nhau để thoả thuận mua bán chứng khoán như trong phòng giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán, thay vào đó họ thuê các công ty môi giới giao dịch hộ thông qua hệ thống viễn thông.
Thị trường chứng khoán phi tập trung: còn gọi là thị trường thứ ba. Hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện tự do.
Sơ đồ: Mối quan hệ giữa nhà đầu tư, công ty chứng khoán và thị trường chứng khoán
1.1.5. Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán
Các đối tượng tham gia TTCK chia thành các nhóm: nhà phát hành, nhà đầu tư, các tổ chức kinh doanh chứng khoán và các tổ chức có liên quan đến TTCK.
Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn: là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Nhà phát hành có thể là chính phủ, chính quyền địa phương, công ty, hay các tổ chức tài chính.
Nhà đầu tư: gồm nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán: công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại, các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán như ủy ban chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm (các công ty chuyên đưa ra các đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ số tín nhiệm).
1.2. Khái quát về công ty chứng khoán Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm công ty chứng khoán
Một doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất, kinh doanh, muốn đầu tư thêm dây chuyền, đầu tư thêm trang thiết bị cần thiết cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, mở rộng loại hình kinh doanh… sẽ cần huy động thêm vốn đầu tư bằng nhiều hình thức khác nhau. Một trong những cách huy động vốn hiệu quả cho doanh nghiệp là phát hành chứng khoán. Cách huy động này có tính ưu việt về thời gian cung vốn và doanh nghiệp có thể yên tâm sản xuất bởi việc vay vốn đã trở thành chung vốn và cùng chia sẻ thắng bại với doanh nghiệp. Do đó, việc hiệu động vốn bằng cách này đem lại hiệu quả cao cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp huy động vốn bằng phát hành chứng khoán, họ không phải tự mình đi bán lấy số chứng khoán mà họ phát hành. Đây không phải chuyên môn của họ. Để đảm bảo cho việc phát hành chứng khoán suôn sẻ, doanh nghiệp cần đến một giới chuyên môn khác, chuyên về nghiệp vụ này. Đó là đội ngũ chuyên gia phát hành chuyên nghiệp, giỏi tư vấn để các chứng khoán đến được với chủ thể cầu chứng khoán. Trong khi đó, người mua chứng khoán (nhà đầu tư) không thể tự đến Sở giao dịch nơi mua bán và trao đổi chứng khoán để mua cho mình vì thiếu chuyên môn, thiếu hiểu biết về cách phân tích các thông tin tài chính của doanh nghiệp phát hành chứng khoán. Ngoài ra, họ còn không thông hiểu các quy tắc nghề nghiệp. Vì vậy, để tránh tình trạng các nhà đầu tư đến Sở giao dịch quá đông, gây lộn xộn, ảnh hưởng đến quá trình giao dịch mua bán chứng khoán của thị trường tập trung, cần thiết phải có một tổ chức trung gian làm nhiệm vụ giúp các nhà đầu tư giao dịch chứng khoán. Tổ chức hành nghề chuyên môn với nghiệp vụ chuyên sâu về phân tích chứng khoán, có bộ máy thích hợp làm nhiệm vụ cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư được ra đời và thực hiện sứ mệnh này là các CTCK.
Đến nay, có khá nhiều quan niệm về CTCK do nhiều tổ chức đặt ra, song điểm chung của các quan niệm này là đều nêu bật được vị trí vai trò của CTCK.
Theo Giáo trình Thị trường chứng khoán của khoa ngân hàng tài chính trường đại học kinh tế quốc dân: “CTCK là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán” [52]. CTCK chính là một trung gian tài chính. Trong khi, có quan điểm lại coi CTCK là các tổ chức tài chính (financial institutions). Và theo từ điển tài chính (Dictionary of Finance) thì tổ chức tài chính là một nhóm các tổ chức thương mại và công cộng tham gia vào việc trao đổi, cho vay, đi mượn và đầu tư tiền tệ. Thuật ngữ này thường được sử dụng thay thế cho thuật ngữ trung gian tài chính [67]. Hoặc theo một từ điển khác, tổ chức tài chính là tổ chức thu thập các nguồn quỹ từ công chúng để đầu tư vào các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, công cụ trên thị trường tiền tệ, tài khoản tiết kiệm ở ngân hàng hoặc cho vay… [69].
Dưới góc độ pháp lý, CTCK được hiểu là doanh nghiệp thành lập theo quy định pháp luật để thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán. [65] Pháp luật của mỗi nước quy định các loại hình doanh nghiệp được phép thành lập CTCK, có thể là công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Ví dụ, tại Trung Quốc, theo Luật Chứng khoán Trung Quốc năm 2005, Điều 18, CTCK là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần làm nhiệm vụ kinh doanh chứng khoán. [66]. Ở Nhật Bản, theo Điều 2 Luật Chứng khoán Nhật Bản năm 2005, CTCK là công ty cổ phần được phép hoạt động kinh doanh chứng khoán [68]. Ở Việt Nam, theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13/10/1998 của Ủy ban chứng khoán nhà nước, CTCK là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Và Điều 2 Thông tư 210/2012/TT-BTC giải thích cụ thể CTCK là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chứng khoán, thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.
1.2.2. Đặc điểm của công ty chứng khoán Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Từ định nghĩa nêu trên, có thể khái quát các đặc điểm của CTCK như sau:
Đặc điểm về pháp lý
CTCK là loại hình doanh nghiệp được thành lập, hoạt động trên cơ sở Luật chứng khoán và các quy định của pháp luật có liên quan. CTCK được tổ chức dưới hình thức pháp lý là những loại hình công ty nhất định theo quy định của pháp luật như: công ty hợp danh (không phổ biến), công ty cổ phần (phổ biến nhất) hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. CTCK có hoạt động kinh doanh chính, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là kinh doanh dịch vụ chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
Pháp luật một số nước chỉ rõ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán nào do CTCK thực hiện, nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán nào thì CTCK không được thực hiện nhằm tránh thao túng và mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Thậm chí trong các hoạt động kinh doanh chứng khoán thuộc về CTCK, pháp luật một số nước chỉ cho phép một CTCK thực hiện một số hoạt động nhất định mà không được thực hiện toàn bộ các hoạt động kinh doanh chứng khoán thuộc về CTCK. Chẳng hạn, nếu đã thực hiện hoạt động tự doanh thì không được hoạt động môi giới và ngược lại. Tuy nhiên, cũng có nước cho phép thực hiện tất cả các loại hình kinh doanh trong một CTCK nhưng phải phải bảo đảm tách biệt các hoạt động kinh doanh này. Điểm chung nhất trong pháp luật các nước đều có quy định kinh doanh chứng khoán là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vì vậy để được kinh doanh, CTCK phải thoả mãn những điều kiện mà pháp luật quy định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập hoạt động. Điều kiện để cấp giấy phép bao gồm điều kiện về vốn, nhân sự và cơ sở vật chất. Điều kiện về vốn được đưa ra căn cứ vào mức độ rủi ro tương ứng với từng hoạt động nghiệp vụ, những nghiệp vụ rủi ro cao thì đòi hỏi vốn cao và ngược lại. Điều kiện về nhân sự được đặt ra do tính chất đặc thù của hoạt động kinh doanh chứng khoán, cụ thể: người điều hành và nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có lý lịch tốt, có trình độ chuyên môn và tuân thủ đạo đức nghề nghiệp. Điều kiện cơ sở vật chất được đặt ra vì CTCK thường có chức năng lưu giữ các chứng khoán và giấy tờ cần thiết, phải công bố thông tin cho người đầu tư…vì vậy cần có phương tiện cần thiết để bảo đảm an toàn và công bố thông tin đầy đủ, thuận tiện.
Ngoài ra, CTCK là một tổ chức kinh doanh mà hoạt động bị kiểm soát. Hoạt động tự doanh hiện nay được xem là một trong những hoạt động quan trọng nhất của các công ty chứng khoán tại Việt nam trong việc nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên, do nghiệp vụ tự doanh và môi giới dễ nảy sinh xung đột lợi ích nên các nước thường quy định các công ty chứng khoán phải tổ chức thực hiện 2 nghiệp vụ ở 2 bộ phận riêng biệt nếu công ty chứng khoán đó được thực hiện cả 2 nghiệp vụ.
Công ty kinh doanh mua bán cho mình theo nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng trước, rồi đến mình sau. Tuyệt đối cấm những giao dịch của Công ty chứng khoán mà thanh toán bằng tiền của khách hàng. Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Hoạt động kinh doanh của công ty được kiểm soát chặt chẽ bởi các cơ quan chức năng của nhà nước và hiệp hội chứng khoán.
Đặc điểm về tổ chức của công ty chứng khoán
Thứ nhất, chịu ảnh hưởng của thị trường tài chính. TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính do đó những biến động của thị trường tái chính nói chung và TTCK nói riêng đều có những ảnh hưởng nhất định đến hoạt động, các dich vụ và có thể cả lợi nhuận của các CTCK. Thị trường tài chính càng phát triển thì sẽ càng có nhiều cơ hội hơn cho sự phát triển của TTCK và các CTCK. Các công cụ tài chính, các dịch vụ, sản phẩm hay trình độ chuyên môn của một thị trường tài chính phát triển sẽ là những cơ hội cho sự phát triển của TTCK và các CTCK.
Thứ hai, trong CTCK, trình độ nhân sự được chuyên môn hoá và phân cấp quản lý. Các bộ phận của một CTCK bao giờ cũng hoạt động độc lập với nhau và không phụ thuộc lẫn nhau do các mảng hoạt động của các bộ phận của CTCK là khác nhau như môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn… Do đó mức độ chuyên môn hoá và phân cấp quản lý của các CTCK là rất cao và rõ rệt, các bộ phận có thể tự quyết định hoạt động của mình.
Thứ ba, nhân tố con người giữ vai trò quyết định trong hoạt động của CTCK. Do đặc điểm hoạt động của CTCK là chuyên môn hoá cao nên nhân sự làm việc trong CTCK cần có những khả năng độc lập trong quyết định công việc. Khả năng làm việc của mỗi nhân viên trong công ty là nhân tố rất quan trọng giúp cho sự thành công của CTCK. Họ là cầu nối giữa khách hàng và công ty, tìm kiếm khách hàng cho công ty và hiểu được tiềm lực của chính những khách hàng đó, do vậy, góp phần quan trọng cho thành công của công ty.
Đặc điểm về tài chính của CTCK
Thứ nhất, nguồn vốn của CTCK rất đa dạng và linh hoạt. Trong CTCK thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, nguồn vốn của công ty là vốn góp của thành viên. Trong công ty cổ phần, vốn có thể huy động từ các cổ đông, từ việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc các loại chứng chỉ khác ra công chúng, ra thị trường nước ngoài. Đây là nguồn tài trợ dài hạn, đảm bảo cho công ty một nguồn vốn chắc chắn và ổn định. Ngoài ra, công ty còn có thể sử dụng các khoản vay ngắn hạn để bù đắp các khoản thiếu hụt tạm thời khi công ty cho khách hàng vay để mua chứng khoán hoăc công ty thực hiện nghiệp vụ tự doanh.
Thứ hai, tài sản của CTCK phần lớn là các chứng khoán. Những chứng khoán này hình thành chủ yếu từ hoạt động tự doanh và bảo lãnh phát hành. Nét đặc trưng của loại tài sản này là giá trị của chúng biến động một cách thường xuyên theo giá chứng khoán trên thị trường. Sự biến đông này tất yếu sẽ tạo ra những rủi ro tiềm năng đối với CTCK. Do vậy, các chứng khoán trong tài sản của CTCK phải có tính thanh khoản rất cao.
Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán
Hoạt động của CTCK phải đảm bảo một số nguyên tắc nhất định gồm: nguyên tắc về đạo đức và nguyên tắc về tài chính.
Về nguyên tắc đạo đức, CTCK phải đảm bảo tính trung thực, tập trung, có trách nhiệm và coi lợi ích của khách hàng là trước hết. Điều này thể hiện ở nghĩa vụ của CTCK, trong hoạt động tư vấn, CTCK không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả,giá trị và bản chất của bất kỳ loại chứng khoán nào; không được có hành vi cung cấp thông tin sai sự thật để dụ dỗ hay mời gọi khách hàng mua bán 1 loại chứng khoán nào đó; bảo mật các thông tin nhận được từ người sử dụng dịch vụ tư vấn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc pháp luật có quy định khác; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động tư vấn và bồi thường thiệt hại cho người sử dụng dịch vụ tư vấn khi vi phạm cam kết trong hợp đồng tư vấn.
Trong hoạt động tự doanh, Các công ty chứng khoán phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Đồng thời, pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh, tức là phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của chính mình. CTCK phải công bố cho khách hàng biết khi mình là đối tác trong giao dịch trực tiếp với khách hàng và không được thu phí giao dịch của khách hàng trong trường hợp này. Trong trường hợp lệnh mua/bán chứng khoán của khách hàng có thể ảnh hưởng lớn tới giá của loại chứng khoán đó, công ty chứng khoán không được mua/bán trước cùng loại chứng khoán đó cho chính mình hoặc tiết lộ thông tin cho bên thứ 3 mua/bán loải chứng khoán đó. Khi khách hàng đặt lệnh giới hạn, CTCK không được mua hoặc bán cùng loại chứng khoán đó cho mình ở mức giá bằng hoặc tốt hơn mức giá của khách hàng trước khi lệnh của khách hàng được thực hiện.
Về nguyên tắc tài chính, CTCK phải đảm bảo các yêu cầu về vốn, nguyên tắc hạch toan, báo cáo theo quy định của UBCKNN; không được dung tiền của khách hàng để kinh doanh (ngoại trừ dung cho giao dịch của khách hàng); không được dung chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp đi vay vốn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản. Đồng thời, CTCK phải công bố về mức phí giao dịch chứng khoán trước khi khách hàng thực hiện giao dịch. Công ty chứng khoán có trách nhiệm thông báo kịp thời, đầy đủ cho khách hàng về những quyền lợi phát sinh liên quan đến chứng khoán của khách hàng. Việc gửi,rút, chuyển khoản chứng khoán thực hiện theo lệnh của khách hàng và theo quy định về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.
Khi tư vấn cho khách hàng giao dịch chứng khoán, CTCK phải thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng, không được đảm bảo giá trị chứng khoán mà mình khuyến nghị đầu tư. CTCK có nghĩa vụ cập nhật các thông tin về khả năng tài chính, khả năng chịu đựng rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận của khách hàng, nhân thân của khách hàng tối thiểu 6 tháng 1 lần.
1.2.3. Chức năng, vai trò của công ty chứng khoán Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
CTCK có chức năng cơ bản gồm:
- Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến những người sử dụng vốn (thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh)
- Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh)
- Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán (hoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt và ngược lại từ tiền mặt ra chứng khoán moat cách dễ dàng)
- Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò tạo lập thị trường)
Về vai trò, CTCK là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng. Nhờ các CTCK mà các chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành tới các nhà đầu tư qua đó huy động các nguồn vốn nhàn rỗi để sử dụng có hiệu quả. CTCK có vai quan trọng đối với các chủ thể khác nhau trên thị trường chứng khoán. Có thể khái quát các vai trò của CTCK như sau:
Vai trò làm cầu nối giữa cung – cầu chứng khoán
Trên thị trường sơ cấp, CTCK là cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát hành huy động vốn một cách nhanh chóng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Một doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, thường họ không tự bán chứng khoán của mình mà thông qua một tổ chức chuyên nghiệp tư vấn và giúp họ phát hành chứng khoán. Đó là các tổ chức trung gian tài chính như ngân hàng, CTCK…
CTCK với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành. Với nghiệp vụ này, CTCK thực hiện vai trò làm cầu nối và là kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Trên thị trường thứ cấp, CTCK là cầu nối giữa các nhà đầu tư, là trung gian chuyển các khoản đầu tư thành tiền và ngược lại. Trong môi trường đầu tư ổn định, các nhà đầu tư luôn chuộng những chứng khoán có tính thanh khoản cao vì họ luôn có nhu cầu chuyển đổi số vốn tạm thời nhàn rỗi thành các khoản đầu tư và ngược lại. CTCK với nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư đảm nhận tốt vai trò chuyển đổi này, giúp các nhà đầu tư giảm thiểu thiệt hại về giá trị khoản đầu tư của mình.
Vai trò cung cấp các dịch vụ cho thị trường chứng khoán
CTCK với các chức năng và nghiệp vụ của mình cung cấp các dịch vụ cần thiết góp phần cho TTCK hoạt động ổn định. Hoạt động cung cấp dịch vụ của CTCK có ảnh hưởng tới tất cả các chủ thể tham gia TTCK, cụ thể:
Đối với tổ chức phát hành: các CTCK thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành cho các tổ chức phát hành do đó các CTCK có vai trò rất quan trọng trong việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng của các tổ chức phát hành nhằm thực hiện mục tiêu là huy động vốn thông qua đợt phát hành các chứng khoán ra công chúng. Ngoài ra, các CTCK còn hỗ trợ chuyên môn thông qua tư vấn phát hành cho các tổ chức phát hành, cung cấp cho doanh nghiệp các giải pháp tổng hợp về vấn đề tài chính, cơ cấu tổ chức công ty, lập và đánh giá dự án, quản lý tài sản và định hướng đầu tư…
Mục tiêu khi tham gia vào TTCK của các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán. Vì vậy, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả người đầu tư và nhà phát hành. Và khi thực hiện công việc này, CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK.
Đối với các nhà đầu tư: Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Các CTCK là công ty chuyên nghiệp trong việc thu thập và xử lý thông tin. Vì thế, sẽ chính xác hơn nếu như các CTCK đánh giá các khoản đầu tư của khách hàng và tư vấn cho khách hàng về định hướng đầu tư của họ. TTCK là một thị trường thường xuyên biến động về giá cả cũng như mức độ rủi ro cao. Vì thế, với một hoạt động chuyên nghiệp, các CTCK sẽ giúp cho hoạt động của TTCK trở nên hiệu quả và ổn định hơn, giúp cho các nhà đầu tư xác định đúng giá trị của các chứng khoán. Đồng thời, qua hoạt động tư vấn, các CTCK trở thành một kênh thông tin có hiệu quả đối với các nhà đầu tư như: thông tin về giá cả của các chứng khoán, thông tin thị trường, chính sách kinh tế xã hội… một cách chính xác và kịp thời tới các nhà đầu tư. Qua việc lưu ký và đăng ký chứng khoán, các CTCK có vai trò quản lý chứng khoán hộ khách hàng, do đó sẽ dễ dàng trách được các rủi ro về mất hay hỏng chứng khoán, rủi ro về chứng khoán không còn giá trị lưu hành… Nhờ đó kịp thời đưa ra các quyết đinh xử lý, đảm bảo quyền lợi của khách hàng. Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Đối với TTCK: CTCK góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các CTCK vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Với việc cung cấp cơ chế giá cả, CTCK góp phần đưa giá chứng khoán phản ánh đúng cung cầu của thị trường.
Ngoài ra, CTCK còn thực hiện vai trò ổn định thị trường. Vai trò này xuất phát từ nghiệp vụ tự doanh. Qua nghiệp vụ này, các CTCK nắm giữ một tỷ lệ nhất định các chứng khoán qua đó góp phần bình ổn thị trường. Bằng hoạt động bảo lãnh phát hành, các CTCK tạo ra hàng hoá và tạo ra tính hấp dẫn của hàng hoá cho cho thị trường. Các tổ chức phát hành chứng khoán thông qua hoạt động bảo lãnh của các CTCK thì chứng khoán phát hành sẽ có uy tín hơn trên thị trường và sẽ dễ dàng giao dịch trên thị trường, đồng thời giá của chứng khoán cũng sẽ được các CTCK xác định một cách chính xác, phù hợp với tổ chức phát hành góp phần bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu. Điều này giúp cho chứng khoán của các tổ chức phát hành phát hành thông qua CTCK sẽ được tín nhiệm hơn, góp phần làm tăng tính thanh khoản của các chứng khoán phát hành trên thị trường sơ cấp. Bên cạch đó, hoạt động môi giới và tư vấn của các CTCK trên thị trường chứng khoán thứ cấp tạo nên tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Các chứng khoán có tính thanh khoản càng cao càng hấp dẫn được công chúng đầu tư hơn, từ đó tạo điều kiên thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp phát hành chứng khoán trên thị trường.
Trên thị trường cấp 1: qua các hoạt động như bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các CTCK không những huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ dược mua bán giao dịch trên thị trường cấp 2. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư.
Trên thị trường cấp 2, qua các giao dịch mua và bán chứng khoán, các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của những tài sản tài chính.
Đối với cơ quan quản lý thị trường: Các cơ quan quản lý thị trường có mục tiêu là quản lý và bình ổn thị trường, giúp cho thị trường hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Các CTCK có vai trò rất quan trọng là cung cấp các thông tin cho các cơ quan quản lý để họ thực hiện tốt mục tiêu đó. Các CTCK thực hiện được vai trò này là do các CTCK là công ty hoạt động chuyên nghiệp trên thị trường nên các thông tin mà họ có được là các thông tin nhanh nhất và chính xác nhất vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành, vừa là người phát hành chứng khoán ra công chúng thông qua các hoạt động bảo lãnh và đại lý bảo lãnh phát hành, vừa là trung tâm mua và bán các chứng khoán. Do vậy, các thông tin phải được công khai trên thị trường dưới sự giám sát của các nhà quản lý thị trường. Việc công khai các thông tin vừa là quy định của hệ thống pháp luật vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK vì các CTCK cần phải minh bạch trong hoạt động của mình. Các thông tin CTCK có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua, bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư… Nhờ các thông tin này mà các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường..
Vai trò điều tiết và bình ổn giá trên thị trường chứng khoán
Từ sau cuộc khủng hoảng của TTCK thế giới ngày 28/10/1929, Chính phủ các nước đã ban hành những luật lệ bổ sung cho hoạt động của TTCK, trong đó, đòi hỏi sự phối hợp giữa Nhà nước với các thành viên tham gia Sở giao dịch chứng khoán nhằm ngăn chặn những cơn khủng hoảng giá chứng khoán có thể xảy ra trên thị trường, vì nếu TTCK bị khủng hoảng thì không những nền kinh tế bị ảnh hưởng mà ngay cả quyền lợi của nhà đầu tư, các CTCK cũng bị ảnh hưởng theo.
Theo quy định của các nước, các CTCK có nghiệp vụ tự doanh phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá giảm và bán chứng khoán dự trữ ra khi giá lên quá cao nhằm góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị trường. Dù sự can thiệp của CTCK trong những tình huống này chỉ có hạn, phụ thuộc vào nguồn vốn tự doanh và quỹ dự trữ chứng khoán song nó vẫn có ý nghĩa nhất định, tác động đến tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường. Với vai trò này, các CTCK góp phần tích cực vào sự tồn tại và phát triển bền vững của TTCK.
Công ty chứng khoán tạo ra các sản phẩm mới
Trong những năm gần đây, chủng loại chứng khoán đã phát triển với tốc độ rất nhanh do một số nguyên nhân, trong đó có yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính và sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán. Ngoài cổ phiếu (thường và ưu đãi) và trái phiếu đã được biết đến, các công ty chứng khoán hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ (trung ương và địa phương), chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác phù hợp với thay đổi trên thị trường và môi trường kinh tế.
Các công ty chứng khoán giúp chuyển chứng khoán thành tiền mặt
Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán có giá và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định. Các công ty chứng khoán đảm nhận chức năng chuyển đổi này, giúp nhà đầu tư phải chịu ít thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư. Chẳng hạn, trong hầu hết các nghiệp vụ đầu tư ở Sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC ngày nay, một nhà đầu tư có thể hàng ngày chuyển đổi tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại mà không phải chịu thiệt hại đáng kể đối với giá trị khoản đầu tư của mình (ít nhất thì cũng không chịu thiệt hại do cơ chế giao dịch chứng khoán gây nên). Nói cách khác, có thể có một số nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến giá trị đầu tư, chẳng hạn như tin đồn về một vấn đề nào đó trong nền kinh tế, nhưng giá trị khoản đầu tư nói chung không giảm đi do cơ chế mua bán.
Khi thực hiện các chức năng của mình, các công ty chứng khoán cũng tạo ra sản phẩm, vì các công ty này hoạt động với tư cách đại lý hay công ty ủy thác trong quá trình mua bán các chứng khoán được niêm yết và không được niêm yết, đồng thời cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư cho các cá nhân đầu tư, các công ty cổ phần và cả chính phủ nữa.
Tóm lại, các CTCK có vai trò vô cùng quan trọng trên thị trường chứng khoán, không chỉ góp phần tạo ra hàng hoá và tính hấp dẫn của hàng hoá trên thị trường mà còn là nhân tố quan trọng giúp cho thị trường ổn định và phát triển, tạo ra lợi ích kinh tế cho toàn xã hội thông qua việc làm giảm chi phí giao dịch, tạo ra nguồn vốn lớn cho toàn nên kinh tế và thị trường thúc đẩy các luồng tiền nhãn rỗi đi vào hoạt đầu tư cho sự phát triển của nên kinh tế.
1.2.4. Các loại hình công ty chứng khoán Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Mỗi quốc gia đều có một mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán riêng, phù hợp với đặc điểm của hệ thống tài chính.
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất, có thể phân loại CTCK thành: mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán và mô hình ngân hàng đa năng kinh doanh tiền tệ và chứng khoán
Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán
Hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các CTCK độc lập chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhiệm, các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán. Áp dụng phổ biến ở các nước như Nhật, Canada, Mỹ…
Ưu điểm của mô hình công ty này là hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho TTCK phát triển chuyên môn hóa cao hơn.
Tuy nhiên, nhược điểm của mô hình công ty này là san bằng rủi ro thấp, các nước áp dụng giảm dần đối với ngân hàng thương mại trong chứng khoán.
Mô hình ngân hàng đa năng kinh doanh tiền tệ và chứng khoán
Theo mô hình đa năng, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình ngân hàng đa năng lại được chia nhỏ thành hai loại: ngân hàng đa năng toàn phần và ngân hàng đa năng một phần.
Mô hình ngân hàng đa năng toàn phần: là một ngân hàng có thể tham gia tất cả các hoạt động kinh doanh tiền tệ, chứng khoán mà không phải thông qua pháp nhân riêng.
Mô hình ngân hàng đa năng một phần: Một ngân hàng muốn tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thông qua công ty con là pháp nhân riêng biệt.
Ưu điểm của mô hình ngân hàng đa năng là ngân hàng có thể đa dạng hóa, kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh nhờ đó giảm bớt rủi ro kinh doanh, tăng khả năng chịu đựng các biến động của TTCK. Mặt khác, ngân hàng tận dụng được thế mạnh về vốn để kinh doanh chứng khoán còn khách hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm của ngân hàng.
Song, nhược điểm của mô hình ngân hàng đa năng là thị trường cổ phiếu không phát triển do ngân hàng có xu hướng bảo thủ, chuyên về hoạt động tín dụng hơn là bảo lãnh phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Ngoài ra, nếu có biến động trên TTCK sẽ ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, dễ dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Do các hạn chế nêu trên, sau khủng hoảng năm 1933, nhiều nước trên thế giới trước đó có áp dụng mô hình ngân hàng đa năng đã chuyển hết sang áp dụng mô hình chuyên doanh chứng khoán, chỉ có Đức vẫn duy trì mô hình ngân hàng đa năng.
Tại Việt Nam, do quy mô của các ngân hàng thương mại rất nhỏ bé, chủ yếu là lĩnh vực vốn ngắn hạn, trong khi hoạt động của TTCK thuộc lĩnh vực vốn dài hạn nên để đảm bảo an toàn cho các ngân hàng, Nghị định 144/CP/2003 ngày 28/11/2003 về chứng khoán và TTCK quy định các ngân hàng thương mại muốn kinh doanh chứng khoán phải tách ra một phần vốn tự có của mình để thành lập một CTCK chuyên doanh trực thuộc, hoạch toán độc lập với ngân hàng. Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Căn cứ vào hình thức pháp lý quy định trong pháp luật của từng nước, CTCK được chia thành ba loại hình tổ chức cơ bản: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở lên. Thành viên của công ty hợp danh kinh doanh chứng khoán gồm: thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Khả năng huy động vốn của hình thức này yếu, chỉ giới hạn trong số vốn mà hội viên có thể đóng góp. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ thanh toán của công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty. Họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh không được phép pháp hành bất cứ một loại chứng khoán nào. Vì vậy, hiện nay có rất ít công ty chứng khoán hoạt động theo hình thức công ty hợp danh.
Công ty trách nhiệm hữu hạn
Về phương diện huy động vốn, công ty trách nhiệm hữu hạn có phương thức huy động vốn đơn giản và linh hoạt hơn công ty hợp danh. Đồng thời, cơ cấu đội ngũ quản lí của công ty trách nhiệm hữu hạn cũng đa dạng, năng động hơn và không bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh. Thành viên của công ty chịu trách nhiệm hữu hạn với các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành cổ phiếu.
Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu công ty là các cổ đông. Cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật.
Công ty cổ phần tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông. Rủi ro mà chủ sở hữu công ty phải chịu được giới hạn ở mức nhất định. Nếu công ty phá sản, cổ đông chỉ chịu thiệt hại ở mức vốn đã góp. Quyền sở hữu của các chủ sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua mua bán cổ phiếu. Trường hợp CTCK tổ chức theo hình thức công ty cổ phần và được niêm yết tại sở giao dịch thì xem như đã được quảng cáo miễn phí. Đây cũng được coi là một lợi thế của CTCK. Về hình thức tổ chức quản lí, chế độ báo cáo và thông tin của công ty cổ phần cũng được đánh giá là tốt hơn hai loại hình công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn.
Do các ưu điểm về tổ chức và hoạt động mà các CTCK hiện nay hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần rất nhiều, thậm chí một số nước như Hàn Quốc bắt buộc CTCK phải là công ty cổ phần.
Căn cứ vào nghiệp vụ thực hiện, CTCK được chia thành: công ty môi giới chứng khoán, công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán, công ty kinh doanh chứng khoán, công ty trái phiếu, công ty chứng khoán phi tập trung.
Công ty môi giới chứng khoán là công ty chỉ thực hiện việc trung gian, mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá.
Công ty kinh doanh chứng khoán là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh, tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Công ty trái phiếu là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu
CTCK phi tập trung là CTCK hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường bằng các dịch vụ cung cấp.
1.3. Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Theo Từ điển tiếng Việt, “địa vị là vị trí trong quan hệ xã hội, chính trị do vai trò, tác dụng mà có, về mặt được coi trọng nhiều hay ít” [44, tr. 305].
Địa vị pháp lý là tư cách của cá nhân, pháp nhân, tổ chức hay các chủ thể khác khi tham gia vào một hoặc nhiều quan hệ pháp luật nhất định. Địa vị pháp lý cũng chính là tư cách pháp lý thể hiện vị trí, vai trò của chủ thể đó trong quan hệ pháp luật và đi liền với nó là quyền lợi, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý phát sinh. Địa vị pháp lý là nền tảng để xác định quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người và cũng là điểm xuất phát để gỡ rối tranh chấp trong tố tụng.
Địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lý ta có thể phân biệt được chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí, tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ pháp lý.
Do vậy, việc nắm vững địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng đối với mọi chủ thể. Đối với chủ thể có địa vị pháp lý thì sẽ giúp họ thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ của mình. Còn đối với các chủ thể khác việc nắm vững địa vị pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật sẽ giúp họ không xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ của người khác.
Địa vị pháp lý được xem xét trong mối quan hệ tổng thể về tư cách chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật nhất định
Địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật được xác định trên hai phương diện có quan hệ mật thiết với nhau. Phương diện thứ nhất bao gồm toàn bộ những quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm mà Nhà nước quy định cho chủ thể pháp luật, phù hợp với vai trò, chức năng và vị trí của nó trong xã hội. Phương diện thứ hai, bao gồm những quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm được tạo nên do các chủ thể thỏa thuận mà không bị pháp luật cấm khi tham gia vào các quan hệ.
Đã có một số tác giả đưa ra khái niệm về địa vị pháp lý của một chủ thể như địa vị pháp lý của doanh nghiệp, địa vị pháp lý của nhà đầu tư, địa vị pháp lý của công ty đầu tư tài chính nhà nước… Chẳng hạn, địa vị pháp lý của doanh nghiệp là tập hợp những quyền – nghĩa vụ – trách nhiệm được pháp luật quy định và những quyền – nghĩa vụ – trách nhiệm trong quá trình hoạt động sản xuất – kinh doanh – dịch vụ được thực hiện nếu pháp luật không cấm hoặc được Nhà nước và xã hội khuyến khích, thể hiện vai trò, vị trí, chức năng của doanh nghiệp trong nền kinh tế và trong xã hội [51].
Hoặc tác giả Lê Thị Thanh đưa ra khái niệm địa vị pháp lý của công ty đầu tư tài chính nhà nước là tổng hợp những quyền, nghĩa vụ của công ty đầu tư tài chính nhà nước trên cơ sở các quy phạm pháp luật và những quyền, nghĩa vụ do công ty đầu tư tài chính nhà nước lựa chọn và đảm nhận trên cơ sở tận dụng những khả năng pháp luật cho phép hoặc không cấm, phát sinh trong quá trình đầu tư, quản lý, kinh doanh vốn nhà nước; thông qua đó bản chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của công ty đầu tư tài chính nhà nước được thể hiện [49].
Như nội dung đã phân tích ở mục 1.2.1, CTCK là doanh nghiệp thành lập theo quy định pháp luật để thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán, tức là CTCK là một loại hình doanh nghiệp đặc thù. Do vậy, có thể xác định địa vị pháp lý của CTCK bao gồm những quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của CTCK theo quy định của pháp luật về kinh doanh chứng khoán và những quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm do CTCK xác định trong điều lệ, nội quy, quy chế hoạt động của CTCK cũng như những quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm nảy sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của CTCK trên cơ sở tận dụng những khả năng mà pháp luật cho phép. Địa vị pháp lý của CTCK được quy định trong Luật Chứng khoán và một số văn bản pháp luật có liên quan (Luật Doanh nghiệp). Đồng thời, địa vị pháp lý của CTCK còn được quy định trong điều lệ, nội quy, quy chế hoạt động của CTCK.
Nội dung của địa vị pháp lý của CTCK bao gồm: điều kiện thành lập, tổ chức hoạt động, quyền và nghĩa vụ của CTCK, các vấn đề về chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản và chấm dứt hoạt động của CTCK.
Về điều kiện thành lập, CTCK phải tuân thủ các quy định pháp luật về vốn, về nhân sự, về cơ sở vật chất.
Thứ nhất, điều kiện về vốn: CTCK phải có mức vốn điều lệ bằng vốn pháp định. Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội và mức độ phát triển của TTCK ở từng nước mà pháp luật về chứng khoán của các nước có quy định mức vốn điều lệ khác nhau. Chẳng hạn, Luật Chứng khoán năm 2005 của Trung Quốc quy định mức vốn điều lệ để thành lập CTCK là 500 triệu nhân dân tệ, hoặc theo Luật Chứng khoán của Thái Lan, các CTCK phải có mức vốn điều lệ tối thiểu là 100 triệu Baht, nếu tham gia hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh phát hành phải có mức vốn tối thiểu là 10 tỷ Baht. Ngoài điều kiện về vốn, CTCK còn phải đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất như: phải có địa điểm kinh doanh cố định, có trang thiết bị giao dịch bảo đảm đủ tiêu chuẩn
Thứ hai, về điều kiện nhân sự, do CTCK hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đặc thù nên hầu hết pháp luật các nước có những quy định khá chặt chẽ về tổ chức nhân sự của CTCK. Điều kiện chung mà các văn bản luật các nước đều quy định là người quản lý tổ chức kinh doanh và người hành nghề kinh doanh chứng khoán phải có chuyên môn, có kiến thức và kinh nghiệm về chứng khoán. Chẳng hạn, Luật Chứng khoán của Trung Quốc quy định nhân viên của CTCK phải có kiến thức về chứng khoán và có ít nhất 2 năm kinh nghiệm hành nghề kinh doanh chứng khoán. Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
Về tổ chức hoạt động, CTCK được phép kinh doanh theo nội dung được cấp phép. Chẳng hạn, công ty môi giới chỉ được thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán trong khi CTCK đa năng được phép thực hiện tất cả các nghiệp vụ chứng khoán theo quy định của pháp luật. CTCK phải có chế độ quản lý hoàn chỉnh trong đó hệ thống quản lý nghiệp vụ tự doanh phải tách bạch với các nghiệp vụ khác và tách bạch với nhau, đảm bảo hợp lý, đáp ứng yêu cầu giao dịch tốt.
Về nghĩa vụ của CTCK, do hoạt động khá đặc thù của CTCK, pháp luật các nước có quy định khá chặt chẽ về nghĩa vụ của CTCK. Chẳng hạn, pháp luật Việt Nam quy định, CTCK có những nghĩa vụ sau
Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát, ngăn ngừa những xung đột lợi ích trong nội bộ công ty và trong giao dịch với người có liên quan;
Quản lý tách biệt chứng khoán của từng nhà đầu tư, tách biệt tiền và chứng khoán của nhà đầu tư với tiền và chứng khoán của công ty chứng khoán;
Ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng; cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin cho khách hàng.;
Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty;
Thu thập, tìm hiểu thông tin về tình hình tài chính, mục tiêu đầu tư, khả năng chấp nhận rủi ro của khách hàng; bảo đảm các khuyến nghị, tư vấn đầu tư của công ty cho khách hàng phải phù hợp với khách hàng đó;
Tuân thủ các quy định bảo đảm vốn khả dụng theo quy định của Bộ Tài chinh;
Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán tại công ty hoặc trích lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư để bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư do sự cố kỹ thuật và sơ suất của nhân viên trong công ty;
Lưu giữ đầy đủ các chứng từ và tài khoản phản ánh chi tiết, chính xác các giao dịch của khách hàng và của công ty;
Thực hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài chinh;
Tuân thủ các quy định của Bộ Tài chính về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán;
Thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê, nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật;
Thực hiện công bố thong tin và chế độ báo cáo theo quy định của Bộ Tài chính.
Các vấn đề về chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản và chấm dứt hoạt động của CTCK cũng được quy định khá rõ ràng trong pháp luật của mỗi nước. Có nước quy định riêng về điều kiện sáp nhập, chia, tách, giải thể, phá sản CTCK trong Luật Chứng khoán, có nước áp dụng theo Luật Doanh nghiệp hoặc Luật về công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Luật công ty cổ phần.
Kết luận Chương 1
Là một bộ phận của nền kinh tế, việc hình thành và phát triển hoạt động CTCK vừa là yêu cầu tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường, vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế – tài chính. CTCK có vai trò quan trọng trên TTCK, không chỉ góp phần tạo ra hàng hoá và tính hấp dẫn của hàng hoá trên thị trường mà còn là nhân tố quan trọng giúp cho thị trường ổn định và phát triển, tạo ra lợi ích kinh tế cho toàn xã hội thông qua việc làm giảm chi phí giao dịch, tạo ra nguồn vốn lớn cho toàn nên kinh tế và thị trường thúc đẩy các luồng tiền nhãn rỗi đi vào hoạt đầu tư cho sự phát triển của nên kinh tế.
Trong Chương 1, học viên đã tìm hiểu những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của CTCK. Trên những nền tảng lý luận này, ở chương 2, luận văn sẽ đi sâu hơn vê việc tìm hiểu, phân tích thực trạng quy định và thực tiễn thực thi những quy định về địa vị pháp lý của CTCK tại Việt Nam. Luận văn: Pháp lý của theo Luật chứng khoán ở Việt Nam
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Khái quát về địa vị pháp lý của Cty chứng khoán