Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mới chỉ ra đời chưa đầy 9 năm, TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả cho doanh nghiệp nói riêng, cho thị trường vốn nói chung. Nửa cuối năm 2006, đầu năm 2007, TTCK đã có bước phát triển nhảy vọt, kéo theo sự ra đời của hàng loạt các thiết chế trung gian trên thị trường, trong đó có các CTCK. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
CTCK ra đời đã kịp thời đáp ứng được đòi hỏi cấp bách của thị trường, gia tăng tính minh bạch, bình đẳng, công bằng giữa các chủ thể tham gia thị trường. Tuy nhiện, sự ra đời ồ ạt của hàng loạt các CTCK cũng gây ra những hậu quả tiêu cực cho thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân các công ty này và lợi ích của các NĐT tham gia thị trường. Hệ quả đưa lại sau khoảng thời gian “chạy đua” xin cấp giấy phép thành lập CTCK là tình trạng các công ty này phải “vật lộn” trước bài toán duy trì hoạt động trước áp lực cạnh tranh giữa các CTCK với nhau, đặc biệt là trong giai đoạn thị trường tài chính thế giới và trong nước đang có những biến cố bất lợi. Mặt khác, do có những lợi thế nhất định nên dễ dẫn đến khả năng CTCK xâm phạm đến quyền lợi của khách hàng (NĐT).Vì vậy, tác giả chọn đề tài nêu trên để triển khai nghiên cứu vì những lý do sau:
Một là, mặc dù Luật CK và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định khá cụ thể về trách nhiệm của CTCK khi tiến hành thành lập, hoạt động kinh doanh nhưng sau một khoảng thời gian áp dụng, những quy định này đã bộc lộ những lỗ hổng lớn có khả năng gây phương hại đến các chủ thể khách cùng tham gia thị trường trong đó có các NĐT – là chủ thể chính quyết định sự tồn tại, ổn định và phát triển của thị trường;
Hai là, pháp luật dường như mới chỉ tính đến tình huống CTCK thành lập mà chưa có những dự liệu cần thiết cho tình huống các công ty này lâm vào tình trạng giải thể, phá sản. Đặc thù hoạt động của CTCK là có khả năng ảnh hưởng, tác động đến nhiều chủ thể khác nhau. Hoạt động kinh doanh CK của CTCK là hoạt động kinhh doanh có điều kiện. Mặt khác, trong nhiều trường hợp, tài sản, quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ với CTCK rất khó xác định. Vì vậy, nếu chỉ đơn thuần dựa vào các quy định của luật phá sản doanh nghiệp sẽ không thể xử lý thấu đáo và đôi khi không tìm ra giải pháp hợp lý, tối ưu các vấn đề pháp lý phát sinh;
Ba là, trong mối tương quan với khách hàng, CTCK là chủ thể có nhiều ưu thế hơn trong quá trình đầu tư. CTCK không chỉ có thế mạnh, khả năng về năng lực tài chính mà còn có lợi thế lớn về nhân lực và kỹ thuật. Trong khi đó, trong những trường hợp nhất định, CTCK và khách hàng đều là những NĐT có mục tiêu hướng tới là lợi nhuận. Trên TTCK tập trung, tất cả các lệnh của khách hàng phải thực hiện thông qua CTCK, do vậy, rất dễ dẫn đến khả năng xung đột lợi ích giữa hai chủ thể này. Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của CTCK trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của NĐT sẽ góp phần đóng góp ý kiến, đề xuất cho các nhà làm luật hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh có hiệu quả hoạt động kinh doanh của CTCK nhằm đem lại sự phát triển ổn định, lành mạnh của thị trường và bảo vệ tối ưu quyền lợi hợp pháp, chính đáng của NĐT.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa lý luận của đề tài Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Qua tra cứu cho thấy, ở nước ta, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài báo và tạp chí đề cập đến khía cạnh pháp lý của hai chủ thể: CTCK và NĐT. Có thể kể đến một số công trình như: Đoàn Quốc Hùng, Pháp luật về hoạt động kinh doanh CK của CTCK – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2002; Nguyễn Bảo Giang, CTCK theo pháp luật Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005; Hoàng Thị Quỳnh Chi, Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK tập trung ở Việt Nam, năm 2008; Vũ Nhất Tâm, Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT cá nhân trên TTCK ở Việt Nam, năm 2008. Các công trình này đề cập đến các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động kinh doanh của CTCK và các vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NĐT. Tuy nhiên, một số công trình được nghiên cứu vào thời điểm những năm trước khi Luật CK được ban hành nên chưa giải quyết được các vấn đề pháp lý cơ bản đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, hầu hết các công trình này mới chỉ nghiên cứu một cách độc lập vấn đề cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động và các vấn đề khác của CTCK mà chưa đề cập và giải quyết mối tương qua giữa hoạt động kinh doanh của CTCK với việc đảm bảo quyền lợi của NĐT. Thêm vào đó, trước bối cảnh TTCK trong nước và thế giới đang có những biến động lớn như hiện nay, hàng loạt các CTCK lâm vào tình trạng khó khăn, thua lỗ, trên thị trường có những vụ việc tranh chấp gây tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của NĐT thì việc tác giả lựa chọn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ đề tài trên mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về CTCK khi tiến hành sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới nhằm vừa tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho các CTCK hoạt động hiệu quả, vừa đảm bảo tốt nhất lợi ích hợp pháp chính đáng của các NĐT khi tham gia thị trường. Tác giả hy vọng rằng, với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý điều chỉnh các nội dung hoạt động kinh doanhh của CTCK trong mối tương quan với việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NĐT. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ chỉ ra những vấn đề pháp lý chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện, đồng thời, đánh giá thực trạng và những vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ đề xuất các giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về CTCK nói riêng, TTCK nói chung, góp phần củng cố, cải thiện tính minh bạch, ổn định của thị trường và lợi ích của các bên khi tham
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trên thực tế, CTCK và NĐT có thể tham gia vào các loại TTCK, kể cả TTCK chính thức và TTCK phi chính chính thức, TTCK tập trung và TTCK phi tập trung. Theo đó, mối quan hệ giữa NĐT và CTCK cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, trong phạm của luận văn, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu các khía cạnh pháp lý liên quan đến hoạt động kinh doanh của CTCK trên TTCK tập trung trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của NĐT. gia TTCK.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm tìm hiểu và khái quát những nội dung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động của CTCK và những quy định pháp lý ghi nhận, bảo vệ quyền lợi của NĐT; thống kê, khảo sát thực tiễn hoạt động kinh doanh của một số CTCK và thực tiễn tham gia giao dịch của NĐT trên thị trường. Luận văn cũng sử dụng phương pháp so sánh quy phạm pháp luật nước ngoài có cùng đối tượng và lĩnh vực điều chỉnh để vận dụng những điểm tích cực phù hợp với thực tế của TTCK Việt Nam.
6. Dự kiến kế hoạch thực hiện Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Bước 1: Nghiên cứu các vấn đề pháp lý chung về bảo vệ quyền lợi của NĐT và hoạt động kinh doanh của CTCK;
Bước 2: Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động kinh doanh của C TCK trong mối tương quan với vấn đề bảo vệ quyền lợi của NĐT;
Bước 3: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam để hài hòa lợi ích của CTCK và NĐT.
7. Kết cấu của đề tài
Chương 1. Những vấn đề lý luận pháp luật về NĐT và hoạt động kinh doanh của CTCK trên TTCK
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của CTCK trong mối quan hệ với việc bảo vệ quyền lợi của NĐT
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh doanh của CTCK để bảo vệ lợi ích của NĐT
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ NHÀ ĐẦU TƯ VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Những vấn đề lý luận pháp luật về nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
TTCK là một trong những kênh huy động vốn quan trọng và hiệu của nền kinh tế. Đây là thị trường tạo ra nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng, góp phần hình thành nên cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Chính nguồn vốn này đã làm giảm bớt sự lệ thuộc của các doanh nghiệp vào hệ thống tín dụng ngân hàng, qua đó làm gia tăng tính chủ động, tích cực của các công cụ, đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp. Để TTCK vận hành ổn định và hiệu quả cần đến sự tham gia và đóng góp tích cực của tất cả các chủ thể trên thị trường gồm người mua, người bán, người trung gian và cơ quan quản lý. Trong đó, người mua và người bán chính là những NĐT – chủ thể giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại, phát triển của thị trường. Họ là những cá nhân hay tổ chức có tiền nhàn rỗi hoặc có nhu cầu sử dụng hiệu quả đồng vốn của mình bằng cách mua, bán CK trên thị trường để hưởng lợi nhuận. Mục tiêu cao nhất mà các NĐT hướng đến là lợi nhuận. Có rất nhiều quan điểm cho rằng đầu tư CK đơn thuần chỉ là việc sử dụng đồng tiền nhàn rỗi. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế học, chúng tôi cho rằng, đầu tư CK không chỉ đơn thuần là việc sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi, sẵn có mà nhiều khi đó còn là nguồn tiền hình thành từ các nguồn vốn vay. Đó có thể là nguồn vốn ngắn hạn hoặc dài hạn tùy thuộc vào khả năng, uy tín cũng như chiến lược đầu tư của mỗi NĐT. Bản chất của đầu tư tài chính theo nghĩa rộng là việc dịch chuyển của các luồng vốn từ nơi không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp đến những nơi có hiệu quả sử dụng cao hơn. Do vậy, nếu có căn cứ cho rằng việc mua, bán chứng khoán sẽ đem lại lợi nhuận thì NĐT sẽ không loại trừ giải pháp vay vốn để đầu tư chứng khoán.
Như vậy, giống như hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư CK là hoạt động luôn luôn hướng đến mục tiêu là lợi nhuận và tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, đầu tư CK có những điểm đặc thù so với các hoạt động đầu tư thông thường và bản thân người thực hiện hoạt động đầu tư CK cũng có những nét đặc trưng riêng so với các NĐT nói chung. Đầu tư được hiểu là việc “NĐT bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để thực hiện các hoạt động đầu tư” [27, Đ3]. Nếu xét trên tiêu chí quản lý hoạt động đầu tư, có thể phân chia hoạt động đầu tư thành hai loại: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hoạt động của NĐT đầu tư vốn ban đầu hình thành nên tài sản, sau đó trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tức là trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Trong khi đó, đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại giấy tờ có giá khác và do vậy, NĐT không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư CK khác với các hoạt động đầu tư thông thường ở chỗ, nó có bản chất là hoạt động đầu tư gián tiếp. NĐT CK là những người thực hiện hoạt động đầu tư CK, mặc dù không trực tiếp tham gia vào các công đoạn, quá trình sản xuất, kinh doanh nhưng trên TTCK họ là chủ thể có vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì ổn định và thúc đẩy thị trường phát triển. Mặt khác, nhờ có hoạt động đầu tư CK của các NĐT mà nguồn vốn trung và dài hạn trong xã hội được huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả, qua đó, hoạt động đầu tư của các NĐT CK đã tác động tích cực trở lại các doanh nghiệp- nơi diễn ra hoạt động đầu tư trực tiếp.
1.1.1. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
1.1.1.1. Vai trò của nhà đầu tư trên thị trƣờng chứng khoán
Mặc dù có rất nhiều chủ thể tham gia trên TTCK nhưng NĐT CK là lực lượng giữ vai trò trung tâm, tạo nên và quyết định sự phát triển bền vững của thị trường. Với lực lượng đông đảo, NĐT là bên tạo nên “cầu” hàng hóa của thị trường bên cạnh lực lượng “cung” là các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết. Bằng việc mua, bán các loại CK, NĐT đã tạo ra tính thanh khoản cho thị trường, qua đó, tạo nên “tính hấp dẫn” cho các loại CK. Đây là yếu tố vô cùng quan trọng, là thông số phản ánh lòng tin của NĐT đối với thị trường. Thông qua hoạt động đầu tư CK, Nhà nước có thể điều tiết, định hướng việc sử dụng các nguồn vốn trong xã hội, giảm bớt lượng tiền dư đọng trong dân, điều hòa quan hệ cung – cầu hàng hóa, khống chế lạm phát. Cũng qua hoạt động đầu tư của các NĐT CK Nhà nước có điều kiện để tổ chức triển khai thực hiện triệt để các mục tiêu cải cách kinh tế trong đó nổi bật là việc phân tách giữa vai trò quản lý của Nhà nước và tính chủ động, hiệu quả của các doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước sẽ đạt được mục tiêu và kỳ vọng của Nhà nước khi được các NĐT trong và ngoài nước, các tổ chức và cá nhân quan tâm đầu tư, qua đó, góp phần xây dựng cơ chế quản trị doanh nghiệp ngày càng hiện đại, hoàn thiện, lành mạnh và hiệu quả cao hơn.
Đối với các tổ chức phát hành, nếu CK của doanh nghiệp được giao dịch nhiều chứng tỏ CK của họ được công chúng đầu tư quan tâm và đánh giá tốt. Mặt khác, vì được nhiều NĐT quan tâm tìm hiểu, phân tích, đầu tư nên hình ảnh của tổ chức phát hành có CK niêm yết được công chúng biết đến nhiều hơn, uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp được nâng lên. Thực tế cho thấy, kết quả của các đợt phát hành của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tính thanh khoản của CK, vào niềm tin của các NĐT đối với tổ chức phát hành. Với việc sử dụng CK làm công cụ để huy động vốn, đã giúp doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào thị trường vốn, chủ động trong việc tìm kiếm và huy động vốn cho sản xuất, kinh doanh, giảm bớt sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào hệ thống ngân hàng. Đồng thời, doanh nghiệp cũng luôn có ý thức hoạt động và quản trị công ty theo hướng minh bạch, khoa học và hiệu quả hơn, đáp lại sự kỳ vọng của các NĐT.
Đối với các thiết chế trung gian trên thị trường như CTCK, CTQLQ thì vai trò của các NĐT là không thể phủ nhận. Với quy mô hoạt động như hiện nay, các CTCK chủ yếu trông chờ vào hai hoạt động chính của mình là hoạt động môi giới đầu tư CK và hoạt động tự doanh chứng khoán. Hoạt động môi giới đem lại nguồn thu phí môi giới cho các CTCK, doanh thu phí môi giới phụ thuộc vào số lượng NĐT mở tài khoản giao dịch, khối lượng và giá trị giao dịch của họ. Trong khi, tự doanh chứng khoán là hoạt động mà CTCK thực hiện việc mua bán CK với vai trò như một NĐT thì họ cũng cần phải có những NĐT khác cùng quan tâm mua bán, duy trì tính thanh khoản cho thị trường. Đối với CTQLQ, họ cần đến vai trò của các NĐT bởi vì các NĐT là những người góp vốn hình thành nên quỹ hoặc đầu tư tiền để mua chứng chỉ quỹ.
1.1.1.2. Những rủi ro của nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Đầu tư CK là hoạt động tiềm ẩn khả năng rủi ro rất cao. Rủi ro đầu tiên có nguyên nhân từ đặc tính của hàng hóa là CK. Đối với hàng hóa thông thường, chất lượng, giá trị của hàng hóa được ước lượng, kiểm tra bằng các giác quan và thông qua việc thẩm định đánh giá giá trị sử dụng của hàng hóa. Tuy nhiên, CK là loại hàng hóa đặc biệt, giá trị của CK không kết tinh trong bản thân CK với tính cách là một sản phẩm hữu hình mà được nhìn nhận và đánh giá thông qua giá trị, tiềm năng của tổ chức đã phát hành ra chúng. Giá trị của một doanh nghiệp được thể hiện trên nhiều tiêu chí, trong đó, không thể không kể đến các tiêu chí như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; định hướng, chiến lược hoạt động; tiềm năng, thế mạnh của doanh nghiệp; đội ngũ quản trị điều hành của doanh nghiệp đó… Tất cả những yếu tố này sẽ tác động trực tiếp đến quá trình phân tích, cân nhắc của NĐT trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên, không phải yếu tố nào cũng dễ dàng đánh giá, thẩm định và thông tin cung cấp cho các NĐT không phải bao giờ cũng phản ánh đúng thực tế hoạt động của các doanh nghiệp. Do vậy, rủi ro đối với các NĐT CK là rất lớn. Rủi ro đó sẽ càng cao hơn đối với các NĐT đầu tư theo “chiến lược đầu cơ”, thiếu sự cẩn trọng và hiểu biết cần thiết. Các NĐT này thường nhằm đến những lợi ích trước mắt, họ thường chớp thời cơ để mua, bán CK một cách nhanh chóng. Hoạt động đầu tư của họ thường có tính chất may rủi vì họ không chú ý đến việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành mà chỉ chú ý đến tính thanh khoản của CK và tình hình giao dịch trên thị trường vào một thời điểm hoặc giai đoạn ngắn, từ đó đưa ra những nhận định, dự đoán về việc tăng, giảm giá CK để rồi đi đến quyết định mua bán CK để hưởng chênh lệch giá. Thời gian nắm giữ CK của các NĐT áp dụng “chiến lược đầu cơ” thường ngắn và “chiến lược” này thường được các cá nhân đơn lẻ, thiếu chuyên nghiệp sử dụng. Ngoài ra, các NĐT CK còn phải đối mặt với hàng loạt rủi ro khác, trong đó có những rủi ro cơ bản sau:
Rủi ro thị trường: Đây là loại rủi ro phổ biến và có phạm vi tác động lên tất cả các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư CK. Rủi ro thị trường là rủi ro mà giá cả của các loại CK trên thị trường biến động theo một chiều trong một khoảng thời gian nhất định không phản ánh đúng giá trị thực của mỗi CK. Đó có thể là xu hướng CK tăng giá quá mức, giá CK tăng một cách nhanh chóng và liên tục trong một thời gian dài, vượt xa giá trị thực của nó đẩy chỉ số P/E (Price per Earning- Chỉ số giá trên thu nhập) của mỗi chứng khoán và toàn thị trường lên cao. Trong xu hướng này, thị trường thường có mức thanh khoản rất thấp khi các NĐT đang nắm giữ CK không muốn bán ra vì chờ đợi giá CK cao hơn, NĐT muốn mua cũng không mua được hoặc không dám mua vì giá CK quá cao. Hiện tượng này phản ánh không đúng quan hệ cung cầu gây ra tình trạng “bong bóng” CK. Ngược lại của xu thế này là xu thế giảm giá CK khi các NĐT ồ ạt bán tháo CK làm cho giá CK sụt giảm nhanh chóng. Giá cả của các loại CK bất kể CK của công ty có kết quả kinh doanh tốt hay xấu đồng loạt xuống giá. Nguyên nhân của hai hiện tượng trên thường xuất phát từ các hành vi đầu cơ, mua bán nội gián hoặc do tác động của yếu tố tâm lý. TTCK là thị trường của niềm tin, diễn biến trên thị trường phụ thuộc rất nhiều vào tâm lý của các NĐT. Trạng thái kỳ vọng và hưng phấn quá mức sẽ gây ra tình trạng giá CK tăng “nóng” trên thị trường Bull Market, ngược lại, trạng thái sợ hãi và bi quan sẽ dẫn đến tình trạng đóng băng trên thị trường Bear Market. Với TTCK mới nổi như TTCK Việt Nam, mức độ minh bạch và khả năng kháng cự của toàn thị trường còn hạn chế thì rủi ro thị trường hiện đang là loại rủi ro thường trực mà mỗi NĐT khi tham gia thị trường cần phải tính đến. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Rủi ro thông tin: Như đã phân tích ở các phần trên, giá trị của mỗi CK phụ thuộc vào các thông tin liên quan đến CK được công bố. Giá cả trên thị trường thường phản ứng tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào các thông tin được công bố là tốt hay xấu. Thông tin đến với NĐT chính xác bao nhiêu quyết định đầu tư của họ càng có khả năng thành công và hạn chế được rủi ro bấy nhiêu. Tuy nhiên, không phải NĐT nào cũng có điều kiện để tiếp cận sớm, đầy đủ và chính xác các thông tin của tổ chức phát hành. Thông tin được công bố không phải lúc nào cũng chính xác. Hơn nữa, có thể thông tin được công bố chính xác nhưng đã có “độ trễ” nhất định về mặt thời gian thì thông tin đó cũng không còn giá trị. Có thực tế không thể phủ nhận là vẫn đang tồn tại sự không cân xứng về thông tin giữa các chủ thể tham gia thị trường. Những người có điều kiện tiếp cận được với thông tin nội bộ của tổ chức phát hành (như thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban kiểm soát, Bộ phận kế toán, kiểm toán…) thường có đầy đủ thông tin và thông tin của họ sẽ đáng tin cậy hơn hẳn những NĐT khác. Thậm chí, những chủ thể này còn “đi trước” một bước so với các NĐT khác khi họ có được cả những thông tin chưa công bố. Tình trạng này một mặt tạo ra sự bất bình đẳng cho các NĐT “yếu thế” do không có đầy đủ thông tin hoặc do “chậm chân” mà có thể đưa ra những quyết định đầu tư chậm hoặc không chính xác. Mặt khác, do sự không cân xứng về thông tin giữa người mua và người bán CK có thể làm có giá mua, giá bán không phản ánh giá trị thực của CK. Để hạn chế loại rủi ro này, pháp luật cần có những quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa những người tiếp cận với thông tin nội bộ; người “có quyền lợi liên quan” với tổ chức phát hành để ngăn ngừa khả năng trục lợi, gây tổn hại đến các NĐT khác.
Rủi ro về giá: Là loại rủi ro mà tỷ lệ sinh lời từ đầu tư CK thấp hơn tỷ lệ lạm phát của đồng tiền. Đồng tiền có giá trị theo thời gian. Nghĩa là, lợi nhuận mà các NĐT thu được phải được chiết khấu cho khoảng thời gian đã đầu tư vào CK đó. CK có kỳ hạn càng dài thì mức rủi ro sụt giảm giá trị càng lớn. Khi quyết định đầu tư, NĐT cần phải dự đoán và giả thiết tình hình lạm phát để tìm kiếm mức bù đắp cho các khoản đầu tư đó.
Rủi ro thanh khoản: Là loại rủi ro xảy ra khi NĐT không thể mua, bán CK tại một thời điểm nhất định. Tình trạng này diễn ra khi CK bị “làm giá” hoặc bị bán tháo quá mức. Rủi ro thanh khoản thường đi liền với rủi ro thị trường và rủi ro thông tin.
Rủi ro mang tính kỹ thuật: Là loại rủi ro xảy ra trong quá trình xử lý của các CTCK đối với việc tiếp nhận, kiểm tra, nhập lệnh, truyền lệnh (transfer) vào hệ thống giao dịch và báo cáo kết quả giao dịch của NĐT. Những rủi ro này có nguyên nhân từ sự thiếu cẩn trọng (nguyên nhân khách quan) của các nhân viên hành nghề kinh doanh chứng khoán tại các CTCK. Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng nhân viên của các CTCK hành động thiếu trung thực, trục lợi, gây tổn hại đến quyền lợi của khách hàng (NĐT).
Rủi ro thanh toán: chu kỳ thanh toán T + n (trong đó, T là ngày thực hiện giao dịch, n là ngày CK hoặc tiền hạch toán trên tài khoản giao dịch của NĐT). Đối với những nước có hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động đăng ký, lưu ký, thanh toán, bù trừ còn hạn chế thì số ngày thanh toán n càng kéo dài (chẳng hạn Việt Nam). Khi đó, rủi ro có thể đến với NĐT khi CK và tiền của NĐT về tài khoản giao dịch của họ có độ “trễ” nhất định so với biến động của thị trường. NĐT sẽ phải đối mặt với tình trạng: khi họ muốn bán CK thì giá CK đã xuống quá thấp hoặc muốn mua CK thì giá CK đã lên quá cao. Rủi ro này cũng có liên hệ chặt chẽ với rủi ro thị trường. Tuy nhiên, nguồn gốc của nó có nguyên nhân trực tiếp từ chính sách của các cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK.
Từ tất cả những nguyên nhân trên, đòi hỏi pháp luật phải có những quy định nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa NĐT với các chủ thể tham gia thị trường để hạn chế rủi ro, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT khi tham gia TTCK. Một mặt, pháp luật cần có những quy định ghi nhận, “bảo đảm” và tạo cơ chế để các quyền và lợi ích chính đáng của NĐT được thực hiện trên thực tế. Mặt khác, pháp luật cũng cần có những quy định nhằm “bảo vệ” quyền và lợi ích của NĐT, nghĩa là, pháp luật cần có những quy định phòng ngừa và/hoặc chống lại mọi sự xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT khi họ tham gia trên TTCK. Việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT có thể thực hiện thông qua nhiều biện pháp. Đó có thể là các biện pháp giáo dục nhằm nâng cao sự hiểu biết và kỹ năng của NĐT khi tham gia thị trường để NĐT tự hạn chế rủi ro cho chính mình; biện pháp giám sát thường xuyên hoạt động của các chủ thể trong quan hệ với NĐT; biện pháp xử lý đối với các hành vi xâm hại quyền lợi của NĐT và các biện pháp tài chính nhằm hỗ trợ, chia sẻ rủi ro đối với hoạt động đầu tư của NĐT. Để “bảo đảm” và “bảo vệ” quyền và lợi ích của NĐT, biện pháp quan trọng và chủ yếu nhất đó là phải thiết lập được một khung pháp lý điều chỉnh chặt chẽ hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư trên TTCK.
1.1.2. Khung pháp lý điều chỉnh vấn đề quyền và lợi ích của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
“Bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT” là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động CK và TTCK. Đây vừa là nguyên tắc của hoạt động CK và TTCK vừa là mục đích của pháp luật CK. Mặc dù cách thể hiện nguyên tắc này trong pháp luật các nước là không giống nhau nhưng nhìn chung pháp luật của hầu hết các nước đều ghi nhận và bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT.
Có thể nói, nguyên tắc “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT” là tư tưởng chỉ đạo cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các chế định của pháp luật về CK và TTCK. Tất cả các quy định của pháp luật về CK và TTCK phải thể chế hóa và hướng đến mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK. Ở hầu hết các nước, các quy định về bảo vệ NĐT trên TTCK thường bao gồm: các quy phạm pháp luật chuyên ngành điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT thông qua các quy định về điều kiện của các chủ thể tham gia thị trường (tổ chức phát hành, tổ chức trung gian, tổ chức đầu tư kinh doanh CK); về tiêu chuẩn của các loại CK niêm yết; về tổ chức, quản lý thị trường; về kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật…và các quy phạm pháp luật chung thuộc các lĩnh vực pháp luật: pháp luật về doanh nghiệp (gồm các quy định về quản trị doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ của cổ đông, quy chế đối với các giao dịch mang tính thâu tóm công ty…), pháp luật về đầu tư (quy định về bảo hộ đầu tư, quyền và nghĩa vụ của NĐT..); pháp luật về hợp đồng, sở hữu, tài sản (nội dung quyền sở hữu CK, phương thức chuyển giao quyền sở hữu CK, quyền thừa kế, tặng cho CK…); pháp luật về giải quyết tranh chấp (giải quyết thông qua cơ chế trọng tài thương mại, tố tụng tư pháp…). Các quy định pháp lý trên đã tạo thành khuôn khổ pháp lý về bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK. Luật CK Việt Nam mặc dù không có một mục, chương nào quy định riêng về việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK ngoài điều khoản quy định nguyên tắc hoạt động CK và TTCK trong đó đề cập đến nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT. Mặc dù vậy, các quy định của pháp luật đã thể hiện rõ mục tiêu bảo vệ NĐT.
1.1.2.1. Yêu cầu của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Xuất phát từ những rủi ro và xung đột lợi ích mà NĐT có thể phải gánh chịu trong quá trình đầu tư, pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
Thứ nhất, pháp luật cần xác lập một cơ chế hữu hiệu bảo đảm tính công khai, minh bạch của TTCK nói chung nhằm hạn chế rủi ro về mặt thông tin cũng như các rủi ro thị trường có thể xảy ra đối với NĐT CK
Yêu cầu này xuất phát từ tính đặc thù trong hoạt động đầu tư của NĐT. Hoạt động đầu tư của NĐT trên TTCK chủ yếu dựa vào những nhận định, đánh giá về sự phát triển, triển vọng của CK trong tương lai. Điều đó có nghĩa hoạt động của NĐT phải dựa trên nguyên tắc và cơ sở là lòng tin. Thông tin về doanh nghiệp và thị trường (thông tin kinh tế vi mô và vĩ mô) là cơ sở quan trọng nhất giúp NĐT dựa vào đó để đánh giá về chất lượng của CK, nó cũng là cơ sở tạo nên tính ổn định và phát triển của TTCK. Chính vì vậy, nguyên tắc quan trọng của TTCK là công khai thông tin, quyền lợi của NĐT được bảo đảm khi khi họ được cung cấp thông tin. Để thực hiện yêu cầu này, pháp luật cần có những quy định bắt buộc đối với các tổ chức tham gia TTCK về nghĩa vụ công bố thông tin trung thực, kịp thời và đầy đủ để NĐT có cơ sở ra quyết định đầu tư. Cơ chế công khai, minh bạch về thông tin cũng góp phần ngăn ngừa và hạn chế các hành vi trục lợi, lạm dụng, trái pháp luật làm phương hại đến lợi ích của NĐT và cả nền kinh tế.
Nội dung của yêu cầu trên được cụ thể hóa trong các nhóm quy định của pháp luật về quy chế công bố thông tin trên TTCK như:
Quy định pháp luật về chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường, có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với NĐT gồm các chủ thể cung cấp “hàng hóa” cho thị trường như công ty đại chúng, tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết; các chủ thể trung gian trên thị trường như: SGDCK, CTCK, CTQLQ, công ty đầu tư CK đều có nghĩa vụ công bố thông tin.
Quy định pháp luật về nội dung, chuẩn mực thông tin công bố. Để đảm bảo chất lượng của các thông tin công bố trên TTCK, pháp luật yêu cầu các chủ thể công bố thông tin phải tuân thủ các quy định về nội dung thông tin phải được công bố đồng thời thông tin đó phải được thiết lập theo đúng các chuẩn mực thông tin được quy định. Căn cứ vào vị trí, đặc điểm và mức độ ảnh hưởng của các thông tin được công bố đến TTCK, pháp luật sẽ có những quy định về nội dung thông tin phải được công bố đối với từng chủ thể. Chẳng hạn, đối với tổ chức phát hành, các thông tin phải công bố sẽ là các thông tin liên quan đến tình hình, kế hoạch, kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; thông tin về đợt phát hành thêm; thông tin về cổ tức; thông tin về giao dịch của lãnh đạo doanh nghiệp và những người liên quan. Về chuẩn mực thông tin công bố, các thông tin được công bố như báo cáo tài chính và bản cáo bạch phải được công bố theo các chuẩn mực kế toán, kiểm toán. Trong đó, chuẩn mực kế toán, kiểm toán thường do các hiệp hội, tổ chức hành nghề kế toán, kiểm toán quy định. Các tổ chức kế toán, kiểm toán của các quốc gia trên thế giới thường căn cứ vào hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) công bố để ban hành chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc gia. Chuẩn mực kế toán, kiểm toán tại Việt Nam hiện nay do Bộ tài chính ban hành và cũng dựa trên những chuẩn mực quốc tế này.
Quy định pháp luật về phương tiện và hình thức công bố thông tin. Để đảm bảo NĐT kịp thời cập nhật được thông tin và đảm bảo chất lượng của thông tin công bố, pháp luật quy định việc công bố thông tin của các chủ thể có liên quan phải thực hiện qua nhiều phương thức khác nhau gồm phương thức báo cáo định kỳ và báo cáo bất thường, đồng thời, hình thức công bố thông tin phải được thực hiện thông qua hình thức văn bản và dữ liệu điện tử. Các chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin phải lập trang thông tin điện tử của mình và phải thường xuyên cập nhật việc công bố thông tin trên trang điện tử đó.
Quy định pháp luật về xử lý hành vi vi phạm chế độ công bố thông tin. Pháp luật của các nước đều có những quy định xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin. Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi vi phạm mà chủ thể vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bồi thường thiệt hại nếu hành vi phạm gây ra thiệt hại cho NĐT. Các hành vi vi phạm công bố thông tin phổ biến trên TTCK gồm: công bố thông tin nhưng không thực hiện báo cáo cơ quan quản lý về thông tin đã công bố; người công bố thông tin không có thẩm quyền công bố; công bố thông tin không đúng phương tiện do pháp luật quy định; công bố thông tin không đầy đủ, kịp thời; công bố thông tin sai sự thật.
Thứ hai, pháp luật cần quy định những tiêu chuẩn, điều kiện chặt chẽ đối với các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết nhằm đảm bảo chất lượng của hàng hóa trên TTCK, hạn chế rủi ro cho các NĐT khi tham gia thị trường
Tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết là những chủ thể cung cấp “hàng hóa” cho TTCK. Chất lượng của hàng hóa trên TTCK phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng và tình hình hoạt động cũng như triển vọng phát triển của các tổ chức này. Để NĐT có cơ hội tiếp cận được với những CK có chất lượng, pháp luật phải có những quy định chặt chẽ để thẩm định năng lực hoạt động của doanh nghiệp. Mặc dù NĐT là người có quyền lựa chọn CK trong “rổ hàng hóa” để đầu tư nhưng khâu kiểm soát hàng hóa trước khi đưa vào giao dịch vẫn hết sức quan trọng. Việc quy định các tiêu chuẩn, điều kiện chặt chẽ đối với các doanh nghiệp khi phát hành, niêm yết CK trên TTCK sẽ góp phần thanh lọc, chọn lựa những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và có triển vọng qua đó giúp NĐT hạn chế rủi ro trong quá trình đầu tư. Đây chính là yêu cầu có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với tất cả các NĐT khi tham gia thị trường đặc biệt là các NĐT cá nhân thiếu khả năng và kinh nghiệm phân tích, nhận định về CK và TTCK.
Để thực hiện điều này, pháp luật các nước trên thế giới thường đưa ra các điều kiện về năng lực tài chính (vốn điều lệ), về tình hình hoạt động (thời gian hoạt động kinh doanh có lãi), về phương án kinh doanh và phương án sử dụng số vốn huy động từ đợt phát hành, về tính đại chúng của CK (số lượng, cơ cấu cổ đông của tổ chức phát hành), về tính minh bạch trong hoạt động tài chính (báo cáo tài chính phải được kiểm toán độc lập).
Thứ ba, pháp luật cần có những quy định điều chỉnh chặt chẽ hoạt động của các tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ trên TTCK như các CTCK, CTQLQ, công ty kiểm toán và những người hành nghề kinh doanh CK Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Mặc dù không phải là chủ thể trực tiếp trong mối quan hệ mua bán với NĐT nhưng với vai trò là bên cấp dịch vụ cho NĐT, hoạt động của CTCK, CTQLQ, công ty kiểm toán và người hành nghề kinh doanh CK cũng cần phải được pháp luật quy định, điều chỉnh chặt chẽ vì chất lượng hoạt động của những chủ thể này ảnh hưởng trực tiếp đến tính hiệu quả và an toàn trong quá trình đầu tư của NĐT. CTCK, CTQLQ, người hành nghề kinh doanh CK là những nhà trung gian giúp NĐT thực hiện hoạt động đầu tư, hoạt động của họ phải đảm bảo cho các quyết định đầu tư của NĐT được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả. Các công ty kiểm toán là những người trực tiếp thẩm định, đánh giá thực trạng, khả năng tài chính của các tổ chức cung ứng hàng hóa cho thị trường. Do vậy, hoạt động của tổ chức kiểm toán giúp NĐT đánh giá chính xác năng lực của các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết trước khi ra quyết định đầu tư. Vì vậy, pháp luật cần có những quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục cấp và thu hồi giấy phép hoạt động đối với các chủ thể trung gian này đồng thời quy định nguyên tắc, chuẩn mực để đánh giá chất lượng dịch vụ mà các tổ chức chủ thể này cung cấp trên TTCK. Trong đó có các điều kiện về năng lực tài chính (vốn pháp định); các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật để được phép triển khai, cung cấp dịch vụ; điều kiện về nhận lực, người hành nghề…Có như vậy, pháp luật mới hạn chế được các rủi ro kỹ thuật và những giao dịch bất lợi cho NĐT do CTCK và người hành nghề kinh doanh CK gây ra; gắn kết trách nhiệm của các tổ chức kiểm toán đối chất lượng của các báo cáo thẩm định Báo cáo tài chính nhằm đảm bảo báo cáo tài chính là tài liệu phản ánh chính xác, trung thực tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết. Qua đó, làm tăng tính chính xác trong các quyết định đầu tư của NĐT;
Thứ tư, pháp luật cần có quy định về tổ chức, quản lý giao dịch trên TTCK đảm bảo các giao dịch được diễn ra có tổ chức, chặt chẽ, an toàn, hiệu quả, bảo đảm tính thanh khoản cho các loại CK
Một trong những nguyên tắc cơ bản trên TTCK tập trung là nguyên tắc trung gian. Theo đó, tất cả các giao dịch CK niêm yết phải được thực hiện thông qua SGDCK. SGDCK có chức năng tổ chức và giám sát hoạt động giao dịch CK niêm yết tại SGDCK. Hiện nay, hệ thống giao dịch tại các SGDCK là hệ thống giao dịch tự động, kết nối mạng cục bộ trong phạm vi sàn giao dịch và các phòng ban chức năng của SGDCK. Bên cạnh hệ thống giao dịch còn có hệ thống chuyển lệnh của các CTCK thành viên. Mọi giao dịch diễn ra tại SGDCK được hệ thống máy tính xử lý tự động dưới sự quản lý, giám sát của Phòng giao dịch và Phòng giám sát. SGDCK quản lý giám sát toàn bộ hệ thống giao dịch nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, trật tự, công bằng, bảo vệ quyền lợi của NĐT.
Để đảm bảo yêu cầu trên, pháp luật quy định SGDCK phải ban hành các quy chế về niêm yết CK, giao dịch CK, công bố thông tin và thành viên giao dịch; tổ chức và điều hành hoạt động giao dịch CK tại Sở giao dịch; tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ giao dịch CK theo Quy chế giao dịch CK của SGDCK trong trường hợp cần thiết để bảo vệ NĐT; chấp thuận, huỷ bỏ niêm yết CK và giám sát việc duy trì điều kiện niêm yết CK của các tổ chức niêm yết tại Sở giao dịch; chấp thuận, huỷ bỏ tư cách thành viên giao dịch; giám sát hoạt động giao dịch CK của các thành viên giao dịch tại Sở giao dịch; Giám sát hoạt động công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, thành viên giao dịch tại SGDCK; Cung cấp thông tin thị trường và các thông tin liên quan đến CK niêm yết; Làm trung gian hoà giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch. Tất cả những quy định trên nhằm đảm bảo hoạt động giao dịch CK trên thị trường được tiến hành công khai, công bằng, trật tự và hiệu quả đảm bảo tính thanh khoản của CK qua đó đảm bảo lợi ích của NĐT.
Thứ năm, pháp luật cần có những quy định đảm bảo cơ chế giải quyết các tranh chấp phát sinh trên TTCK liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT một cách hữu hiệu.
Các tranh chấp phát sinh trên TTCK thường là các tranh chấp gắn liền với các lợi ích kinh tế, mặt khác, lỗi của các bên tranh chấp thường khó xác định và thường liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau nên pháp luật cũng cần tạo lập các cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp để xử lý kịp thời, triệt để và phù hợp nhằm đảm bảo tối ưu lợi ích cho các chủ thể tham gia thị trường, trong đó có lợi ích của các NĐT. Tùy thuộc vào tính chất vụ việc mà các bên có thể lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp. Chẳng hạn, tranh chấp giữa CTCK và NĐT trong quá trình CTCK thực hiện lệnh cho khách hàng trước hết cần được giải quyết thông qua phương thức thương lượng giữa hai bên, SGDCK có thể đứng ra làm trung gian hòa giải. Trường hợp các bên không thể thương lượng, hòa giải, tranh chấp có thể được đưa ra giải quyết tại trọng tài kinh tế hoặc tòa án. Tranh chấp giữa CTCK thành viên với các SGDCK trong quá trình xử lý lệnh của các CTCK nếu có, chủ yếu tồn tại dưới các hình thức khiếu nại hành chính của CTCK đối với SGDCK, khả năng tranh chấp được đưa ra giải quyết bằng các phương thức tranh tụng hay trọng tài thường rất hạn chế vì hai chủ thể này có mối quan hệ mật thiệt, lâu dài và tùy thuộc lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động.
Thứ sáu, pháp luật cần quy định cơ chế bảo đảm ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm pháp luật, làm phương hại đến quyền và lợi ích của các NĐT khi tham gia thị trường.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT vừa là nguyên tắc cơ bản vừa là mục tiêu hoạt động của TTCK. Vai trò của NĐT là không thể phủ nhận đối với TTCK, do vậy, pháp luật cần có những quy định để vừa ghi nhận, đảm bảo quyền lợi của NĐT như quyền được tham gia thị trường, quyền được cung cấp thông tin và các quyền khác liên quan đến quyền sở hữu CK vừa tạo ra cơ chế để ngăn chặn, xử lý, răn đe đối với những hành vi làm phương hại đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng của NĐT. Các cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK cần vận dụng tất cả các biện pháp pháp lý để bảo vệ NĐT, đó có thể là biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, thậm chí là biện pháp xử lý hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội gây thiệt hại nghiêm trọng, có phạm vi tác động lớn đến NĐT và thị trường.
Trên cơ sở các yêu cầu trên, pháp luật cần quy định rõ nội dung pháp luật cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK.
1.1.2.2. Nội dung pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Thứ nhất, pháp luật ghi nhận các quyền và lợi ích của NĐT
Khi tham gia đầu tư trên TTCK, với vai trò, tư cách là một chủ thể chính tham gia thị trường, đồng thời, với tư cách là người sở hữu CK, NĐT có các quyền cơ bản sau đây được pháp luật ghi nhận và bảo vệ:
Quyền tham gia thị trường: Đây là quyền cơ bản của NĐT khi tham gia TTCK bởi nó có bản chất là quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp ghi nhận. NĐT có toàn quyền quyết định có tham gia đầu tư trên TTCK hay không, tham gia vào thời điểm nào, họ có quyền tự do lựa chọn loại CK sẽ đầu tư, tổng giá trị đầu tư và CTCK nơi mở tài khoản giao dịch. Khi tham gia thị trường, tất cả các NĐT, bất kể các NĐT lớn hay NĐT nhỏ, NĐT tổ chức hay NĐT cá nhận, đều có quyền bình đẳng và được đối xử công bằng. Tuy nhiên, khi tham gia đầu tư trên TTCK, NĐT phải tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan đến tổ chức giao dịch như: làm thủ tục khi lần đầu tiên gia nhập thị trường (thủ tục mở tài khoản giao dịch, nộp tiền, lưu ký CK vào tài khoản…); các quy định liên quan đến việc hạn chế tỷ lệ nắm giữ của NĐT đối với cổ phần của một số ngành nghề kinh doanh (như khi đầu tư vào CK của các ngân hàng thương mại cổ phần, pháp luật Việt Nam quy định tỷ lệ nắm giữ cổ phần của một NĐT cá nhân không quá 10% vốn điều lệ của một ngân hàng; đối với một NĐT là tổ chức chỉ được sở hữu tối đa 20% vốn điều lệ của một ngân hàng; đối với NĐT nước ngoài, pháp luật quy định tổng số vốn cổ phần mà NĐT nước ngoài và những người có liên quan của các NĐT nước ngoài đó không được vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng)… Như vậy, NĐT có quyền tự do tham gia thị trường và có quyền được đối xử bình đẳng, công bằng với nhau nhưng quyền của họ chỉ được ghi nhận và bảo vệ trong khuôn khổ các nguyên tắc, quy định của pháp luật.
Quyền được cung cấp thông tin: Quyền được cung cấp thông tin là quyền chính đáng, gắn liền với quyết định đầu tư của mỗi NĐT. Để đưa ra một quyết định đầu tư, NĐT thường phải dựa trên tất cả các thông tin, tài liệu thu thập được liên quan đến loại CK mà họ định đầu tư, gồm các thông tin về kết quả hoạt động kinh doanh (các khoản lãi, lỗ) của tổ chức niêm yết; so sánh lợi thế ngành giữa công ty đó với các công ty khác trong cùng nhóm ngành nghề kinh doanh; thông tin về chiến lược, kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai; thông tin về khối lượng, giá trị chứng khoán phát phát hành; thông tin về tỷ lệ sở hữu mà các NĐT nước ngoài đang nắm giữ CK đó. Các thông tin trên thông thường được công bố bởi các tổ chức, cá nhân như tổ chức phát hành, các CTCK, các tổ chức tài chính và các cơ quan quản lý thị trường. NĐT căn cứ vào thông tin có được để phân tích, xử lý và đưa ra quyết định đầu tư theo hướng có lợi nhất cho mình và giảm thiểu rủi ro. Vì vậy, NĐT có quyền được biết tất cả các thông tin liên quan đến CK mà họ đã, đang và sẽ đầu tư. Để đảm bảo quyền được cung cấp thông tin của NĐT, đòi hỏi các chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin khi thực hiện công bố thông tin phải đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng, kịp thời và thuận tiện cho NĐT có thể dễ dàng tiếp cận. Việc ghi nhận quyền mà các NĐT được cung cấp thông tin cũng góp phần đảm bảo thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch, công bằng trong hoạt động CK và TTCK, bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT.
Các quyền lợi phát sinh trực tiếp từ quyền sở hữu CK: giá trị của CK không nằm trong bản thân CK với tính cách là một thực thể có giá trị mà giá trị của nó được nhìn nhận ở “giá trị công ty” mà nó ghi nhận (đối với trường hợp CK là cổ phiếu) hoặc giá trị khoản vay (đối với trường hợp CK là trái phiếu). Tuy nhiên, NĐT vẫn có đầy đủ các quyền và lợi ích của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản là CK. Các nội dung này sẽ được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật CK. Ngoài ra, họ còn có các quyền của cổ đông (nếu họ sở hữu cổ phần), quyền của trái chủ (nếu họ sở hữu trái phiếu) đối với tổ chức phát hành ra CK đó. Quyền và nghĩa vụ của NĐT với tư cách là cổ đông và trái chủ sẽ được điều chỉnh bởi các quy định của Luật doanh nghiệp. Một đặc điểm đặc trưng trong nội dung quyền sở hữu của NĐT đối với CK là quyền định đoạt. Về nguyên tắc, NĐT là người sở hữu CK nên họ có toàn quyền định đoạt (quyết định việc mua bán CK). Tuy nhiên, khi mua bán các loại CK niêm yết, NĐT cần phải tuân thủ các quy trình, phương thức giao dịch do pháp luật quy định. Ngoài ra, quyền tự do định đoạt của họ còn bị hạn chế bởi các quy định liên quan đến giới hạn tỷ lệ sở hữu CK của NĐT tại một tổ chức niêm yết. Các hạn chế này áp dụng cho CK của các tổ chức kinh doanh thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện đặc thù như ngân hàng, bảo hiểm…
Quyền được bảo vệ thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động đầu tư CK: Tranh chấp trong hoạt động đầu tư CK là tranh chấp giữa NĐT với các chủ thể có liên quan khi NĐT tham gia đầu tư trên TTCK, bao gồm: tranh chấp giữa NĐT với các CTCK về việc mở tài khoản, về việc thực hiện Hợp đồng giữa hai bên; tranh chấp liên quan đến việc mua, bán CK; tranh chấp giữa NĐT (với tư cách là các cổ đông) với tổ chức niêm yết, tổ chức phát hành. Khi xảy ra tranh chấp, pháp luật cần có cơ chế, phương thức giải quyết nhanh chóng, triệt để và hiệu quả nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế, tạo ra môi trường đầu tư lành mạnh. Tùy từng trường hợp mà NĐT có thể lựa chọn các phương thức giải quyết phù hợp như phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải; phương thức giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương mại; phương thức giải quyết tranh chấp thông qua tòa án.
Bên cạnh việc ghi nhận các quyền và lợi ích của NĐT, pháp luật có những quy định nhằm bảo đảm và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp đó. Đó có thể là các biện pháp phòng ngừa áp dụng trong trường hợp các quyền của NĐT có nguy cơ bị xâm hại hoặc có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những hành vi phương hại quyền và lợi ích của NĐT.
Thứ hai, pháp luật quy định các biện pháp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư
Khi NĐT tham gia vào hoạt động đầu tư trên TTCK, quyền và lợi ích hợp pháp của họ có nguy cơ bị xâm hại từ nhiều phía như tổ chức phát hành, tổ chức kinh doanh CK… Vì vậy, việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT là nội dung quan trọng của pháp luật về CK và TTCK. Khái niệm “bảo vệ quyền và lợi ích của NĐTCK” có thể hiểu là việc phòng ngừa, chống lại mọi sự xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT khi họ tham gia đầu tư trên TTCK. Mục tiêu của việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT là tránh và/hoặc hạn chế thiệt hại về lợi ích của NĐT khi tham gia đầu tư vào các tài sản là CK. Xét trên góc độ nhất định thì bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT cũng chính là việc bảo đảm quyền và lợi ích của NĐT vì suy cho cùng việc “bảo vệ” hay “bảo đảm” đều hướng đến mục đích cuối cùng là quyền lợi của NĐT. Theo quy định của pháp luật, việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau. Đó có thể là biện pháp giáo dục nhằm nâng cao kỹ năng, kiến thức cho NĐT để họ chủ động bảo vệ quyền lợi của mình; và phổ biến hơn cả là các biện pháp được tiến hành bởi các chủ thể khác như: biện pháp bồi thường thiệt hại, biện pháp hành chính, biện pháp hình sự và biện pháp thông qua các cơ chế giải quyết tranh chấp như thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án.
Biện pháp bồi thường thiệt hại: Bản chất các quan hệ mà NĐT tham gia là các quan hệ kinh tế, dân sự. Hậu quả, thiệt hại do các hành vi trái pháp luật gây ra cho các NĐT chủ yếu là các thiệt hại về kinh tế. Do vậy, biện pháp buộc bên có hành vi vi phạm phải bồi thường thiệt hại là một trong những biện pháp hiệu quả, triệt để và thiết thực nhất nên được áp dụng để bảo vệ lợi ích của các NĐT. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm vật chất nhằm bù đắp hoặc khôi phục các thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra. Vì vậy, về nguyên tắc, bồi thường thiệt hại phải tương xứng với mức độ tổn thất mà người bị vi phạm phải gánh chịu. Nghĩa là, khi gây ra thiệt hại cho các NĐT, các chủ thể khác phải bồi thường nhưn g không lớn hơn tổn thất thực tế do hành vi trái pháp luật mà họ đã gây ra. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam, nếu trong trường hợp giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng có thỏa thuận trước về điều khoản phạt vi phạm thì bên phạm phải chịu thêm khoản phạt vi phạm. Ngoài ra, trong trường hợp hợp đồng giữa hai bên không thỏa thuận về điều khoản bồi thường thiệt hại mà chỉ quy định về điều khoản phạt vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải chịu khoản phạt vi phạm. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Biện pháp hành chính: Là các biện pháp, cách thức mà Nhà nước tác động tới các chủ thể, buộc các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ trên TTCK phải tuân thủ nhằm tạo ra một thị trường chứng khoán vận hành an toàn, hiệu quả, bảo đảm công bằng, minh bạch đối với mọi chủ thể tham gia đầu tư CK. Việc pháp luật quy định các biện pháp hành chính trước hết là để bảo đảm quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực CK và TTCK. Biện pháp được tạo ra không phải chỉ để giành riêng cho mục đích bảo vệ quyền lợi của NĐT mà thông qua mục đích bảo đảm sự tuân thủ của các chủ thể tham gia TTCK, duy trì sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực này mà quyền và lợi ích của NĐT được bảo vệ. Căn cứ áp dụng các biện pháp hành chính là những hành vi trái pháp luật, do người có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi thực hiện, làm xâm hại đến trật tự quản lý hành chính Nhà nước trong lĩnh vực CK và TTCK nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật thì mức độ vi phạm của hành vi đó phải bị xử lý vi phạm hành chính. Bằng biện pháp hành chính, Nhà nước thực hiện vai trò quản lý, điều tiết hoạt động của TTCK, điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia thị trường đảm bảo cho thị trường hoạt động hiệu quả, phát triển bền vững và quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường trong đó có quyền lợi của các NĐT được ghi nhận và bảo vệ.
Biện pháp hình sự: Đây là biện pháp có tính răn đe, phòng ngừa cao, nó cho phép khắc phục những hạn chế của các biện pháp bồi thường thiệt hại và biện pháp hành chính khi tác động trực tiếp đến nhân thân của chủ thể vi phạm. Hành vi bị xử lý hình sự có bản chất là tội phạm. Để một hành vi bị coi là tội phạm phải thỏa mãn 4 dấu hiệu sau: thứ nhất, đó phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội; thứ hai, hành vi đó phải phổ biến và/hoặc tương đối phổ biến; thứ ba, hành vi đó được lặp đi lặp lại nhiều lần; thứ tư, hành vi đó có thể phát hiện được. Biện pháp bồi thường thiệt hại và biện pháp hành chính mới chỉ dừng lại ở việc giải quyết vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, khôi phục lại tình trạng ban đầu cho các chủ thể bị vi phạm, tác động về mặt kinh tế đối với các hành vi vi phạm mà chưa có cơ chế phòng ngừa, hạn chế để các hành vi vi phạm không tái diễn trong tương lai. Thực tế cho thấy, biện pháp hình sự có tác dụng rất đe, phòng ngừa mạnh mẽ nhất đối với các hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao. Luật CK và TTCK của các nước đều xác định nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những hành vi tội phạm trong lĩnh vực CK. Có những nước quy định trực tiếp trong Luật CK và TTCK các hành vi bị coi là tội phạm, có những nước chỉ quy định nguyên tắc còn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực CK do Bộ luật hình sự quy định. Pháp luật chứng khoán Việt Nam từ năm 2008 trở về trước quy định theo hướng chỉ xác định về mặt nguyên tắc các tội phạm về CK và TTCK. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 đã bổ sung thêm 4 tội danh trong lĩnh vực CK và TTCK.
Biện pháp thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật: Trong trường hợp phát sinh tranh chấp quá trình tham gia đầu tư trên TTCK, NĐT có thể lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, hoặc yêu cầu Trọng tài hoặc tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình.
Thương lượng: Là biện pháp giải quyết tranh chấp theo đó các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn mà không cần đến sự tham gia của bên thứ ba. Đây là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp “mềm”. Ưu điểm nổi bật của biện pháp giải quyết tranh chấp này là đơn giản về thủ tục, bảo vệ được uy tín và bí mật, giảm thiểu chi phí cho các bên tranh chấp. Phương thức này rất phù hợp trong việc giải quyết tranh chấp về CK và TTCK khi các thiệt hại xảy ra thường khó chứng minh đòi hỏi các bên phải có thiện chí và thực sự hiểu biết.
Hòa giải: Là biện pháp giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba đóng vai trò làm trung gian hòa giải, giúp các bên tranh chấp nhận thức rõ vấn đề tranh chấp, hỗ trợ, thuyết phục các bên trong việc tìm kiếm giải pháp chung để giải quyết bất đồng, mâu thuẫn. Phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải đòi hỏi bên thứ ba phải là những người có kiến thức và hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực và nội dung tranh chấp để đưa ra những khuyến nghị phù hợp cho các bên. Đối với lĩnh vực CK và TTCK pháp luật các nước thường quy định các Sở giao dịch CK, các thành viên thị trường (CTCK) là những người có thể làm trung gian hòa giải. Tuy nhiên, những chủ thể này chỉ giúp các bên tìm được “tiếng nói chung” mà không quyết định thay và không thể gây áp lực cho các bên tranh chấp.
Trọng tài thương mại: Là biện pháp giải quyết tranh chấp khá phổ biến trên thế giới vì phương thức giải quyết của nó rất phù hợp với các tranh chấp có bản chất là tranh chấp kinh tế. Theo đó, các tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư CK sẽ được giải quyết tại trọng tài thương mại khi các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài. Hội đồng trọng tài sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng cho vụ tranh chấp.
Quyết định của hội đồng trọng tài có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. Pháp luật về CK và TTCK của Việt Nam quy định trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp, tuy nhiên không quy định cụ thể mà thủ tục, trình tự giải quyết cụ thể sẽ do pháp luật về trọng tài thương mại điều chỉnh.
Giải quyết tranh chấp thông qua tòa án: Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua các thủ tục tố tụng tư pháp tại tòa án khi một và/hoặc các bên tranh chấp khởi kiện tại tòa. Việc giải quyết tranh chấp sẽ tiến hành theo các quy định của pháp luật tố tụng kinh tế, pháp luật tố tụng dân sự tùy thuộc vào hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới.
1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa Công ty chứng khoán và nhà đầu tư
1.1.3.1. Sự thống nhất về lợi ích Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Sự thống nhất về lợi ích giữa CTCK và NĐT được xây dựng trên nền tảng nguyên tắc trung gian trên TTCK. Pháp luật CK ghi nhận nguyên tắc cơ bản trên TTCK là nguyên tắc trung gian. Nghĩa là, tất cả các giao dịch mua, bán CK trên TTCK tập trung của các NĐT bắt buộc phải được giao dịch tập trung và phải được thực hiện thông qua các CTCK. CTCK là bên giúp NĐT thực hiện các giao dịch một cách nhanh chóng, an toàn, hợp pháp. CTCK và NĐT là hai nhóm chủ thể đóng vai trò trung tâm trên TTCK tập trung và giữa họ có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hai nhóm chủ thể này vừa có những điểm thống nhất, vừa có những xung đột lợi ích nhất định trong suốt quá trình tham gia thị trường. Hoạt động kinh doanh CK của CTCK có bản chất là việc cung ứng các dịch vụ tài chính trên TTCK giúp NĐT, NĐT là khách hàng chủ yếu sử dụng các dịch vụ đó. Kết quả hoạt động kinh doanh của CTCK phụ thuộc hoàn toàn vào việc cung cấp dịch vụ cho NĐT. CTCK được hưởng phí môi giới khi thực hiện nghiệp vụ môi giới CK cho khách hàng, hưởng phí tư vấn đầu tư khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư; hưởng phí bảo lãnh phát hành của tổ chức bảo lãnh phát hành khi CTCK các thủ tục phát hành và phân phối CK (mà việc phân phối CK thành công hay không phụ thuộc vào việc NĐT có mua CK đó hay không); tự doanh CK cũng phụ thuộc vào thị trường (niềm tin của các NĐT).
Ngược lại, NĐT cũng cần đến CTCK – tổ chức trung gian giúp họ thực hiện thành công, an toàn các giao dịch mua bán trên TTCK. Mặt khác, kết quả đầu tư của NĐT cũng có tác động nhất định bởi các quan điểm, ý kiến tư vấn của CTCK. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các NĐT cá nhân, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng đầu tư. NĐT cũng rất cần đến CTCK với vai trò là tổ chức tài chính lớn, tham gia bình ổn thị trường vào những thời điểm thị trường gặp khó khăn.
Như vậy, giữa CTCK và NĐT luôn có sự thống nhất với nhau về mặt lợi ích trong suốt quá trình tham gia thị trường.
1.1.3.2. Sự xung đột về lợi ích Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Mặc dù giữa CTCK và NĐT có sự thống nhất về lợi ích như phân tích ở trên nhưng do pháp luật một số nước cho phép CTCK cùng một lúc được phép vừa thực hiện nghiệp vụ môi giới CK vừa thực hiện nghiệp vụ tự doanh CK (chẳng hạn Việt Nam) nên nguy cơ xảy ra xung đột về lợi ích giữa hai chủ thể này là rất lớn. Với ưu thế là một thành viên của thị trường, CTCK hoàn toàn có quyền chủ động để tự thực hiện giao dịch cho mình. Trong khi đó, quá trình giao dịch của NĐT diễn ra nhanh hay chậm, chính xác hay không chính xác, an toàn hay không an toàn hoàn toàn lệ thuộc vào CTCK. Rõ ràng đã xảy ra tình trạng không cân xứng về vị thế giữa CTCK và NĐT trong quá trình tham gia giao dịch trên thị trường. CTCK vừa đóng vai trò là NĐT, vừa đóng vai trò là người cung cấp dịch vụ cho NĐT khác nên rất có thể CTCK sẽ thực hiện lệnh của mình trước lệnh của khách hàng; vì CTCK là người trực tiếp quản lý tiền cũng như CK của NĐT nên họ cũng có thể lạm dụng tài khoản của khách hàng khi chưa được khách hàng cho phép; trong quá trình tư vấn cho khách hàng, CTCK có thể đưa ra những quan điểm tư vấn không chính xác, khách quan làm NĐT hiểu lầm về giá cả của CK; CTCK cũng là chủ thể có khả năng và điều kiện để đầu cơ và thao túng giá trên thị trường. Như vậy, trong mối quan hệ với CTCK, NĐT có vị thế yếu hơn. Để bảo vệ lợi ích của NĐT, pháp luật các nước trên thế giới đều có những giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế xung đột quyền lợi giữa CTCK và NĐT. Pháp luật một số nước quy định theo hướng không cho phép CTCK được đồng thời thực hiện hoạt động môi giới CK và tự doanh CK (ví dụ Trung Quốc), một số nước khác cho phép CTCK được phép thực hiện cả hai hoạt động môi giới và tự doanh CK nhưng phải duy trì và bảo đảm những quy định chặt chẽ nhằm phòng ngừa và hạn chế xung đột lợi ích có thể xảy ra giữa CTCK và NĐT như: yêu cầu CTCK phải xây dựng và tuân thủ quy trình về kiểm soát nội bộ trong suốt quá trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng đồng thời quản lý tách bạch tài khoản của NĐT với tài khoản tự doanh của CTCK để tránh trường hợp CTCK và nhân viên CTCK lạm dụng tài khoản của khách hàng; CTCK phải luôn tuân thủ nguyên tắc ưu tiên lệnh của khách hàng trước lệnh của NĐT trong quá trình hoạt động môi giới; CTCK phải công khai cho khách hàng biết giao dịch với khách hàng mà mình là một bên để đảm bảo tính khách quan trong quá trình giao dịch; CTCK phải có trách nhiệm và sự cẩn trọng cần thiết khi tư vấn đầu tư cho khách hàng, CTCK phải tìm hiểu thông tin về khả năng tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro, mức lợi nhuận kỳ vọng của NĐT và không được đưa ra những khuyến nghị hoặc cam kết chắc chắn về mức độ lợi nhuận mà NĐT có thể đạt được trong suốt quá trình tư vấn cho khách hàng đầu tư CK.
Như vậy, CTCK và NĐT là hai nhóm chủ thể có mối quan hệ biện chứng với nhau, giữa họ vừa có sự thống nhất vừa có sự xung đột về lợi ích. Trên cơ sở nhận thức đó, pháp luật cần có những quy định nhằm tạo điều kiện để CTCK và NĐT hỗ trợ nhau trong quá trình tham gia thị trường đồng thời pháp luật cũng cần có những quy định hạn chế tối đa các xung đột có thể xảy ra trong quá trình CTCK cung cấp dịch vụ để duy trì và bảo đảm lợi ích của NĐT trong mối quan hệ với CTCK.
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán với việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
1.2.1. Vị trí, vai trò của Công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán
CTCK là một thiết chế trung gian tài chính không thể thiếu trên TTCK nói chung, TTCK tập trung nói riêng. Điều này đã được khẳng định bằng nguyên tắc hoạt động CK và TTCK là nguyên tắc trung gian, trong đó yêu cầu tất cả các giao dịch mua bán trên TTCK tập trung đều phải thực hiện thông qua các CTCK. CTCK là cầu nối giữa tổ chức phát hành với các NĐT (trên thị trường sơ cấp) và giữa các NĐT với nhau (trên thị trường thứ cấp). Với tư cách là một thành viên của thị trường (thành viên của các SGDCK, TTGDCK), CTCK đã giúp “cung” và “cầu” trên thị trường gặp nhau và thực hiện các giao dịch giúp họ. Có thể thấy rõ sự khác biệt trong vai trò trung gian của các CTCK so với các nhà môi giới thông thường khác. Các nhà môi giới thông thường chủ yếu chỉ thực hiện vai trò của mình trong việc kết nối giữa người bán và người mua, khi hai bên mua và bán gặp nhau thì trách nhiệm của nhà môi giới được coi là đã hoàn thành. Trong khi đó, vai trò của các CTCK không chỉ dừng lại ở việc kết nối mà còn thực hiện luôn giao dịch cho các bên.
Đối với tổ chức phát hành: CTCK giúp CK của tổ chức phát hành đến được với công chúng qua nhờ đó mà các tổ chức phát hành mới huy động được vốn từ công chúng phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Với những thế mạnh về chuyên môn, kinh nghiệm và năng lực tài chính, CTCK thực hiện vai trò của mình trong việc tư vấn phát hành CK lần đầu ra công chúng (IPO), phát hành tăng vốn, mua bán cổ phiếu quỹ; bảo lãnh phát hành CK nhằm đảm bảo sự thành công cho đợt phát hành; tư vấn cho các tổ chức phát hành trong việc niêm yết CK lên sàn giao dịch tập trung; tư vấn, tham mưu cho tổ chức phát hành trong việc định giá CK vừa đảm bảo phản ánh đúng giá trị của tổ chức phát hành vừa phù hợp với tình hình thị trường vào thời điểm phát hành và niêm yết;
Đối với các NĐT: Thông qua hoạt động môi giới chứng khoán, tiền và CK của các NĐT được các CTCK, TTLKCK, SGDCK/TTGDCK hạch toán dưới dạng bút toán ghi sổ, mỗi khi có nhu cầu đầu tư, các NĐT chỉ cần đặt lệnh tại các CTCK, công việc sau đó chỉ là chờ nhận kết kết quả khớp lệnh. Với một hệ thống hạ tầng kỹ thuật cao, đã được kiểm tra, thẩm định và đội ngũ nhân sự được cấp phép hành nghề, CTCK giúp cho việc mua bán của các NĐT diễn ra một cách thuận tiện, nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả. Mặt khác, đi kèm với hoạt động môi giới, các CTCK cũng góp phần nâng cao tính linh hoạt, hiệu quả trong các quyết định đầu tư cho các NĐT thông qua các nghiệp vụ ứng trước tiền bán CK (ứng trước tiền cho các NĐT bán CK nhưng tiền thanh toán từ giao dịch bán chưa về tài khoản NĐT. Ngoài ra, thông qua hoạt động tư vấn đầu tư CK, CTCK đã góp hỗ trợ, phổ biến, nâng cao kỹ năng đầu tư cho các NĐT CK, nhất là các NĐT cá nhân với kiến thức và kinh nghiệm đầu tư hạn chế.
Đối với thị trường; CTCK là chủ thể tham gia vào quá trình tạo ra tính thanh khoản cho CK. Một loại CK có tính thanh khoản cao hay thấp phụ thuộc vào việc giao dịch mua bán CK đó diễn ra ít hay nhiều. Người ta thường căn cứ vào khối lượng và giá trị giao dịch để đánh giá mức độ thanh khoản của CK. Mặc dù không phải là chủ thể đóng vai trò quyết định tính thanh khoản của CK nhưng dưới góc độ kỹ thuật, CTCK đã giúp cho các lệnh mua bán được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi phản ánh chính xác, kịp thời nhu cầu của các NĐT. Ngoài ra, thông qua hoạt động tự doanh (CTCK mua bán CK cho chính mình), CTCK cũng đóng vai trò là chủ thể trực tiếp tạo ra tính thanh khoản cho CK đồng thời thể hiện vai trò bình ổn thị trường. Pháp luật một số nước quy định các CTCK có nghĩa vụ giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch của mình để mua vào khi giá CK giảm và bán ra khi giá CK lên cao để tạo ra tính thanh khoản và bình ổn thị trường.
Với những vai trò trên, CTCK đã khẳng định được vị thế của một định chế tài chính trung gian không thể thiếu trên TTCK.
1.2.2. Kết cấu pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
1.2.2.1. Nguyên tắc pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán
Với vị trí và vai trò của mình, hoạt động của các CTCK có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến hầu khắp các chủ thể tham gia thị trường. Quyền lợi của các NĐT, các tổ chức phát hành và sự phát triển ổn định, lành mạnh, bền vững của TTCK phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của các CTCK. Vì vậy, theo quy định của pháp luật, CTCK ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung giống như các doanh nghiệp khác, còn phải tuân thủ một số nguyên tắc đặc thù. Tổ chức quốc tế các Ủy ban chứng khoán – IOSCO (International organization of securities commissions) đã đưa ra chín nguyên tắc cơ bản đối với các nước thành viên trong việc quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của CTCK. Mặc dù pháp luật CK và TTCK của mỗi quốc gia được xây dựng trên những cơ sở lý luận và thực tiễn phù hợp với điều kiện của từng quốc gia nên có những nét đặc thù riêng nhưng chín nguyên tắc tắc này vẫn rất hữu ích cho các nước trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật của mình về CTCK.
Nguyên tắc thứ nhất: Tuân thủ tính toàn vẹn và sự tận tụy
Theo yêu cầu của nguyên tắc này, các CTCK phải tuân thủ các tiêu chuẩn về tính toàn vẹn và giao dịch công bằng, phải hành động với sự cẩn trọng cần thiết vì lợi ích của khách hàng và vì sự an toàn của thị trường;
Nguyên tắc thứ hai: Thực hiện các điều khoản và nghĩa vụ đã cam kết
Bản chất quan hệ giữa CTCK và khách hàng là quan hệ song vụ. Theo đó, mỗi bên trong hợp đồng đều có các quyền và nghĩa vụ nhất định đối với bên kia. Pháp luật yêu cầu trước khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng, CTCK phải có trách nhiệm ký kết hợp đồng bằng văn bản với khách hàng trong đó phân rõ trách nhiệm của CTCK và khách hàng. Hợp đồng giữa CTCK với khách hàng có nội dung là việc thực hiện các dịch vụ và có đối tượng là tài sản (tiền, CK). Do vậy, để bảo vệ quyền lợi của khách hàng với tư cách là một bên trong hợp đồng, hợp đồng phải ghi đầy đủ và rõ ràng các điều khoản cơ bản như quyền lợi và nghĩa vụ của khách hàng cũng như quyền lợi, trách nhiệm của CTCK. Nghĩa vụ chủ yếu của khách hàng trong mối quan hệ với CTCK là tuân thủ đúng các quy trình, quy định về giao dịch, đảm bảo đủ tiền và CK trong tài khoản để trả phí môi giới và thực hiện giao dịch và ngược lại, CTCK có nghĩa vụ thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn các yêu cầu của khách hàng. Trong trường hợp thực hiện không đúng và/hoặc không đầy đủ các điều khoản đã cam kết, CTCK có trách nhiệm bồi thường thiệt hại gây ra cho khách hàng. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng dịch vụ của CTCK trên cơ sở đó có những biện pháp xử lý kịp thời để bảo vệ lợi ích hợp pháp của NĐT.
Nguyên tắc thứ ba: thu thập thông tin về khách hàng CTCK phải tìm hiểu các thông tin liên quan đến mục đích và tình hình đầu tư của khách hàng có liên quan đến dịch vụ mà CTCK cung cấp. Việc có được các thông tin về khách hàng sẽ hạn chế được các rủi ro cho khách hàng, cho thị trường và cho bản thân CTCK. Các thông tin cơ bản liên quan đến khách hàng như mục đích đầu tư, năng lực tài chính của khách hàng, tư cách pháp lý của khách hàng (là cá nhân hay tổ chức, là NĐT trong nước hay NĐT nước ngoài), kinh nghiệm của khách hàng trong lĩnh vực đầu tư CK nhất thiết phải được CTCK thu thập và yêu cầu khách hàng cung cấp trong quá trình thực hiện hoạt động tư vấn đầu tư. Trên cơ sở các thông tin khách hàng cung cấp, CTCK sẽ có phương án tư vấn đầu tư phù hợp. Đối với hoạt động môi giới CK, CTCK cũng cần phải yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin đầy đủ và cam đoan, bảo đảm về giá trị pháp lý của CK và tiền mà khách hàng lưu ký, ký quỹ tại CTCK vì sau khi lưu ký, ký quỹ, tài sản trên sẽ được hạch toán vào tài khoản tổng của CTCK với tư cách là thành viên giao dịch và thành viên lưu ký. CTCK sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với những tài sản này.
Nguyên tắc thứ tư: Cung cấp thông tin cho khách hàng
Công bố thông tin là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với các chủ thể tham gia TTCK đặc biệt là đối với các NĐT, thông tin là cơ sở để các NĐT quyết định đầu tư và cũng là yếu tố cơ bản quyết định kết quả đầu tư có thành công hay không. Tất cả các chủ thể tham gia quan hệ với NĐT dù đó là quan hệ trực tiếp hay quan hệ gián tiếp đều có nghĩa vụ công bố thông tin. CTCK cũng là một trong những chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ đó. Các CTCK có nghĩa vụ công bố thông tin đình kỳ, bất thường và theo yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK Về yêu cầu, việc cung cấp thông tin đến với NĐT phải được CTCK đầy đủ, chính xác, kịp thời và liên tục. Về nội dung, pháp luật yêu cầu CTCK có nghĩa vụ công bố các thông tin liên quan đến khả năng hoạt động an toàn của CTCK và các thông tin khi CTCK là một bên trong giao dịch với khách hàng để khách hàng chủ động phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong quan hệ với CTCK. Chẳng hạn, nếu biết thông tin liên quan đến hoạt động của CTCK có dấu hiệu không an toàn thì các NĐT có thể làm thủ tục chuyển tài khoản giao dịch sang một CTCK khác hoạt động an toàn và hiệu quả hơn. Hoặc khi biết CTCK là một bên trong giao dịch với mình, khách hàng sẽ chủ động nhìn nhận và phân tích khách quan hơn trong quá trình tiếp nhận các khuyến nghị, tư vấn từ các CTCK. Tuy nhiên, NĐT không có điều kiện nắm bắt thông tin về tài khoản tự doanh của CTCK, trong khi CTCK hoàn toàn có thể thực hiện điều này với NĐT. Trong trường hợp này vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi cho các NĐT và duy trì sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Nguyên tắc thứ năm: Bảo vệ tài sản của khách hàng
Quan hệ giữa CTCK và NĐT có nội dung là việc NĐT ủy thác cho CTCK thực hiện các công việc liên quan đến giao dịch CK. Trong quá trình ủy thác, NĐT thực hiện việc lưu ký CK và tiền (tài sản) của mình tại CTCK. Do vậy, pháp luật yêu cầu các CTCK trong quá trình quản lý tài sản của khách hàng, phải chuẩn bị và thực hiện sự bảo vệ cần thiết đối với các tài sản theo đúng trách nhiệm mà CTCK đã cam kết. Điều này thể hiện ở việc pháp luật đã có những quy định bắt buộc đối với CTCK ngay từ khi thành lập phải đáp ứng được những yêu cầu bắt buộc về hệ thông cơ sở vật chất để quản lý tốt tài sản của khách hàng như hệ thống kho, quỹ; hệ thống công nghệ thông tin, phần mềm giao dịch để xử lý lệnh của khách hàng an toàn, hiệu quả. Mặt khác, trong quá trình thực hiện các giao dịch cho khách hàng trên cơ sở Hợp đồng mở tài khoản, CTCK phải đảm bảo tài sản của khách hàng được giao dịch an toàn, chính xác; tiền, CK của các NĐT được quản lý tách biệt nhau và tách biệt với tài khoản của chính bản thân CTCK. Điều này nhằm tránh xảy ra tình trạng tài khoản của NĐT bị lạm dụng, trục lợi và được đảm bảo ngay cả trong tình huống xấu nhất khi CTCK giải thể phá sản. Ngoài ra, pháp luật cũng yêu cầu các CTCK có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp để bồi thường thiệt hại cho những sai xót do nhân viên hành nghề của CTCK gây ra cho NĐT trong quá trình thực hiện giao dịch; quy định về nghĩa vụ của CTCK trong việc xây dựng, tuân thủ quy trình kiểm soát nội bộ trong suốt quá trình hoạt động nhằm ngăn ngừa, hạn chế việc CTCK, nhân viên CTCK lợi dụng tài khoản của NĐT.
Nguyên tắc thứ sáu: Tuân thủ các tiêu chuẩn cho hành vi trên thị trường Nguyên tắc này thể hiện ở việc pháp luật yêu cầu các CTCK khi thực hiện các hoạt động kinh doanh phải tuân thủ các quy định của pháp luật áp dụng cho từng loại hình, nghiệp vụ kinh doanh CK. Các yêu cầu này được xây dựng thành quy trình nghiệp vụ, các bộ tiêu chuẩn về hành vi để các CTCK thực hiện thống nhất, nhằm đảm bảo sự vận hành an toàn, hiệu quả, hạn chế tối đa rủi ro cho khách hàng. Thực hiện nguyên tắc này, pháp luật CK Việt Nam yêu cầu trong hồ sơ xin phép thành lập CTCK bắt buộc phải có bộ quy trình liên quan đến tất cả các nghiệp vụ của CTCK như quy trình nghiệp vụ môi giới, quy trình thực hiện nghiệp vụ tự doanh, quy trình tư vấn đầu tư, quy trình tư vấn niêm yết, quy trình nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, quy trình công bố thông tin, quy trình kiểm soát nội bộ… Tất cả các quy trình, quy định này tạo nên sự đồng bộ, thống nhất cho các CTCK trong quá trình cung cấp các dịch vụ đảm bảo an toàn, chính xác của các hoạt động qua đó đảm bảo lợi ích của NĐT.
Nguyên tắc thứ bảy: Tự kiểm soát hoạt động
Trong suốt quá trình thành lập, CTCK phải xây dựng cho mình quy trình, quy chế quản lý, tuân thủ nội bộ; quy trình kiểm soát rủi ro; quy trình kiểm toán nhằm tự kiểm tra, giám sát hoạt động của chính mình trên có sở đó có những biện pháp phòng ngừa, cảnh báo và khắc phục kịp thời. Kiểm soát nội bộ là cơ chế hữu hiệu đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của CTCK, đồng thời đảm bảo sự công bằng, lợi ích cho các NĐT vì thực tế khi thực hiện hoạt động kinh doanh CK, CTCK và/hoặc nhân viên CTCK có thể vì lợi ích của mình mà gây tổn thất đến lợi ích của khách hàng. Đó có thể là những hành vi mua bán CK nhằm mục đích lôi kéo giá CK, chèn lệnh của CTCK và/hoặc tài khoản của nhân viên CTCK trước tài khoản của khách hàng….Ngoài ra, việc xây dựng và tuân thủ nghiêm túc các quy trình kiểm soát nội bộ sẽ giúp CTCK có thể tự đánh giá, tổng kết quá trình hoạt động của mình, từ đó đưa ra những điều chỉnh kịp thời trong việc phân chia vị trí, chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận chuyên môn trong công ty, đặc biệt là các chức năng mà nếu do cùng một cá nhân thực hiện có thể dễ dẫn đến sai phạm và/hoặc khó phát hiện các sai phạm;
Nguyên tắc thứ tám: Hạn chế xung đột lợi ích CTCK phải cố gắng tránh hoặc hạn chế tối đa mọi sự xung đột lợi ích có thể xảy ra. Một CTCK có thể vừa đồng thời thực hiện các hoạt động kinh doanh mang lại lợi ích trực tiếp cho công ty như hoạt động tự doanh, hoạt động bảo lãnh phát hành, vừa thực hiện các hoạt động gián tiếp – đem lại lợi ích cho khách hàng như hoạt động môi giới CK, hoạt động tư vấn đầu tư CK. Do đó, xung đột lợi ích rất dễ xảy ra. Những xung đột đó có thể là những xung đột lợi ích giữa CTCK và NĐT; giữa CTCK với tổ chức phát hành; giữa nhân viên CTCK với công ty. Chính vì vậy, pháp luật cần có những quy định nhằm hạn chế các xung đột lợi ích này. Trong quan hệ với tổ chức phát hành, pháp luật quy định CTCK đã thực hiện hoạt động tư vấn niêm yết và/hoặc bảo lãnh phát hành CK sẽ không được tham gia vào quá trình đấu giá xác định giá CK, tức là CTCK sẽ bị hạn chế đầu tư trong trường hợp này. Pháp luật quy định nhằm đảm bảo yếu tố công bằng, bình đẳng giữa các NĐT vì khi tham gia vào hai hoạt động trên, CTCK là chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình định giá doanh nghiệp, định giá CK của đợt phát hành. Trong mối quan hệ giữa CTCK và nhân viên hành nghề tại CTCK, pháp luật quy định nhân viên hành nghề chỉ được mở một tài khoản tại chính CTCK nơi mà người đó hành nghề; người hành nghề CK không được đồng thời làm việc cho nhiều CTCK. Trong mối quan hệ với NĐT, pháp luật yêu cầu CTCK quản lý tách bạch tài khoản tiền của NĐT với tài khoản của CTCK, CTCK phải thông tin cho khách hàng về danh mục CK trong tài khoản tự doanh của mình….
Nguyên tắc thứ chín: Giao dịch cho chính lợi ích của CTCK
Trong quá trình hoạt động, có những quan hệ CTCK nhân danh quyền lợi của khách hàng, có những quan hệ CTCK giao dịch vì lợi ích của chính mình và một bên trong trong mối quan hệ với khách hàng. Đối với những giao dịch như vậy, pháp luật quy định CTCK phải công bố công khai cho khách hàng biết về thời gian thực hiện giao dịch, cách thức thực hiện giao dịch để đảm bảo công bằng, bình đẳng với khách hàng.
Có thể thấy rằng, với chín nguyên tắc trên, IOSCO đã gián tiếp yêu cầu các CTCK trong quá trình hoạt động của mình phải tuân thủ các nguyên tắc cở bản trên TTCK như: nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của NĐT và nguyên tắc bảo vệ sự công bằng và minh bạch của thị trường. Những yêu cầu này phải được hệ thống pháp luật về CK và TTCK của các quốc gia thể chế hóa và vận dụng cho phù hợp với thực tiễn nước mình. Nhìn chung, khuyến nghị trên đã được đa số hệ thống pháp luật của các quốc gia ghi nhận, trong đó có hệ thống pháp luật của Cộng hòa Pháp, Luật Giao dịch chứng khoán của Nhật Bản; Luật giao dịch chứng khoản của Cộng hòa liên bang Đức, CHXHCN Việt Nam…
1.2.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán nhằm bảo vệ quyền lợi của NĐT Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của CTCK trong mối quan hệ với việc bảo vệ quyền lợi của NĐT được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của cc, trong đó pháp luật đưa ra các cơ chế kiểm soát việc tham gia vào hoạt động kinh doanh của CTCK (cơ chế kiểm soát việc thành lập CTCK); cơ chế kiểm soát trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh cụ thể; cơ chế kiểm soát khi CTCK giải thể, phá sản nhằm đảm bảo khả hoạt động an toàn, hiệu quả của CTCK, ngăn ngừa, giảm thiểu rủi xảy ra đối với NĐT.
Một là, cơ chế kiểm soát việc tham gia vào hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán
Thực chất đây là việc mà Nhà nước can thiệp, kiểm soát quá trình ra đời, thành lập CTCK. Trên thế giới, để kiểm soát việc các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh CK, pháp luật các nước áp dụng một trong hai cơ chế sau: Nếu dựa trên mô hình quản lý Nhà nước theo kiểu dự phòng trước (mô hình “tiền kiểm”) thì pháp luật đưa ra cơ chế cấp giấy phép hoạt động kinh doanh CK; nếu dựa trên mô hình quản lý Nhà nước theo kiểu kiểm soát sau (mô hình “hậu kiểm”) thì pháp luật đưa ra cơ chế đăng ký hoạt động kinh doanh CK.
Thứ nhất: Cơ chế cấp giấy phép hoạt động kinh doanh CK (Cơ chế tiền kiểm)
Đối với cơ chế này, việc tham gia thị trường của các chủ thể kinh doanh CK bị hạn chế do các cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK đặt ra các điều kiện và thủ tục chặt chẽ để được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh CK. Đó là các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật; về nhân sự; về vốn. Cơ chế này không phát huy được nhiều nhất khả năng chủ động và quyền tự do kinh doanh CK của các chủ thể kinh doanh CK bởi vì nhiều chủ thể đã có đủ năng lực, tiêu chuẩn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trên thực tế nhưng vì cơ chế cấp giấy phép nên hoạt động kinh của họ sẽ phụ thuộc vào việc các cơ quan quản lý có cấp giấy phép cho họ được hoạt động hay không. Điều này sẽ làm lãng phí thời gian, chi phí và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cơ chế tiền kiểm thể hiện được vai trò của Nhà nước trong việc phòng ngừa, hạn chế rủi ro từ xa có thể xảy ra đối với thị trường. Do vậy, cơ chế này được áp dụng ở đa số các nước có TTCK mới phát triển như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam…
Thứ hai: Cơ chế đăng ký kinh doanh CK (Cơ chế hậu kiểm) Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Theo cơ chế đăng ký kinh doanh CK, cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK sẽ đưa ra các tiêu chuẩn nhất định. Chủ thể nào đáp ứng đủ tiêu chuẩn đó và thực hiện thủ tục đăng ký với cơ quan quản lý là được phép tiến hành kinh doanh CK hoặc rút khỏi thị trường. Cách thức đăng ký này thể hiện và phát huy được tối đa khả năng và quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh CK. Bởi vì các chủ thể khi đáp ứng đủ các điều kiện về năng lực hoạt động chỉ cần đăng ký với cơ quan quản lý mà không mất nhiều thời gian và chi phí để nộp hồ sơ và không phải chờ đợi cơ quan quản lý thẩm định, nhờ đó mà các chủ thể chủ động hơn trước các cơ hội kinh doanh. Cơ chế này cũng nâng cao trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh đối với các cam kết mà họ đã đăng ký với cơ quan quản lý.
Tuy nhiên, để áp dụng được cơ chế này, đòi hỏi khả năng quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước về CK và mức độ phát triển của thị trường phải đạt trình độ cao. Trên thế giới có khá nhiều quốc gia phát triển đã áp dụng cơ chế này như Anh, Mỹ, Nhật Bản.
Hai là, về các hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán
Một CTCK có thể thực hiện cùng một lúc nhiều hoạt động kinh doanh khác nhau. Căn cứ vào vai trò, vị trí của các loại hình kinh doanh thì có thể chia hoạt động kinh doanh CK thành hai nhóm: Nhóm hoạt động kinh doanh chính và nhóm các hoạt động kinh doanh phụ trợ. Theo đó, các hoạt động kinh doanh chính là những hoạt động kinh doanh cơ bản của CTCK, đây thường là những hoạt động mang lại doanh thu chính cho CTCK. Hoạt động kinh doanh phụ trợ là những hoạt động gắn liền với các hoạt động kinh doanh chính, thường không phải làm thủ tục xin phép hoạt động mà CTCK được đương nhiên triển khai khi được đã được phép thực hiện các hoạt động kinh doanh chính. Tuy khác nhau về vai trò, nhưng hai nhóm hoạt động kinh doanh này có mối quan hệ mật thiết, có tác dụng tương hỗ lẫn nhau. Nhóm hoạt động kinh doanh phụ trợ chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở các hoạt động kinh doanh chính và ngược lại, nhờ có các hoạt động kinh doanh phụ trợ mà các hoạt động kinh doanh chính của CTCK trở nên linh hoạt, đa dạng, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của NĐT. Chẳng hạn, hoạt động ứng trước tiền bán chứng khoán chỉ có thể thực hiện được khi CTCK được phép triển khai hoạt động môi giới, nhưng cũng chính nhờ có dịch vụ ứng trước mà hoạt động kinh doanh môi giới của CTCK trở nên linh hoạt hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu luân chuyển, quay vòng nguồn vốn đầu tư của khách hàng. Có thể phân biệt nhóm hoạt động kinh doanh chính và nhóm hoạt động kinh doanh phụ trợ như sau: Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Nhóm hoạt động kinh doanh chính gồm:
Hoạt động môi giới CK: Đây là hoạt động đặc thù, thể hiện vai trò trung gian trên TTCK của CTCK. Theo cách hiểu chung nhất, môi giới CK là hoạt động kinh doanh mà CTCK thực hiện việc mua bán, giao dịch CK thay cho khách hàng và được hưởng phí môi giới. Trên thị trường CK tập trung, tất cả các lệnh mua bán của NĐT phải được chuyển qua hệ thống giao dịch của các CTCK trước khi được so khớp tại hệ thống giao dịch của SGDCK. Tùy thuộc vào trình độ công nghệ của mỗi quốc gia mà phương thức xử lý lệnh của NĐT là khác khau. Ở những quốc gia phát triển, lệnh của NĐT có thể được chuyển thẳng vào SGDCK, trong trường hợp này NĐT chỉ nhờ hệ thống đường truyền của các CTCK mà thôi. Trong khi đó, ở các quốc gia đang phát triển thì lệnh của khách hàng thường được xử lý theo hai bước. Bước thứ nhất, lệnh của khách hàng được các CTCK nhập vào hệ thống giao dịch của họ và lệnh này được chuyển đến hệ thống giao dịch của SGDCK; bước thứ hai, lệnh của NĐT sẽ được hệ thống giao dịch của SGDCK xử lý, so khớp. Việt Nam là nước đang áp dụng phương thức xử lý thứ hai. Nếu so sánh mức độ “can thiệp”, ảnh hưởng của CTCK vào quá trình giao dịch của NĐT thì có thể thấy việc xử lý lệnh theo phương thức thứ hai có mức độ sâu hơn so với phương thức thứ nhất. Bởi vì, lệnh của NĐT có thể được xử lý nhanh hay chậm, chính xác hay không chính xác hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống kỹ thuật cũng như kỹ năng, đạo đức của nhân viên môi giới của các CTCK. Không loại trừ khả năng lệnh của khách hàng được nhập vào sau lệnh của CTCK và bản thân nhân viên môi giới CTCK. Trong khi đó, nếu xử lý lệnh theo phương thức lệnh của NĐT được chuyển thẳng vào hệ thống của Sở giao dịch sẽ hạn chế tối đa nguy cơ này. Ở Việt Nam, hệ thống giao dịch của SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh và SGDCK Hà Nội đang từng bước hướng đến phương thức giao dịch thứ nhất (hay còn gọi là giao dịch không sàn). Đây là nhu cầu tất yếu trong việc nâng cao tính an toàn, công bằng, minh bạch của thị trường, bảo vệ tốt nhất lợi ích của các NĐT.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện lệnh cho khách hàng, CTCK sẽ biết được chính xác được khối lượng, giá trị CK mà các NĐT đang giao dich, từ đó đưa ra được các dự đoán về xu hướng của thị trường để “đi trước một bước”. Chẳng hạn, khi nhận được các lệnh mua hoặc bán với khối lượng lớn vào cùng một thời điểm, CTCK sẽ biết được khả năng ảnh hưởng của các lệnh mua bán này đến diễn biến của thị trường mà thực hiện lệnh của mình trước khi thực hiện lệnh của khách hàng. Như vậy, môi giới CK là hoạt động có ảnh hưởng, quyết định trực tiếp đến tính an toàn và mức độ hiệu quả trong quá trình đầu tư của NĐT, vì vậy pháp luật của các nước trên thế giới đều có những quy định rất chặt chẽ nhằm ràng buộc trách nhiệm của các CTCK trong quá trình làm trung gian mua bán CK cho khách hàng như: các quy định liên quan đến việc xây dựng, triển khai quy trình kiểm soát nội bộ nhằm hạn chế xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng; các quy định liên quan đến quản lý tiền và CK của NĐT; ký kết hợp đồng với khách hàng; ưu tiên lệnh của khách hàng trước lệnh của CTCK; mua bảm hiểm trách nhiệm nghề nghiệp và lập quỹ bảo vệ NĐT…
Hoạt động tự doanh CK: Là hoạt động kinh doanh CK mà CTCK thực hiện việc mua bán CK cho chính mình. Trong trường hợp này, CTCK đóng vai trò là một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp trên TTCK. Họ có ưu thế hơn hẳn các NĐT khác ở khả năng về tài chính, chuyên môn và khả năng chủ động trong việc thực hiện mua bán của mình.Nếu một CTCK vừa thực hiện hoạt động môi giới vừa thực hiện hoạt động tự doanh thì rất dễ xảy ra khả năng CTCK và/hoặc nhân viên CTCK lạm dụng vị thế của mình để sử dụng tiền, CK trên tài khoản giao dịch của khách hàng hoặc chèn lệnh của mình trước lệnh của khách hàng khi thị trường có những biến động mạnh về giá nhằm thu lợi cho mình, xâm hại đến quyền lợi của NĐT, hoặc CTCK thực hiện việc mua, bán trước khách hàng để có được giá tốt hơn so với khách hàng. Để tránh xự xung đột lợi ích giữa CTCK và NĐT, pháp luật thường có những quy định bắt buộc các CTCK phải tách biệt giữa hai hoạt động môi giới CK và tự doanh CK, đồng thời CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty.
Hoạt động tư vấn đầu tư CK: Là hoạt động mà CTCK cung cấp kết quả phân tích, công bố các báo cáo phân tích về thị trường (phân tích vĩ mô), về các nhóm ngành kinh kế (phân tích ngành), về hoạt động của các doanh nghiệp (phân tích doanh nghiệp)… và các khuyến nghị liên quan đến CK. Trong quá trình tư vấn cho khách hàng đầu tư CK rất dễ xảy ra xung đột lợi ích giữa CTCK với NĐT, nhất là các CTCK có hoạt động tự doanh. Bởi vì, CTCK có thể vừa là người nắm giữ CK (hoạt động tự doanh), vừa tư vấn cho khách hàng mua, bán chính CK đó hoặc khi NĐT muốn mua CK mà khách hàng của họ đang sở hữu họ sẽ đưa ra những khuyến nghị để khách hàng bán CK. Việc làm này đem lại lợi ích rất lớn cho CTCK đặc biệt đối với những thời điểm thị trường giảm giá, NĐT không muốn mua các loại CK do CTCK đang nắm giữ hoặc những thời điểm TTCK đang tăng giá mạnh, NĐT chưa muốn bán ra. Để hạn chế khả năng này, pháp luật thường có những quy định yêu cầu CTCk phải công khai việc nắm giữ CK trong tài khoản tự doanh của mình cho khách hàng; CTCK không được làm NĐT hiểu lầm về giá CK; phải đưa ra những khuyến nghị, tư vấn đầu tư phù hợp, không được đưa ra cam kết về xu hướng thị trường cũng như giá CK.
Ngoài những khả năng trên, không loại trừ trường hợp các CTCK tư vấn không trung thực, không khách quan nhằm khuyến khích các NĐT mua bán, giao dịch thật nhiều để hưởng phí môi giới. Để bảo vệ NĐT khỏi nguy cơ này, pháp luật một số nước trên thế giới quy định tách riêng dịch vụ môi giới CK với dịch vụ tư vấn đầu tư CK (các CTCK không được cùng lúc thực hiện nghiệp vụ môi giới CK và hoạt động tư vấn đầu tư CK) nhằm đảm bảo tính khách quan, cẩn trọng trong hoạt động tư vấn đầu tư CK của các CTCK.
Hoạt động bảo lãnh phát hành CK: Là hoạt động mà CTCK cam kết thực hiện các thủ tục trước chào bán CK, nhận mua CK để bán lại (bảo lãnh một phần) hoặc mua số CK chưa được bán hết (bảo lãnh với phương thức cam kết chắc chắn) hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành phân phối CK ra công chúng.
Xét một cách tương đối thì tổ chức phát hành và NĐT đều là khách hàng của CTCK. Tổ chức phát hành là khách hàng của CTCK trong hoạt động bảo lãnh phát hành còn NĐT là khách hàng của họ trong hoạt động môi giới CK. Tuy nhiên, trong quá trình bảo lãnh phát hành CK mối quan hệ về lợi ích giữa CTCK với các tổ chức phát hành rõ ràng là chặt chẽ hơn so với NĐT trong việc phát hành. Bởi vì phí bảo lãnh là do các tổ chức phát hành trả cho các CTCK mà mức phí này lại hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả của đợt phát hành. Vì vậy, CTCK sẽ tìm mọi cách tư vấn cho các NĐT mua hết số CK của đợt phát hành với giá tốt nhất không quan tâm đến lợi ích của họ, vi phạm nguyên tắc “hoạt động vì lợi ích của khách hàng”. Mặt khác, vì là tổ chức bảo lãnh phát hành nên CTCK biết được mức giá có lợi để đặt trong đợt đấu giá so với các NĐT không có ưu thế về mặt thông tin. Chính vì những lý do này mà pháp luật thường yêu cầu các CTCK phải công khai tư cách là người bảo lãnh phát hành để các NĐT có thể nhận ra tính xác thực của việc tư vấn đầu tư, đồng thời pháp luật cũng có những quy định nhằm hạn chế các CTCK không được tham gia đợt đấu giá với tư cách là một chủ thể đầu tư nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng của đợt phát hành.
Nhóm hoạt động kinh doanh phụ trợ:
Hoạt động tín dụng: Là hoạt động cấp tín dụng của CTCK cho khách hàng để họ mua bán CK và sử dụng CK đó làm vật thế chấp cho các khoản vay của khách hàng tại CTCK (hoạt động cho vay cầm cố CK) hoặc hoạt động mà CTCK cho khách hàng vay ứng trước số tiền bán CK nhưng chưa hạch toán trên tài khoản của khách hàng do chu kỳ thanh toán T + n (trong đó n là số ngày thanh toán);
Hoạt động bảo quản và quản lý các công cụ tài chính: Là việc lưu giữ, bảo quản CK của khách hàng (hoạt động đăng ký, lưu ký CK) và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với CK như quyền nhận cổ tức, quyền nhận lãi trái phiếu, quyền mua thêm cổ phiếu phát hành thêm… Các nội dung này cần được các CTCK thực hiện nhanh chóng, đầy đủ, chính xác để bảo vệ quyền lợi của các NĐT đặc biệt là trong trường hợp NĐT làm thủ tục đóng tài khoản giao dịch ở CTCK để chuyển tiền, CK sang CTCK khác sẽ có nguy cơ bị các CTCK cũ gây “khó dễ”, xử lý chậm qua đó ảnh hưởng đến quá trình đầu tư của NĐT Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
Ba là, cơ chế xử lý đối với những hành vi vi phạm trong quá trình hoạt động của Công ty chứng khoán
Pháp luật không chỉ đặt ra những nguyên tắc, quy định, yêu cầu bắt buộc các CTCK trong quá trình hoạt động của mình phải tuân thủ mà còn đề ra các biện pháp xử lý trong trường hợp các CTCK có hành vi vi phạm nghĩa vụ, gây thiệt hại cho NĐT. Tùy vào tính chất, mức độ của hành vi gây thiệt hại cho NĐT mà CTCK sẽ phải khắc phục sự cố, bị xử lý hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự. Đặc điểm có tính chất đặc thù của hành vi gây thiệt hại của CTCK nói riêng, trên TTCK nói chung là hậu quả của hành vi gây thiệt gây ra là rất lớn, có tầm ảnh hưởng và tác động rất rộng đến các chủ thể tham gia thị trường trong đó trước hết và chủ yếu là NĐT. Mặt khác, khoản lợi thu được từ hành vi trái pháp luật thường có giá trị rất lớn, nếu chỉ sử dụng các biện pháp kinh tế để xử lý các hành vi vi phạm thì không đủ sức răn đe, ngăn ngừa các hành vi vi phạm. Do vậy, pháp luật các nước thường kết hợp biện pháp kinh tế với biện pháp hình sự để có chế tài mạnh hơn. Luật chứng khoán Việt Nam năm 2006 chỉ quy định các nguyên tắc đối với những hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà không có quy định cụ thể, Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 cũng không có những quy định cụ thể về các tội danh liên quan đến CK. Đến năm 2009, Bộ luật hình sự sửa đổi mới bổ sung các tội danh liên quan đến CK, TTCK nói chung và đối với CTCK nói riêng.
Bốn là, cơ chế kiểm soát Công ty chứng khoán khi giải thể, phá sản
Như đã phân tích ở trên, hoạt động của các CTCK có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng do vậy pháp luật các nước phải có các quy định rất chẽ nhằm đảm bảo, giám sát các CTCK trong suốt quá trình tổ chức thành lập, hoạt động kinh doanh và cả trong trường hợp chấm dứt hoạt động (giải thể, phá sản). Khi tiến hành giải thể, phá sản, CTCK phải đảm bảo tốt nhất quyền lợi của khách hàng trong đó có quyền tài sản liên quan đến CK, tiền của họ tại CTCK, thủ tục chuyển tài khoản của khách hàng sang các CTCK thay thế…
Pháp luật một số nước trên thế giới quy định việc giải thể, phá sản CTCK ngay trong Luật CK và TTCK. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam lại quy định việc giải thể phá sản CTCK sẽ thực hiện theo Luật phá sản và Nghị định hướng dẫn thủ tục phá sản đối với các tổ chức tài chính, tín dụng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CTCK và NĐT là hai nhóm chủ thể đóng vai trò trung tâm trên TTCK tập trung. Hai nhóm chủ thể này có mối quan hệ vừa thống nhất, vừa xung đột về lợi ích trong suốt quá trình tham gia thị trường. Để bảo vệ NĐT, pháp luật đồng thời ghi nhận và quy định các biện pháp pháp lý bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT. Một trong những biện pháp bảo vệ NĐT trong mối quan hệ với CTCK là xác lập cơ chế kiểm soát khi CTCK thành lập, thực hiện các hoạt động kinh doanh và kiểm soát khi CTCK giải thể, phá sản.
Thứ nhất, đối với việc thành lập CTCK, pháp luật thường áp dụng hai cơ chế kiểm soát là cơ chế cấp giấy phép hoạt động kinh doanh và cơ chế đăng ký hoạt động kinh doanh CK. Xét khía cạnh bảo vệ NĐT thì cơ chế cấp giấy phép đăng ký kinh doanh có khả năng phòng ngừa, hạn chế rủi ro từ xa tốt hơn.
Thứ hai, đối với các nghiệp vụ của CTCK pháp luật yêu cầu các CTCK có nghĩa vụ tìm khả năng tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro của khách hàng, xây dựng quy trình giao dịch, quy trình quản trị nội bộ, kiểm soát xung đột lợi ích, hạn chế rủi ro và bảo vệ tài sản của khách hàng…
Thứ ba, pháp luật quy định các biện pháp chế tài đối với các CTCK có hành vi phạm pháp luật CK gây phương hại đến lợi ích của khách hàng. Các biện pháp hành chính, kinh tế và hình sự đều có thể được áp dụng;
Thứ tư, trong trường hợp CTCK lâm vào tình trạng phá sản, tài sản và các quyền lợi khác của khách hàng được bảo vệ thông qua cơ chế mở thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Khái quát hoạt động KD của các Cty chứng khoán