Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái quát hoạt động KD của các Cty chứng khoán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh môi giới của Công ty chứng khoán với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
2.1.1. Hoạt động môi giới chứng khoán và vấn đề quyền tham gia thị trường của nhà đầu tư
Quyền thực hiện các giao dịch mua bán CK là một trong những quyền cơ bản của NĐT. Đó là một nội dung quan trọng của quyền sở hữu CK. NĐT khi sở hữu một loại CK nào đó thì họ có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt và hưởng lợi do việc sớ hữu CK mang lại. Quyền chuyển nhượng CK có bản chất là quyền định đoạt của NĐT đối với tài sản (là CK) mà họ sở hữu. Pháp luật ghi nhận và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT, trong đó có quyền thực hiện các giao dịch mua, bán CK trên TTCK. Theo quy định của luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005, “cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần cho cổ đông khác hoặc cho người không phải là cổ đông của công ty”[25, Đ79]
Để đảm bảo nguyên tắc trung gian trên TTCK, khi thực hiện việc mua bán CK trên SGDCK, NĐT bắt buộc phải thông qua các nhà môi giới là các CTCK – thành viên của SGDCK. Với vai trò là nhà trung gian, CTCK sẽ đứng ra kết nối người bán CK và người mua CK đồng thời đại diện cho NĐT tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK. Tuy nhiên, NĐT sẽ chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. NĐT phải thực hiện thủ tục bắt buộc là mở một tài khoản giao dịch CK tại một CTCK do mình lựa chọn. Theo quy định của pháp luật hiện hành, NĐT chỉ được phép mở một tài khoản giao dịch CK tại một CTCK.[16, Đ22]. Các nhà quản lý hạn chế số tài khoản mà NĐT được phép mở tại CTCK có thể xuất phát từ mục tiêu ngăn ngừa, hạn chế hành vi “làm giá”, tạo ra cung cầu giả tạo, hành vi thao túng, lũng đoạn thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế quy định trên không thực sự phát huy hiệu lực và hiệu quả quản lý khi các NĐT đã “lách” quy định này một cách dễ dàng bằng việc cùng một lúc mở nhiều tài khoản giao dịch CK tại nhiều CTCK khác nhau và/hoặc nhờ người khác đứng ra cùng mở tài khoản giao dịch tại một CTCK rồi ủy quyền toàn bộ lại cho mình. Luận văn: Khái quát hoạt động KD của các Cty chứng khoán
Tham khảo quy chế giao dịch trên TTCK của một số nước phát triển cho thấy các nước này không có những quy định hạn chế số lượng tài khoản giao dịch CK của NĐT Điều này thực sự cần thiết và hợp lý để đáp ứng tối đa quyền tự do tham gia thị trường của NĐT. Thiết nghĩ, các cơ quan quản lý về CK và TTCK cần có những thay đổi và điều chỉnh phù hợp để một mặt tạo thuận lợi tối đa cho các NĐT tham gia giao dịch, một mặt duy trì và đảm bảo tính khả thi của các quy phạm pháp luật khi đưa vào áp dụng, thực thi trên thực tế. Ngoài ra, vào những giai đoạn phát triển sôi động của thị trường, số lượng NĐT tham gia giao dịch đông, vừa có sự tham gia của các nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp, có sự góp mặt của một số lượng lớn các NĐT cá nhân, nhỏ lẻ dẫn đến tình trạng đã có một bộ phận CTCK ban hành chính sách phân biệt đối xử, không bằng nhằm hạn chế khả năng tham gia của các NĐT nhỏ bằng cách quy định số dư tối thiểu để được phép giao dịch như CTCK ngân hàng ngoại thương Việt Nam quy định số tiền tối thiểu để được phép giao dịch là 20 triệu đồng, CTCK Sài Gòn quy định số tiền tối thiếu để được phép giao dịch là 100 triệu đồng. Các CTCK này lấy lý do là số lượng lệnh quá nhiều, khả năng xử lý của hệ thống giao dịch hạn chế. Quy định như vậy đã xâm phạm quyền lợi chính đáng của NĐT vì theo quy chế giao dịch của SGDCK thì để được giao dịch CK, NĐT chỉ cần có đủ số dư tiền gửi giao dịch CK để mua một lô 10 cổ phần hoặc chứng chỉ quỹ đối với SGDCK thành phố Hồ Chí Minh hoặc một lô 100 cổ phần đối với SGDCK Hà Nội [15, Đ12], [16, Đ8].
Dưới góc độ pháp lý, quyền tham gia thị trường là một quyền được pháp luật ghi nhận, bảo vệ và khuyển khích vì NĐT tham gia thị trường tích cực là một trong những dấu hiệu phản ánh tính hấp dẫn, hiệu quả của thị trường tài chính trung và dài hạn, qua đó phản ánh “sức khỏe” của cả nền kinh tế. Do vậy, bất kỳ sự hạn chế nào đối với NĐT đều là hành vi vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, từ thực tế này các cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK cũng cần phải xem xét lại các điều kiện để các CTCK sau khi được thành lập có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của NĐT. Theo quy định của pháp luật hiện hành [8, Đ3], để được thành lập và hoạt động, CTCK phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, về vốn, CTCK phải có đủ số vốn pháp định theo quy định của pháp luật
Thứ hai, về nhân sự, Tổng giám đốc (Giám đôc) và nhân viên nghiệp vụ phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh CK
Thứ ba, về cơ sở vật chất kỹ thuật CTCK phải có đủ điều kiện về trụ sở, trang bị, thiết bị phục vụ kinh doanh CK. Cụ thể, CTCK phải có sàn giao dịch với diện tích tối thiểu là 150 m2; thiết bị văn phòng; hệ thống máy tính, phần mền giao dịch; trang thông tin điện tử, bảng công bố thông tin; kho, két đối với CTCK có hoạt động môi giới, tự doanh. Quy định của pháp luật như vậy nhưng trên thực tế các cơ quan quản lý chưa có một quy định cụ thể nào về tiêu chuẩn của hệ thống phần mềm, server…mà để các CTCK tự trang bị tùy theo năng lực tài chính và định hướng phát triển của mình. Điều này là một thiếu xót rất lớn vì nền tảng công nghệ là khâu then chốt, quyết định đến khả năng, chất lượng cung cấp dịch vụ của CTCK, qua đó ảnh hướng trực tiếp đến quyền lợi của NĐT. Do vậy, nếu CTCK viện dẫn lý do khả năng đáp ứng về công nghệ còn hạn chế để hạn chế quyền tham gia thị trường của NĐT thì pháp luật cũng như các cơ quan quản lý cần có những quy định chặt chẽ hơn trong quá trình thẩm định, kiểm tra cơ sở vật chất, kỹ thuật của các CTCK trước khi ra quyết định cấp giấy phép thành lập.
Để bảo vệ NĐT, pháp luật quy định CTCK phải làm thủ tục mở tài khoản giao dịch cho từng khách hàng trên cơ sở Hợp đồng mở tài khoản giao dịch CK ký kết với khách hàng. Theo đó, nội dung của hợp đồng mở tài khoản do CTCK và NĐT thỏa thuận nhưng phải bao gồm những nội dung cơ bản theo quy định của cơ quan quản lý nhà nước vể CK và TTCK. Quy định này nhằm đảm bảo sự công bằng cho cả hai bên tham gia hợp đồng. Hợp đồng này vừa là cơ sở để CTCK thực hiện giao dịch CK cho khách hàng vừa là cơ sở để xác định, ràng buộc trách nhiệm của CTCK đối với khách hàng. Ngoài ra, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NĐT trong mối quan hệ với CTCK, pháp luật còn quy định hợp đồng xác lập giữa hai bên không được chứa đựng những thoả thuận, điều khoản gây bất lợi cho khách hàng, trốn tránh trách nhiệm của CTCK như: các thỏa thuận nhằm hạn chế phạm vi bồi thường của CTCK mà không có lý do chính đáng hoặc các thỏa thuận nhằm chuyển rủi ro từ CTCK sang khách hàng; các thỏa thuận buộc khách hàng thực hiện nghĩa vụ bồi thường một cách không công bằng; các thỏa thuận khác gây bất lợi, không công bằng cho khách hàng.
Bên cạnh đó, CTCK có nghĩa vụ thu thập, tìm hiểu thông tin về tình hình tài chính, mức thu nhập, mục tiêu đầu tư, khả năng chấp nhận rủi ro của khách hàng tối thiểu 6 (sáu) tháng/lần để đưa ra các khuyến nghị, tư vấn đầu tư phù hợp với từng đối tượng khách hàng nhưng trên thực tế rất ít CTCK thực hiện công việc này [8, Đ31].
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
2.1.2. Quy định về quản lý bạch tài khoản của nhà đầu tư tại Công ty chứng khoán Luận văn: Khái quát hoạt động KD của các Cty chứng khoán
Với các NĐT lần đầu tiên mở tài khoản để giao dịch CK, họ phải nộp tiền vào tài khoản giao dịch CK của mình. Để bảo vệ lợi ích của NĐT, đề phòng trường hợp CTCK gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh hoặc để hạn chế tình trạng CTCK lợi dụng tài khoản của khách hàng, luật chứng khoán năm 2006 đã quy định CTCK phải quản lý tiền gửi giao dịch CK của khách hàng tách biệt với tài khoản tự doanh của CTCK. CTCK không được trực tiếp nhận tiền giao dịch CK của khách hàng mà tất cả các khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại do CTCK lựa chọn. CTCK phải báo cáo UBCKNN danh sách các ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ thanh toán cho mình trong vòng ba ngày sau khi ký hợp đồng cung cấp dịch vụ thanh toán với ngân hàng thương mại. Đây là một điểm mới mang tính tiến bộ vượt trội so với các quy định ở thời kỳ trước khi ban hành Luật chứng khoán. Tiền của NĐT để tại tài khoản tiền gửi của ngân hàng, nên NĐT có thể quản lý tiền của mình giống như với bất cứ tài khoản tiền bình thường, nghĩa là họ có thể rút ra, gửi vào, hưởng lãi suất, sử dụng các công cụ giao dịch từ xa do ngân hàng cung cấp, tại tất cả các chi nhánh của ngân hàng. Họ muốn nộp tiền hay rút tiền cũng không cần đến công ty CTCK nữa mà có thể đến bất cứ chi nhánh nào để nộp tiền. Mặt khác, khi mở tài khoản tiền riêng, tài khoản tiền gửi của khách hàng sẽ được bảo hiểm thông qua phương thức bảo hiểm tiền gửi. Theo Quy chế bảo hiểm tiền gửi thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra bảo hiểm cho mỗi khoản tiền mà khách hàng gửi tại các ngân hàng trong trường hợp ngân hàng mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên, với mỗi khoản tiền gửi sẽ được bảo hiểm tối đa là 50 triệu đồng.
Như vậy, nếu gửi tiền vào một tài khoản tổng chung tại CTCK, mức bảo hiểm đối với tất cả các khách hàng bị giới hạn trong phạm vi số tiền bảo hiểm trên.
Nghĩa quan trọng nhất của việc tách bạch quản lý tiền gửi của khách hàng với tài khoản tự doanh của CTCK là đảm bảo sự minh bạch và bảo vệ lợi ích của NĐT. Trước đây, theo quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK ban hành kèm theo quyết định 55/2004/QĐ-BTC ngày 17/06/2004 của Bộ tài chính thì CTCK trực tiếp nhận tiền giao dịch CK của khách hàng, sau đó CTCK mở một tài khoản chung, bao gồm cả tài khoản tự doanh của chính CTCK và tài khoản tổng của tất cả các khách hàng tại một ngân hàng thương mại để lưu giữ tiền gửi của khách hàng. Khi đó, ngân hàng chỉ biết tổng số tiền của CTCK, trong khi từng tài khoản riêng lẻ của NĐT chỉ có CTCK biết. Nếu có sự câu kết trong CTCK giữa bộ phận giao dịch và kế toán, họ có thể mượn tiền của NĐT mà trên sổ sách số dư tiền của NĐT không thay đổi.
Nếu được quản lý tách bạch bởi ngân hàng, CTCK không thể can thiệp để sử dụng tiền của NĐT, vì mọi giao dịch rút hay sử dụng đều được Ngân hàng ghi lại và quản lý. NĐT bất cứ lúc nào có thể phát hiện được việc sử dụng tiền sai trái của CTCK nếu có. Mặt khác, các CTCK không có nghiệp vụ ngân hàng lại phải quản lý một lượng tiền lớn sẽ tiềm ẩn những rủi ro lớn. Trên thực tế, việc tập trung quản lý tiền ở các CTCK thời gian qua đã gây ra khá nhiều rắc rối. Vào những giai đoạn thị trường phát triển “nóng”, có những phiên giao dịch NĐT phải chen chân xếp hàng chờ được nộp hay rút tiền.
Trên thực tế không phải tất cả các CTCK đang hoạt động đều đã tuân thủ quy định này, hơn nữa, ngay cả với những CTCK đã thực hiện việc quản lý tách bạch tài khoản tiền gửi giao dịch CK với tài khoản tự doanh của CTCK, quyền lợi của các NĐT vẫn chưa thực sự đảm bảo khi Công văn số 1888/UBCK-QLKD ngày 17/9/2008 của UBCKNN lại lái quy định về quản lý tiền gửi của khách hàng sang hướng chỉ yêu cầu bắt buộc các CTCK phải tách bạch tài khoản tự doanh của mình với tài khoản tiền gửi của tất cả các khách hàng (tài khoản tổng chứ không phải tài khoản của từng cá nhân khách hàng). Kết hợp với quy định về phương thức thanh toán, bù trừ đa phương như hiện nay thì CTCK hoàn toàn có thể “tranh thủ” sử dụng và hưởng lợi từ tiền gửi của khách hàng trong khoảng thời gian từ ngày T +1 đến ngày T + 3.
Bên cạnh đó, quy định của pháp luật về CK và TTCK hiện nay cũng chưa có quy định bắt buộc nào về tỷ lệ ký quỹ số tiền tối thiểu đối với tài khoản giao dịch CK của NĐT trước khi đặt lệnh mua nên đã dẫn tới tình trạng các CTCK đã tự đưa ra những chính sách ưu đãi riêng đối với một nhóm khách hàng nhất định khi cho phép khách hàng mua CK vượt quá số tiền trong tài khoản tiền gửi. Khi đó, CTCK sẽ dùng tiền có trong tài khoản của các khách hàng khác để bù trừ, thanh toán cho những trường hợp này. Như vậy, với việc thực thi quy định pháp luật chưa thực sự triệt để như hiện nay thì quyền lợi của các NĐT vẫn đang và có nguy cơ bị xâm hại bởi các CTCK.
2.1.3. Quy định pháp luật về lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán tại Công ty chứng khoán với việc bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư
Bên cạnh tài khoản tiền gửi, tài sản của NĐT còn là CK lưu ký tại TTLKCK thông qua tài khoản lưu ký của CTCK mở tại TTLK. Theo quy định hiện hành thì việc lưu ký CK được tiến hành theo hai cấp: cấp thứ nhất, khách hàng lưu ký CK vào tài khoản lưu ký CK của CTCK và cấp thứ hai, CTCK sẽ lưu ký chung cả CK của mình và NĐT vào một tài khoản tại TTLK[10] Với mô hình này thì CTCK hoàn toàn có thể thanh toán, bù trừ và sử dụng CK trên tài khoản của khách hàng mà không vướng phải bất kỳ hạn chế nào. Vì vậy, để đảm bảo lợi ích của các NĐT, các quy định về lưu ký CK cũng cần phải thay đổi để hạn chế tối đa rủi ro cho các NĐT.
Về chu kỳ thanh toán đang được áp dụng hiện nay là T + 3 nghĩa là sau khi các lệnh mua, bán được thực hiện thành công vào ngày T thì phải 3 ngày sau CK hoặc tiền mới được hạch toán về tài khoản của NĐT tức là đến ngày T + 4 khách hàng mới có thể giao dịch được. Với thời hạn thanh toán kéo dài như vậy, thì rủi ro là điều hoàn toàn có thể xảy đến với NĐT vì bản thân TTCK vận động và biến đổi liên tục và khó lường. Các quyết định đầu tư của NĐT, đặc biệt đối với các NĐT theo chiến lược đầu tư ngắn hạn mà công chúng hay gọi với thuật ngữ là NĐT “lướt sóng” có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào chu kỳ thanh toán ngắn hay dài. Hơn nữa, với một chu kỳ thanh toán ngắn tính thanh khoản của thị trường sẽ được nâng lên. Vì vậy, hầu hết các NĐT tham gia thị trường hiện nay đều có chung một kiến nghị là cơ quan quản lý nên thay đổi thời gian thanh toán theo hướng quy định thời gian thanh toán ngắn hơn thay vì áp dụng thời hạn 3 ngày như hiện nay. Thực tiễn hoạt động của các nước trên thế giới cũng thường áp dụng thời hạn thanh toán là T + 1 hoặc T + 2.
2.1.4. Quy định pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm đối với người hành nghề chứng khoán Luận văn: Khái quát hoạt động KD của các Cty chứng khoán
Để có thể giám sát nhằm hạn chế việc những người hành nghề kinh doanh CK tại các CTCK có thể lợi dụng ưu thế, đặc thù nghề nghiệp của mình để thực hiện các hành vi gây thiệt hại cho khách hàng như đặt lệnh của mình trước lệnh của khách hàng, sử dụng tài khoản của khách hàng để giao dịch cho mình, pháp luật đã quy định người hành nghề CK chỉ được mở tài khoản giao dịch CK tại chính CTCK nơi mình làm việc đồng thời CTCK phải thông báo mã số tài khoản của những người này cho UBCKNN và SGDCK [8, Đ23]. Tuy nhiên, đạo đức nghề nghiệp của những người hành nghề kinhh doanh CK luôn phải được tự nguyện đề cao khi khuôn khổ pháp lý và khả năng quản lý, giám sát, kiểm soát của các cơ quan quản lý còn hạn chế.
Môi giới CK là nghiệp vụ đòi hỏi CTCK, nhân viên hành nghề môi giới phải đảm bảo được những yêu cầu nhất định về dịch vụ và chuyên môn. Công việc này đặt ra những yêu cầu cao về chuyên môn, độ chính xác và đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong quá trình thực hiện nghiệp vụ này, đã có rất nhiều nhầm lẫn, sơ xuất thuộc về cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan của nhân viên môi giới gây ra những thiệt hại tài chính cho khách hàng. Có thể kể đến một số lỗi thường gặp như sau:
Thứ nhất, nhầm lẫn khi đặt lệnh mua bán cho khách hàng hoặc sơ xuất quên thực hiện yêu cầu của khách hàng;
Thứ hai, rò rỉ thông tin của khách hàng, đánh mất tài liệu/chứng cứ/dữ liệu cá nhân của khách hàng;
Thứ ba, nhân viên CTCK lạm dụng tài khoản của khách hàng thu lợi riêng hay không tuân thủ các quy định về thứ tự ưu tiên đặt lệnh, biển thủ tiền của khách hàng;
Thứ tư, CTCK không tuân thủ đúng các yêu cầu từ các cơ quan chức năng trong quá trình thực hiện hoạt động môi giới;
Thứ năm, vi phạm trách nhiệm ủy thác
Với những sơ xuất dẫn đến thiệt hại tài chính cho khách hàng, nguy cơ đầu tiên mà các CTCK phải đối mặt là khả năng bị khách hàng kiện đòi bồi thường thiệt hại. Nhiều thiệt hại xảy ra có khả năng vượt quá khả năng kiểm soát của chính bản thân CTCK, đặc biệt là đối với các CTCK có quy mô vốn vừa và nhỏ. Kèm theo nguy cơ này là những rắc rối về pháp lý và kiện tụng kéo dài. CTCK cũng có thể sẽ phải đối mặt và gánh chịu những chế tài và các hậu quả pháp lý bất lợi từ phía các cơ quan quản lý đồng thời uy tín, thương hiệu, hình ảnh của CTCK sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Luận văn: Khái quát hoạt động KD của các Cty chứng khoán
Theo quy định của pháp luật về CK và TTCK Việt Nam hiện hành, trong quá trình thực hiện giao dịch, các thành viên tham gia thị trường (các CTCK là thành viên của SGDCK) sẽ có trách nhiệm hỗ trợ nhau sửa lỗi [16]. Nguồn tài chính dùng để khắc phục lỗi xảy ra sẽ lấy từ Quỹ hỗ trợ thanh toán do các thành viên đóng góp. Tuy nhiên quy định này không dễ dàng triển khai có hiệu quả trên thực tế bởi vì, những thiệt hại gây ra cho khách hàng liên quan đến tài khoản là tiền và CK, trong đó, tiền có thể do các thành viên tự khắc phục hoặc thông qua sự giúp đỡ của Quỹ hỗ trợ thanh toán nhưng nếu tài sản là CK thì không phải khi nào bản thân thành viên cũng có sẵn CK trong tài khoản tự doanh của mình để khắc phục. Do chưa có một cơ chế thực sự rõ ràng trong trường hợp này nên khi xảy ra sự cố, các CTCK thường tìm đến sự giúp đỡ của các CTCK thân thiết bằng cách vay CK để chi trả cho khách hàng. Các quy định hiện hành cũng chưa cho thấy rõ vai trò của SGDCK trong việc đứng ra thu xếp, chỉ định CTCK thành viên trong việc hỗ trợ các CTCK khác sửa lỗi. Nhiều CTCK “ngại” tìm đến sự giúp đỡ từ bên ngoài nên họ thường tìm trong tài khoản CK của các khách hàng hiện hữu của mình xem có loại CK đang là đối tượng sửa lỗi mà “chưa dùng đến” hay không để đặt vấn đề vay lại. Trong những trường hợp như vậy, khách hàng có CK thường trở thành người cho vay CK “bất đắc dĩ” vì họ không muốn làm “phật lòng” CTCK nhất là trong những giai đoạn thị trường phát triển “nóng”. Tuy nhiên, nếu đồng ý cho vay, khách hàng sẽ mất đi cơ hội định đoạt tài sản của mình (bán) vào ngày hôm sau khi CTCK chưa kịp mua CK để trả lại cho họ. Thiết nghĩ, pháp luật cần có quy định chặt chẽ hơn nhằm hạn chế hành vi CTCK vay CK của khách hàng bất kể trường hợp khách hàng có đồng ý hay không.
Một giải pháp mang tính ưu việt đã được luật chứng khoán năm 2006 đề cập đến dùng để khắc phục các lỗi do CTCK gây ra cho khách hàng đó là CTCK tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CTCK. [28, Đ 71]. Theo đó, tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp được quy định là một nghĩa vụ bắt buộc mà tất cả các CTCK phải tham gia, pháp luật cũng quy định mức xử phạt lên tới 50 triệu đồng trong trường hợp CTCK không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp [13, Đ 20] nhưng trên thực tế hầu hết các CTCK đều chưa tuân thủ quy định này mà không bị xử phạt.
Mặc dù là loại hình bảo hiểm đã khá phổ biến trên thế giới nhưng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CTCK trong quá trình thực hiện nghiệp vụ môi giới CK là loại hình bảo hiểm còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Ưu điểm của việc tham gia loại hình bảo hiểm này là khi xảy ra sai sót, thiệt hại đối với khách hàng, các công ty bảo hiểm sẽ đứng ra chi trả, bồi thường thay cho CTCK. Ngoài ra, công ty bảo hiểm cũng sẽ chi trả cho những chi pháp pháp lý, tố tụng mà CTCK tham gia. Do vậy, tham gia bảo hiểm trách nhiệm khi hành nghề môi giới sẽ giúp CTCK nâng cao hình ảnh, niềm tin của mình đối với khách hàng.
Tính đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam mới chỉ có một số ít các công ty bảo hiểm cung cấp loại hình bảo hiểm này như Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt, Công ty bảo hiểm AIG Việt Nam, công ty bảo hiểm Bảo Minh, Công ty bảo hiểm Gras Savoye Việt Nam trong đó đối tượng bảo hiểm được chia thành hai loại: bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Trong đó:
Nhóm 1: Bảo hiểm tài sản gồm các loại bảo hiểm sau:
Thứ nhất, bảo hiểm cháy: Cơ sở để các công ty bảo hiểm đưa ra loại hình bảo hiểm này xuất phát từ việc nhận thức sàn giao dịch CK là đối tượng có thể bị cháy bất kỳ lúc nào vì bất kỳ lý do gì. Cho nên, một đơn bảo hiểm cháy điển hình cho các thiệt hại gây ra bởi hỏa hoạn, sét đánh và nổ cần phải được cung cấp cho CTCK. Tuy nhiên đơn bảo hiểm này có các rủi ro loại trừ là động đất, cháy ngầm, bạo loạn, bạo động và các tổn tất do chiến tranh gây nên. Khi mua bảo hiểm cháy cho một tòa nhà đang được sử dụng làm sàn giao dịch CK nghĩa là CTCK đã tham gia bảo hiểm cho tài sản của chính mình và gián tiếp là tài sản của khách hàng;
Thứ hai, bảo hiểm các rủi ro đặc biệt: Vì đơn bảo hiểm cháy loại trừ một số rủi ro nên để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho sàn giao dịch CK, các công ty bảo hiểm thường chào bán kèm theo đơn bảo hiểm cháy một đơn bảo hiểm các rủi ro đặc biệt, gồm các rủi ro nổ, tự cháy, bạo loạn, bạo động, dông bão, lụt lội. Có như vậy thì hoạt động của CTCK mới không bị đảo lộn, quyền lợi trong quan hệ ủy quyền, gửi giữ (lưu ký tài sản, tài liệu tại CTCK) của NĐT mới được duy trì, bảo vệ.
Thứ ba, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh: Thông thường những tổn thất về gián đoạn kinh doanh sẽ xuất hiện sau một thiệt hại về tài sản, chẳng hạn như thiệt hại do cháy. Hoạt động của CTCK có phạm vi tác động và ảnh hưởng đến một số lượng lớn các NĐT, nếu hoạt động của CTCK bị đình trệ sẽ gây ra thiệt hại cho chính bản thân CTCK và các NĐT là khách hàng của CTCK cũng bị ảnh hưởng. Với một đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, CTCK sẽ được các công ty bảo hiểm đứng ra bảo hiểm để đưa các CTCK trở lại hoạt động, khôi phục lại tình trạng trước khi bị thiệt hại. Vì vậy, đây thực sự là loại hình bảo hiểm rất cần thiết để các CTCK tham gia loại hình bảo hiểm này.
Thứ tư, bảo hiểm thiết bị điện tử: Giao dịch CK không thể thiếu hệ thống các thiết bị điện tử, phần mềm nên bảo hiểm cho các thiệt bị điện tử, phần mềm giao dịch của các CTCK là một nhu cầu thiết yếu. Theo đơn bảo hiểm này, toàn bộ tổn thật vật chất đối với các thiết bị điện tử do cháy, nổ, sét đánh trực tiếp hay gián tiếp, đoản mạch, nước vào, sơ suất của người sử dụng, sự cố ngẫu nhiên đều thuộc phạm bảo hiểm. Ngoài ra các phần mềm giao dịch trước nguy cơ bị tin tặc tấn công có thể bị tê liệt, xâm nhập bất cứ lúc nào và hậu quả gây ra có thể rất lớn nên đây cũng là một trong những đối tượng phải được quan tâm bảo hiểm hàng đầu. Hệ thống máy tính, phần mềm, thiết bị điện tử là huyết mạch, nền tảng quyết định sự thành công trong quá trình thực hiện nghiệp vụ môi giới của CTCK nên không thể không mua bảo hiểm cho các đối tượng này.
Nhóm 2: Bảo hiểm trách nhiệm đối với các nhà quản lý của CTCK và người hành nghề kinh doanh CK. Theo đó, công ty bảo hiểm sẽ đứng ra chi trả cho các thiệt hại mà người hành nghề kinh doanh CK gây ra cho khách hàng. Đó có thể là các thiệt hại mà CTCK gây ra cho khách hàng khi tư vấn không đúng, bảo hiểm khi nhầm lẫn, sai sót trong quá trình xử lý lệnh cho khách hàng. Hiện nay các công ty bảo hiểm cũng cung cấp các đơn bảo hiểm dành cho lãnh đạo các CTCK như giám đốc CTCK nhằm đảm bảo quyền lợi của khách hàng và bên thứ ba trước các quyết định của giám đốc và bản thân CTCK. Việc tham gia loại hình bảo hiểm này cũng có ưu điểm tích cực đối với giám đốc và nhân viên nghiệp vụ của CTCK khi khả năng gánh chịu rủi ro của họ có hạn, đồng thời nó cũng giúp hội đồng quản trị của các CTCK yên tâm hơn khi trao quyền cho giám đốc công ty vì ngoài quan hệ bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật lao động, CTCK còn được bảo hiểm bởi loại hình bảo hiểm trách nhiệm do công ty bảo hiểm cung cấp.
Những nước phát triển, ngoài việc yêu cầu nhân viên môi giới tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, để đảm bảo lợi ích của mình, các CTCK và khách hàng còn được bảo hiểm cả “lòng trung thành” của nhân viên CTCK khi họ có hành vi gian lận hay thiếu trung thực với ý định thu lợi bất hợp pháp.
Như vậy, bảo hiệm trách nhiệm nghề nghiệp và bảo hiểm tài sản là yêu cầu thực sự cần thiết đặt ra đối với các CTCK trong việc duy trì hoạt động một cách an toàn, ổn định góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT trong mối quan hệ với CTCK.
Khi NĐT gửi tiền và CK vào tài khoản mở tại CTCK thì tài sản đó cũng cần được coi là một đối tượng chính phải được bảo hiểm vì cũng là quan hệ gửi tiền, nhưng khi gửi tiền vào một ngân hàng, khoản tiền mà khách hàng gửi sẽ được bảo hiểm bởi tổ chức bảo hiểm tiền gửi, hơn nữa hoạt động của ngân hàng nhận tiền gửi sẽ được điều tiết, kiểm soát chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước. Thiết nghĩ, TTCK cũng là kênh huy động vốn trung và dài hạn của cả nền kinh tế, nắm giữ vai trò quan trọng không thể phủ nhận, do vậy hoạt động của TTCK nói chung, của bản thân các CTCK- thành viên của thị trường nói riêng cần phải được bảo hiểm. Có như vậy mới duy trì và bảo đảm được tính an toàn, ổn định của thị trường, củng cố được niềm tin, hạn chế rủi ro cho các NĐT khi tham gia thị trường. Luận văn: Khái quát hoạt động KD của các Cty chứng khoán
Rõ ràng vai trò của bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh của CTCK là không thể phủ nhận, tuy nhiên, trên thực tế mới chỉ có một vài CTCK tham gia các loại hình bảo hiểm này và ngay cả những CTCK đã tham gia cũng có ý định chấm dứt Hợp đồng bảo hiểm vì họ thấy rằng do sự kiện được bảo hiểm quá hạn chế, ít xảy ra trong khi có những lỗi phổ biến mà CTCK thường mắc phải lại không được công ty bảo hiểm đưa vào danh mục các sự kiện bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm cũng không dám mạnh dạn xác định các tổn thất, thiệt hại phát sinh trong quá trình hoạt động của CTCK vào danh mục các tổn thất, thiệt hại được chi trả bảo hiểm vì các quy định hiện nay chưa phân biệt, xác định được chính xác, rõ ràng trách nhiệm của CTCK trong những trường hợp nhất định chẳng hạn như khi các CTCK cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư CK, trách nhiệm của CTCK khi không thực hiện được lệnh của khách hàng. Trong những trường hợp như vậy sẽ rất khó để xác định đâu là lỗi của CTCK, đâu là lỗi của khách hàng và của SGDCK. Trong khi đó, các công ty bảo hiểm cần phải xác định chính xác trách nhiệm của CTCK mới có cơ sở để xác định và giới hạn mức thiệt hại được bảo hiểm.
Như vậy, bảo hiểm trách nhiệm trong quá trình hành nghề môi giới là một việc làm có ý nghĩa quan trọng để hạn chế rủi ro, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của NĐT trong mối quan hệ với CTCK. Tuy nhiên, pháp luật cần có những quy định cụ thể và chặt chẽ hơn trong việc xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của CTCK, đồng thời pháp luật cũng cần đưa ra chế tài đủ mạnh để bắt buộc các CTCK nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ tham gia bảo hiểm trong quá trình hoạt động kinh doanh môi giới CK.
2.1.5. Nghiệp vụ môi giới các loại chứng khoán phái sinh và quyền lợi của nhà đầu tư Luận văn: Khái quát hoạt động KD của các Cty chứng khoán
Các CTCK ở Việt Nam hiện nay mới chỉ được phép cung cấp các dịch vụ môi giới đối với các loại CK là cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ mà chưa được phép tiến hành môi giới các loại hình CK phái sinh như: nghiệp vụ bán khống, nghiệp vụ môi giới quyền chọn mua, giao dịch tương lai… Điều 71.9 Luật chứng khoán năm 2006 quy định: CTCK được phép “Thực hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán CK khi không sở hữu CK và cho khách hàng vay CK để bán theo quy định của Bộ tài chính”. Theo tinh thần của quy định này thì CTCK được phép thực hiện cung cấp các dịch vụ cho khách hàng vay CK để bán hoặc thực hiện lệnh bán cho khách hàng khi họ không sở hữu CK trong tài khoản nhưng phải theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Tính đến thời điểm hiện tại chưa có quy định chính thức nào của Bộ tài chính hướng dẫn, cho phép các CTCK thực hiện nghiệp vụ này. Tuy nhiên, trên thực tế đã có một số CTCK cung cấp các dịch vụ gần tương tự với nghiệp vụ cho phép khách hàng thực hiện lệnh bán khi không sở hữu CK. [44]
Đối với NĐT, khi tham gia các quan hệ nêu trên, họ luôn là bên có nguy cơ phải gánh chịu những rủi ro rất lớn do chưa có một quy định chính thức, hay một đảm bảo pháp lý cụ thể nào từ phía Nhà nước đối với các loại hình kinh doanh này.
Đối với các nước có TTCK phát triển, việc các CTCK được phép thực hiện nghiệp vụ bán khống đã trở nên khá phổ biến và là một trong những nghiệp vụ cơ bản của CTCK trong quá trình thực hiện nghiệp vụ môi giới CK. TTCK Việt Nam mặc dù chưa đạt đến trình độ như các nước phát triến nhưng nhu cầu hiện tại đối với các loại hình kinh doanh này là hiện hữu. Vì vậy, các cơ quan quản lý cần từng bước tiến hành nghiên cứu và cho phép các CTCK triển khai nghiệp vụ này nhằm gia tăng tiện ích cũng như bổ sung hàng hóa, công cụ để các NĐT tham gia đầu tư tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng để các CTCK có cơ sở triển khai thực hiện qua đó góp phần xác định trách nhiệm của CTCK khi cung cấp dịch vụ, hạn chế tối đa các rủi ro, bất lợi cho các NĐT khi tham gia đầu tư các công cụ phái sinh.
2.1.6. Các quy định nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của Công ty chứng khoán Luận văn: Khái quát hoạt động KD của các Cty chứng khoán
Quy định pháp luật hành chưa cho phép NĐT bán CK khi họ chưa thực sự sở hữu nhưng lại không có quy định cho trường hợp ngược lại, nghĩa là, chưa có quy định bắt buộc số tiền ký quỹ bắt buộc trong tài khoản của NĐT trước khi đặt lệnh mua bán. Các quy định hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc quy định số tiền tối thiểu để được thực hiện lệnh mua một lô cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, trái phiếu mà chưa có cơ chế kiểm soát việc ký quỹ số tiền trong tài khoản của NĐT có đủ để mua số lượng CK đặt mua cộng với phí hoa hồng môi giới trả cho CTCK hay không. Chính vì thực tế này mà hầu hết các CTCK hiện nay đều có những chính sách bất thành văn về việc cho phép các khách hàng thường xuyên và có tổng giá trị đầu tư lớn được phép thực hiện lệnh mua khi không có tiền trong tài khoản hoặc số tiền trong tài khoản của khách hàng nhỏ hơn tổng giá trị CK mà họ mua cộng với phí hoa hồng môi giới. Khách hàng được phép nộp bổ sung tiền mua CK sau giờ giao dịch hay thậm chí có thể nộp vào ngày hôm sau. Các CTCK áp dụng chính sách này với mục đích như một hình thức cạnh tranh trong bối cảnh có đến hàng trăm CTCK cùng cung cấp dịch vụ môi giới CK trên thị trường. Sở dĩ các CTCK thực hiện được điều này là vì theo quy định hiện hành, phương thức thanh toán, bù trừ đối với các giao dịch điện tử thông thường là phương thức thanh toán, bù trừ đa phương, nghĩa là Trung tâm lưu ký chỉ hạch toán, bù trừ trên tài khoản tổng của các thành viên mở tại Trung tâm lưu ký còn việc hạch toán bù trừ tài khoản giữa các tài khoản của khách hàng trong tài khoản tổng sẽ do các thành viên tự hạch toán, bù trừ. Ví dụ: CTCK X kết thúc ngày giao dịch đã thực hiện thành công lệnh bán 500 chứng khoán AAA cho khách hàng 1 đồng thời thực hiện thành công lệnh mua 1000 chứng khoán AAA cho khách hàng 2. Như vậy, Trung tâm lưu ký sẽ hạch toán, bù trừ bằng cách ghi tăng trên tài khoản tổng của CTCK X là 500 chứng khoán AAA. Việc bù trừ 500 chứng khoán AAA còn lại từ tài khoản của khách hàng 1 sang tài khoản của khách hàng 2 sẽ do CTCK tự thực hiện. Điều đó cũng có nghĩa là số tiền thực tế mà CTCK X bị Trung tâm lưu ký hạch toán giảm chỉ tương ứng với 500 chứng khoán AAA.
Ngoài ra, trong những trường hợp khác CTCK sẵn sàng ứng tiền từ tài khoản tự doanh của mình để thanh toán bù trừ cho khách hàng. Việc ứng tiền trong trường hợp này thực chất là hành vi cho NĐT vay tiền. Theo quy định của luật CK, CTCK không được cho khách hàng vay tiền để mua chứng khoán (Điều 73.4 Luật chứng khoán năm 2006). Trong trường hợp này CTCK đã vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật CK trong việc bảo đảm an toàn trong hoạt động tài chính của CTCK. Việc cho khách hàng vay tiền sẽ làm giảm tỷ lệ vốn khả dụng của CTCK. Tỷ lệ vốn khả dụng là tỷ lệ vốn được xác định theo công thức: Tỷ lệ vốn khả dụng = Vốn kinh doanh/Tổng nợ điều chỉnh. Theo quy định của pháp luật, CTCK phải luôn luôn duy trì mức vốn khả dụng thấp nhất là 5%, khi vốn khả dụng thấp hơn tỷ lệ này, CTCK phải có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan quản lý và sẽ bị kiểm soát, hạn chế một số hoạt động đầu tư, kinh doanh nhất định, thậm chí CTCK có thể bị đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động nếu tỷ lệ vốn khả dụng giảm xuống dưới mức 5% liên tục trong vòng 6 tháng mà không thể khắc phục được. Như vậy, việc quy định CTCK không được phép cho khách hàng vay để đầu tư CTCK là cần thiết vì bản thân CTCK không phải là tổ chức có chức năng cấp tín dụng nên không có đầy đủ tiềm lực tài chính, hệ thống quản trị rủi ro cũng như khả năng chuyên môn có thể dẫn đến các rủi ro trong quá trình hoạt động, ảnh hưởng đến quyền lợi của các NĐT cũng như hoạt động bền vững của toàn thị trường.
Từ thực trạng trên cho thấy pháp luật cần có những quy định chặt chẽ hơn nhằm ngăn ngừa, kiểm soát các CTCK cho khách hàng vay tiền.
2.1.7. Rủi ro của nhà đầu tư trong quá trình thực hiện giao dịch với Công ty chứng khoán
Về việc nhận lệnh của khách hàng, hầu hết các CTCK đang nhận lệnh bằng các hình thức như nhận lệnh trực tiếp bằng phiếu lệnh, nhận lệnh thông qua điện thoại, nhận lệnh thông qua việc khách hàng nhập lệnh vào hệ thống internet hay còn gọi là giao dịch trực tuyến. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Luật giao dịch điện tử đều thừa nhận phiếu lệnh, tài liệu nghe được, nhìn được khác là các chứng cứ. Tuy nhiên Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 9 năm 2005 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng minh và chứng cứ” thì “các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. ..nếu các đương sự không xuất trình các văn bản nêu trên thì tại liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp sẽ không được coi là chứng cứ”. Thực tế tại CTCK đều có hệ thống ghi âm các cuộc gọi của khách hàng về việc đặt lệnh. Tuy nhiên, những chứng cứ này lại do CTCK lưu giữ, khách hàng không có khả năng thực hiện việc này. Vì vậy trường hợp CTCK không hoặc quên không thực hiện lệnh của khách hàng đặt lệnh qua điện thoại thì rủi ro sẽ thuộc về khách hàng khi CTCK hủy bỏ các dữ liệu ghi âm này. Để khắc phục tình trạng này, giữa khách hàng và CTCK cần phải có những quy định về mặt kỹ thuật trong quá trình tiếp nhận và xử lý lệnh của khách hàng nhằm đảm bảo khách hàng có chứng cứ chắc chắn về việc CTCK đã thực hiện cho mình. Luận văn: Khái quát hoạt động KD của các Cty chứng khoán
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Thực trạng HĐ tư vấn đầu tư của Cty chứng khoán