Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Tổng công ty thương mại kỹ thuật và đầu tư Petec dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Với nền khoa học phát triển như hiện nay thì con người hoàn toàn có khả năng tiềm kiếm những nguồn năng lượng khác thay thế xăng dầu như hạt nhân, năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, trong vài thập kỉ tới đây xăng dầu vẫn sẽ là nguồn năng lượng chính. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng ở mức cao nhu cầu về nhiên liệu phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng.. vì vậy nhu cầu về xăng dầu và các sản phẩm dầu mỏ tăng nhanh về cả số lượng và chủng loại. Xăng dầu đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Nước ta với quá trình hiện đại hóa công nghiệp hóa đất nước, nhu cầu sử dụng xăng dầu là không thể thiếu được, đặc biệt với các nghành giao thông, công nghiệp… Mặt khác với nền kinh tế phát triển của nước ta hiện nay thì nhu cầu về phương tiện giao thông ngày một tăng góp phần không nhỏ đến nhu cầu sử dụng xăng dầu.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Trị Kinh Doanh

2. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, kinh doanh quốc tế ngày càng được mở rộng và giữ vai trò quan trọng. Vai trò đó ngày càng được khẳng định khi nhờ nó mà nhiều doanh nghiệp, nhiều ngành, nhiều nền kinh tế quốc gia có cơ hội phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, việc mở rộng giao thương với các đối tác nước ngoài là việc tất yếu khách quan.

Xăng dầu là mặt hàng chiến lược có vai trò chi phối với tất cả các ngành trong nền kinh tế, đời sống xã hội dân cư, là mặt hàng gần như có cung và giá cả phụ thuộc vào thị trường thế giới. Từ cuối năm 2010 đến nay, giá xăng dầu trên thị trường thế giới liên tục biến động và ảnh hưởng rất lớn đến giá cả trong nước cũng như chính sách kiềm chế và ổn định lạm phát của Chính phủ. Tổng công ty Petec là đơn vị được phép kinh doanh xăng dầu, trải qua các năm hoạt động Công ty cũng đã không ngừng cố gắng trong việc tìm hướng khai khác, tìm hiểu thị trường nâng cao hiệu quả và quy mô kinh doanh để hoàn thành nhiệm vụ và đáp ứng nhu cầu xăng dầu phục vụ kinh tế.

Tuy nhiên do những biến động khách quan của thị trường thế giới cũng như những nhân tố chủ quan của Công ty như khả năng tích luỹ tài chính còn hạn chế, đối tác kinh doanh cũng chưa đa dạng và còn chịu sự chi phối của chính sách của Nhà nước nên Công ty gặp nhiều khó khăn trong quá trình kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả.

Nhằm tháo gỡ những khó khăn và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của Tổng công ty Thương mại Kỹ thuật và Đầu tư Petec, đòi hỏi cần phải có những giải pháp thích hợp. Vì lý do đó, đề tài luận văn: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Tổng công ty Thương mại Kỹ thuật và Đầu tư Petec” đã được lựa chọn và nghiên cứu.

3. Mục tiêu, nội dung và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả kinh doanh của TCT Petec trong thời gian qua, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xăng dầu của Công ty.

Nội dung nghiên cứu

Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:

  • Chương I: Cơ sở lý luận về hiệu quả của hoạt động kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Tổng công ty Petec.
  • Chương II: Thực trạng về hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Tổng công ty Petec giai đoạn 2011 – 2015.
  • Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Tổng công ty Petec giai đoạn 2016 – 2020.

Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích và so sánh. Các số liệu phục vụ quá trình nghiên cứu lấy từ báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2011 – 2015, từ sách báo, tạp chí có liên quan tới luận văn.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH XĂNG DẦU TẠI TỔNG CÔNG TY PETEC

1.1 Quan điểm về hiệu quả và hiệu quả kinh doanh: Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

1.1.1 Quan niệm về hiệu quả:

Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong điều kiện nhất định. Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét. Nếu xét theo hiệu quả cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Đứng trên góc độ này thì hiệu quả đồng nhất với phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả kinh tế cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý trong các doanh nghiệp (Nguyễn Cảnh Hiệp 2014).

Chỉ tiêu hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố tham gia quá trình sản xuất, kinh doanh đồng thời là phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hóa, phản ánh trình độ của nền sản xuất hàng hóa, sản xuất hàng hóa có phát triển hay không là do hiệu quả đạt được cao hay thấp, chỉ tiêu hiệu quả phản ánh cả về mặt định lượng và cả về mặt định tính. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh phản ánh mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Về mặt định tính, nó phản ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu về mục tiêu kinh tế và mục tiêu chính trị – xã hội.

Khi đứng trên phạm vi khác nhau để xem xét vấn đề hiệu quả thì có thể chia hiệu quả ra nhiều loại khác nhau:

Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc gia để xem xét thì phạm vi hiệu quả sẽ là hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả chính trị. Cả hai hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội đất nước. Trong thời kỳ bao cấp, nước ta coi trọng hai hiệu quả này trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trong điều kiện hiện nay thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước bên cạnh việc đảm bảo hiệu quả kinh tế, hiệu quả kinh doanh cần phải chú ý đến hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả chính trị. Đối với các nước tư bản chủ nghĩa, các doanh nghiệp hoạt động đều nhằm mục đích hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh, còn một số doanh nghiệp nhà nước nhằm thực hiện một số chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế xã hội.

Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố, từng doanh nghiệp riêng lẻ thì có phạm trù hiệu quả kinh tế và phạm trù hiệu quả kinh doanh.

Hiệu quả kinh tế là những lợi ích kinh tế đạt được sau khi bù đắp những khoản chi phí về lao động xã hội. Hiệu quả kinh tế xác định thông qua so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và chi phí bỏ ra.

Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả lao động xã hội được xác định bằng việc so sánh giữa lượng lao động hữu ích cuối cùng thu được với hao phí lao động xã hội.

Như vậy đứng trên các khía cạnh khác nhau người ta có thể có quan điểm về hiệu quả khác nhau. Tuy nhiên, trong lĩnh vực quản lý khi giải quyết vấn đề hiệu quả cần phải có kết hợp hài hòa giữa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa lợi ích trung ương với lợi ích địa phương, giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích quốc gia.

1.1.2 Hiệu quả kinh doanh Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

1.1.2.1 Hiệu quả kinh tế trong kinh doanh

Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội:

  • Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Biểu hiện chung cho hiệu quả kinh tế cá biệt là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
  • Hiệu quả kinh tế xã hội do kinh doanh đem lại là sự đóng góp của hoạt động kinh doanh để phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động, tăng ngân sách và cải thiện đời sống nhân dân.

Giữa hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có quan hệ nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc gia chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sẽ đóng góp vào hiệu quả chung của nền kinh tế. Đó chính là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể. Tính hiệu quả của nền kinh tế xuất phát từ chính hiệu quả của mỗi doanh nghiệp và một nền kinh tế vận hành tốt là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động và ngày càng phát triển (Học Viện Tài chính, 2013).

Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm đến hiệu quả kinh tế – xã hội, đảm bảo lợi ích riêng hài hòa với lợi ích chung.

1.1.2.2 Khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Tham gia vào hoạt động kinh tế, nói chung bất cứ đơn vị nào cũng hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng các doanh nghiệp theo đuổi. Với một đồng vốn bỏ vào kinh doanh, ai cũng muốn nó mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Muốn đạt được điều đó, các doanh nghiệp không ngừng đầu tư cho nghiên cứu thị trường, thay đổi quy trình, công nghệ, cải tiến sản phẩm, cắt giảm chi phí sản xuất, cũng như các chi phí liên quan…Tất cả những điều đó, nói một cách khác là sự sắp xếp, hợp lý hóa quá trình sản xuất kinh doanh. “Hiệu quả kinh doanh” là một thuật ngữ để đánh giá, xem xét mức độ hợp lý hóa quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Dưới nhiều góc độ khác nhau, có rất nhiều quan điểm, ý kiến về thuật ngữ “hiệu quả kinh doanh” này. Có thể kể đến một số quan điểm sau đây:

Quan điểm thứ nhất cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là kết quả đạt được trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa” (Nguyễn Thị Hường 2003, tr.318). Quan điểm đã thể hiện được mối liên hệ giữa doanh thu và hiệu quả kinh doanh. Theo quan điểm này, hiệu quả kinh doanh là như nhau nếu các hoạt động kinh doanh cùng mang lại một mức doanh thu. Có thể thấy, trên thực tế để mang lại cùng một mức doanh thu nhưng doanh nghiệp phải có sự đầu tư khác nhau cho các hoạt động khác nhau. Mức đầu tư đó chính là chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được doanh thu. Chưa phản ánh được điều này chính là hạn chế của quan điểm trên về hiệu quả kinh doanh.

Quan điểm thứ hai cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí” (Nguyễn Thị Hường 2003, tr.318). So với quan điểm thứ nhất, quan điểm này đã thể hiện được mối liên hệ giữa doanh thu và chi phí. Nó phản ánh được trình độ sử dụng đồng vốn tăng thêm của doanh nghiệp, trên cơ sở đó giúp doanh nghiệp ra quyết định có nên đầu tư mở rộng hoạt động đó hay không. Mặc dù vậy, quan điểm này vẫn còn hạn chế nhất định, đó là việc nó mới chỉ phản ánh mối liên hệ giữa chi phí và doanh thu bổ sung mà chưa phản ánh được mối liên hệ giữa doanh thu và chi phí ban đầu. Mà trên thực tế, ban đầu doanh nghiệp phải bỏ vốn đầu tư tới một ngưỡng nhất định mới có thể có doanh thu bước đầu.

Quan điểm thứ ba cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó” (Nguyễn Thị Hường, 2003, tr.318). Quan điểm này đã phản ánh được mối liên hệ giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để có kết quả đó. Theo quan điểm này, hiệu quả kinh doanh chính là lợi nhuận thu được từ hoạt động đó. So với hai quan điểm trên, quan điểm này đã phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này cho thấy, với những hoạt động khác nhau, với cùng một lượng vốn bỏ ra mà thu về cùng một lượng giá trị thì các hoạt động kinh doanh đó đã có hiệu quả như nhau. Nhưng trên thực tế, điều này là không chính xác. Quan điểm về hiệu quả kinh doanh này chưa thể hiện được vai trò của các yếu tố khác như thời gian thu được kết quả, quy mô hoạt động… Đây cũng chính là hạn chế của quan điểm này.

Quan điểm thứ tư cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phản ánh mối liên hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó, đồng thời phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất” (Nguyễn Thị Hường 2003, tr.319) . Về cơ bản, quan điểm này đã phản ánh được mối liên hệ bản chất về hiệu quả kinh doanh giữa doanh thu và chi phí cũng như sự vận động của hai yếu tố này, đồng thời còn phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Tuy vậy, hạn chế của nó là chưa thể hiện được mối quan hệ chặt chẽ giữa hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội.

Với bốn quan điểm trên về hiệu quả kinh doanh, chúng ta vẫn chưa tìm được đáp án chung và chính xác nhất để nói về hiệu quả kinh doanh. Một cách tổng quát, có thể nói rằng: “Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu kinh tế xã hội với chi phí thấp nhất” (Nguyễn Thị Hường 2003, tr.319). Nó là thước đo phản ánh trình độ tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quan điểm này đã phản ánh được mối liên hệ bản chất giữa việc sử dụng các nguồn lực và kết quả do nó mang lại, đồng thời cũng thể hiện được trình độ sử dụng các nguồn lực cũng như phản ánh được mối liên hệ giữa hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội. Trên góc độ nền kinh tế quốc gia, hiệu quả kinh doanh phải phản ánh mức độ thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của người dân và toàn xã hội về cả chất lượng lẫn số lượng. Hiệu quả được xem xét trên cơ sở lợi ích toàn xã hội, làm sao để đạt được mức phát triển lớn nhất với nguồn lực xã hội thấp nhất.

1.1.2.3 Phân loại hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Căn cứ theo phương pháp tính hiệu quả

Theo căn cứ này, bao gồm hiệu quả tương đối và hiệu quả tuyệt đối.

Hiệu quả tuyệt đối

Hiệu quả tuyệt đối là đại lượng thể hiện sự chênh lệch giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó đối với mỗi phương án kinh doanh, trong từng thời kỳ với từng doanh nghiệp khác nhau. Hiệu quả tuyệt đối được thể hiện qua tương quan chênh lệch của kết quả và chi phí, nói cách khác đó là sự chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Có thể hiểu hiệu quả tuyệt đối qua công thức tính sau:

E=KQ–CF(*)

Trong đó:

  • E: hiệu quả tuyệt đối, là chỉ tiêu trực tiếp đo lường lợi nhuận doanh nghiệp thu được sau mỗi kỳ kinh doanh. Hiệu quả tuyệt đối thường được đo bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…
  • KQ: Tổng các kết quả thu được bao gồm: doanh thu từ hoạt động bán hàng, doanh thu từ hoạt động tài chính, các khoản thu khác… Kết quả thường được đo bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…
  • CF: Tổng các chi phí bỏ ra để thu được kết quả trên bao gồm: tiền mua hàng, chi phí vận chuyển, chi phí mua bảo hiểm hàng hóa, chi phí lưu kho, bảo quản hàng, chi phí lãi vay ngân hàng, chi phí mua ngoài, tiền lương công nhân viên… Chi phí thường được đo bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…

Cần lưu ý rằng, trong kinh doanh, doanh thu và chi phí có thể được đo lường bằng các đơn vị tiền tệ khác nhau, nhưng khi tính hiệu quả tuyệt đối cần đưa về cùng một đơn vị tiền để tính. Khi kết quả và chi phí được đo bằng đồng tiền nào để tính thì hiệu quả cũng được tính bằng đồng tiền đó.

Hiệu quả tương đối

Hiệu quả tương đối là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Với CF và KQ như trong công thức (*) ở trên, có 2 cách tính hiệu quả tương đối với các ý nghĩa khác nhau:Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Chỉ tiêu 1:

H1 = KQ/CF

Về mặt ý nghĩa chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng chi phí bỏ ra sẽ mang lại bao nhiêu đồng kết quả. Điều này cũng có nghĩa rằng chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh, đồng thời thể hiện sức sản xuất của các yếu tố đầu vào, cũng như việc sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Một doanh nghiệp được coi là hoạt động có hiệu quả khi doanh nghiệp đó hoạt động có lãi. Nói cách khác, ít nhất doanh nghiệp đó phải đảm bảo được doanh thu đủ bù đắp chi phí. Về mặt toán học, điều đó có nghĩa là kết quả doanh nghiệp đạt được phải hớn hơn chi phí bỏ ra (hay KQ > CF). Vì vậy, một doanh nghiệp được coi là hoạt động hiệu quả khi chỉ tiêu H1 nêu trên có giá trị lớn hơn 1. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện doanh nghiệp kinh doanh càng hiệu quả và ngược lại.

Chỉ tiêu 2:

H2 = CF/KQ

Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này là chỉ tiêu phản ánh ngược của chỉ tiêu trên. Chỉ tiêu này cho biết để thu được về một đồng kết quả, doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí. Với các doanh nghiệp có quy trình sản xuất kinh doanh hợp lý, thì một đồng vốn bỏ vào hoạt động kinh doanh sẽ tạo ra nhiều đồng kết quả hơn so với các doanh nghiệp khác. Ngược lại với chỉ tiêu trên, chỉ tiêu này càng thấp thể hiện hiệu quả kinh doanh, sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.

Dưới góc độ toán học, khi giá trị của H2 nhỏ hơn 1 cho thấy chi phí doanh nghiệp bỏ ra ít hơn kết quả thu về (có nghĩa là CF < KQ), cũng có nghĩa doanh nghiệp hoạt động hiệu quả.

Căn cứ theo phạm vi tính hiệu quả

Theo phạm vi, hiệu quả kinh doanh bao gồm hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận.

Hiệu quả kinh doanh tổng hợp

Là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn doanh nghiệp, cho tất cả các bộ phận trong doanh nghiệp. Nó cho biết kết quả thực hiện các mục tiêu doanh nghiệp đề ra trong một giai đoạn nhất định.

Hiệu quả kinh doanh bộ phận

Là hiệu quả kinh doanh được tính cho từng bộ phận, từng hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp, hoặc với từng yếu tố sản xuất của doanh nghiệp như vốn, lao động… Hiệu quả kinh doanh bộ phận chỉ phản ánh hiệu quả từng hoạt động, từng yếu tố riêng lẻ chứ không phản ánh được hết hiệu quả của toàn doanh nghiệp.

Giữa hiệu quả kinh doanh bộ phận và hiệu quả kinh doanh tổng hợp có mối liên hệ mật thiết. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp tăng hay giảm có thể phản ánh một phần sự thay đổi của hiệu quả kinh doanh bộ phận. Mặc dù phản ánh chi tiết và chính xác hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất riêng biệt cũng như sự đóng góp của chúng, nhưng chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận không phản ánh được một cách tổng quát khả năng, trình độ sử dụng nguồn lực vào sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh toàn doanh nghiệp.

Căn cứ theo thời gian mang lại hiệu quả

Khi tính toán hiệu quả, ngoài phạm vi tính toán thì giới hạn thời gian là một yếu tố quan trọng phản ánh chính xác hiệu quả doanh nghiệp đạt được. Theo căn cứ thời gian này, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gồm hiệu quả trước mắt và lâu dài.

Hiệu quả kinh doanh trước mắt

Hiệu quả kinh doanh trước mắt là hiệu quả được đánh giá, xem xét trong khoảng thời gian ngắn trước mắt. Kết quả được xem xét là kết quả mang tính tạm thời. Để có thể phát triển ổn định, bền vững, để đạt được các mục tiêu trước mắt cũng như các mục tiêu trong chiến lược phát triển lâu dài, các nhà quản trị ngoài việc tính toán để đạt các mục tiêu trước mắt còn phải cân nhắc để đảm bảo hiệu quả lâu dài của doanh nghiệp mình. Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Hiệu quả kinh doanh lâu dài

Hiệu quả kinh doanh lâu dài là hiệu quả được xem xét trong một phạm vi thời gian khá dài, thường gắn với các chiến lược, kế hoạch phát triển bền vững của doanh nghiệp. Không thể lấy hiệu quả ngắn hạn để phản ánh hiệu quả lâu dài, bởi vì trên thực tế, tình hình thị trường cũng như môi trường kinh doanh luôn biến động, thay đổi. Không phải giai đoạn kinh doanh nào cũng như nhau. Với lí do này, hiệu quả kinh doanh lâu dài sẽ phản ánh chính xác và đầy đủ hơn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động.

Căn cứ theo giác độ đánh giá hiệu quả

Theo căn cứ này, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bao gồm hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội.

Hiệu quả tài chính

Hiệu quả tài chính cũng chính là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đây là hiệu quả được xem xét, phân tích dưới góc độ doanh nghiệp. Với hoạt động kinh doanh, hiệu quả tài chính chính là mối liên hệ giữa các lợi ích mà doanh nghiệp nhận được từ hoạt động kinh doanh đó và chi phí doanh nghiệp bỏ ra. Đối với doanh nghiệp, tiêu chuẩn phản ánh hiệu quả tài chính chính là lợi nhuận. Đây cũng chính là mục tiêu cuối cùng mà các doanh nghiệp hướng tới, cũng là mối quan tâm lớn nhất của các doanh nghiệp nói chung.

Hiệu quả chính trị – xã hội

Hiệu quả chính trị – xã hội là hiệu quả được xem xét dưới góc độ xã hội. Đó chính là lợi ích mà hoạt động kinh doanh mang lại cho xã hội, là sự đóng góp vào việc phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của người dân. Các lợi ích mà hoạt động kinh doanh có thể mang lại cho xã hội như: góp phần phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động, tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện điều kiện sống cho nhân dân, tích lũy ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách nhà nước. Một doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt… Nhà nước sẽ sử dụng những khoản thu này để cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và lĩnh vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân (Chu Huy Phương 2012).

Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động đòi hỏi các doanh nghiệp làm ăn phải có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sống của người lao động. Xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân thể hiện qua chỉ tiêu như gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội…

Giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả chính trị – xã hội là mối liên hệ gắn bó. Trên thực tế nhiều doanh nghiệp vì theo đuổi mục tiêu hiệu quả tài chính mà bỏ quên hiệu quả chính trị – xã hội. Họ sẵn sàng cắt giảm chi phí bằng cách bỏ qua việc xử lý các hậu quả do hoạt động sản xuất gây nên như ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước…

1.1.3 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

1.1.3.1 Các chỉ tiêu tổng hợp

Lợi nhuận

Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế mang tính tổng hợp, phản ánh toàn bộ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (Học viện tài chính 2013). Lợi nhuận được tính theo công thức sau:

LN=DT–CF

Trong đó:

LN: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh

DT: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh.

CF: Chi phí cho hoạt động kinh doanh, được tính bằng tổng của các khoản chi phí như: giá mua hàng hóa, các chi phí vận chuyển, bảo hiểm, lưu kho, bảo quản, chi phí trả lương nhân viên, các khoản thuế phải nộp, các tổn thất khác trong kỳ liên quan hoạt động kinh doanh.

LN, DT, CF được tính bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD, tỷ USD… Dù DT, CF được đo lường bằng các đơn vị tiền tệ khác nhau, nhưng khi tính toán LN đạt được, cần chú ý đưa về cùng một đơn vị tính, một loại tiền. Khi đó, lợi nhuận được tính bằng đồng tiền chung quy về đó. Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Trong kinh doanh, lợi nhuận các doanh nghiệp thu được sau mỗi kỳ kinh doanh là rất khác nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Lợi nhuận có thể mang giá dương, nhưng cũng có thể mang giá trị âm. Khi nó dương, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp hoạt động có lãi, có hiệu quả. Khi lợi nhuận mang trị số âm, điều đó thể hiện doanh nghiệp đang thua lỗ, hoạt động không đạt hiệu quả, nếu duy trì tình trạng này trong thời gian dài, có thể sẽ dẫn doanh nghiệp đến phá sản.

Về mặt ý nghĩa, lợi nhuận là cơ sở để doanh nghiệp duy trì hoạt động, đồng thời tái sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận càng lớn, tiềm lực tài chính của doanh nghiệp càng tăng, nó cũng chứng tỏ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng đạt hiệu quả cao. Đây là cơ sở để doanh nghiệp mở rộng quy mô hoạt động, tạo điều kiện cải thiện đời sống người lao động. Lợi nhuận, tối đa hóa lợi nhuận cũng là mục tiêu cuối cùng các doanh nghiệp hướng tới.

Mặc dù là chỉ tiêu quan trọng nhưng lợi nhuận lại không phản ánh được hết hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận chỉ phản ánh sự chênh lệch về lượng giữa doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh mà không phản ánh được quá trình sinh ra nó. Do đó, để đánh giá chính xác và hiệu quả, người ta thường so sánh lợi nhuận với doanh thu, chi phí và nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh.

Tỷ suất lợi nhuận kinh doanh

Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu

Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mối liên hệ giữa lợi nhuận đạt được và doanh thu thu về (Học viện tài chính 2013). Tỷ suất lợi nhuận được tính theo công thức sau:

Ddt = LN/DT

Trong đó:

Ddt: tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu thu về từ hoạt động kinh doanh, được tính bằng tỷ lệ %.

LN: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh.

DT: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh, thường là doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong mỗi kỳ kinh doanh.

Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu từ hoạt động kinh doanh có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Qua chỉ tiêu này, có thể thấy xu hướng biến đổi của lợi nhuận khi doanh thu tăng lên, trên cơ sở đó có những biện pháp phù hợp để nâng cao mức doanh lợi của doanh thu nhằm làm tăng hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.

Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí kinh doanh

Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mối liên hệ giữa lợi nhuận đạt được và chi phí bỏ ra (Học viện tài chính 2013). Tỷ suất lợi nhuận được tính theo công thức sau:

Dcf = LN/CF

Trong đó: Dcf: tỷ suất lợi nhuận theo chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh, được tính bằng tỷ lệ %.

LN: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh.

CF: Chi phí cho hoạt động kinh doanh, được tính bằng tổng của các khoản chi phí như: giá mua hàng hóa, các chi phí vận chuyển, bảo hiểm, lưu kho, bảo quản, chi phí trả lương nhân viên, các khoản thuế phải nộp, các tổn thất khác trong kỳ liên quan hoạt động kinh doanh.

Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Cũng như tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu, chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí càng cao thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.

1.1.3.2 Các chỉ tiêu bộ phận Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn

Hiệu quả sử dụng vốn lưu động

Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một chỉ tiêu bộ phận, phản ánh khả năng sinh lời của một đồng vốn (Học viện tài chính 2013).

Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được tính theo công thức:

Hvld = LN / VLĐ

Trong đó:

Hvld: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động.

LN: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh.

VLĐ: vốn lưu động, được tính bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…Vốn lưu động là các khoản vốn lưu động được sử dụng cho hoạt động kinh doanh như: các khoản tiền mặt dùng cho nhập hàng, các khoản vay, các khoản tạm ứng, các chi phí trả trước… cho hoạt động kinh doanh.

Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này phản ánh, một đồng vốn lưu động đầu tư cho hoạt động kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ khả năng sử dụng vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng hiệu quả.

Số vòng quay của vốn lưu động

Số vòng quay của vốn lưu động là một chỉ tiêu bộ phận, phản ánh khả năng quay vòng của vốn lưu động (Học viện tài chính 2013). Số vòng quay của vốn lưu động được tính theo công thức:

Svq = DT / VLĐ

Trong đó:

Svq: số vòng quay vốn lưu động trong một kỳ kinh doanh, được tính bằng đơn vị vòng quay.

DT: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh, thường là doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong mỗi kỳ kinh doanh.

Vốn lưu động là các khoản vốn lưu động được sử dụng cho hoạt động kinh doanh như: các khoản tiền mặt dùng cho nhập hàng, các khoản vay, các khoản tạm ứng, các chi phí trả trước… cho hoạt động kinh doanh.

Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng trong một kỳ kinh doanh. Số vòng quay vốn lưu động càng lớn thể hiện doanh nghiệp sử dụng càng hiệu quả vốn lưu động và ngược lại. Bên cạnh đó, có thể sử dụng một chỉ tiêu phụ để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, đó là chỉ tiêu thời gian một vòng quay vốn. Đây là chỉ tiêu ngược với chỉ tiêu số vòng quay của vốn lưu động.

Chỉ tiêu thời gian một vòng quay vốn: (Coi kỳ kinh doanh 1 năm có 360 ngày). T1vq = 360/Svq

Trong đó:

T1vq: thời gian vốn lưu động quay được một vòng, thường được tính bằng số ngày.

Svq: số vòng quay vốn lưu động trong một kỳ kinh doanh, được tính bằng đơn vị vòng quay. Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này phản ánh lượng thời gian cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì số vòng quay của vốn lưu động trong một kỳ kinh doanh càng nhiều, hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.

Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động

Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động là một chỉ tiêu bộ phận, phản ánh mối liên hệ giữa doanh thu thu được và vốn lưu động bỏ ra cho hoạt động kinh doanh. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động được tính theo công thức sau:

Hđn = VLĐ/DT

Trong đó:

Hđn: hệ số đảm nhiệm vốn lưu động.

DT: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh, thường là doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong mỗi kỳ kinh doanh.

Vốn lưu động là các khoản vốn được sử dụng cho hoạt động kinh doanh như: các khoản tiền mặt dùng cho nhập hàng, các khoản vay, các khoản tạm ứng, các chi phí trả trước… cho hoạt động.

Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này cho biết để thu được một đồng doanh thu cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng thấp có nghĩa là để thu được một đồng doanh thu càng phải sử dụng ít vốn lưu động, điều đó phản ánh hiệu quả kinh doanh cao và ngược lại.

Thời hạn thu hồi vốn kinh doanh

Thời hạn thu hồi vốn kinh doanh là một chỉ tiêu hiệu quả bộ phận, phản ánh khoảng thời gian mà vốn đầu tư dần được thu hồi sau mỗi kỳ kinh doanh. Thời hạn thu hồi vốn kinh doanh được tính như sau:

Tvkd = VKD/LN

Trong đó:

Tvnk: thời hạn thu hồi vốn kinh doanh, được tính bằng số kỳ kinh doanh.

VKD: Vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động. Vốn kinh doanh cũng được tính bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…

LN: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh.

Về ý nghĩa, chỉ số này phản ánh để thu hồi vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh cần bao nhiêu kỳ kinh doanh. Chỉ tiêu này càng nhỏ có nghĩa là số vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh sau ít kỳ kinh doanh có thể thu hồi lại. Điều đó càng thể hiện việc sử dụng vốn kinh doanh đạt hiệu quả khá tốt.

Hiệu quả sử dụng lao động kinh doanh

Năng suất lao động

Năng suất lao động là chỉ tiêu bộ phận phản ánh kết quả làm việc của người lao động (Học viện tài chính 2013).

Năng suất lao động được tính theo công thức sau:

Wlđ = DT/SLĐ

Trong đó:

Wlđ: năng suất lao động trong mảng kinh doanh, được tính bằng các đơn vị như: triệu đồng/ người, tỷ đồng/ người, triệu USD/người…

DT: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh, thường là doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong mỗi kỳ kinh doanh.

SLĐ: số lao động tham gia hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp. Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này cho biết năng suất lao động bình quân của một lao động trong công ty. Nói cách khác, nó phản ánh một lao động mang lại bao nhiêu đồng doanh thu cho hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng thể hiện chất lượng nguồn nhân lực của công ty. Điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp đang sử dụng một nguồn nhân lực hiệu quả.

Lợi nhuận trung bình được tạo ra bởi một người lao động

Lợi nhuận trung bình được tạo ra bởi một người lao động là một chỉ tiêu bộ phận phản ánh khả năng mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp của một người lao động.

Lợi nhuận trung bình được tạo ra bởi một người lao động được tính theo công thức sau:

Hld = LN/SLĐ

Trong đó:

Hld: Lợi nhuận trung bình được tạo ra bởi một người lao động, được tính bằng các đơn vị như: triệu đồng/ người, tỷ đồng/ người, triệu USD/người…

LN: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh.

SLĐ: số lao động tham gia hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp.

Về mặt ý nghĩa, cũng như chỉ tiêu năng suất lao động, chỉ tiêu này phản ánh năng lực, trình độ nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Nó thể hiện một lao động trong doanh nghiệp có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho công ty. Chỉ tiêu này càng lớn càng thể hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh cao.

1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh xăng dầu

1.2.1 Nhân tố thuộc môi trường vĩ mô: Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

1.2.1.1 Nhân tố về kinh tế:

Các nhân tố kinh tế là các nhân tố quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế bao gồm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, tỷ giá hối đoái, mức thu nhập cá nhân,… Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nhanh sẽ làm phát sinh các nhu cầu mới cho sự phát triển của nền kinh tế, tạo thêm nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp vì nó ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi, đến vốn đầu tư. Khi một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong điều kiện tăng trưởng kinh tế cao, mức lạm phát được kiềm chế, lãi suất và tỷ giá hối đoái ổn định,… thì hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ cao. Nếu như lãi suất và tỷ giá không ổn định, tỷ lệ thất nghiệp cao,.. thì doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình kinh doanh, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế.

1.2.1.2 Nhân tố về chính trị và luật pháp:

Sự ổn định về thể chế chính trị, sự nhất quán về quan điểm chính sách, hệ thống luật pháp ổn định, hoàn thiện sẽ là điều kiện, là cơ sở để kinh doanh ổn định, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Sự ổn định về chính trị sẽ khuyến khích đầu tư, bao gồm đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.

Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thông qua các chính sách vĩ mô, các văn bản pháp lý. Nhà nước thường sử dụng các công cụ về Thuế, chính sách tài trợ, quy định pháp luật… Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nước, là nguồn thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nước. Các doanh nghiệp có nghĩa vụ phải nộp thuế, bao gồm thuế doanh thu, thuế lợi tức,… Chính vì vậy thuế suất cao hay thấp và sự thay đổi của biểu thuế suất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Khi muốn khuyến khích phát triển một ngành kinh tế nào đó, Nhà nước sẽ có những chính sách thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành đó phát triển. Do vậy, nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ở những ngành nghề được Nhà nước khuyến khích sẽ gặp nhiều thuận lợi.

1.2.1.3 Nhân tố về văn hóa – xã hội: Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Do các phong tục tập quán, thái độ tiêu dùng của khách hàng tại các vùng địa lý khác nhau sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nắm bắt được các yếu tố này doanh nghiệp mới có thể điều chỉnh hoạt động nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá. Doanh nghiệp cũng phải quan tâm tới cơ cấu dân số, tỷ lệ kết hôn, trình độ văn hoá,… Một xã hội ổn định, tỷ lệ tội phạm thấp là một môi trường kinh doanh an toàn, các doanh nghiệp có thể yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế.

1.2.1.4 Nhân tố về điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý:

Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý: Các yếu tố điều kiện tự nhiên như khí hậu ,thời tiết ảnh hưởng đến chu kỳ sản xuất kinh doanh trong khu vực gây ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, hoặc ảnh hưởng đến hoạt động dự trữ , bảo quản hàng hoá nhất là đối với mặt hàng nhạy cảm như xăng dầu. Ngoài ra vấn đề về vị trí địa lí cũng là một yếu tố then chốt trong kinh doanh được nhắc đến rỏ ràng nhất trong bài là những sa sút trong việc Tổng công ty Petec bàn giao lại kho Cát Lái cho bộ tư lệnh hải quân.

1.2.1.5 Nhân tố về kỹ thuật công nghệ:

Quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp chịu sự tác động của những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều kiện hiện nay, trình độ công nghệ giữa các nước trong khu vực và trên thế giới có sự chênh lệch rõ rệt, làn sóng chuyển giao công nghệ giữa các nước ngày càng gia tăng, khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nâng cao trình độ của mình, đồng thời cũng đặt doanh nghiệp vào tình trạng cạnh tranh gay gắt. Nhờ những thành tựu của khoa học kỹ thuật, việc sản xuất hàng hoá dịch vụ của các doanh nghiệp đạt được năng xuất và chất lượng cao, đảm bảo đáp ứng được mọi yêu cầu. Do vậy, doanh nghiệp luôn phải quan tâm tới chính sách khoa học và công nghệ, phải đầu tư vốn cho khoa học và công nghệ, cho nghiên cứu và phát triển, cho chuyển giao công nghệ mới… Hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng đổi mới máy móc, thiết bị và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh.

1.2.2 Nhân tố thuộc môi trường kinh doanh: Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

1.2.2.1 Khách hàng:

Khách hàng là người tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tiêu thụ được sản phẩm, hàng hoá doanh nghiệp sẽ đạt được doanh thu bán hàng. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm là nguồn quan trọng để doanh nghiệp trang trải những chi phí sản xuất đã bỏ ra. Do vậy, khách hàng là đối tượng ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh.

Việc quyết định giá bán sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tiêu thụ sản phẩm. Giá bán mà doanh nghiệp xác định phải phù hợp với chất lượng sản phẩm, phù hợp với mặt bằng giá trên thị trường và được khách hàng chấp nhận. Giá bán cao chưa chắc đã là giá tốt nhất, phải xác định giá bán sao cho lợi nhuận là lớn nhất mới là giá bán tối ưu. Xác định được giá bán tối ưu là một quá trình phức tạp và có ảnh hưởng lớn hơn hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Việc tăng giảm lợi nhuận của một doanh nghiệp chịu sự tác động của khách hàng. Khách hàng tiêu thụ nhiều sản phẩm của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, khách hàng mua sản phẩm của một ngành nào đó thì họ có thể làm giảm lợi nhuận của ngành đó bằng cách yêu cầu chất lượng sản phẩm cao hơn hoặc yêu cầu dịch vụ nhiều hơn, khách hàng rất có khả năng gây sức ép đối với doanh nghiệp, nhất là khi họ có đầy đủ thông tin về nhu cầu, giá cả hàng hoá trên thị trường và quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp luôn cố gắng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng và hạn chế tối đa khả năng gây sức ép của khách hàng. Có như vậy doanh nghiệp mới tăng được lợi nhuận, đạt hiệu quả kinh tế cao.

1.2.2.2 Nhà cung cấp: Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Doanh nghiệp sản xuất chỉ có thể hoạt động được khi được cung cấp vật tư. Cung cấp vật tư cho doanh nghiệp là cung cấp tài chính, cung cấp các loại nguyên nhiên vật liệu, cung cấp lao động, máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghệ thương mại chỉ hoạt động được khi được cung cấp hàng hoá và các phương tiện phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Như vậy, nhà cung cấp có vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra thường xuyên, liên tục, yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp này phải được cung cấp đầy đủ về số lượng, chủng loại và chất lượng vật tư theo đúng tiến độ. Nếu vì lý do nào đó khiến cho doanh nghiệp không được cung cấp đầy đủ vật tư sẽ làm cho doanh nghiệp thiệt hại về chi phí do bị phạt hợp đồng khi không hoàn thành đúng tiến độ sản xuất. Do vậy, các doanh nghiệp luôn xây dựng mối quan hệ lâu dài, tốt đẹp với các nhà cung cấp vật tư để tránh tình trạng gây áp lực.

Giá cả vật tư có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh khi giá cả vật tư quá cao. Giá thành sản xuất tăng lên trong khi doanh nghiệp ít có khả năng nâng giá bán sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhà cung cấp vật tư có thể nâng giá khi độc quyền cung cấp vật tư hoặc khi doanh nghiệp không có nguồn cung cấp nào khác, không có sản phẩm thay thế. Các nhà cung cấp yếu tố sản xuất có thể chia sẻ lợi nhuận của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp đó không có khả năng trang trải các chi phí tăng thêm trong đầu vào được cung cấp.

1.2.2.3 Môi trường cạnh tranh:

Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay gắt trên mọi phương diện, đó là sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành, của các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài. Trong cùng một ngành kinh doanh, cường độ cạnh tranh tăng lên khi một hoặc nhiều hãng thấy có cơ hội để củng cố vị trí trên thị trường hoặc nhận thấy áp lực cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp khác. Cường độ cạnh tranh được biểu hiện dưới dạng chính sách hạ giá sản phẩm, chiến dịch quảng cáo, tăng cường các dịch vụ khách hàng và bảo hành sản phẩm … Số lượng các doanh nghiệp đang cạnh tranh trong ngành là vấn đề mà các doanh nghiệp luôn quan tâm. Các ngành mà có một hoặc một vài doanh nghiệp thống lĩnh thì cường độ cạnh tranh ít hơn. Nếu ngành chỉ bao gồm một số doanh nghiệp nhưng lại có qui mô và thế lực ngang nhau thì cường độ cạnh tranh sẽ cao để giành vị trí thống lĩnh. Cường độ cạnh tranh cũng trở nên căng thẳng trong các ngành có một số lượng lớn doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài rất khác nhau về nguồn gốc, phong cách kinh doanh. Do vậy, các ngành kinh doanh có đối thủ cạnh tranh nước ngoài thường phải đối đầu với sự cạnh tranh đặc biệt.

Sự cạnh tranh sẽ làm hạn chế hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian ngắn. Trong thời kỳ cạnh tranh mạnh mẽ, doanh nghiệp thường phải tăng chi phí do giảm giá sản phẩm hay đầu tư cho quảng cáo… Nhiều doanh nghiệp chấp nhận lỗ trong thời kỳ này để giành thắng lợi. Giai đoạn này dài hay ngắn phụ thuộc vào cường độ cạnh tranh trong ngành cao hay thấp. Trong giai đoạn này, doanh nghiệp nào có đủ năng lực, đủ sức đứng vững thì sẽ giành thắng lợi, hiệu quả kinh tế sẽ tăng dần lên theo thời gian hoạt động kinh doanh trên thị trường.

Việt Nam hiện nay, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, theo đúng khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên, ở một số ngành, tình trạng độc quyền vẫn tồn tại hoặc mức cạnh tranh mới ở thời kỳ sơ khai.

1.2.3 Nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp: Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

1.2.3.1 Trình độ tổ chức quản lý và trình độ lao động:

Lực lượng lao động là những người trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, và các hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Do đó, yếu tố con người luôn phải đặt lên hàng đầu. Con người là trung tâm của mọi sự phát triển, là tác giả của mọi thành quả, trong đó có việc nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh.

Ban giám đốc là cán bộ quản lý cao cấp nhất trong doanh nghiệp. Vai trò của người lãnh đạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh là rất quan trọng, thể hiện sự kết hợp một cách tối ưu và hài hoà các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, do đó sẽ tạo được kết quả kinh doanh cao, giảm được các chi phí không cần thiết. Vai trò của người lãnh đạo quản lý còn thể hiện ở việc quyết định chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp và tổ chức thực hiện chúng. Có thể nói, mọi sự thành bại của doanh nghiệp đều do người lãnh đạo tạo ra.

Với vai trò quan trọng như vậy nên khả năng, trình độ hiểu biết của các thành viên trong Ban giám đốc có ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một ban giám đốc có trình độ và kinh nghiệm sẽ tổ chức quản lý doanh nghiệp một cách khoa học, hiệu quả. Sự năng động, sáng tạo của cán bộ quản lý cấp cao sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt, tận dụng cơ hội kinh doanh trên thị trường. Người quản lý giỏi là người biết chớp thời cơ và quyết đoán trong mọi trường hợp. Ban giám đốc đầy đủ phẩm chất như vậy sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Ngược lại, một Ban giám đốc không đủ năng lực và nhất là không có đạo đức sẽ không đủ khả năng lãnh đạo doanh nghiệp, thậm chí đẩy doanh nghiệp tới chỗ phá sản, giải thể. Đồng thời đội ngũ cán bộ các phòng ban chuyên môn làm công tác kinh doanh là những nhân tố quan trọng vì chiến lược kinh doanh của cấp quản lý có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào trình độ đội ngũ cán bộ cấp dưới nhất là đội ngũ cán bộ chuyên môn. Vì vậy đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi và dày dặn kinh nghiệm sẽ giúp ích cho doanh nghiệp rất nhiều trong quá trình hoạt động.

1.2.3.2 Nguồn lực vật chất, kỹ thuật và khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học:

Trong mọi nền sản xuất hàng hóa, để tiến hành sản xuất sản phẩm, bao giờ cũng cần phải có các yếu tố: sức lao động, tư liệu sản xuất và vốn. Tài sản cố định là những tư liệu lao động được tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc, các chi phí mua bằng sáng chế, chi phí cải tạo đất… Một doanh nghiệp có máy móc thiết bị đạt trình độ kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại theo kịp sự phát triển của khoa học kỹ thuật sẽ là cơ sở đảm bảo cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.

Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, việc đổi mới tài sản cố định trong các doanh nghiệp trở thành vấn đề sống còn. Các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau đang phải thử thách, đọ sức trên thị trường hàng hoá trong nước và hàng hoá nhập ngoại. Trong cuộc cạnh tranh đó, tất yếu sẽ không thể có chỗ đứng cho những doanh nghiệp mà hàng hóa của họ kém phẩm chất, không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, giá bán cao một cách không phù hợp. Vì thế, một trong những lối thoát có tính then chốt của các doanh nghiệp này là phải đổi mới máy móc, thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ. Đổi mới tài sản cố định là cách duy nhất để có được năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, giá cả hạ từ đó có đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đổi mới tài sản cố định còn là một nhân tố quan trọng để hạ thấp chi phí sản xuất như: hạ thấp hao phí năng lượng, giảm chi phí sửa chữa, tăng năng suất lao động, giảm chi phí tiền lương… Trong kinh doanh, việc tăng cường đổi mới trang thiết bị được coi là một lợi thế để chiếm lĩnh không chỉ thị trường hàng hoá mà cả thị trường. Những ý nghĩa nêu trên đã khẳng định được tầm quan trọng của việc đổi mới trang thiết bị là một đòi hỏi tất yếu khách quan mang tính quy luật trong nền sản xuất kinh doanh hàng hoá và trong điều kiện tiến bộ về khoa học kỹ thuật.

Nguồn lực vật chất của doanh nghiệp còn bao gồm khả năng về tài chính. Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động thường xuyên luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu của quá trình tái sản xuất. Vốn lưu động của doanh nghiệp dựa theo nguồn hình thành có thể chia ra các loại vốn sau: nguồn vốn lưu động thông qua phát hành cổ phiếu, nguồn vốn đi vay. Việc chia vốn lưu động của doanh nghiệp ra thành các loại vốn nói trên nhằm tạo khả năng để doanh nghiệp xem xét và quyết định huy động tối ưu các nguồn vốn để đảm bảo cho nhu cầu vốn lưu động thường xuyên ổn định và cần thiết tương ứng với qui mô kinh doanh nhất định. Thực tế cho thấy những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ, “trường vốn” là những doanh nghiệp luôn chủ động trong kinh doanh, có khả năng giành thắng lợi trong cạnh tranh. Doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hay không phụ thuộc vào khả năng tài chính, tự bổ xung và huy động vốn của doanh nghiệp.

1.2.3.3 Trình độ quản lý và tổ chức tiêu thụ hàng hoá: Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Trong hoạt động kinh doanh, dự trữ là khâu cần thiết khách quan để đảm bảo cho hàng hoá được bán ra thường xuyên, liên tục, giúp doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh, quá trình kinh doanh không bị đứt đoạn, không bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Song dự trữ có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí, do đó nó ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là phải xác định được mức dự trữ sản phẩm, hàng hoá tối ưu. Cần phải dự trữ ở mức hợp lý để đẩy mạnh tiêu thụ, đảm bảo cung cấp hàng hoá kịp thời khi có nhu cầu đồng thời tiết kiệm chi phí, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngược lại, dự trữ không hợp lý sẽ dẫn đến lãng phí vốn kinh doanh. Nếu lượng dự trữ quá lớn sẽ gây tồn đọng vốn, tăng chi phí và làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu dự trữ thiếu sẽ không đảm bảo lượng hàng hoá bán ra, bỏ lỡ cơ hội thu lợi nhuận và làm đứt đoạn quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.

Mức dự trữ hợp lý là luôn đảm bảo đủ hàng bán ra, kịp cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu chủng loại mặt hàng. Đồng thời không để tình trạng ứ đọng hàng, chậm luân chuyển, ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển vốn, làm tăng chi phí lưu thông và giảm hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Yêu cầu đặt ra đối với việc dự trữ hàng hoá là phải đảm bảo toàn vẹn giá trị sử dụng của hàng hoá, không để giảm chất lượng hàng hoá. Nếu yêu cầu này không được thực hiện tốt sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng hàng hoá bán ra, làm giảm uy tín của doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng tìm cách tối thiểu hoá chi phí hao hụt bảo quản để tránh tăng chi phí lưu thông.

Thực tế kinh doanh trên thị trường, giá cả không ổn định, các doanh nghiệp phải dự đoán được hướng tăng giảm của nhu cầu thị trường, đồng thời tiên lượng sự biến động giá cả trong thời gian tới đối với từng loại mặt hàng để có kế hoạch dự trữ phù hợp, đúng thời cơ. Có thể nói rằng đây là một nghệ thuật kinh doanh. Nếu dự đoán đúng thời cơ thì hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp sẽ cao và ngược lại. Trong thực tiễn nền kinh tế thị trường hiện nay hầu hết các doanh nghiệp chỉ dự trữ vừa phải để đảm bảo hàng hoá bán ra rồi lại quay vòng vốn, tiết kiệm thời gian và giảm chi phí.

1.2.3.4 Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin:

Một doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường cần phải nắm thật rõ ràng và chính xác về thị trường mình đang kinh doanh, mặt hàng mà doanh nghiệp đang sản xuất và tiêu thụ, vấn đề chính sách của Nhà nước… Muốn vậy, doanh nghiệp cần phải có một hệ thống cung cấp và xử lý thông tin thật tốt. Có như vậy, hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới dần cải thiện và ngày một tăng lên.

Thật vậy, trong một doanh nghiệp, hệ thống trao đổi và xử lý thông tin cần được đảm bảo thông suốt, nhanh chóng và đáng tin cậy. Một nhà quản trị của doanh nghiệp cần phải trao đổi thông tin với nhiều đối tượng khác nhau. Nếu quá trình này không được thực hiện có hiệu quả thì doanh nghiệp khó có thể hoàn thành được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Thông thường nhà quản trị nhận thông tin từ cấp trên, đồng nghiệp và cấp dưới. Ngược lại nhà quản trị phải thông báo cho họ biết những kế hoạch, dự kiến sẽ thực hiện trong tương lai. Hệ thông hoạt động tốt sẽ giúp cả hai bên nắm được đầy đủ thông tin về thông tin cần phải làm, dẫn đến hiệu quả công việc cao, năng suất làm việc tốt… Nếu không nắm vững thông tin sẽ bị tuột ra khỏi vòng quay của quá trình sản xuất kinh doanh và kết quả tất yếu là làm giảm hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.

Trong suốt quá trình kinh doanh, việc thu thập và xử lý thông tin nhanh chóng và chính xác sẽ có ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả kinh doanh. Bởi mỗi một doanh nghiệp là một guồng máy, nếu được những thông tin tổng hợp kịp thời sẽ làm cho việc điều hành hoạt động của doanh nghiệp được trôi chảy, khả năng cung ứng cũng như bán hàng được nâng cao, góp phần vào việc tăng doanh số, nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.

Cơ chế thị trường có những khó khăn riêng, nếu doanh nghiệp nắm bắt và vận dụng thích hợp sự vận động của hàng hoá mình kinh doanh, nắm chắc những thông tin về nhu cầu của thị trường để tiêu thụ hàng hoá một cách linh hoạt, chủ động. Đồng thời, kết hợp tốt các mối quan hệ với sản xuất, tài chính ngân hàng, giá cả thị trường… thì doanh nghiệp có thể tránh được những rủi ro trong kinh doanh, qua đó phấn đấu đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.

1.3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại TCT Petec

1.3.1 Đặc trưng của mặt hàng xăng dầu Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Xăng dầu có các đặc điểm sau:

Thứ nhất, Xăng dầu là một loại chất lỏng dễ bay hơi nên không bảo quản được lâu và là nhiên liệu đốt nên dễ gây cháy nổ, có độ rủi ro cao trong quá trình vận chuyển, lưu kho và sử dụng. Do tính chất vật lý đặc biệt của xăng dầu, việc bảo quản, vận chuyển, mua bán theo những điều kiện nhất định với những tiêu chuẩn chặt chẽ nên việc kinh doanh xăng dầu cũng phải tuân thủ những điều kiện nhất định. Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phải có những ràng buộc về năng lực, quy mô và trình độ tối thiểu bắt buộc.

Thứ hai, Xăng dầu là mặt hàng chiến lược, có vai trò chi phối đến tất cả các ngành trong nền kinh tế và đời sống xã hội dân cư. Bên cạnh là nguồn nhiên liệu dùng cho tiêu dùng của dân cư, xăng dầu còn là nguồn nguyên liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp khác như: ngành dệt may, sản xuất phân đạm, chất nổ, chất dẻo, nhiên liệu cho các ngành khác như: dầu nhờn, nhựa đường, chất tổng hợp… Nhu cầu tiêu dùng xăng dầu cho sản xuất và đời sống ngày càng lớn và liên tục tăng.

Thứ ba, Xăng dầu là hàng hóa có vai trò quan trọng. Xăng dầu là loại năng lượng chưa thể thay thế được. Xăng dầu còn là hàng hóa đặc biệt bởi vì xăng dầu cũng là năng lượng phục vụ dân sinh, quốc phòng và an ninh. Vì vậy, xăng dầu là hàng hóa hình thành và phát triển như thị trường các hàng hóa khác, các quan hệ cung – cầu và giá cả là yếu tố quyết định thị trường xăng dầu. Mặt khác, vì là hàng hóa đặc biệt nên các quốc gia đều có chính sách, quy hoạch, chiến lược về sản xuất, tiêu thụ và dự trữ xăng dầu cho nước mình nhằm ổn định sản xuất và tiêu thụ, chống lại các cơn sốt xăng dầu của thế giới.

Thứ tư, đây là mặt hàng có độ nhạy cảm rất cao, mọi sự thay đổi giá sẽ có tác động trực tiếp tới hoạt động của đất nước trên tất cả các mặt: chính trị, quân sự, sản xuất, đời sống xã hội. Sự gia tăng về giá xăng dầu tạo áp lực gây ra lạm phát. Do xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu như tất cả các nghành kinh tế khác nên giá đầu vào tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi sẽ kéo theo đầu ra sản phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hưởng đến sức mua của xã hội và gây ra áp lực lạm phát.

Thứ năm, xăng dầu là mặt hàng vừa nhập khẩu, vừa mua từ trong nước, nhưng giá cả lại phụ thuộc lớn vào sự tăng, giảm giá trên thế giới. Một sự gia tăng mạnh giá xăng dầu có thể tạo ra gánh nặng đối với nền kinh tế.

Thứ sáu, đây là mặt hàng thường xuyên biến động do rất nhiều yếu tố trong đó phải kể đến chính sách về giá dầu của OPEC. Các quyết định cũng như chính sách của OPEC nhằm đem lại lợi ích cho quốc gia thành viên, song lại ảnh hưởng rất lớn và làm biến động nền kinh tế toàn cầu thông qua sự điều chỉnh về giá cũng như lượng cung dầu.

1.3.2 Lợi ích của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại TCT Petec Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Nhu cầu xăng dầu trong nước của Việt Nam ngày càng tăng cùng với quá trình phát triển kinh tế. Nhu cầu tiêu dùng xăng dầu hiện tại của nước ta năm 2015 vào khoảng 21,94 triệu tấn. Theo dự báo của Bộ Công Thương, nhu cầu xăng dầu đến năm 2020 của Việt Nam vào khoảng 35 – 36,2 triệu tấn/năm. Trong khi đó, năng lực chế biến các sản phẩm xăng dầu của Việt Nam còn hạn chế. Dù Nhà máy Lọc Dầu Dung Quất đã đi vào hoạt động từ tháng 6/2010, nhưng Nhà máy hay gặp sự cố, và có giai đoạn tạm dừng hoạt động để bảo trì kéo dài hơn 2 tháng. Hơn nữa, Nhà máy chỉ có khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường khoảng 60%.

Trong những năm qua Tổng công ty Petec luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao: đảm bảo đúng, đủ số lượng, chủng loại và chất lượng xăng dầu, góp phần quan trọng bình ổn giá cả thị trường theo quy định của Chính phủ.

Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh xăng dầu có hiệu quả sẽ mang lại rất nhiều lợi ích không chỉ cho Tổng công ty Petec, mà còn góp phần to lớn vào sự phát triển của xã hội:

Thứ nhất, kinh doanh xăng dầu là cơ sở đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Kinh doanh xăng dầu đúng thời điểm sẽ đem lại nguồn cung ổn định cho thị trường, nhất là những lúc Nhà máy Lọc dầu Dung Quất ngưng hoạt động. Đồng thời, nó cũng tạo động lực buộc nhà sản xuất trong nước không ngừng cải tiến công nghệ nhằm nâng cao chất lượng của các mặt hàng xăng dầu.

Thứ hai, kinh doanh xăng dầu hiệu quả sẽ mang lại một nguồn lợi nhuận đáng kể cho Tổng công ty. Hơn thế nữa, kinh doanh xăng dầu luôn đóng góp một nguồn thu ổn định và lớn cho ngân sách Nhà nước thông qua hoạt động nộp thuế.

Thứ ba, kinh doanh góp phần tạo việc làm và nâng cao mức sống của người lao động. Kinh doanh xăng dầu cũng vậy, quá trình kinh doanh xăng dầu cũng qua nhiều khâu, vì thế có thể tạo điều kiện cho nhiều người tham gia, tạo công ăn việc làm cho nhiều người.

Trên thực tế, hoạt động kinh doanh xăng dầu tại Tổng công ty Petec còn bị hạn chế và gặp nhiều khó khăn bởi những nguyên nhân khách quan như giá dầu biến động và những diễn biến phức tạp của thị trường xăng dầu thế giới những năm gần đây tác động tới nền kinh tế toàn cầu, khu vực và từng quốc gia. Bên cạnh đó, Chính phủ liên tục điều chỉnh giá của các sản phẩm xăng dầu theo diễn biến giá cả xăng dầu trên thị trường thế giới. Hơn thế, các chính sách thương mại quốc tế trong nước, cơ chế hành chính, thủ tục hải quan còn chưa thông thoáng, còn nhiều khâu, yêu cầu nhiều giấy phép và xuất trình nhiều giấy tờ qua nhiều Bộ ngành gây khó khăn cho công ty tham gia hoạt động kinh doanh xăng dầu.

Nguyên nhân chủ quan là do tiềm lực của công ty còn nhiều hạn chế. Về vốn, vốn tự có của công ty còn khá nhỏ, chủ yếu là vốn vay ngân hàng. Kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của nhân viên kinh doanh chưa cao, số lượng nhân viên trong phòng kinh doanh thiếu, không đủ nhân viên để đi làm thủ tục giao nhận với các kho, đặc biệt tại các kho gửi hàng.

Trong công tác nghiên cứu thị trường, công ty chưa chủ động tìm kiếm đầu mối và đa dạng hóa đối tác, vẫn phụ thuộc vào thị trường truyền thống. Ngoài ra, công ty còn thiếu những cơ sở vật chất như chưa có phương tiện vận chuyển tàu biển, phải đi thuê của các hàng tàu, nên làm tăng chi phí. Đồng thời, kho dự trữ bảo quản hàng không đủ, sức chứa kho hạn chế ảnh hưởng đến chiến lược và quá trình kinh doanh của Tổng công ty.

Chính vì những lí do trên, trong thời gian tới, vấn đề cấp thiết của Tổng công ty Petec là phải ngày càng nâng cao hiệu quả trong việc kinh doanh xăng dầu.

1.4 Kinh nghiệm từ Tập đoàn xăng dầu Việt Nam Petrolimex về việc nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

Trong lĩnh vực xăng dầu ở Việt Nam, Petrolimex luôn giữ vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa. Petrolimex cung cấp đầy đủ và kịp thời các chủng loại xăng dầu nhằm đảm bảo an ninh quốc phòng, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Hiện nay, có 42/68 đơn vị thành viên Petrolimex trực tiếp kinh doanh xăng dầu trên địa bàn 63 tỉnh, thành phố. Đối với hoạt động bán lẻ xăng dầu, trong số khoảng 13.500 cửa hàng xăng dầu thuộc tất cả các thành phần kinh tế, Petrolimex sở hữu 2.170 cửa hàng hiện diện trên khắp cả nước tạo điều kiện thuận lợi để người tiêu dùng sử dụng hàng hóa dịch vụ do Petrolimex trực tiếp cung cấp. Tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nơi hiệu quả kinh doanh thấp nhưng có ý nghĩa chính trị – xã hội cao, Petrolimex có thị phần cao hơn so với thị phần của cả nước. Tính chung trên phạm vi cả nước và căn cứ sản lượng xăng dầu thực xuất bán tại thị trường nội địa năm 2015, thị phần thực tế của Petrolimex khoảng gần 50% .

Mặc dù, trong năm 2015 giá xăng dầu đã trải qua 12 lần giảm giá, nhưng Petrolimex vẫn đạt lợi nhuận sau thuế 3.138 tỷ đồng, công ty mẹ đạt 2.142 tỷ đồng. Đây là mức lợi nhuận cao hơn tới 37 lần so với mức lợi nhuận 2014. Mức lợi nhuận cao đến từ nhiều nguyên nhân, cụ thể như:

Thứ nhất, sản lượng xuất bán xăng dầu tại thị trường trong nước tăng 8% so với cùng kỳ. Kết quả kinh doanh của một số công ty con, công ty liên kết của Tập đoàn kinh doanh trong các ngành nghề, lĩnh vực hóa dầu, nhiên liệu bay, các xí nghiệp xăng dầu cũng đạt lợi nhuận khá so với năm 2014. Ngoài ra, các khoản trích lập dự phòng do tác động của biến động xăng dầu giảm cũng góp phần làm lợi nhuận của đơn vị gia tăng.

Thứ hai, ở nước ngoài Petrolimex thành lập ba công ty con gồm: Công ty TNHH MTV Petrolimex tại Singapore, tại Lào và tại Campuchia. Petrolimex Singapore có nhiệm vụ chủ yếu là phát triển kinh doanh xăng dầu chuyển khẩu, nghiên cứu thị trường và tìm kiếm đối tác để đảm bảo nguồn cho Tổng công ty; đồng thời phát triển kinh doanh thương mại hàng hóa và dịch vụ khác xoay quanh xăng dầu. Lãnh đạo Petrolimex nhận thấy được Singapore là một trung tâm dầu khí của thế giới nên việc thành lập Công ty Petrolimex Singapore là sự phát triển theo đúng định hướng chiến lược của TCT. Lợi ích to lớn mà Petrolimex Singapore đem lại đó là: Tổng công ty không phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung trong nước. Hơn thế nữa, với nguồn hàng dồi dào và giá cả tương đối rẻ tại Singapore, Petrolimex sẽ thu được nguồn lợi lớn từ kinh doanh xăng dầu. Bên cạnh đó, việc có một trụ sở đặt tại Singapore sẽ hỗ trợ Tổng công ty trong vấn đề nghiên cứu thị trường dầu mỏ, tạo được mối quan hệ tốt với nhiều đầu mối xăng dầu trên thế giới, nắm bắt một cách nhanh chóng thông tin, giá cả dầu mỏ toàn cầu (Petrolimex, 2009).

Thứ hai, Tập đoàn Petrolimex còn thành lập các công ty vận tải đường thủy và đường bộ ở các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh nhằm hỗ trợ cho hoạt động vận tải của Tổng công ty. Lợi ích đem lại từ hệ thống vận tải này làm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu và chủ động trong việc vận chuyển xăng dầu từ nước ngoài về Việt Nam. Vì vậy, có một đội tàu vận tải xăng dầu riêng hỗ trợ không nhỏ trong việc duy trì ổn định nguồn hàng, cũng như duy trì và mở rộng mạng lưới khách hàng trong nước.

Hơn thế nữa, một lợi thế lớn mà Petrolimex có được đó chính là hệ thống kho bể với sức chứa trên 1.700.000 m3 được phân bổ dọc theo chiều dài đất nước đảm bảo dự trữ và cung ứng xăng dầu theo nhu cầu của thị trường gồm Tổng kho xăng dầu Đức Giang (Hà Nội), Tổng kho xăng dầu Thượng Lý (Hải Phòng), Tổng kho xăng dầu Nhà Bè (Hồ Chí Minh), Cụm kho xăng dầu Miền Trung (Phú Khánh – Bình Định – Đà Nẵng – Nghệ An), Miền Tây Nam Bộ (Cần Thơ), Cụm kho Xăng dầu B12 (Quảng Ninh)…Các vị trí kho xăng dầu đặt tại vị trí thuận lợi nên đã thu hút lượng khách hàng lớn tại khu vực. Đồng thời, với sức chứa khổng lồ trên giúp cho hoạt động nhập khẩu xăng dầu của Tổng công ty tiến hành trôi chảy và hiệu quả hơn rất nhiều; do khi giao dịch với nước ngoài, họ luôn ưu tiên giao dịch với các lô

lớn (khoảng trên 150.000 m3), ưu tiên cho tàu lớn vào cập cầu bốc hàng (khoảng 22.000 m3). Vì vậy, trong khi các đầu mối xăng dầu nhỏ mua từ nhà máy Lọc dầu Dung Quất với giá cao chấp nhận bán lỗ trong thời gian dài, thì Petrolimex tìm kiếm nguồn hàng từ nước ngoài với giá thấp hơn, mang lại nguồn lợi nhuận cao hơn.

Tóm lại, chương 1 đã trình bày một cách tổng quát các vấn đề liên quan đến hiệu quả kinh doanh cũng như hệ thống các chỉ tiêu đo lường, đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chương 1 đã đưa ra được các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu nhằm làm nền tảng cho chương 2 đánh giá thực trạng và cũng là cơ sở để chương 3 đưa ra các giải pháp cụ thể. Đồng thời, qua kinh nghiệm thực tế của Petrolimex cũng giúp Tổng công ty Petec có định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu trong thời gian tới. Luận văn: Nâng cao hiệu quả kinh doanh xăng dầu tại Cty Petec

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Luận văn: Thực trạng về hiệu quả KD xăng dầu tại Cty Petec

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x