Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động marketing trực tuyến tại Công ty TNHH Thiên Bảo solution dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Do quá trình mua sắm được thực hiện thông qua mạng Internet, nên mua sắm trực tuyến có rất nhiều ưu điểm so với mua sắm truyền thống. Đối với doanh nghiệp, bán hàng qua mạng được coi là một kênh phân phối hiệu quả, nó giúp doanh nghiệp giảm thiểu các chi phí cũng như xóa bỏ các rào cản về địa lý, chi phí bán hàng. Đối với người tiêu dùng, mua sắm trực tuyến đem lại cho họ rất nhiều lợi ích như: giao dịch có thể thực hiện được ở bất cứ nơi đâu, bất cứ chỗ nào, nó giúp người tiêu dùng tiết kiệm thời gian, giảm thiểu các chi phí, có nhiều sự lựa chọn về hàng hóa/dịch vụ, dễ dàng tìm kiếm thông tin về sản phẩm hơn và có thể so sánh giá cả giữa các nhà phân phối khác nhau một cách dễ dàng, nhanh chóng (Hà Ngọc Thắng, 2015). Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Trong bối cảnh thị trường thương mại điện tử Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đã mở ra rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển như gia tăng doanh thu, giảm các chi phí, tiếp cận khách hàng dễ dàng hơn, xoá bỏ rào cản địa lý,…Bên cạnh những cơ hội mà thị trường tạo ra cho doanh nghiệp, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với những thách thức như sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp lớn, tiềm lực tài chính mạnh; thiếu nguồn lực am hiểu về thương mại điện tử, hành vi mua sắm trực tuyến,… Một thách thức vô cùng quan trọng đang làm ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường thương mại điện tử nói chung và của doanh nghiệp nói riêng đó là sự không tin tưởng vào doanh nghiệp bán hàng trực tuyến, vào thương mại điện tử của khách hàng (Bộ Công Thương, 2015).
Ngoài khó khăn do môi trường bên ngoài tạo ra, trong chính nội bộ công ty cũng có những vấn đề đang tồn tại ở hoạt động marketing trực tuyến như website chưa cập nhật đầy đủ các thông tin sản phẩm (đánh giá sản phẩm, hướng dẫn sử dụng…), trang cộng đồng trên facebook không thường xuyên được quan tâm nên số lượng bài viết trên trang cộng đồng rất ít không hút được nhiều người đọc, email marketing chưa được sử dụng đầy đủ, các hoạt động xúc tiến thực hiện chưa tốt và không mang lại hiệu quả cao.
Từ đó cho thấy việc tìm hiểu những khó khăn do môi trường bên ngoài tạo ra cho công ty trong việc kinh doanh trực tuyến, những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động marketing trực tuyến của công ty là vô cùng cần thiết. Chính vì lý do đó tác giả đã lựa chọn thực hiện đề tài với tên là “Giải pháp đẩy mạnh hoạt động marketing trực tuyến tại Công ty TNHH Thiên Bảo solution” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động marketing trực tuyến của công ty TNHH Thiên Bảo Solution nhằm tìm ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động marketing trực tuyến của công ty.
Dựa trên các hạn chế sau khi phân tích thực trạng, thực hiện đề xuất giải pháp marketing trực tuyến cho công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các hoạt động marketing trực tuyến tại Công ty TNHH Thiên Bảo Solution.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: hoạt động marketing trực tuyến của công ty trong giai đoạn từ năm 2016 – 2017.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu trong luận văn này bao gồm các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp, thống kê và so sánh các thông tin thứ cấp được sử dụng nhằm thu thập thông tin thứ cấp cần thiết có liên quan đến đề tài. Số liệu và dữ liệu bài viết từ nhiều nguồn khác nhau, gồm nguồn nội bộ của Công ty TNHH Thiên Bảo Solution, tài liệu chuyên ngành, sách báo, Internet,… để làm cơ sở lý luận và phân tích thực trạng hoạt động marketing trực tuyến của công ty.
- Nghiên cứu định tính thực hiện dưới hình thức phỏng vấn sâu với nhân viên và Giám đốc của Công ty TNHH Thiên Bảo Solution nhằm xây dựng bảng câu hỏi và là cơ sở cho thu thập dữ liệu khảo sát sau đó.
Nghiên cứu định lượng nhằm thống kê lại các ý kiến trả lời của khách hàng, làm cơ sở để phân tích thực trạng, từ đó đề suất giải pháp phù hợp cho công ty:
- Bảng câu hỏi khảo sát là công cụ chính để thu thập dữ liệu định lượng.
- Đối tượng khảo sát là khách hàng của Công ty TNHH Thiên Bảo Solution
- Phương pháp chọn mẫu là phương pháp chọn mẫu định mức theo độ tuổi dưới 25 tuổi là 20%, từ 25 tuổi – 30 tuổi là 50%, và từ 30 – 45 tuổi là 30%.
- Phầm mềm hỗ trợ xử lý dữ liệu: SPSS-20 được sử dụng nhằm hỗ trợ việc xử lý dữ liệu thu thập được từ khảo sát
- Việc khảo sát được tiến hành bằng cách gửi bảng câu hỏi trực tuyến tại trang website và fanpage của công ty.
5. Ý nghĩa của đề tài Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
- Làm rõ khái niệm marketing trực tuyến, hoạt động của maketing trực tuyến và cơ sở để thực hiện hoạt động marketing trực tuyến hiệu quả;
- Đánh giá thực trạng về hoạt động marketing trực tuyến của Công ty TNHH Thiên Bảo Solution;
- Đề xuất giải pháp marketing trực tuyến phù hợp cho hoạt động marketing trực tuyến tại công ty trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có:
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING TRỰC TUYẾN
Chương 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING TRỰC TUYẾN TẠI CÔNG TY TNHH THIÊN BẢO SOLUTION
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG MARKETING TRỰC TUYẾN TẠI CÔNG TY TNHH THIÊN BẢO SOLUTION
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING TRỰC TUYẾN
1.1. KHÁI NIỆM MARKETING TRỰC TUYẾN Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
1.1.1. Khái niệm trực tuyến (Internet)
Internet là một mạng toàn cầu của rất nhiều mạng liên kết với nhau. Internet bao gồm nhiều máy tính với dữ liệu, người sử dụng chuyền và nhận những tập tin (file) dữ liệu (Judy Struas,2010).
Như vậy trực tuyến dùng để chỉ sự kết nối một cộng đồng mở rộng của những kết nối (network), kết nối nhiều nhóm kết nối riêng tư với nhau, Kết nối là việc một nhóm hai hoặc nhiều máy vi tính liên kết với nhau thông qua dây cáp hoặc dây điện thoại.
Những cơ hội Internet mang lại cho hoạt động kinh doanh, marketing đó là: giảm chi phí sản xuất bằng cách giảm chi phí chung; tăng doanh số bán hàng; tiếp cận thị trường mới thị trường toàn cầu; phân khúc thị trường hiệu quả hơn; cung cấp thông tin chính xác hơn và cải thiện kinh nghiệm phục vụ khách hàng; cải thiện chuỗi cung ứng; cải thiện động cơ thúc đẩy nhân viên thông qua các phương pháp làm việc linh hoạt hơn; cho phép phục vụ khách hàng 24/7 (Judy Struas,2010)
Những lợi ích mà Internet mang lại cho hoạt động marketing đó là: bổ sung nhiều công cụ thu nhập dữ liệu hơn cho hệ thống thông tin marketing; tăng khả năng xác định khách hàng mục tiêu; nhiều công cụ mới cho thực hiện marketing mix; cung cấp công cụ đánh giá hoạt động marketing hiệu quả, chính xác hơn (Phạm Hồng Hoa, 2013).
1.1.2. Khái niệm Marketing Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Có rất nhiều khái niệm về marketing, mỗi khái niệm nêu lên một khía cạnh hoặc một mặt khác của marketing:
“Marketing là quá trình của việc khám phá và chuyển đổi những nhu cầu và mong muốn của khách hàng thành những đặc trưng của hàng hoá, dịch vụ; tạo ra những yêu cầu gắn liền với hàng hoá, dịch vụ và sau đó là việc mở rộng những yêu cầu này” (Theo Hansen).
“Marketing là quá trình kinh doanh liên quan tới việc tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị trường và thông qua sự dịch chuyển của quyền sở hữu nhằm tạo ra hiệu quả cho quá trình kinh doanh” (Theo Culdiff)
“Marketing tạo ra mối liên kết con người với những hoạt động liên quan đến hoạt động luân chuyển của hàng hoá, dịch vụ từ nhà sản xuất đến khách hàng” (Hiệp hội Marketing Mỹ).
“Marketing là một chức năng quản lý mang tính sáng tạo, nó khuyến khích sự trao đổi và sử dụng những đánh giá về nhu cầu khách hàng, những cuộc nghiên cứu sơ cấp để phát triển chức năng quản lý nhằm mục đích thoả mãn khách hàng. Nó kết hợp những nguồn lực sản xuất và sự phân phối hàng hoá, dịch vụ rõ ràng và toàn bộ sự nỗ lực với mong muốn bán tối đa lượng hàng sản xuất đến những khách hàng cuối cùng” (Viện nghiên cứu marketing nước Anh).
Có rất nhiều khái niệm khác nhau nhưng theo tôi, Philip Kotler đã đưa ra một khái niệm về marketing mang tính phù hợp với hiện nay, đó là Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó mà cá nhân và tập thể có được những gì họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi những sản phẩm có giá trị với những người khác.
Tóm lại, luận văn có thể tổng hợp lại một số đặc tính nổi bật của marketing trong thời điểm hiện như sau:
Thứ nhất, tạo ra những lợi ích về địa điểm, thời gian và quyền sở hữu.
Thứ hai, marketing là quá trình chuyển đổi những nhu cầu của khách hàng thành hàng hoá, dịch vụ và tạo ra những mong muốn.
Thứ ba, tạo ra những hàng hoá phù hợp với khách hàng.
Cuối cùng, marketing là một chức năng quản lý sáng tạo liên quan đến sự sản xuất của hàng hoá, dịch vụ, giá cả, sự khuyến khích và sự phân phối chúng đến khách hàng nhằm thoả mãn những nhu cầu của khách hàng.
1.1.3. Khái niệm Marketing trực tuyến Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
E-markeing là hoạt động marketing cho sản phẩm và dịch vụ thông qua Internet. Đối với doanh nghiệp, E-marketing là quá trình phát triển và quảng bá doanh nghiệp bằng việc sử dụng các phương tiện trực tuyến” (Nguyễn Văn Thoan, 2009).
Marketing trực tuyến không phải là một khái niệm Marketing mới, mà là sự ứng dụng và phát triển của khái niệm marketing trên môi trường trực tuyến. Hay nói cách khác, Marketing trực tuyến là marketing được truyền cho một công nghệ thích nghi với thời đại mới, điều này làm tăng hiệu quả và tính sáng tạo của một mô hình kinh doanh mới cho phép bổ sung giá trị đến cho khách hàng. (Phạm Hồng Hoa, 2013)
Marketing trực tuyến là hoạt động ứng dụng mạng Internet và các phương tiện điện tử (web, thư điện tử e-mail, cơ sở dữ liệu, truyền thông đa phương tiện – multimedia, thiết bị trợ giúp cá nhân kỹ thuật số – PDA…) để tiến hành các hoạt động marketing nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức và duy trì quan hệ khách hàng thông qua nâng cao hiểu biết về khách hàng (thông tin, hành vi, giá trị, mức độ trung thành…), các hoạt động xúc tiến hướng mục tiêu và các dịch vụ qua mạng hướng tới thoả mãn nhu cầu của khách hàng (Dave Chaffey, 2009).
Internet marketing là lĩnh vực tiến hành hoạt động kinh doanh gắn liền với dòng vận chuyển sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng, dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin Internet (Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ AMA).
Như vậy, Marketing trực tuyến vẫn giữ được bản chất của Marketing truyền thống là thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, tuy nhiên người tiêu dùng trong thời đại công nghệ thông tin sẽ có những đặc điểm khác với người tiêu dùng truyền thống, do đó người làm marketing cần sử dụng phương tiện mới và cách thức tác động mới để có thể sáng tạo và chuyển giao giá trị đến cho khách hàng của mình.
Marketing trực tuyến vẫn là một quá trình quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ, từ việc xác định nhu cầu, lập kế hoạch đến tiến hành và kiểm tra việc sử dụng các công cụ Marketing phù hợp để đưa sản phẩm, dịch vụ đến với khách hàng.
Phương thức tiến hành marketing trực tuyến khác với Marketing truyền thống ở chỗ Marketing truyền thống cần rất nhiều các phương tiện khác nhau như tạp chí, tờ rơi, thư từ, điện thoại, fax… khiến cho sự phối hợp giữa các bộ phận khó khăn hơn, tốn nhiều thời gian hơn, thì tất cả các hoạt động khác nhau của marketing trực tuyến có thể chỉ thực hiện trên môi trường Internet, từ nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin về sản phẩm hay dịch vụ, quảng cáo, thu thập ý kiến phản hồi từ phía người tiêu dùng. Thị trường của marketing trực tuyến và marketing truyền thống cũng khác nhau, thị trường của marketing trực tuyến rộng hơn so với thị trường marketing truyền thống nhờ Internet mang bản chất toàn cầu.
1.2. Đặc điểm của marketing trực tuyến Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Thứ nhất, marketing trực tuyến không giới hạn về không gian. Trong môi trường Internet, mọi khó khăn về địa lý đã được xóa bỏ hoàn toàn. Do đó, doanh nghiệp có thể quảng bá thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ của mình đến tất cả các khách hàng ở mọi nên trên Thế giới miễn là có Internet với chi phí thấp hơn so với các phương pháp tiếp cận truyền thống.
Thứ hai, marketing trực tuyến không giới hạn về thời gian, E-marketing có khả năng hoạt động liên tục tại mọi thời điểm, khai thác triệt để thời gian 24 giờ trong một ngày, 7 ngày trong một tuần, 365 ngày trong một năm, hoàn toàn không có khái niệm thời gian chết. Do đó, doanh nghiệp có thể thực hiện việc quảng bá thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ của mình vào bất cứ thời gian nào trong ngày không giới hạn thời gian đó có phải là thời gian làm việc hay không.
Thứ ba, marketing trực tuyến có tính tương tác cao. Tính tương tác của mạng Internet được thể hiện rất cao. Bởi vì thông qua internet nhà cung cấp và khách hàng trao đổi thông tin kịp thời và nhanh chóng. Từ đó, nó giúp cho các nhà cung cấp điều chỉnh kịp thời các chính sách và đặc tính sản phẩm của công ty để phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Mặt khác, nhờ có tính tương tác khách hàng của công ty có thể tiếp xúc với các khách hàng khác. Do đó, sự khác nhau về lượng và dạng thông tin của nhân viên marketing và của khách hàng ngày càng không rõ rệt như trước đây. Thông qua việc cung cấp những thông tin, ý tưởng và tình huống tương tác mà nhân viên marketing có thể khiến cho từng cá nhân khách hàng quan tâm hơn đến các sản phẩm của mình.
Thứ tư, thông qua hoạt động Marketing trực tuyến, các nhà cung cấp có thể lựa chọ khách hàng mục tiêu và tiềm năng mà mình muốn hướng tới. Đồng thời, thông qua công cụ này, họ cũng biết được nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của từng đối tượng khách hàng để họ có chiến lược tiếp cận phù hợp.
Thứ năm, marketing trực tuyến giúp người tiêu dùng ngày càng có thêm nhiều lựa chọn với sản phẩm. Trước đây, khi người tiêu dùng muốn mua một món hàng nào đó họ phải đến nên bán sản phẩm đó để mua nhưng từ khi có Internet thì việc mua sắm đã trở nên dễ dàng hơn. Họ chỉ cần ở nhà, ngồi trước máy vi tính có kết nối Internet là có thể thực hiện việc mua sắm như tại các cửa hàng thật. Do đó, người tiêu dùng ít tốn thời gian và chi phí đi mua hàng. Ngoài ra, họ cũng có thể xem nhiều cửa hàng ảo trên mạng để lựa chọn những sản phẩm mà mình ưu thích. Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Thứ sáu, marketing trực tuyến có thể lưu trữ dữ liệu chứa hồ sơ cá nhân của từng khách hàng và quá trình mua sắm trong quá khứ. Từ cơ sở dữ liệu này, công ty có thể thực hiện các marketing chào hàng. Ngoài ra, công nghệ phần mềm còn cho phép công ty ngay lập tức định dạng người truy cập vào một website. Việc sử dụng bộ nhớ để lưu trữ dữ liệu là một lợi thế lớn khi công ty sử dụng nó để nghiên cứu kỹ từng khách hàng khi họ truy cập vào website của công ty.
Thứ bảy, marketing trực tuyến thực hiện thông qua cổng kết nối và khả năng truy cập. Cổng kết nối là một website đa dịch vụ có chức năng phục vụ như một cổng kết cho các website khác. Còn khả năng truy cập là khả năng lấy được thông tin có sẵn trên mạng Internet. Khả năng truy cập thể hiện gia tăng sự cạnh tranh thu hút sự chú ý của người sử dụng Internet. Do đó, E-marketing phải sáng tạo và đổi mới nhiều hơn để thu hút người truy cập vào website của mình.
Thứ tám, E-marketing mang tính số hóa – khả năng biểu diễn một sản phẩm hoặc một số lợi ích của nó dưới dạng các đơn vị thông tin kỹ thuật số. Sự số hóa có nghĩa là Internet có thể được dùng để phân phối, cải thiện và bán những đặc điểm bên ngoài của bản thân sản phẩm.
1.3. Lợi ích của marketing trực tuyến
Thứ nhất, lợi ích về mặt tốc độ vì Internet cho phép thực hiện các hoạt động, giao dịch với tốc độ nhanh chóng. Tất cả các hoạt động trên Internet được diễn ra và cho kết quả có thể nhận thấy gần như là ngay lập tức, do đó thông tin về sản phẩm, dịch vụ được đưa ra thị trường nhanh hơn, khách hàng tiếp cận những thông tin này cũng nhanh hơn nhờ đó mà tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động trao đổi đàm phán, các điều kiện cho việc trao đổi. Đồng thời, sự nhanh chóng lan toả về mặt thông tin trên Internet cũng là một trong những yếu tố quy định sự khác biệt của làm marketing trực tuyến với marketing trong môi trường thông thường.
Thứ hai, lợi ích về mặt thời gian vì Internet cho phép thực hiện hoạt động Marketing một cách liên tục không bị gián đoạn. Tiến hành hoạt động Marketing trên Internet có thể loại bỏ những trở ngại nhất định về sức người. Chương trình Marketing thông thường, chưa có ứng dụng Internet, dù có hiệu quả đến đâu, cũng không thể phát huy tác dụng 24/24 giờ mỗi ngày. Nhưng điều đó lại hoàn toàn có thể đối với hoạt động marketing trực tuyến. Marketing trực tuyến có khả năng hoạt động liên tục 24 giờ trong một ngày, 7 ngày trong một tuần, hoàn toàn không có khái niệm thời gian nghỉ. Các đơn đặt hàng sản phẩm hay dịch vụ có thể được thoả mãn vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu. Do đó, marketing trực tuyến có một ưu điểm hơn hẳn so với Marketing thông thường là nó đã khắc phục được trở ngại của yếu tố thời gian và do đó tận dụng tốt hơn nữa các cơ hội kinh doanh.
Thứ ba, lợi ích về mặt không gian vì Internet cho phép thực hiện hoạt động Marketing ở khắp mọi nơi, không có giới hạn về mặt không gian. Marketing trực tuyến có khả năng thâm nhập đến khắp mọi nơi trên toàn thế giới và tiếp cận đến những khách hàng có thể khó tiếp cận về mặt địa lý.
Cuối cùng, lợi ích về mặt chi phí vì Internet cho phép tiết kiệm và sử dụng hiệu quả các nguồn lực doanh nghiệp. Marketing trực tuyến giúp doanh nghiệp tiết kiệm được rất nhiều khoản chi phí so với khi thực hiện các hoạt động Marketing trong môi trường thực, bao gồm các chi phí văn phòng, chi phí bán hàng và giao dịch, chi phí quảng cáo và truyền thông. Theo thống kê, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng khoảng 10% đến 20% chi phí thanh toán thông thường, còn giúp cắt giảm được chi phí lưu kho.
1.4. CÁC NỘI DUNG CỦA MARKETING TRỰC TUYẾN Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
1.4.1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là việc nhận dạng, lựa chọn, thu thập, phân tích thông tin nhằm mục đích hỗ trợ việc ra quyết định liên quan đến sự xác định và xử lý những vấn đề và cơ hội trong Marketing (Malhotra, 1996).
Nghiên cứu thị trường giúp công ty hiểu được nhu cầu khách hàng, hoàn cảnh của công ty để từ đó đề ra những chiến lược marketing hiệu quả. Nghiên cứu thị trường có 5 bước đó là xác định mục tiêu nghiên cứu, lập kế hoạch nghiên cứu, thu thập thông tin dữ liệu, phân tích dữ liệu và trình bày kết quả. Trong mỗi bước luôn có sự hỗ trợ của công nghệ, và đều ở những mức độ khác nhau từ thấp cho đến cao, bước thu thập thông tin dữ liệu và phân tích dữ liệu có mức độ ứng dụng công nghệ cao.
Các nguồn thông tin dữ liệu để thu thập được chia làm 03 nguồn đó là nguồn từ nội bộ công ty, nguồn dữ liệu thứ cấp và sơ cấp.
Nguồn dữ liệu từ nội bộ công ty gồm dữ liệu bán hàng, dữ liệu khách hàng. Trong các nguồn dữ liệu từ nội bộ công ty thì dữ liệu khách hàng là quan trọng nhất vì nó giúp công ty cải thiện hoạt động kinh doanh, xác định phương thức định giá hiệu quả, xây dựng hoạt động xúc tiến hiệu quả, cải tiến sản phẩm, nâng cao hoạt động phân phối, cải thiện website. Dữ liệu khách hàng gồm địa chỉ, số điện thoại, email, sản phẩm – dịch vụ đã sử dụng, những thắc mắc liên quan sản phẩm, đơn đặt hàng trực tuyến, phiếu giảm giá, chào bán sản phẩm.
Nguồn dữ liệu thứ cấp gồm dữ liệu cộng đồng, dữ liệu cá nhân, dữ liệu tình báo cạnh tranh. Dữ liệu thứ cấp có thể được thu thập và ít tốn kém so với sơ cấp, nhưng dữ liệu thứ cấp có một số vấn đề gặp phải đó là dữ liệu được thu thập với mục đích khác không trùng với mục đích nghiên cứu, công ty luôn phải đánh giá lại chất lượng dữ liệu do không thể kiểm soát được quy trình thu thập dữ liệu, và dữ liệu thường lạc hậu. Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Khi các nguồn dữ liệu thứ cấp không có sẵn hay chưa đầy đủ,thì các nhà marketing sẽ thực hiện thu thập dữ liệu sơ cấp. Để thu thập dữ liệu sơ cấp, các nhà marketing sẽ dùng các phương pháp sau nhằm tiến hành thu thập dữ liệu:
Thứ nhất thực nghiệm trực tuyến với mục đích để xác định quan hệ nhân quả, gồm có 03 hình thức đó là thực nghiệm trực tuyến chuẩn, thực nghiêm trực tuyến có kiểm soát và thực nghiệm trực tuyến mô phỏng. Nhà nghiên cứu tiến hành lựa chọn đối tượng nghiên cứu, chia ngẫu nhiên các đối tượng thành hai hay nhiều nhóm khác nhau, đặt một nguyên nhân cho mỗi nhóm. Sau đó, nhà nghiên cứu đo lường phản ứng của mỗi nguyên nhân thông qua bảng câu hỏi, để xác định xem có tồn tại sự khác nhau giữa các nhóm nếu được kiểm soát chặt chẽ sự khác nhau là do nguyên nhân. Trong môi trường trực tuyến, công ty có thể kiểm tra luân phiên các trang website, quảng cáo trực tuyến, chào hàng trực tuyến,…để tìm hiểu phản ứng của khách hàng. Ưu điểm của phương pháp này là tương đối phản ánh chính xác mức độ ảnh hưởng, tác động qua lại của các nỗ lực marketing trực tuyến, đánh giá dễ dàng hiệu quả của website, banner quảng cáo trực tuyến. Nhược điểm của phương pháp là thời gian nghiên cứu dài, chi phí cao và số lượng mẫu lớn nên gặp khó khăn trong việc kiểm soát.
Thứ hai nhóm chuyên sâu trực tuyến, là phương pháp nghiên cứu định tính để tập hợp những thông tin chuyên sâu của một nhóm nhỏ đối tượng nghiên cứu nhằm giúp nhà nghiên cứu hiểu được những hành vi của đối tượng nghiên cứu trước khi tiến hành khảo sát. Với sự xuất hiện của môi trường trực tuyến, phương pháp này đã có những ưu điểm vượt trội so với truyền thống đó là có thể tập trung những đối tượng nghiên cứu ở nhiều khu vực địa lý khác nhau cùng thảo luận trực tuyến, trả lời cùng lúc một câu hỏi bằng việc đánh máy tránh được sự ảnh hưởng của suy nghĩ đám đông và có thúc đẩy thảo luận bằng việc trình chiếu các website, quảng cáo.
Thứ ba quan sát trực tuyến, phương pháp nghiên cứu này quan sát hành vi của con người bằng cách theo dõi những hành động của con người trong những tình huống cụ thể. Trong môi trường trực tuyến, công ty giám sát hành vi của con người thông qua công cụ chat, thư điện tử, bảng thông báo, diễn đàn,… nhằm phát hiện những tin đồn xấu về công ty và đưa ra phương thức đối phó.
Thứ tư khảo sát trực tuyến, khảo sát trực tuyến có 03 hình thức cơ bản đó là khảo sát trực tiếp cá nhân, gọi điện và khảo sát thông qua website trong đó khảo sát trực tiếp tại website được xem là có hiệu quả. Ưu điểm của khảo sát trực tuyến đó là nhanh, rẻ, đa dạng đối tượng thu thập dữ liệu, giảm thiểu sai sót trong quá trình nhập dữ liệu, trung thực trả lời những câu hỏi nhạy cảm, bất cứ ai cũng có thể trả lời, giảm độ lệch chủ quan và dễ dàng lập bảng dữ liệu. Hạn chế của khảo sát trực tuyến là lựa chọn mẫu mang tính tổng quát, tính xác thực của câu trả lời không cao, tỷ lệ phản hồi giảm, câu trả lời không đáng tin cậy, đưa ra những ý kiến giống nhau.
1.4.2. Phân khúc thị trường. Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Phân khúc thị trường là chia cắt một thị trường lớn không đồng nhất ra nhiều nhóm khách hàng tương đối đồng nhất trên cơ sở những điểm khác biệt về nhu cầu, về tính cách hay hành vi (Nguyễn Đông Phong, 2001).
Mục tiêu của phân khúc thị trường là lựa chọn được những phân khúc thị trường hấp dẫn đối với công ty. Tiêu chí để lựa chọn phân khúc thị trường là khả năng tiếp cận phù hợp với năng lực công ty, khả năng sinh lời và tốc độ tăng trưởng của phân khúc.
Các biến để phân khúc thị trường gồm có: Địa lý, dân số, hành vi người tiêu dung, tâm lý người tiêu dung, theo số lượng và tỉ lệ tiêu dùng, theo mức độ trung thành. Sau đó họ xem xét liệu những phân khúc khách hàng này có cho thấy những nhu cầu hoặc phản hồi khác nhau về sản phẩm hay không .
Thứ nhất là phân khúc theo biến địa lý, chia thị trường thành các đơn vị địa lý như quốc gia, ban, vùng, hạt, thành phố hoặc các vùng ngoại ô. Đối với các công ty kinh doanh trực tuyến, họ chỉ có thể cung cấp sản phẩm – dịch vụ trong phạm vi mà họ có thể cung cấp. Trong môi trường trực tuyến, phân khúc thị trường theo yếu tố địa lý là dựa vào số lượng truy cập và sử dụng internet của từng quận – huyện, thành phố, quốc gia để phân chia. Ngoài ra, cũng dựa vào ngôn ngữ và công cụ tìm kiếm để phân chia thị trường. Mục đích phân khúc thị trường theo biến địa lý là công ty muốn tiếp cận khách hàng trong thị trường công ty muốn phân phối sản phẩm, cung cấp những sản phẩm – dịch vụ trực tuyến trong khu vực công ty có thể cung cấp. Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Thứ hai phân khúc thị trường theo nhân khẩu học là dựa vào lứa tuổi, dân tộc để phân chia thị trường. Dựa vào lứa tuổi để phân chia thị trường các nhà marketing cần tập trung chú ý vào nhóm khách hàng có độ tuổi từ năm 1979 – 1994 vì nhóm khách hàng này lớn lên cùng sự phát triển internet.
Thứ ba phân khúc thị trường theo tâm lý học, phân chia thị trường dựa trên sở thích cộng đồng trực tuyến, thái độ với công nghệ và nhóm ảnh hưởng. Sở thích cộng đồng trực tuyến hiện nay có 10 cộng đồng lớn đó là cộng đồng giải trí, mạng xã hội, mua bán, giáo dục, sự kiện, luật sư, thương hiệu, khách hàng, lao động và các chủ đề đặc biệt, trong nhóm những cộng đồng này thì cộng đồng mạng xã hội đang phát triển mạnh mẽ và các nhà marketing cần quan tâm chú ý đến cộng đồng này.
Thứ tư là phân khúc theo hành vi, phân chia thị trường dựa trên lợi ích tìm kiếm, thói quen sử dụng công nghệ và theo ngành cụ thể.
1.4.3. Thị trường mục tiêu.
Thị trường mục tiêu là thị trường mà tại đó doanh nghiệp có khả năng thoả mãn nhu cầu tốt nhất. Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao hơn các doanh nghiệp khác trên thị trường này, có ít đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, có khả năng đáp ứng các mục tiêu về doanh số, lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp.
Thị trường mục tiêu của một số công ty thương mại điện tử có thể giống hoặc khác với thị trường mục tiêu của các công ty truyền thống. Một doanh nghiệp có thể có một hay nhiều thị trường mục tiêu. Việc lựa chọn các đoạn thị trường mục tiêu cần tính đến các yếu tố sau đây: Khả năng tài chính của doanh nghiệp, đặc điểm về sản phẩm, chu kỳ sống của sản phẩm, mức độ đồng nhất của thị trường.
Các căn cứ để lựa chọn thị trường mục tiêu:
Thứ nhất, nguồn lực của doanh nghiệp: nếu nguồn lực của doanh nghiệp (vốn, thiết bị, sức lao động) bị hạn chế, nên chọn một phân khúc để phục vụ.
Thứ hai, các biến số của sản phẩm: không nên phân khúc thị trường đối với những sản phẩm có độ đồng nhất cao như thép, trái cây. Chọn nhiều phân khúc thị trường cho những sản phẩm mà các thông số của sản phẩm như kích thước, mẫu mã, màu sắc dễ dàng thay đổi để tạo nên sự khác biệt đối với bản thân sản phẩm đó.
Thứ ba, dựa vào giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm: Trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống, khi doanh nghiệp giới thiệu một sản phẩm mới để chào bán sản phẩm có hiệu quả, doanh nghiệp nên chọn một phân khúc.
Thứ tư, sự khác biệt của thị trường: Nếu người mua trong thị trường đó có nhu cầu, thị hiếu, hành vi giống nhau thì không nên phân khúc thị trường sẽ thích hợp và ngược lại thì nên chọn nhiều phân khúc hoặc một phân khúc sẽ phù hợp.
1.4.4. Chiến lược Marketing trực tuyến (4Ps). Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Cũng giống như các nội dung của Marketing truyền thống thì Marketing trực tuyến cũng có những nội dung chính xoay quanh 4 chiến lược hỗn hợp (hay còn gọi là 4Ps) bao gồm: chiến lược sản phẩm (Product), chiến lược giá (Price), chiến lược phân phối (Place) và chiến lược xúc tiến (Promotion).
1.4.4.1. Chiến lược sản phẩm.
Sản phẩm theo quan điểm Marketing là tất cả những gì được chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng để có thể thỏa mãn được nhu cầu hay mong muốn của khách hàng.
Trong môi trường trực tuyến sản phẩm đã có những thay đổi đó là sự xuất hiện các sản phẩm hoàn toàn mới như thư điện tử, website, catalogue điện tử, báo điện tử, forum, chat, video chat, trò chơi điện tử trực tuyến, diễn đàn để chia sẻ phần mềm, các mô hình kinh doanh điện tử hay thu thuế trên mạng,…Những sản phẩm này đáp ứng cho nhu cầu trao đổi thông tin, đàm phán giao dịch, cập nhật tin tức, chia sẻ trên phạm vi toàn cầu. Đối với những sản phẩm truyền thống, bổ sung thêm các thuộc tính mới hay các dịch vụ mới cho chúng, tức là từ bổ sung cả vào cấp độ hàng hoá hiện thực và cấp độ hàng hoá hoàn chỉnh. Ví dụ như cho phép khách hàng tham gia vào quá trình thiết kế sản phẩm, cho phép khách hàng đặt hàng và tạo ra sản phẩm theo thiết kế riêng có, tư vấn hướng dẫn sử dụng sản phẩm, xây dựng và chăm sóc thương hiệu, dịch vụ chăm sóc khách hàng trực tuyến, dịch vụ bán hàng trực tuyến…
Các chiến lược sản phẩm trong môi trường trực tuyến bao gồm:
- Cải tiến mang tính đột phá: tạo ra những sản phẩm chưa hề có trước đây, xuất hiện những hành vi mới cho khách hàng.
- Tạo ra dòng sản phẩm mới: bổ sung thêm những sản phẩm hoàn toàn khác biệt so với những sản phẩm hiện có của công ty.
- Bổ sung cho dòng sản phẩm hiện tại: bổ sung thêm những sản phẩm giống những sản phẩm hiện tại nhưng khác nhau về kích cỡ, độ bền, thiết kế, màu sắc.
- Cải tiến những sản phẩm hiện tại: thay đổi những thông số sản phẩm hiện tại để phù hợp với những nhu cầu hiện tại của khách hàng như thay đổi về thiết kế, độ bền, kích cỡ, màu sắc.
- Định vị lại sản phẩm: dùng sản phẩm hiện tại hướng tới những phân khúc thị trường khác.
- Hàng nhái chi phí thấp: dùng sản phẩm có giá trị thấp để cạnh trạnh trực tiếp với những sản phẩm hiện tại của công ty.
1.4.4.2. Chiến lược giá cả. Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Trong kinh doanh, giá cả là sự thể hiện sự cạnh tranh giành lợi ích kinh tế và vị trí độc quyền của các thế lực.
Những nhân tố ảnh hưởng đến định giá sản phẩm của một công ty là: những mục tiêu marketing của công ty, những đặc tính của sản phẩm (vị trí sản phẩm trên đường chu kỳ sống và chi phí một sản phẩm), tính chất cạnh tranh trên thị trường, độ nhạy cảm của nhu cầu, đối thủ cạnh tranh và các yếu tố khác như chính sách sách và chế độ quản lý giá của nhà nước…
Đối với môi trường Internet, chính sách giá chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau: tính minh bạch của thông tin vì mức giá có thể được công bố công khai trên mạng, khách hàng có thể tiếp cận nhiều nguồn thông tin hơn để đánh giá về lợi ích và chi phí đối với các quyết định mua hàng của họ, vì vậy tính cạnh tranh về giá của các công ty rất cao trong môi trường Internet; mức độ chênh lệch giá giữa các đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh trực tuyến là không quá lớn; mức độ co giãn của cầu theo giá trong thương mại điện tử là khá cao.
Các chiến lược định giá trong môi trường trực tuyến
- Sự dẫn đầu về giá: đưa ra mức giá cố định thấp hơn so với thị trường và đối thủ cạnh tranh
- Giá khuyến mãi: là giá cố định được đưa ra để khuyến khích khách hàng mua sản phẩm, thường giá khuyến mãi sẽ diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định. Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
- Giá dùng thử sản phẩm: là giá cố định được đưa ra cho việc sử dụng sản phẩm trong một khoảng thời gian nhất định
- Giá theo phân đoạn thị trường là giá biến đổi (hay còn gọi là giá linh hoạt) được đưa ra với những mức giá khác nhau cho những khách hàng khác nhau, có 02 cách để phân đoạn đó là dựa vào giá trị và địa lý. Phân đoạn về địa lý là đưa ra những mức giá khác nhau cho những khu vực khác nhau. Phân đoạn về giá trị là đưa ra những mức giá khác nhau cho những khách hàng có nhận thức khác nhau về giá trị sản phẩm, thương hiệu.
- Đấu giá là một hình thức mà người bán và người mua đàm phán trong một khoảng thời gian và thống nhất mức giá cuối cùng. Các kiểu đấu giá phổ biến nhất trên Internet: đấu giá kiểu Anh (English Auctions; Oral Auctions); đấu giá ngược kiểu Anh (Reverse – Price English Auctions); đấu giá kiểu Hà Lan (Dutch Auctions); đấu giá niêm phong (First-Price Sealed-Bid Auctions/ Standard Actions) và đấu giá niêm phong ngược (Reverse First-Price Sealed-Bid Auctions).
Một số phương pháp định giá:
- Định giá dựa vào chi phí: phương pháp định giá này hướng vào mục tiêu chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp. Theo đó người ta cộng một mức lời tiêu chuẩn vào phí tổn của một sản phẩm. Phương pháp này tuy là đơn giản nhất so với các phương pháp định giá khác nhưng cũng không phải dễ và luôn luôn tốt. Phương pháp này không tính đến nhu cầu hiện tại và vấn đề cạnh tranh, do đó giá đề ra có thể khác rất nhiều so với giá thị trường và mang tính chủ quan.
- Định giá theo thị trường: doanh nghiệp xem các mức giá trên thị trường để định giá cho sản phẩm của mình. Có thể phân biệt định giá theo thị trường thành 3 chiến lược: định giá thâm nhập thị trường (định giá sản phẩm mới thấp nhằm thu hút được một lượng khách mua lớn và chiếm được một thị phần lớn); định giá hớt váng sữa (định giá cao nhất cho sản phẩm mới nhằm đạt được lợi nhuận cao trên một đơn vị sản phẩm để bù đắp cho thị trường hạn chế) và định giá theo thời giá (định giá chủ yếu dựa vào giá cả của đối thủ cạnh tranh mà ích chú trọng vào phí tổn hay số cầu của riêng mình.
- Định giá dựa trên người mua: Doanh nghiệp định giá xuất phát giá trị cảm nhận được từ hàng hóa của mình, xem sự cảm nhận về giá trị của người mua là chìa khóa định giá và sử dụng những biến số phi giá để xây dựng giá trị được cảm nhận trong tâm trí của người mua. Giá được đề ra là để đạt được các giá trị cảm nhận đó nghĩa là khách hàng thấy rằng khi bỏ ra một số tiền thì họ đổi lấy một giá trị khác từ những lợi ích về việc sở hữu và sử dụng sản phẩm.
- Định giá tâm lý: doanh nghiệp không chỉ lưu ý đến những chỉ tiêu kinh tế mà còn đến cả tâm lý người mua để định giá. Có 2 loại định giá tâm lý đó là giá chỉ báo chất lượng (có những sản phẩm rất khó xác định được chất lượng cho nên người mua thường xác định chất lượng căn cứ vào giá bán của sản phẩm, giá cao đối với khách hàng có nghĩa là chất lượng cao và ngược lại), giá có số lẻ nghĩa là thay vì làm tròn số, các doanh nghiệp thường đưa ra giá có số lẻ ở sau hoặc dưới con số tròn điều này làm cho người mua có tâm lý là giá rẻ và người bán đã tính tỉ mỉ, cẩn thận các yếu tố khi định giá.
- Định giá theo thời vụ: sử dụng cho những sản phẩm mang tính thời vụ, ứng với mỗi thời vụ có một mức khác nhau. Cách làm này được gọi là định giá theo mùa bởi nó linh động với nhu cầu theo từng thời điểm trong năm. Các nhà sản xuất lẫn những người định giá đã điều chỉnh mức sản xuất thích hợp và đề ra một chính sách cao hoặc thấp để kích thích cũng như duy trì việc sản xuất kinh doanh đều đặn.
1.4.4.3. Chiến lược phân phối.
Chiến lược phân phối là quá trình tổ chức các hoạt động liên quan đến việc điều hành và vận chuyển sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp, đến người tiêu dùng nhằm tiêu thụ được nhanh, với nhiều chi phí thấp nhất (Nguyễn Đông Phong, 2001).
Chiến lược phân phối có vai trò quan trọng trong hoạt động Marketing vì nó là một công cụ quan trọng để sản phẩm xâm nhập vào thị trường xa và mới lạ. Ngược lại, nếu chiến lược phân phối không hợp lý thì quá trình lưu thông sẽ không thông suốt, tốn kém nhiều chi phí, kết quả tiêu thụ không cao hoặc có khi lỡ mất cơ hội bán hàng.
Các trung gian phân phối của doanh nghiệp trong môi trường trực tuyến gồm nhà môi giới, đại lý, và bán lẻ trực tuyến.
Thứ nhất nhà môi giới, nhà môi giới sẽ tạo ra một thị trường cho người mua và người bán thương lượng, thực hiện giao dịch với nhau, không đứng về bất cứ người mua hay người bán, họ chỉ thu một khoản phí giao dịch. Môi giới có 02 dạng đó là mua bán trực tuyến và đấu giá trực tuyến. Lợi ích của hình thức đối với người mua là việc đặt hàng nhanh chóng, tiết kiệm thời gian tìm kiếm, còn đối với người bán là thu hút được một lượng lớn khách hàng quan tâm. Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Thứ hai đại lý, các đại lý không giống với môi giới họ sẽ đại diện cho bên mua hay bên bán tùy thuộc vào ai là người trả tiền thuê họ. Có 03 dạng đó là đại lý đại diện cho người bán, đại lý đại diện cho người mua và hiệp hội người mua. Đại lý đại diện cho người bán nghĩa là đại lý đó sẽ đại diện cho một công ty đơn lẻ, giúp những công ty này bán sản phẩm và hưởng hoa hồng, tiêu biểu cho dạng này đó là Amazon, Alibaba, Ebay. Còn đại lý đại diện cho người mua sẽ đại diện cho người mua, giúp cho người mua thực hiện được giao dịch mua sắm với giá cả mong muốn. Còn hiệp hội người là tập hợp những người mua lại với nhau để có thể mua sản phẩm với mức giá thấp.
Thứ ba bán lẻ trực tuyến, các công ty thiết lập những cửa hàng trực tuyến để giao dịch với những công ty khác và người tiêu dùng, trong đó các sản phẩm số hóa sẽ được phân phối trực tiếp thông qua internet, thư điện tử và sản phẩm hữu hình sẽ được giao cho bộ phận vận chuyển để giao hàng. Các nhà bán lẻ trực tuyến có lợi thế lớn hơn rất nhiều so với truyền thống đó là không giới hạn không gia trưng bày sản phẩm.
Môi trường trực tuyến xuất hiện đã làm cho việc phân phối dễ dàng, giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí thiết kế và quản lý phân phối, đồng thời bán được sản phẩm theo hình thức và cách thức mà mình mong muốn.
Doanh nghiệp dựa vào nhiều căn cứ khác nhau để thực hiện lựa chọn kênh phân phối cho mình, cụ thể:
- Căn cứ vào đặc điểm của sản phẩm: Đối với những sản phẩm dễ hư hỏng, khó bảo quản tốn nhiều chi phí thì nên dùng kênh trực tiếp hay kênh ngắn. Đối với những sản phẩm dễ bảo quản hoặc bảo quản tốn ít chi phí và cần bán rộng rãi thì nên dùng nhiều kênh, nhiều trung gian.
- Căn cứ vào đặc điểm của thị trường: Đối với những thị trường có nhu cầu lớn và tập trung như ở các thành phố lớn nên dùng kênh trực tiếp, kênh ngắn thì mang lại hiệu quả cao, còn đối với thị trường phân tán, khách hàng mua với lượng nhỏ thì nên dùng kênh dài.
- Căn cứ vào khả năng quản lý kênh: Nếu có đủ năng lực quản lý, doanh nghiệp có thể mở nhiều kênh, sử dụng nhiều đại lý và ngược lại. Khi sử dụng những kênh gián tiếp dài doanh nghiệp nhỏ phải từ bỏ một số yêu cầu điều khiển việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
- Căn cứ vào các giai đoạn của vòng đời sản phẩm: Sản phẩm sau khi tung vào thị trường, thường phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Ở mỗi giai đoạn phát triển có những đặc điểm riêng. Để thích ứng với mỗi giai đoạn đó.
Doanh nghiệp phải có những kênh phân phối khác nhau.
Căn cứ năng lực của các trung gian: Tùy theo năng lực của các trung gian mà doanh nghiệp có thể giao những chức năng phân phối khác nhau thông qua ký hợp đồng làm tổng đại lý, đại lý độc quyền, đại lý bán lẻ.
Căn cứ vào đối thủ cạnh tranh: Nhà sản xuất có thể chọn kênh phân phối có cùng đầu ra bán lẻ với đối thủ cạnh tranh hay hoàn toàn khác với kênh của đối thủ cạnh tranh. Nhìn chung cạnh tranh càng mạnh thì thường có kênh có cùng đầu ra với đối thủ cạnh tranh.
Có hai hình thức phân phối được thực hiện trong marketing trực tuyến:
Thứ nhất là hàng hoá số hoá, việc phân phối có thể thực hiện hoàn toàn trên Internet, thông qua hình thức gửi trực tiếp qua mạng: phần mềm, âm nhạc, game…hoặc tải xuống trực tiếp từ trên mạng Internet vào máy tính cá nhân hay thiết bị điện tử có kết nối. Việc thanh toán sẽ được thực hiện thông qua các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến, hoặc các loại thẻ trả trước…
1.4.4.4. Chiến lược xúc tiến. Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Xúc tiến là nỗ lực của doanh nghiệp nhằm thiết lập kênh thông tin và thuyết phục khách hàng mua hàng hóa và dịch vụ của họ (Nguyễn Đông Phong, 2001).
Mục đích của xúc tiến là thông báo, thuyết phục và nhắc nhở khách hàng mục tiêu về doanh nghiệp hoặc về sản phẩm của doanh nghiệp. Trong môi trường trực tuyến, các chiến lược xúc tiến đều hướng tới mục tiêu là xây dựng và củng cố mối quan hệ với khách hàng. Các chiến lược xúc tiến có hiệu quả phải là những chiến lược thu hút được khách hàng mới, duy trì được khách hàng cũ và mở rộng được đối tượng khách hàng khác. Để đạt được các mục tiêu về xúc tiến, các nhà marketing sử dụng các công cụ marketing sau đây
Quảng cáo trực tuyến: là sử dụng phương tiện thông tin có trả tiền để những phương tiện này trình bày, khuyến khích khách hàng tìm hiểu, sử dụng sản phẩm – dịch vụ của công ty. Phương tiện thông tin là những tổ chức lớn có số lượng khách nhiều như facebook, youtube,. Twitter,…
Quảng cáo trực tuyến có 02 dạng là:
- Quảng cáo hiển thị (display ads) sử dụng hình ảnh nhiều hơn là chữ: hình chữ nhật, xuất hiện bất ngờ, biểu ngữ, nút nhấn và bảng hiệu trên cao.
- Quảng cáo truyền thông đa dạng gồm các dạng như sau: quảng cáo biểu ngữ, quảng cáo xen kẽ, quảng cáo nổi, quảng cáo mở rộng, quảng cáo lịch sự, quảng cáo hình nền, quảng cáo bịp bợm, quảng cáo xuất hiện bất ngờ, quảng cáo xuất hiện phía sau, quảng cáo video, quảng cáo bản đồ và quảng cáo trên di động.
Quan hệ công chúng: là bao gồm những chương trình hành động nhằm tạo sự ảnh hưởng đến quan điểm của một cộng đồng, tạo thiện chí cho tổ chức với cộng đồng.
Quan hệ công chúng trong marketing trực tuyến có một số hình thức như chương trình tài trợ (sponsorship), liên kết thương hiệu (co-branding), chia sẻ nội dung (content sharing), liên kết bán hàng và truyền thông (affliate), trao đổi liên kết; Hỗ trợ khách hàng và FAQs (Frequently Asked Questions- Các câu hỏi thường gặp); Viral Marketing – Marketing lan truyền (được định nghĩa dựa trên nguyên tắc lan truyền và chia sẻ thông tin của người dùng, tương tự như cách thức virus làn truyền từ người này sang người khác với tốc độ theo cấp số nhân).
Bán hàng cá nhân: Bán hàng cá nhân là hình thức sử dụng nhân viên bán hàng để thuyết phục khách hàng tiềm năng mua những sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu Marketing và xây dựng mối quan hệ với khách hàng.
Khuyến mại: là hoạt động xúc tiến của doanh nghiệp nhằm kích thích khách hàng mua hàng và làm tăng doanh số bán hàng trong ngắn hạn bằng cách giành những lợi ich nhất định cho khách hàng. Khuyến mại bằng cách việc đưa ra những món quà hay khuyến mãi trong một thời gian ngắn để dễ dàng đưa sản phẩm từ nhà sản suất đến ngƣời tiêu dùng. Các hoạt động khuyến mại gồm có: phát phiếu bốc thăm trúng thưởng, giảm giá, chiết khấu, phát sản phẩm dùng thử, tổ chức cuộc chơi may rủi trong đó chỉ có phát hành sản phẩm dùng thử, giảm giá, tổ chức các cuộc chơi may rủi là đựợc tổ chức rộng rãi trên mạng internet.
Marketing trực tiếp: gồm thư điện tử quảng cáo (email marketing) và tin nhắn quảng cáo (text messaging) Email Marketing giúp doanh nghiệp tiết kiệm rất nhiều thời gian trong việc truyền tải thông tin nhanh chóng và đến đúng đối tượng khách hàng. Danh sách thư gửi và địa chỉ khách hàng được quản lý hoàn toàn tự động. Chi phí cho hoạt động Email Marketing là rất thấp nhưng tạo ra lợi ích lớn đem lại những đơn đặt hàng bất ngờ, còn có thể đo lường mức độ hiệu quả so với các hoạt động marketing truyền thống khác (thông qua thống kê có bao nhiêu người đã mở email và đã nhấp vào liên kết hay không). Ngoài ra, Email Marketing còn giúp doanh nghiệp có thể hỗ trợ, giải đáp những thắc mắc và góp ý của khách hàng một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Các hình thức email marketing: Có 2 hình thức email marketing cơ bản: Email marketing cho phép hay được sự cho phép của người nhận (Solicited Commercial Email ) và Email marketing không nhận được sự cho phép của người nhận (Unsolicied Email Marketing hay Unsolicted Commercial Email – UCE) còn gọi là Spam. Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
Tin nhắn quảng cáo (text messaging): dùng dịch nhắn tin SMS để gửi tới khách hàng về những sản phẩm – dịch vụ của công ty.
Website
Hoạt động website marketing là một loạt các kỹ thuật nhằm nâng cao mức độ phổ biến của website hoặc nhằm quảng cáo cho website (Moran and Hunt, 2008).
Website là công cụ giới thiệu sản phẩm trực tuyến. Các thông tin về sản phẩm (hình ảnh, chất lượng, các tính năng, giá cả,…) được hiển thị 24 giờ trong cả ngày trong năm sẵn sàng phục vụ người tiêu dùng. Khách hàng có thể đặt hàng các sản phẩm, dịch vụ và thanh toán trực tiếp trên mạng.
Một website được thiết kế để xây dựng sự tín nhiệm của khách hàng và bổ sung các kênh bán hàng khác, hơn là bán sản phẩm của công ty một cách trực tiếp. Mặt khác, website cũng là công cụ thu thập thông tin khách hàng và là nơi trao đổi thông tin trực tiếp giữa nhân viên với các khách hàng thông qua các hoạt động hỗ trợ trực tuyến. Một website được cho là có hiệu quả với khách hàng là phải đáp ứng đủ các nhu cầu thông tin mong muốn của khách hàng tại mọi thời điểm và mọi trang của website.
Website là một môi trường rất hiệu quả, cung cấp nhiều cơ hội thu hút sự chú ý, quan tâm của khách hàng đến công ty và sản phẩm của công ty thông qua các chương trình quảng cáo. Khi xây dựng một website các nhà quản trị cần ghi nhớ nguyên tắc 7 Cs của việc thiết kế một website hiệu quả là:
- Thứ nhất, bối cảnh là cách trình bày và bản vẽ phác thảo của Website.
- Thứ hai, nội dung văn bản, hình ảnh, âm thanh và video của Website.
- Thứ ba, cộng đồng tham gia Web: đó là các cách làm cho khách hàng lên mạng có thể liên lạc được với nhau.
- Thứ tư, khách hàng hóa: Website được thiết kế phù hợp với những người sử dụng khác nhau hay website được cá nhân hóa.
- Thứ năm, liên lạc: các cách Website có thể liên lạc với người sử dụng, người sử dụng liên lạc được với Website hoặc cả hai chiều.
Thứ sáu, liên kết với Website khác: Website có thể liên kết với website khác. Thứ bảy, thương mại: Website cho phép thực hiện các giao dịch buôn bán. Để thu hút khách hàng truy cập website của doanh nghiệp, doanh nghiệp nên thiết kế website có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, website được thiết kế phù hợp với khách hàng: Doanh nghiệp phải tạo ra công cụ tìm kiếm thật chính xác, chặt chẽ và thật phổ thông. Doanh nghiệp cần xác định những sản phẩm mà khách hàng thường xuyên tìm kiếm nhất và lập trình để công cụ search của doanh nghiệp giới thiệu trực tiếp khách hàng vào các trang có sản phẩm đó.
Thứ hai, website nên tổ chức theo cách nghĩ của khách hàng: Doanh nghiệp nên sắp xếp cơ cấu hàng hóa dựa trên cách mua hàng của khách hàng. Khi mua hàng họ trường muốn có luôn các phụ kiện hay vật dụng liên quan kèm theo, mà công ty lại thường hay sắp xếp ở những trang khác nhau.
Thứ ba, nghĩ nhỏ và nghĩ đơn giản: Người tạo ra trang Website đều có đường truyền tốc độ cao nhưng khách hàng thì dùng máy tính cũ, kết nối chậm nên người thiết kế website nên thiết kế đơn giản tránh quá nhiều hình ảnh, lời quảng cáo, tập tin âm thanh hay những ứng dụng Java vào trang website.
Cuối cùng, doanh nghiệp phải giải thích rõ ràng ý định của mình: Khi thiết kế Website doanh nghiệp không nên thể hiện những ý định không rõ ràng như đề nghị khách hàng kích chuột vào những nút rất khó hiểu.
Cộng đồng mạng
Truyền thông xã hội là một xu hướng truyền thông mới khác hẳn với truyền thông đại chúng trước đây. Việc thay đổi mô hình truyền thông đã dẫn đến sự ra đời của một hình thức marketing mới: Marketing bằng truyền thông xã hội.
Truyền thông qua mạng xã hội khai thác và tìm kiếm trên Facebook, Youtube, LinkedIn, Blog, Forum… những cơ hội marketing hiệu quả nhất, với sức mạnh lan tỏa và tương tác mạnh của truyền thông xã hội giúp thông điệp tiếp thị của doanh nghiệp đến với cộng đồng một cách nhanh chóng,từ một người truyền ra mười người, từ mười người có thể truyền ra cả trăm cả nghìn người. Nó tương tự như Marketing truyền miệng trong truyền thông truyền thống. Tận dụng được điều này, doanh nghiệp của bạn sẽ nhanh chóng có thêm nguồn khách hàng khổng lồ mới và sản phẩm của bạn sẽ được quảng bá rộng rãi, giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, từ đó gia tăng mức độ nhận biết thương hiệu, kết nối với khách hàng, đồng thời giữ vững và phát triển thương hiệu của bạn trên thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay.
Tối ưu hóa truyền thông xã hội – Social media Optimization (SMO): giúp cộng đồng mạng tìm thấy nội dung cần truyền tải dễ dàng nhất trên các trang mạng xã hội và những trang chia sẻ thông tin. Công việc này được thực hiện dễ dàng nhất là nhúng các nút dẫn trên site muốn chia sẻ như “Digg this” hay “Tweet it” hoặc đặt các đường link từ Facebook, Linked In, … đến các website này. Điều đó giúp làm tăng một cách đáng kể lượng truy cập vào trang web doanh nghiệp thông qua tính lan truyền trong thế giới mạng.
Marketing qua blog và diễn đàn (forum): sau khi xác định được đối tượng khách hàng tham gia vào blog, cần phải làm sao để những thông tin đó không bị coi là spam hay vi phạm các nội quy blog và diễn đàn.
Sự kiện trực tuyến: được thiết kế nhằm lôi cuốn khách hàng và tạo ra nhiều đường dẫn đến với website công ty. Sự kiện trực tuyến có thể là các buổi nghiên cứu, làm việc nhóm và thảo luận trực tuyến, tổ chức một cuộc tranh luận,…
Marketing trên công cụ tìm kiếm
Marketing trên công cụ tìm kiếm được viết tắt là SEM (Search Engine Marketing). Hiểu chính xác thì SEM là một hình thức marketing trực tuyến, áp dụng trên các công cụ tìm kiếm như Google, Bing, Yahoo …Khi mà con người online ngày càng nhiều thì hành vi của người mua hàng cũng thay đổi theo, họ online nhiều hơn đồng thời với nhu cầu tìm kiếm nhiều hơn. Khi có sự quan tâm, thích thú đến một mặt hàng nào đó họ sẽ search, và đây là thời điểm, vị trí để làm SEM. Marketing trên công cụ tìm kiếm (SEM) được chia làm 2 loại : SEO (Search Engine Optimization) và PPC (Pay Per Click ) Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
- SEO (Search Engine Optimization): Là phương pháp tối ưu hóa website với công cụ tìm kiếm, giúp làm tăng thứ hạng website qua cách xây dựng cấu trúc website, biên tập nội dung đưa vào website, xây dựng liên kết…Bạn có thể tự SEO hoặc thuê dịch vụ SEO của các công ty SEO uy tín để đạt kết quả cao.
- PPC (Pay Per Click): Là hình thức quảng cáo website trên công cụ tìm kiếm và trả phí cho mỗi lần click. Còn gọi là Quảng cáo Google Adwords.
Cả SEO và PPC đều có chung mục đích là thu hút lượng truy cập từ công cụ tìm kiếm Google thông qua những từ khóa tìm kiếm thông tin sản phẩm dịch vụ mà bạn cung cấp. SEM được xem là công cụ marketing online hiệu quả nhất, rất có giá trị trên Internet cùng với quảng cáo trên mạng xã hội.
Ngoài ra, công ty còn có thể sử dụng Pay per Inclusion (PPI): giúp cho website mới xây dựng và mới đưa vào hoạt động dễ dàng có thể được các search engine tìm kiếm và ghi nhận sự tồn tại của website trong cơ sở dữ liệu.
Video Search Marketing (VSM): Đây là hình thức quảng cáo thông qua video clips ngắn được đưa lên website được tối ưu để có thể tìm kiếm đuợc. Hiện nay, Youtube đang là một trong những người đứng đầu về dịch vụ này. Do đó, ta có thể liên hệ với YouTube để đặt quảng cáo tại đây. Với hàng triệu lượt người xem hàng ngày trên YouTube, trang web của chúng ta sẽ được nhiều người biết đến hơn.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Khái niệm marketing trực tuyến là sự mở rộng của khái niệm marketing trong môi trường mới đó là môi trường Internet (môi trường trực tuyến). Về bản chất marketing trực tuyến cũng là dùng các hoạt động của marketing nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức, và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Marketing trực tuyến khác với marketing truyền thống là dùng các hoạt động ứng dụng mạng Internet và các phương tiện điện tử (web, thư điện tử e-mail, cơ sở dữ liệu, truyền thông đa phương tiện – multimedia, thiết bị trợ giúp cá nhân kỹ thuật số – PDA…) để tiến hành các hoạt động marketing.
Marketing trực tuyến cũng có những tác nhân cơ bản giống với marketing truyền thống đó là các tác nhân marketing (sản phẩm, giá, kênh phân phối và xúc tiến) và các môi trường bên ngoài (kinh tế, công nghệ, văn hóa – xã hội, chính trị). Những tác nhân sẽ tác động suy nghĩ của khách hàng (suy nghĩ của khách hàng được gọi là “black box”) từ đó làm ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của khách hàng. Trong những tác nhân ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của khách hàng thì tác nhân môi trường bên ngoài và đặc điểm người mua có ảnh hưởng lớn, tuy nhiên những tác nhân này nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp và không thể thay đổi được. Do đó, doanh nghiệp chỉ có thể dùng những tác nhân marketing để làm ảnh hưởng đến hành vi mua sắm của khách hàng, tác nhân marketing đã trở thành tác nhân lớn nhất đến hành vi mua sắm của khách hàng.
Môi trường Internet làm thay đổi về sản phẩm, giá, phân phối và xúc tiến. Về sản phẩm, hình thành những sản phẩm, dịch vụ hoàn toàn mới chỉ có trong môi trường Internet (như trò chơi điện tử trực tuyến, ngân hàng điện tử, đào tạo trực tuyến,…). Giá của sản phẩm được công khai rõ ràng, dễ so sánh, và doanh nghiệp khó có thể định giá phân biệt cho những phân khúc thị trường khác nhau. Kênh phân phối trong marketing trực tuyến có ít trung gian hơn marketing truyền thông từ đó làm giảm chi phí bán hàng cho doanh nghiệp. Và cuối cùng là xúc tiến trong marketing trực tuyến, đây là phần thể hiện phong phú và đa dạng nhất của marketing trực tuyến. Hoạt động xúc tiến trực tuyến có rất nhiều nhưng nổi bật nhất là hoạt động marketing trên công cụ tìm kiếm và hoạt động marketing thông qua các diễn dàn, mạng xã hội. Luận văn: Marketing trực tuyến tại Công ty Thiên Bảo solution
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Tổng quan marketing tại Cty Thiên Bảo solution